Giọt Lệ Quỷ

CHƯƠNG 37



Anh lăn khỏi giường.
Buồn nôn, đầu ong ong, anh nhìn ra ngoài cửa sổ. Joan đang tiến về phía ngôi nhà. Richard đi cùng cô ta, sưng sỉa ôm đồm quà cáp. Anh ta không muốn có mặt ở đây. Còn một người phụ nữ khác nữa: nhân viên xã hội. Thấp, lộp cộp trên đôi giày cao gót chới với, nhìn ngôi nhà với vẻ xét đoán.
Họ đã đến cửa trước. Chuông reo.
Vô vọng rồi…
Anh đứng ở hành lang tầng hai, ngón chân co quắp trên thảm. Chỉ cần không cho cô ta vào, anh tự bảo mình. Anh sẽ cấm cửa. Bắt cô ta phải có lệnh của tòa. Như thế sẽ kéo dài thêm được vài giờ.
Parker ngập ngừng nhìn hai con đang ngủ. Anh muốn ôm lấy chúng mà nhảy ra cửa sau, lái nhanh tới Tây Virginia.
Nhưng cách đó không hiệu quả, anh biết.
Chuông lại reo.
Mình làm gì được? Làm sao mình trì hoãn đây?
Nhưng Joan sẽ vẫn biết nếu có điều không ổn. Trì hoãn càng khiến người phụ nữ đa nghi ấy thêm tò mò. Mà hai hay ba tiếng đồng hồ thì giúp gì cho anh?
Anh hít một hơi sâu và bắt đầu đi xuống cầu thang.
Anh có thể nói gì về những vết đạn trên tường? Máu? Có lẽ…
Parker sững lại ngay trên bậc nghỉ.
Choáng váng.
Một người phụ nữ mảnh mai, tóc vàng trong chiếc váy đen và áo sơ mi trắng ra mở cửa trong lúc đang quay lưng lại với anh.
Bản thân việc đó đã đáng kinh ngạc rồi. Nhưng thứ thực sự làm anh bị sốc là tình trạng ngôi nhà.
Chẳng chê vào đâu được.
Không thấy một mẩu kính hay đồ sứ vỡ. Cũng chẳng một lỗ đạn trên tường. Chúng đã được trát lại và sơn lót; mấy thùng sơn đang nằm trên lớp vải bạt màu trắng ở góc phòng khách. Chiếc ghế bị nổ tung vì đạn đêm qua đã được thay bằng chiếc tương tự. Tủ cũng là một cái mới tinh.
Xác của Digger thì không thấy đâu. Ở chỗ hắn nằm chết giờ là một chiếc thảm phương đông mới toanh.
Cùng với loan, Richard và nhân viên xã hội đang đứng trước cửa, người phụ nữ trong chiếc váy đen chợt quay lại. “Parker à”, Margaret Lukas nói.
“Ừ”, một giây sau, anh trả lời.
Cô mỉm cười kỳ lạ.
Anh thử lại, “Chào em!”.
“Giấc ngủ của anh thế nào?”, cô hỏi. Rồi đế thêm, “Ngủ ngon chứ?”.
“Ừ”, anh nói. “Ngon.”
Lukas quay lại và gật đầu với các vị khách. Cô nói với Joan, “Chắc cô là vợ của Parker”.
“Vợ cũ”, Joan nói và bước vào trong. Nhân viên xã hội, một phụ nữ mập lùn, bước vào sau cô ta, tiếp theo là anh chàng Richard đẹp trai nhưng đần thối.
Parker đi xuống tiếp và không thể không chạm vào tường ở chỗ anh biết rằng đêm qua có một loạt vết đạn. Lớp vữa mượt như má của Stephie vậy.
Anh bị đau khủng khiếp ở trên vai và đầu, ở những chỗ va chạm vào sàn nhà đêm qua, trong lúc Digger đi vào qua cửa bếp. Nếu không phải vì chúng, anh đã nghĩ toàn bộ cuộc tấn công chỉ là một giấc mơ.
