Giọt Lệ Quỷ

CHƯƠNG 2



Ba ơi, kể cho con nghe về Người chèo thuyền đi.”
Parker Kincaid khựng người. Anh đặt cái chảo gang đang rửa dở xuống.
Anh đã học được cách không bao giờ lo lắng trước bất kỳ câu hỏi nào của bọn trẻ, à, thực ra là không bao giờ tỏ ra lo lắng, và anh mỉm cười với thằng bé trong lúc lau tay bằng khăn giấy.
“Người chèo thuyền à?”, anh hỏi cậu con trai chín tuổi của mình. “Được thôi. Con muốn biết gì?”
Căn bếp trong nhà Parker ở Fairfax, Virginia sực nức mùi các món ăn cho dịp lễ vẫn đang làm dang dở. Hành, lá ngải, lá hương thảo. Thằng bé nhìn ra ngoài cửa sổ. Không nói gì. “Sao nào”, Parker khuyến khích. “Kể cho ba nghe nào!”
Robby có mái tóc vàng và đôi mắt xanh dương của mẹ thằng bé. Nó mặc chiếc áo sơ mi Izod màu tím và quần màu vàng, eo đeo thắt lưng Ralph Lauren. Sáng nay, nhúm tóc bò liếm của nó nghiêng sang phía bên phải. “Ý con là”, thằng bé mở lời, “con biết ông ta đã chết rồi, nhưng mà..
“Đúng vậy”, Parker nói. Anh không nói gì thêm. (“Đừng bao giờ kể cho trẻ con nghe nhiều hơn những gì mà chúng hỏi.” Đây là một trong các nguyên tắc từ cuốn Cẩm nang làm bố mẹ đơn thân của Parker Kincaid, cuốn sách hướng dẫn chỉ tồn tại trong đầu anh, nhưng ngày nào anh cũng phải tham vấn.)
“Chỉ là vì bên ngoài… đôi khi trông giống ông ta lắm. Ý con là, con nhìn ra bên ngoài và cứ như là mình có thể trông thấy ông ta vậy”
“Chúng ta phải làm gì mỗi khi con cảm thấy thế?”
“Con lấy khiên và mũ sắt ra”, thằng bé đọc thuộc bài, “còn nếu trời tối thì con bật đèn lên”.
Parker vẫn đứng nguyên. Thường thì anh sẽ giữ vị trí ngang bằng mỗi khi nói chuyện nghiêm túc với các con. Nhưng khi chủ đề Người chèo thuyền nảy sinh, một bác sĩ chuyên khoa đã đề nghị Parker cứ đứng: để làm cho thằng bé có cảm giác an toàn trước sự hiện diện của một người lớn mạnh mẽ và có thể bảo vệ cho nó. Ở Parker Kincaid cũng có nét gì đấy đem lại cảm giác an toàn cho người khác. Mới bốn mươi tuổi, nhưng anh rất to cao, hơn một mét tám hai, và gần như vẫn giữ được nguyên vẹn dáng vóc từ thuở còn là sinh viên.
Đó không phải là thành tựu của môn aerobic hay các câu lạc bộ thể dục thể thao, mà là nhờ hai đứa con anh, cùng các buổi tập đá bóng, bóng rổ, ném đĩa Frisbee và các buổi chạy bộ ngày Chủ nhật cho cả gia đình (thực ra là Parker chạy và buộc đồ lề vào sau xe đạp của bọn trẻ khi cả ba bố con đi vòng vòng quanh công viên gần nhà).
“Mình cùng xem nhé. Được không? Con nghĩ mình trông thấy hắn ở đâu?”
“Được ạ.”
“Con có mang mũ sắt và khiên chưa?”
“Ngay đây ạ”, thằng bé vỗ vào đầu và giơ cánh tay trái lên như một hiệp sĩ.
“Cái đó đẹp đấy. Ba cũng có mang đây rồi.” Parker bắt chước cử chỉ của cậu con trai.
Hai bố con đi ra cửa sau.
“Thấy không ba, mấy bụi cây kia kìa”, Robby nói.
Parker nhìn khắp lượt mảnh đất của mình. Nó rộng gần hai nghìn mét vuông, nằm trong một khu vực từng được Chính phủ bảo trợ, cách Washington D.C. ba mươi hai kilomet về phía tây. Mảnh đất hầu như chỉ có cỏ và hoa. Nhưng ở cuối mảnh là một bụi hoa đầu xuân và sắn dây, cùng với thường xuân xoắn xuýt mà anh đã định cắt bỏ cả năm nay. Nếu bạn nheo mắt thì quả là bụi cây trông na ná dáng người.
“Chỗ kia trông ghê thật”, Parker thừa nhận. “Đúng vậy. Nhưng con biết Người chèo thuyền là chuyện từ rất lâu rồi mà.” Anh sẽ không hạ thấp nỗi sợ của thằng bé bằng cách chỉ ra nó bị mấy bụi cây bẩn thỉu làm cho sợ hãi. Nhưng anh muốn Robby tránh xa vụ việc ấy.
“Con biết. Nhưng…”
“Chuyện đã từ bao lâu rồi nhỉ?”
“Bốn năm ạ”, Robby trả lời.
“Đó có phải là một khoảng thời gian dài không?”
“Khá dài, con đoán thế.”
“Chỉ cho ba xem nào.” Anh giơ hai tay ra. “Dài thế này à?”
“Có thể.”
“Ba nghĩ còn dài hơn thế.” Parker lại giơ tay cách xa hơn. “Dài như con cá chúng ta câu được ở Hồ Braddock không?”
“Cá dài thế này cơ mà”, con anh nói, bắt đầu cười và cũng giơ hai tay mình ra.
“Không, dài thế này cơ.” Parker cau có một cách cường điệu.
“Không, không, thế này này.” Thằng bé giậm một chân rồi đến chân kia, hai tay giơ lên cao.
“Dài hơn chứ!” Parker đùa. “Dài hơn.”
Robby chạy hết chiều dài căn bếp trong lúc giơ một tay lên. Rồi nó chạy trở về và nhấc nốt tay kia.
“Dài thế này này!”
“Thế thì bằng cá mập à”, Parker kêu lên. “Không, cá voi mới đúng, không phải, một con mực khổng lồ. Không, ba biết rồi… một con Mazurka cổ dài!” Một tạo vật từ truyện “Nếu tôi điều hành một sở thú”. Robby và Stephie yêu Tiến sĩ Seuss. Parker đặt tên hiệu cho bọn trẻ nhà anh là “Who”, theo tên nhân vật trong truyện Horton nghe thấy người Who, vốn là truyện yêu thích mọi thời đại của bọn chúng, thậm chí còn đánh bại cả Pooh.
Parker chơi trò rượt bắt trong nhà với Robby thêm mấy phút nữa rồi ôm cậu bé vào lòng để chơi trò thọc lét. “Con biết không?”, Parker vừa hỏi vừa thở.
“Dạ?”
“Hay là mai ba con mình cắt hết bụi cây kia đi?”
“Con có được dùng cưa không ạ?”, thằng bé hỏi ngay.
Ôi, chúng nó chỉ chực nhảy bổ vào mọi cơ hội, anh nghĩ và cười phá lên với chính mình. “Để xem đã”, Parker nói.
“Được ạ!” Robby nhảy chân sáo ra khỏi bếp, những ký ức về Người chèo thuyền bị vùi lấp dưới cơn phấn khích vì lời hứa về những dụng cụ máy móc. Nó chạy lên gác và Parker nghe được cuộc tranh luận nhỏ giữa anh trai và em gái về chuyện chọn game Nitendo nào để chơi. Có vẻ Stephanie đã thắng và nhạc nền của trò Mario Bros văng vẳng khắp nhà.
Đôi mắt Parker lưu luyến nơi bụi cây ở sân sau.
Người chèo thuyền… Anh lắc đầu.
Chuông cửa vang lên. Anh liếc sang phòng khách, nhưng bọn trẻ không nghe thấy chuông. Anh liền ra mở cửa.
Người phụ nữ hấp dẫn trưng ra nụ cười tươi rói. Đôi hoa tai đung đưa bên dưới mái tóc cắt bằng, thứ đã được mặt trời nhuộm vàng hơn bình thường (tóc Robby có màu giống tóc cô ta còn tóc Stephanie lại màu nâu giống Parker). Làn da rám nắng của cô ta thì rất thật.
“À, chào em”, Parker ngập ngừng nói.
Anh liếc qua người cô ta và nhẹ lòng khi thấy động cơ chiếc Cadillac màu be đang đỗ ở vỉa hè vẫn còn đang chạy. Richard ngồi sau tay lái đọc tờ Nhật báo phố Wal.
“Chào Parker. Bọn em vừa mới đến Dulles.” Cô ta ôm anh.
“Vừa mới… em đã đi đâu à?”
“St. Croix. Đẹp tuyệt vời. Ôi thư giãn đi nào. Trông dáng điệu của anh kìa… em chỉ ghé qua một phút thôi mà.”
“Trông em tuyệt lắm, Joan.”
“Em cũng cảm thấy tuyệt. Rất tuyệt là khác. Nhưng em lại không thể nói là anh cũng thế được, Parker ạ. Trông anh xanh quá.”
“Bọn trẻ ở trên gác.. Anh quay sang gọi con.
“Không, không sao đâu…”, Joan định nói.
“Robby, Stephie! Mẹ các con đến này.”
Có tiếng thình thịch trên cầu thang. Bọn Who chạy từ khúc quanh ra và ào vào người Joan. Cô ta mỉm cười, nhưng Parker có thể thấy cô ta không hài lòng chút nào vì anh đã gọi các con xuống.
“Mẹ, mẹ rám nắng hết rồi kìa!”, Stephie nói trong lúc hất tóc ra sau như một Spice Girl. Robby có khuôn mặt thiên sứ; Stephanie lại có khuôn mặt dài và nghiêm túc, và Patrick hy vọng khuôn mặt đó sẽ bắt đầu trông có vẻ tinh khôn một cách đáng gờm đối với bọn con trai khi nó bước sang tuổi mười hai, mười ba.
“Mẹ đã đi đâu đấy ạ?”, Robby vừa hỏi vừa cau có.
“Biển Caribe. Ba không kể cho các con à?” Một cái liếc về phía Parker. Có, anh đã kể cho chúng. Joan không hiểu rằng bọn trẻ buồn chẳng phải vì không được biết trước các kế hoạch du lịch của cô ta, mà là vì cô ta đã không có mặt ở Virginia trong kỳ nghỉ Giáng sinh.
“Mẹ đi nghỉ vui chứ ạ?”, con bé hỏi.
“Bọn con chơi ném đĩa nhựa và sáng nay con đã đánh bại anh Robby ba lần.”
“Nhưng con ghi bàn bốn lần liên tiếp!”, thằng anh trai nói. “Mẹ có mang quà cho bọn con không ạ?”
Joan nhìn về phía ô tô. “Tất nhiên là có. Nhưng con biết không, mẹ để quà trong va li cơ. Mẹ chỉ ghé qua một phút để chào và nói chuyện với ba con. Mai mẹ sẽ mang quà khi sang chơi”.
Stephie nói, “Ôi, con nhận được một quả bóng đá và trò Mario Bros mới, cả bộ Wallace & Gromit…
Robby chen ngang bài diễn văn của cô em. “Còn con thì có Death Star và cả một chiếc Millenium Falcon. Cả tấn Micro Machines nữa! Còn cả một chiếc gậy Sammy Sosa. Và bọn con đã được xem Kẹp hạt dẻ”.
“Con nhận được gói quà của mẹ chưa?” Joan hỏi.
“À vâng”, Stephie nói. “Cảm ơn mẹ.” Con bé lịch sự không chê vào đâu được nhưng một con búp bê Barbie mặc lễ phục không còn làm nó ham thích nữa. Bọn trẻ tám tuổi ngày nay khác xa bọn tám tuổi thời của Joan.
“Ba đã lấy lại áo phông của con”, Robby nói, “để đổi cỡ chuẩn hơn”.
“Mẹ bảo ba làm vậy nếu không vừa đấy”, Joan vội nói. “Mẹ chỉ muốn các con có chút quà.”
“Bọn con đã không được nói chuyện với mẹ dịp Giáng sinh”, Stephie nói.