Anh nhận ra Joan đang trừng trừng nhìn mình bằng nụ cười không chút hài lòng. “Tôi vừa bảo, ‘Chào anh’ đấy!”
“Chào em, Joan”, anh nói “Chào Richard.” Parker bước ra giữa phòng khách và hôn lên má Joan, bắt tay chồng cô ta. Richard mang theo một túi đầy ắp gấu bông.
Joan không giới thiệu Parker với nhân viên xã hội nhưng cô ta bước lên rồi bắt tay anh. Hình như cô ta có nói tên. Parker còn đang mụ mẫm hết cả người nên chẳng để ý lắm.
Joan nhìn Lukas, ‘Tôi không nghĩ mình đã gặp nhau. Cô là..’.
“Jackie Lukas. Một người bạn của Parker.”
Jackie à? Parker nhướng một bên lông mày. Viên đặc vụ có thấy nhưng không nói gì thêm.
Joan liếc cơ thể thon gọn của Lukas bằng cái nhìn trung lập. Rồi mắt cô ta, màu mắt quá giống Robby nhưng biểu cảm lại khác xa, đảo khắp phòng khách.
“Anh vừa?… Anh vừa làm gì đấy? Trang trí lại hay gì à? Tối qua, tôi đã không để ý.”
“Tôi rảnh rỗi một lát. Nên nghĩ cần sửa sang chút đỉnh.”
Vợ cũ ngắm anh. “Trông anh kinh quá, Parker. Anh ngủ không ngon à?”
Lukas cười phá lên. Joan liếc cô.
“Parker mời tôi tới ăn sáng”, Lukas giải thích, dành cho hai người phụ nữ một cái nhìn kiểu đồng phạm. “Rồi anh ấy lên gác để đánh thức lũ trẻ và lại lăn ra ngủ với chúng.”
Tiếng làu nhàu của Joan nhắc lại điều cô ta vừa mới nói: Đúng kiểu của anh ta.
Chỗ máu đâu rồi nhỉ? Đã có nhiều máu thế cơ mà.
Lukas hỏi các vị khách, “Mọi người muốn uống cà phê không? Bánh cuộn nhé? Parker tự làm đấy”.
“Tôi xin ít cà phê”, nhân viên xã hội nói. “Và có lẽ là nửa cái bánh cuộn.”
“Bánh nhỏ lắm”, Lukas nói. “Hay lấy cả cái nhé!”
“Vậy cũng được.”
Lukas biến vào trong bếp và một lát sau, quay ra với một cái khay. Cô nói, “Parker nấu ăn khá lắm”.
“Tôi biết”, Joan trả lời, không hề bị ấn tượng với tài năng của chồng cũ.
Lukas đưa cà phê cho từng người và hỏi Parker, “Đêm qua mấy giờ anh mới từ bệnh viện về?”.
“Ừm.”
“Bệnh viện à? Bọn trẻ ốm à?”, Joan hỏi bằng giọng lo lắng một cách kịch tính, trong lúc liếc nhìn nhân viên xã hội.
“Anh ấy đi thăm một người bạn”, Lukas đáp lời.
“Anh không biết là mấy giờ”, Parker nói. “Muộn lắm à?” Câu trả lời thực ra lại là câu hỏi; Lukas là tác giả kịch bản nên anh cảm thấy mình nên dựa theo.
“Bạn nào?”, Joan tra hỏi.
“Harold Cage”, Lukas nói. “Ông ấy ổn cả. Chỉ bị gãy xương sườn. Họ nói thế phải không?”
“Gãy xương.”
“Trượt chân ngã phải không nhỉ?”, Lukas tiếp tục màn diễn đáng nhận giải thưởng của mình.
“Phải”, Parker nhái theo. “Trượt chân ngã”.
Anh hớp một ngụm cà phê do Lukas đưa cho.