“Ồ”, Joan đáp lời con gái, “gọi điện từ chỗ bọn mẹ khó lắm. Ở đó cứ như là đảo Gilligan ấy. Điện thoại chẳng bao giờ hoạt động.” Cô ta xoa đầu Robby, “Mà rốt cuộc thì các con đâu có nhà”.
Cô ta đang đổ lỗi cho chúng. Joan không học được rằng chẳng có gì là lỗi của bọn trẻ cả, ở tuổi của chúng thì không. Nếu bạn làm gì sai thì đó là lỗi tại bạn; nếu chúng làm gì sai thì đó vẫn là lỗi tại bạn.
Ôi Joan… Chính những sai sót nho nhỏ này, việc ý nhị đổ lỗi, cũng tệ như những cái tát thẳng mặt. Tuy nhiên, Parker không nói gì. (Không bao giờ để lũ trẻ thấy bố mẹ chúng cãi nhau.)
Joan đứng lên. “Richard và mẹ phải đi bây giờ. Bọn mẹ phải đón Elmo và Saint ở trại chó về. Bọn cún tội nghiệp đã phải ở trong cũi suốt cả tuần rồi.”
Robby hoạt bát trở lại. “Tối nay nhà mình tổ chức tiệc và bọn con sẽ xem pháo hoa trên ti vi rồi chơi trò Cờ tỷ phú Chiến tranh giữa các vì sao.”
“Ồ, nghe vui nhỉ”, Joan nói. “Richard và mẹ sẽ đến Trung tâm Kennedy. Nghe opera. Con có thích Opera không?”
Stephie lại nhún vai một cách khó hiểu, gần đây con bé làm vậy rất nhiều lần để trả lời những câu hỏi của người lớn.
“Đó là một vở kịch có các diễn viên hát”, Parker nói với bọn trẻ.
“Có lẽ lúc nào đó, Richard và mẹ sẽ đưa các con đi nghe Opera. Các con có thích vậy không?”
“Con đoán thế”, Robby nói. Đó cũng là lời cam kết chắc chắn nhất mà một cậu bé chín tuổi có thể đưa ra với môn văn hóa nghệ thuật cao cấp.
“Khoan”, Stephie buột miệng. Con bé quay người chạy lên cầu thang.
“Cưng ơi, mẹ không có thời gian. Bọn mẹ…” Một phút sau, con bé quay lại với bộ đồng phục bóng đá mới của nó và đưa cho mẹ.
“Chà”, Joan nói, “xinh quá!”. Cô ta cầm lấy bộ quần áo một cách lúng túng, giống đứa trẻ bắt được con cá nhưng không chắc là mình muốn có nó.
Parker Kincaid thì nghĩ: Đầu tiên là Người chèo thuyền, giờ là Joan… Hôm nay quá khứ xâm nhập nhiều quá. Mà sao lại không nhỉ? Rốt cuộc hôm nay là ngày cuối năm mà.
Thời gian để nhìn lại.
Rõ ràng, Joan thấy rất nhẹ nhõm khi bọn trẻ chạy về phòng ngủ của Stephie, lâng lâng với lời hứa sẽ có thêm quà. Rồi bỗng nhiên nụ cười của cô ta tắt ngấm. Trớ trêu thay, ở tuổi ba mươi chín trông cô vẫn đẹp nhất khi mang biểu cảm hờn dỗi trên khuôn mặt. Cô ta chạm vào răng cửa của mình bằng đầu ngón tay để xem chúng có bị dính son không. Đó là một trong những thói quen anh còn nhớ được từ thời họ vẫn là vợ chồng. “Parker, em không phải làm việc này..”, cô ta thò tay vào chiếc túi Coach.
Trời ạ, cô ấy tặng mình quà Giáng sinh. Còn mình thì chẳng có gì cho cô ấy. Anh nghĩ nhanh: Anh có còn thừa món quà nào chưa kịp tặng ai không nhỉ? Thứ gì đó anh có thể…
Nhưng rồi anh thấy tay cô ta rút ra khỏi chiếc túi cùng một tập giấy tờ.
“Đáng lẽ em chỉ việc để bên chuyển công văn lo liệu vụ này vào thứ Hai.”
Chuyển công văn?
“Nhưng em muốn nói chuyện với anh trước để anh không bị bối rối.”
Tựa đề tập tài liệu có ghi: Kiến nghị thay đổi quyền giám hộ con cái.
Anh cảm nhận một cú thúc sâu vào bụng.
Rõ ràng, Joan và Richard không đi thẳng từ sân bay tới đây mà đã ghé qua chỗ luật sư của cô ta trước.
“Joan”, anh nói bằng giọng tuyệt vọng, “cô không..
“Em muốn có chúng, Parker, và em sẽ có. Đừng tranh cãi nữa. Chúng ta có thể dàn xếp sao đó.”
“Không!”, anh thì thào. “Không!” Anh cảm thấy sức lực dần rời bỏ cơ thể trong khi nỗi hoảng sợ lại đang lẩn vào.
“Bốn ngày ở với anh, các thứ Sáu còn ngày cuối tuần ở với em. Tùy vào kế hoạch của Richard và em… gần đây chúng em đi du lịch nhiều lắm. Nghe này, việc ấy sẽ cho anh nhiều thời gian tự do hơn. Em nghĩ là anh sẽ mong được..
“Chắc chắn là không.”
“Chúng cũng là con em…”, cô ta dợm nói.
“Về mặt lý thuyết thôi.” Parker đã có trọn vẹn quyền giám hộ trong bốn năm qua.
“Parker”, cô ta thuyết phục, “cuộc sống của em đã ổn định. Em đang sống tốt. Em lại tập thể thao. Em đã kết hôn”.
Với một viên chức nhà nước trong bộ máy của hạt, người mà theo tờ Washington Post là chỉ vừa mới thoát án hối lộ năm ngoái. Richard chỉ là con chim sâu trong cái tổ nhỏ bé của giới chính trị nội bộ Beltway. Anh ta cũng dan díu với Joan suốt năm cuối cuộc hôn nhân giữa Parker và cô ta.
Sợ bọn trẻ sẽ nghe thấy, anh lại thì thào, ‘Thực tế cô đã là người lạ với Robby và Stephie kể từ ngày sinh ra chúng”. Anh vỗ vào tập tài liệu và cơn giận hoàn toàn chiếm giữ anh. “Cô có nghĩ cho chúng không? Chuyện này sẽ khiến chúng ra sao?”
“Chúng cần có mẹ.”
Không, Parker nghĩ, Joan cần một bộ sưu tập khác. Vài năm trước là lũ ngựa. Rồi đến những con chó weimaraner quán quân. Rồi đồ cổ. Cả những ngôi nhà trong khu vực đắt tiền nữa: Cô ta và Richard đã chuyển từ Oakton tới Clifton rồi McLean tới Alexandria. “Trèo lên đỉnh cao thế giới”, cô ta đã nói vậy, mặc dù Parker biết chỉ là vì cô ta chán ngôi nhà và khu dân cư cũ khi không thể kết bạn ở đó. Anh nghĩ đến việc thay đổi chỗ ở thường xuyên như thế sẽ ảnh hưởng tới bọn trẻ ra sao.
“Tại sao?”, anh hỏi.
“Em muốn có một gia đình.”
“Sinh con với Richard ấy. Cô còn trẻ mà.”
Nhưng Parker biết cô ta không muốn vậy. Dù yêu thích chuyện bầu bì đến thế nào, bởi cô ta chưa từng trở nên xinh đẹp như lúc đó, cô ta lại chẳng thể chấp nhận nổi những việc liên quan đến bọn trẻ sơ sinh. Bạn khó mà có con khi bản thân vẫn là một đứa trẻ, về mặt cảm xúc.
“Cô hoàn toàn không thích hợp”, Parker nói.
“Chà chà, anh đã học được cách tháo găng rồi đấy hả? Đúng, có thể tôi từng không thích hợp. Nhưng đó là trong quá khứ.”
Không, đó là bản chất của cô ta.
‘Tôi sẽ đấu tranh, Joan”, anh nói không hề e ngại. “Cô biết thế mà.”
Cô ta quát, “Mười giờ sáng mai tôi sẽ đến. Và tôi sẽ mang theo một nhân viên xã hội”.
“Cái gì?” Anh choáng váng.
“Chỉ để nói chuyện với bọn trẻ.”
“Joan… Vào ngày lễ ư?” Parker không thể tưởng tượng nổi nhân viên xã hội nào lại đồng ý làm chuyện ấy, nhưng anh nhận ra chắc Richard đã nhờ vả ai đó.
“Nếu anh là một ông bố tốt như anh vẫn nghĩ, anh sẽ thấy chẳng có vấn đề gì khi chúng nói chuyện với cô ấy.”
“Tôi chẳng có vấn đề gì cả. Tôi chỉ nghĩ cho con. Chờ đến tuần sau ấy. Cô nghĩ chúng sẽ cảm thấy ra sao khi có người lạ cật vấn chúng vào ngày lễ hả? Thật lố bịch! Chúng muốn gặp cô.”
“Parker”, cô ta nói, cáu tiết, “cô ấy là dân chuyên nghiệp. Cô ấy sẽ không cật vấn gì cả. Nghe này, tôi phải đi. Trại chó sắp đóng cửa nghỉ lễ rồi. Bọn cún tội nghiệp… Ôi, thôi nào, Parker. Có phải tận thế đâu”.
Nhưng đây chính xác là tận thế mà, anh nghĩ.
Anh định đóng sầm cửa nhưng được nửa chừng thì dừng lại, biết rằng âm thanh ấy sẽ làm bọn Who thấy khó chịu.
Anh đóng cửa với tiếng kịch chắc nịch. Xoay chốt cửa, cài xích như đang cố nhốt cơn bão tin xấu này bên ngoài. Gập mớ giấy tờ lại mà không buồn nhìn chúng, anh đi vào phòng làm việc và nhét chúng vào ngăn bàn, gửi một tin nhắn cho luật sư của mình. Anh đi tới đi lui vài phút rồi trèo lên cầu thang và ló đầu vào phòng Robby. Bọn trẻ đang cười khúc khích và ném Micro Machines vào nhau.
“Không được dội bom ngày cuối năm”, Parker nói.
“Vậy mai thì được hả ba?”, Robby hỏi.
“Hóm hỉnh đấy, chàng trai.”
“Anh ấy bắt đầu trước”, Stephie mách lẻo rồi quay lại với cuốn sách của nó. Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên.
“Ai muốn giúp ba trong phòng làm việc nào?”, anh gọi.
“Con”, Robby kêu.
Hai bố con biến mất dưới cầu thang dẫn vào phòng làm việc trong tầng hầm của anh. Vài phút sau, Parker nghe tiếng nhạc điện tử trỗi lên khi Stephie chuyển từ văn học sang khoa học máy tính và cử anh chàng Mario gan dạ đi thực hiện nhiệm vụ lần nữa.
 
o O o
 
Thị trưởng Gerald Kennedy, người theo đảng Dân chủ nhưng không thuộc dòng họ Kennedy kia, nhìn vào mẩu giấy trắng trên chiếc bàn của mình.
Đi kèm với tờ giấy là một bản thông báo nội bộ của FBI có tiêu đề: “Tài liệu đính kèm là bản sao. Vụ án METSHOOT, 12/31”.
METSHOOT, Kennedy nghĩ. Vụ xả súng ở Metro. Cục điều tra rất thích cách đánh nhãn tên của mình, ông nhớ lại. Ngồi so vai như một chú gấu bên chiếc bàn chạm trổ trong văn phòng kiểu Georgia, sâu trong Tòa thị chính lại chẳng có chút Georgia nào của Washington, Đặc khu Columbia, Kennedy đọc lại bức thư lần nữa. Ngước lên nhìn hai người ngồi trước mặt. Một phụ nữ tóc vàng thon thả cùng người đàn ông tóc xám cao và gầy nhẳng. Ngài Kennedy đầu chớm hói thường nhìn nhận mọi người theo kiểu tóc của họ.
“Các vị chắc đấy là kẻ đứng đằng sau vụ xả súng à?”
“Điều gã nói về những viên đạn”, cô gái nói, “chuyện chúng được sơn màu ấy? Đã được kiểm tra. Chúng tôi chắc chắn bức thư này là của thủ phạm”.
Kennedy, người to béo và thấy khá thoải mái với bề ngoài của mình, đẩy bức thư quanh bàn bằng đôi tay mập ú.
Cửa bật mở, rồi một chàng trai trẻ da màu trong bộ vest hai hàng khuy của Ý và đeo kính hình oval bước vào. Kennedy ra hiệu cho anh ta tới gần bàn.
“Đây là Wendell Jefferies”, thị trưởng nói. “Trưởng ban trợ lý của tôi.”
Nữ đặc vụ gật đầu. “Margaret Lukas.”
Viên đặc vụ kia chỉ nhún vai, theo như Kennedy thấy. “Cage.” Cả ba bắt tay nhau.
“Họ là FBI”, Kennedy nói thêm.
Cái gật đầu của Jefferies như muốn nói, “Hiển nhiên rồi”.
Kennedy đẩy bản sao bức thư về phía trợ lý.
Jefferies chỉnh lại chiếc kính được thiết kế riêng và nhìn lá thư. “Chết tiệt. Chúng sẽ lại gây án ư?”
“Có vẻ như vậy”, nữ đặc vụ nói.
Kennedy quan sát hai đặc vụ. Cage tới từ phố Ninth, trụ sở của FBI, còn Lukas là quyền trưởng phân cục Washington, D.c. Sếp của cô ta đã rời khỏi thành phố nên giờ cô là người chỉ đạo vụ xả súng ở Metro. Cage già hơn và dường như có nhiều mối quan hệ trong Cục hơn; Lukas thì còn trẻ và tỏ ra hay hoài nghi, cũng như giỏi chịu đựng hơn. Jerry Kennedy đã là thị trưởng của Đặc khu Columbia được ba năm, ông chèo chống thành phố này không phảỉ bằng kinh nghiệm hay các mối quan hệ mà chính là nhờ thuyết hoài nghi và nghị lực đó. Ông mừng vì Lukas mới là người chịu trách nhiệm chính.
“Tên khốn ấy còn chẳng biết đánh vần”, Jefferies lẩm bẩm trong lúc cúi khuôn mặt bóng nhẫy xuống đọc lá thư. Thị lực của anh ta kém kinh khủng, một chứng bệnh di truyền trong gia đình. Phần lớn lương của anh ta là dành cho mẹ mình cùng hai con trai và hai con gái khác của bà ở Đông Nam D.c. Một hành động tử tế mà Jefferies chẳng bao giờ nhắc đến, anh ta giữ kín bí mật ấy cũng như chuyện bố anh ta đã bị giết khi đang mua ma túy trên phố East Third.
Với Kennedy, chàng trai trẻ Wendell Jefferies đại diện cho phần tốt đẹp nhất của Đặc khu Columbia.
“Có manh mối nào không?”, tay trợ lý hỏi.
Lukas nói, “Không có gì. Chúng tôi đã gọi cả VICAP, cảnh sát Đặc khu, phòng Phân tích Hành vi của Quantico, còn có cảnh sát hạt Fairfax, Prince William và Montgomery nữa. Nhưng chúng tôi chưa có gì chắc chắn trong tay”.
“Chúa ơi”, Jefferies nói rồi nhìn đồng hồ.
Kennedy cũng nhìn vào chiếc đồng hồ bằng đồng trên bàn làm việc. Mới hơn mười giờ sáng.
“Một nghìn hai trăm giờ… trưa”, ông ta lầm bầm, tự hỏi tại sao tên tống tiền lại dùng hệ giờ hai mươi tư tiếng của châu Âu, hay cách nói giờ của quân đội. “Chúng ta còn hai tiếng.”
Jeíferies nói, “Ngài sẽ phải phát biểu, ngài Jerry ạ. Sớm thôi!”.
“Tôi biết”, Kennedy đứng dậy.
Tại sao chuyện này lại xảy ra hôm nay? Sao lại là ở đây?
Ông liếc nhìn Jefferies, tuy anh ta vẫn trẻ, nhưng Kennedy biết phía trước anh ta có cả một sự nghiệp chính trị đầy hứa hẹn. Anh ta hiểu biết và rất nhanh trí. Khuôn mặt đẹp trai của Jefferies nhăn lại thành biểu cảm chua chát và Kennedy hiểu rằng anh ta cũng đang suy nghĩ hệt như ngài thị trưởng: Tại sao lại là bây giờ?
Kennedy liếc nhìn một thông báo nội bộ về khán đài đặc biệt để xem pháo hoa Giao thừa đêm nay ở công viên Mall. Ông và vợ là Claire sẽ ngồi cùng Đại biểu Paul Lanier và các nghị sĩ trọng yếu khác của Đặc khu.
Hay đúng hơn là sẽ như thế nếu không có chuyện này xảy ra.
Tại sao lại là bây giờ?
Tại sao lại là thành phố của tôi?
Ông hỏi các đặc vụ, “Các vị định làm gì để bắt được chúng?”.
Lukas ngay lập tức trả lời, “Chúng tôi đang kiểm tra các nguồn tin, tin mật, lẫn những điều hành viên ở Cục có bất kỳ liên lạc nào với các tổ chức khủng bố trong và ngoài nước. Cho đến giờ, vẫn chưa có được gì. Theo đánh giá của tôi, đây không phải là một vụ khủng bố. Nó bốc mùi của một tội ác vì tiền điển hình. Vì vậy, tôi đã yêu cầu các đặc vụ so sánh những âm mưu tống tiền trong quá khứ để cố tìm ra khuôn mẫu. Chúng tôi cũng kiểm tra tất cả những lời đe dọa mà Đặc khu hay các nhân viên của Đặc khu nhận được trong vòng hai năm qua. Chưa thấy có mối liên hệ nào.”
“Ngài thị trưởng cũng đã nhận được những lời đe dọa, cô biết không?”, Jefferies nói. “Về tình huống của Moss.”
“Là thế nào?”, Cage hỏi.
Lukas trả lời, “Người tố giác ủy ban Giáo dục. Người chúng ta đang săn sóc ấy.”
“Ồ, là ông ta.” Cage nhún vai.
Quay sang Jefferies, Lukas nói, ‘Tôi có nghe nói về những lời đe dọa. Và đã xem xét chúng. Nhưng tôi không nghĩ có mối liên hệ nào ở đây. Đó chỉ là những lời dọa dẫm nặc danh thường ngày của các anh từ các quầy điện thoại tính phí. Không dính đến tiền và cũng chẳng có yêu cầu nào khác”.
“Những lời dọa dẫm nặc danh hằng ngày của các anh”, Kennedy nghĩ một cách nhạo báng.
Chỉ có điều, nghe chẳng giống như thói thường tình khi vợ bạn nhấc điện thoại lên lúc ba giờ sáng và nghe câu, “Không được mở rộng điều tra vụ Moss nữa. Nếu không các người sẽ chết ngắc như lão”.
Lukas nói tiếp, “Theo nguyên tắc điều tra, tôi đã cho người kiểm tra tất cả các biển số xe của mọi chiếc ô tô đậu quanh Tòa thị chính sáng nay. Chúng tôi cũng tiến hành tương tự với biển của các xe quanh Dupont Cacle. Hiện chúng tôi cũng đang kiểm tra điểm thả tiền ở Beltway và tất cả các khách sạn, căn hộ, xe moóc lẫn nhà cửa quanh đó”.
“Nghe cô nói không được lạc quan mấy”, Kennedy làu bàu.
“Tôi không lạc quan. Chẳng có nhân chứng nào hết. Đúng hơn là không ai đáng tin cậy. Trong những trường hợp như thế này, chúng tôi rất cần nhân chứng.”
Kennedy nghiên cứu bức thư lần nữa. Trông có vẻ kỳ quặc vì một tên điên, một kẻ sát nhân, lại có nét chữ viết tay đẹp như thế. Ông nói với Lukas, “Vậy, tôi đoán câu hỏi là… tôi có nên trả tiền không?”.
Giờ thì Lukas quay sang Cage. Ông trả lời, “Chúng tôi cảm thấy nếu ngài không chịu trả tiền chuộc hoặc một người đưa tin nào đó không xuất hiện với thông tin chắc chắn về nơi ở của tên Digger này, chúng tôi sẽ chẳng thể ngăn được hắn trước bốn giờ chiều. Chúng tôi không có đủ đầu mối”. Nữ đặc vụ nói thêm, “Tôi không gợi ý ngài nên trả tiền. Đó chỉ là nhận định của chúng tôi về những gì sẽ xảy ra nếu ngài không làm vậy”.
“Hai mươi triệu đô la”, thị trưởng lẩm bẩm.
Một người đàn ông cao ráo và trạc sáu mươi tuổi trong bộ vest màu xám bước vào mà chẳng hề gõ cửa.
Ồ, tuyệt, Kennedy nghĩ. Lại thêm người chõ mũi vào chuyện này.
Đại biểu Hoa Kỳ Paul Lanier bắt tay thị trưởng rồi tự giới thiệu mình với các đặc vụ FBI. Ông ta lờ tịt Wendell Jefferies.
“Paul”, Kennedy nói với Lukas, “là chủ tịch Hội đồng Điều hành Đặc khu”.
Mặc dù Đặc khu Columbia cũng có quyền tự trị nhất định, nhưng gần đây, Nghị viện đã thu lại quyền tự quyết tài chính và phân phát tiền cho thành phố như một bậc phụ huynh ngừng cho đứa con vô trách nhiệm của mình tiền tiêu vặt. Đặc biệt từ sau vụ bê bối của ủy ban Giáo dục, Lanier đối với Kennedy chẳng khác nào một kiểm toán viên đối với tập sổ sách kế toán.
Lanier không nhận ra giọng điệu miệt thị của Kennedy, mặc dù Lukas thì có, và ngài nghị sĩ hỏi, “Cô có thể cho tôi biết những tiên lượng về tình huống này không?”.
Lukas nói ra những nhận xét của mình một lần nữa. Lanier vẫn đứng, cả ba chiếc cúc trên bộ vest Brooks Brothers của ông ta vẫn cài nguyên si.
“Tại sao lại là ở đây?”, Lanier hỏi. “Sao lại là Washington?”
Kennedy cười với chính mình. Thậm chí tên khốn kia còn cướp cả câu hỏi tu từ của ông nữa.
Lukas trả lời, “Chúng tôi không biết”.
Kennedy hỏi tiếp, “Cô thực sự nghĩ hắn sẽ lại gây án à?”.
“Vâng.”
Nghị sĩ hỏi, “Jerry, ông không thực sự nghĩ đến chuyện trả tiền đấy chứ?”.
“Tôi đang cân nhắc mọi trường hợp.”
Lanier tỏ ra hoài nghi, “Ông không băn khoăn chuyện này rồi sẽ như thế nào hay sao?”.
“Không, tôi không quan tâm nó sẽ ra sao”, Kennedy quát.
Nhưng ngài nghị sĩ vẫn tiếp tục bằng giọng nam trầm tuyệt hảo kiểu chính trị gia của ông ta. “Việc này sẽ truyền tải một thông điệp sai lầm. Thu hút những tên khủng bố khác”
Kennedy liếc nhìn Lukas, cô nói, “Đó là điều cần phải suy nghĩ. Thuyết cửa xả. Ngài đầu hàng một tên tống tiền thì sẽ có những tên khác nữa”.
“Nhưng không ai biết về chuyện này, đúng không nào?” Kennedy hất cằm về phía bức thư.
“Ồ họ biết chứ”, Cage nói. “Và sẽ càng có thêm nhiều người biết. Ông không thể giữ kín một chuyện như thế này được lâu. Những lá thư như vậy có cánh đấy. Ông có thể chắc chắn chuyện đó.”
“Cánh”, Kennedy lặp lại, không thích cách nói này chút nào và càng thấy mừng vì Lukas mới là người chỉ đạo điều tra. Ông hỏi cô, “Cô có thể làm gì để tìm được gã nếu chúng ta thực sự trả tiền?”
Một lần nữa Lukas đáp lại ngay. ”Kỹ thuật viên của chúng tôi sẽ cài bọ vào chiếc túi… với thiết bị phát sóng. Hai mươi triệu đô la nặng tới vài chục cân”, cô giải thích. “Nó không phải thứ ông có thể giấu dưới ghế ngồi trên ô tô. Chúng tôi sẽ cố lần theo thủ phạm tới hang ổ của gã. Nếu gặp may chúng tôi sẽ bắt được cả gã lẫn xạ thủ, tên Digger này.”
“May mắn”, Kennedy nói một cách hoài nghi. Cô ta là một phụ nữ đẹp, ông nghĩ, mặc dù ngài thị trưởng đã kết hôn được ba mươi bảy năm và chưa từng một lần nghĩ đền chuyện lừa dối vợ, ông vẫn biết rằng vẻ đẹp chủ yếu nằm ở biểu cảm của đôi mắt, khuôn miệng và thần thái, chứ không phải ở những đường nét do Chúa ban cho. Khuôn mặt của Margaret Lukas chưa hề dịu đi kể từ khi cô bước chân vào văn phòng ông. Không cười, cũng chẳng cảm thông. Giọng cô rất sắt đá khi nói, “Chúng tôi không thể cho ngài biết chính xác số phần trăm cơ hội”.
“Không, tất nhiên là không thể rồi.”
“Hai mươi triệu”, kẻ tay hòm chìa khóa Lanier lẩm bẩm.
Kennedy đứng dậy, đẩy ghế ra sau và bước đến cửa sổ. Ông nhìn ra bãi cỏ màu nâu cùng hàng cây lác đác lá khô. Mùa đông ở Bắc Virginia đã bớt lạnh hơn nhiều trong vài tuần vừa qua. Đêm nay, dự báo thời tiết thông báo sẽ có đợt tuyết lần đầu tiên trong năm, nhưng ngay lúc này, không khí ấm áp và ẩm ướt, lẫn mùi thực vật phân hủy vẫn đang phảng phất trong căn phòng. Cảm giác bất an. Bên kia phố là công viên, ở chính giữa là một bức tượng to lớn, đen thui theo kiểu hiện đại, nhắc Kennedy nhớ tới một lá gan.
Ông liếc sang Wendell Jefferies, anh ta hiểu ngay và bước tới cho ông. Trợ lý của ông xịt nước hoa cạo râu; chắc anh ta phải có đến hai mươi mùi khác nhau. Ngài thị trưởng thì thầm, “Thế đấy, Wendell áp lực nhỉ?”.
Vốn không bao giờ biết kiềm chế, trợ lý thị trưởng nói luôn, “Ngài là người cầm bóng, sếp ạ. Thả rơi nó là cả ngài và tôi đều sẽ phải ra đi. Hoặc còn hơn thế nữa”.
Hoặc còn hơn thế nữa…
Thế mà Kennedy đã tưởng không còn chuyện gì tồi tệ hơn vụ bê bối của ủy ban Giáo dục.
“Cho đến giờ”, Kennedy nói, “vẫn không có manh mối nào. Chẳng có gì cả”.
Nhưng đã có hai mươi ba người chết.
Cho đến giờ, tất cả những gì họ biết được là tên tâm thần này sẽ giết thêm nhiều người khác lúc bốn giờ và lặp lại lần nữa, rồi lần nữa.
Bên ngoài cửa sổ, bầu không khí ấm áp đang có sự xáo trộn. Năm chiếc lá úa vàng xoay vòng rơi xuống đất.
Ông trở lại bàn làm việc của mình. Nhìn vào chiếc đồng hồ đồng. Bây giờ là mười giờ hai mươi lăm.
Lanier nói, “Tôi cho rằng chúng ta không nên trả tiền. Ý tôi là, theo tôi khi những tên này phát hiện ra FBI đã vào cuộc, chúng có thể sẽ sợ và rồi bỏ chạy mất tiêu”.
Đặc vụ Lukas chỉ ra, “Tôi cá là chúng đã biết Cục sẽ nhúng tay vào trước cả khi bắt đầu vụ này”.
Kennedy nhận ra âm điệu chế giễu của cô. Nhưng một lần nữa, Lanier dường như lại chẳng hề hay biết.
Ngài nghị sĩ tiếp tục nói với nữ đặc vụ, “Tôi không nghĩ là cô ủng hộ việc trả tiền”.
“Tôi không ủng hộ.”
“Nhưng cô cũng nghĩ rằng Digger sẽ tiếp tục xả súng nếu chúng ta không trả.”
“Đúng”, cô trả lời.
“Chà…” Lanier giơ hai tay lên. “Như thế chẳng phải là trước sau bất nhất sao? Cô không nghĩ chúng ta nên trả tiền… nhưng hắn sẽ lại tiếp tục giết người.”
“Chính xác!”
“Như thế chẳng dẫn chúng ta đến đâu cả.”
Lukas nói, “Chúng là những kẻ sẽ sẵn sàng giết vô số người nếu cần phải làm thế, chỉ để kiếm tiền. Ngài không thể đàm phán với một kẻ như vậy”.
“Việc trả tiền có làm nhiệm vụ của cô khó khăn hơn không?”, Kennedy hỏi. “Khó bắt hắn hơn ấy?”
“Không”, cô nói. Một lát sau thì thêm, “Vậy là”, cô hỏi, “ngài có đồng ý trả tiền hay không?”.
Ngọn đèn bàn soi sáng bức thư. Với Kennedy, trông cứ như bản thân tờ giấy đang phát ra ngọn lừa trắng vậy.
“Không, chúng ta sẽ không trả tiền”, Lanier nói. “Chúng ta sẽ tỏ ra cương quyết. Chúng ta phải cứng rắn với bọn khủng bố. Chúng ta…”
“Tôi sẽ trả”, Kennedy nói.
“Ngài chắc chứ?”, Lukas hỏi ông, dường như chẳng quan tâm đến câu trả lời lắm.
“Tôi chắc. Hãy gắng hết sức để bắt chúng. Nhưng thành phố sẽ trả tiền”
“Chờ đã”, nghị sĩ nói, “không thể vội vàng như vậy được”.
“Chẳng có gì vội vàng cả”, Kennedy quát lại. “Tôi đã cân nhắc chuyện đó từ lúc nhận được thứ chết tiệt này”. Ông chỉ tay vào bức thư như đang bốc lửa.
“Jerry”, Lanier vừa nói vừa cười chua chát, “ông làm gì có thẩm quyền để ra quyết định đó”.
“Thực ra là có đấy”, Wendell Jefferies chen vào, vô tình anh ta lại có tấm bằng Luật và Thạc sĩ Luật.
“Nghị viện mới có thẩm quyền này”, Lanier nóng nảy nói.
Cage nói với Lanier, “Không phải. Đây hoàn toàn là thẩm quyền của Đặc khu. Tôi đã hỏi tổng chưởng lý trên đường đến đây”.
“Nhưng chúng tôi kiểm soát tài chính”, Lanier quát. “Và tôi không cho phép chi.”
Kennedy liếc Wendy Jefferies, anh ta ngẫm nghĩ một lát. “Hai mươi triệu đô la à? Chúng ta có thể rút từ quỹ chi tiêu linh hoạt của Đặc khu.” Anh ta cười phá lên. “Nhưng sẽ phải rút từ nguồn dự trữ của ủy ban Giáo dục. Đó là tài khoản duy nhất có khả năng thanh khoản lớn.”,
“Duy nhất à?”
“Đúng vậy. Tất cả những chỗ khác toàn là âm hoặc tiền lẻ thôi.”
Kennedy lắc đầu. Trớ trêu làm sao: Tiền để cứu thành phố lại là do kẻ nào đó đã tham nhũng và đặt giới cầm quyền vào một vụ bê bối lớn.
“Jerry, chuyện này thật lố bịch!”, Lanier nói. “Kể cả họ có bắt được những gã này thì tháng sau sẽ lại có kẻ khác làm điều tương tự. Không bao giờ được thỏa hiệp với bọn khủng bố. Đó là nguyên tắc ở Washington. Ông chưa đọc khuyến nghị của Bộ ngoại giao à?”
“Chưa, tôi chưa đọc”, Kennedy nói. “Không ai gửi chúng đến cho tôi cả. Wendy, chuẩn bị tiền đi. Còn đặc vụ Lukas… hãy đi bắt tên khốn ấy!”
 
o O o
 
Bánh kẹp cũng tạm được.
Không xuất sắc.
Gilbert Havel quyết định rằng sau khi lấy được chỗ tiền, gã sẽ tới câu lạc bộ Jockey và ăn món bít tết thật sự. Một miếng thăn non. Cùng một chai champagne.
Gã uống nốt chỗ cà phê và để mắt tới lối ra vào Tòa thị chính.
Cảnh sát trưởng đặc khu đã đến rồi rời đi vội vã. Một tá phóng viên cùng đội quay phim vừa quay ra khỏi cửa chính để hướng về lối vào ở hông tòa nhà. Trông họ không vui. Rồi hai người, một nam một nữ, rõ ràng là đặc vụ FBI, biến mất vào trong Tòa thị chính từ lúc trước mà chưa thấy trở ra. Chắc chắn là chiến dịch của Cục điều tra rồi. Gã biết sẽ như vậy mà.
Cho đến giờ, chưa có gì ngạc nhiên cả.
Havel nhìn đồng hồ. Đã đến giờ về nhà trú ẩn, gọi người cho thuê trực thăng. Có rất nhiều việc cần chuẩn bị. Kế hoạch lấy hai mươi triệu đã phức tạp lắm rồi, kế hoạch để trốn thoát sau đó thậm chí còn phức tạp hơn.
Havel thanh toán hóa đơn bằng những đồng tiền lẻ cũ nát, rồi mặc lại áo khoác và đội mũ. Gã rời khỏi quán cà phê, bước xuống từ vỉa hè và vội vã băng qua một con hẻm, mắt nhìn xuống. Trạm Metro ở Judiciary Square nằm ngay bên dưới Tòa thị chính nhưng gã biết ở đó sẽ đầy đặc vụ và cảnh sát, thế nên gã hướng tới Đại lộ Pennsylvartia, nơi gã sẽ bắt xe buýt xuống Đông Nam D.c.
Một gã da trắng trong chiếc mũ trùm của dân da đen.
Cuộc đời đôi lúc thật khôi hài.
Gilbert Havel ra khỏi con hẻm và rẽ sang một phố nhánh dẫn tới Pennsylvania. Đèn chuyển sang màu xanh. Havel bước ra ngã tư. Đột nhiên, một chuyển động lao tới từ phía bên trái gã. Gã nghĩ: Chết tiệt, anh ta không trông thấy mình! Anh ta không trông thấy mình, anh ta không…
“Này!”, Havel kêu lên.
Tài xế của chiếc xe tải chở hàng to lớn đang mải nhìn hóa đơn nên đã tăng tốc vượt đèn đỏ. Anh ta ngước lên, sợ hãi. Cùng tiếng phanh nghiến đến điếc tai, chiếc xe tải đâm sầm vào Havel. Tài xế hét lên, “Chúa ơi, không! Chúa ơi…”.
Chiếc xe tải làm Havel bị mắc kẹt giữa tấm chắn mũi xe của nó và một chiếc xe khác đang đỗ gần đó, nghiền nát gã. Tài xế nhảy ra và nhìn trân trối bàng hoàng. “Anh không chịu quan sát! Đó không phải là lỗi tại tôi!” Rồi anh ta nhìn quanh và thấy mình đã vượt đèn đỏ. “Ôi Chúa ơi!” Anh ta trông thấy hai người đang chạy về phía mình từ góc phố. Cân nhắc một phút. Nhưng cơn hoảng loạn đã thắng thế, anh ta liền nhảy lên xe tải, khởi động xe, lùi lại rồi tăng tốc và rẽ vào khúc quanh.
Hai khách bộ hành nam khoảng ba mươi tuổi chạy tới chỗ Havel. Một người cúi xuống kiểm tra ví. Người kia chỉ đứng sững, nhìn chằm chằm vào vũng máu to.
“Chiếc xe tải kia”, người đang đứng chỉ thì thào, “hắn cứ thế lái đi! Hắn bỏ chạy rồi!”. Rồi anh ta hỏi bạn mình, “Anh ta chết chưa?”.
“Ừ, chết rồi”, người kia trả lời. “Chết hẳn rồi.”

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.