Nhân viên xã hội đã ăn đến cái bánh thứ hai. “Chà, tôi xin công thức cho món này được chứ?”
“Chắc chắn rồi”, Parker nói.
Joan tiếp tục giữ nụ cười hiền lành trên khuôn mặt. Cô ta đi quanh phòng khách thám thính. “Chỗ này trông khác quá!” Lúc đi ngang chồng cũ, cô ta thì thầm, “Sao hả Parker, đang ngủ với Jackie gầy gò bé nhỏ đấy à?”.
“Không, Joan. Bọn tôi chỉ là bạn”
“À..”
‘Tôi lấy thêm cà phê nhé!”, Lukas nói.
“Để anh giúp”, Parker cũng nói.
Trong bếp, anh đóng chặt cửa lại và quay sang Lukas. Anh thì thào, “Làm thế nào? Thế quái nào…?”.
Cô cười phá lên, chắc chắn là vì biểu hiện trên mặt anh. “Tối qua anh gọi đến Trại tạm giam. Nói là anh thấy sợ. Gác ca đêm đã gọi cho tôi. Tôi cố gọi điện cho anh. Bell Atlantic nói đường dây nhà anh bị cắt. Đội SWAT của hạt Fairfax đến đây lúc ba rưỡi, âm thầm đột nhập và phát hiện một cái xác dưới nhà, còn anh thì đang ngủ trên tầng. Ai đã bắn hạ Digger vậy? Không phải anh đấy chứ?”
“Một thằng bé. Nó nói Digger đã giết bố nó. Digger mang nó đi cùng. Đừng hỏi tôi tại sao. Thằng bỏ đã bỏ chạy… Giờ trả lời tôi một câu nhé: Cái xác trên xe buýt là ai?”
“Tài xế. Chúng tôi cho là Digger đã để anh ta sống rồi bắt anh ta chạy tới cửa sau. Sau đó, Digger bắn anh ta và bình xăng phát nổ, khi lửa bốc lên, hắn đã trèo ra ngoài qua cửa sổ. Dùng khói để ngụy trang. Trốn thoát trong đám kẹt xe. Khôn hơn vẻ ngoài nhỉ.”
Nhưng Parker lắc đầu. “Không, là Fielding đấy. Hắn đã bảo Digger làm vậy. Hắn chẳng định hy sinh anh ta một chút nào. Đây sẽ không phải vụ cuối cùng của chúng. Có thể còn thêm nhiều năm tới… Nhưng còn ngôi nhà.” Parker vẫy cả hai tay. “Làm thế nào…?”
“Cage đấy. Ông ấy đã gọi vài cuộc”.
Đúng là người tạo ra kỳ tích.
“Tôi không biết phải nói gì.”
“Chúng tôi đã đưa anh vào vụ lộn xộn này. Đây là điều tối thiểu mà chúng tôi làm được.”
Parker sẽ không tranh cãi với câu đó.
“Chờ đã… Cô vừa bảo mình tên gì nhỉ? Jackie?”
Cô ngập ngừng. “Biệt danh”, cô nói. “Gia đình vẫn gọi tôi như thế. Tôi không dùng tên đó nhiều lắm.”
Trên cầu thang có tiếng bước chân khẽ khàng khi bọn trẻ đi xuống phòng khách. Parker và Lukas có thể nghe thấy tiếng chúng vọng qua cửa bếp. “Mẹ! Mẹ à!”
“Chào con”, Joan nói. “Đây đây… Của con đây!”
Tiếng loạt xoạt của giấy.
“Con thích không?”, Joan hỏi. “Thích không?”
Giọng hoài nghi của Stephie nói, “Ồ, đây là Barney”.
Robby cười phá lên. Rồi nó rên rỉ. “Và Big Bird”
Parker lắc đầu trước sự thiếu sót của vợ cũ và cười với Lukas. Nhưng cô không để ý. Đầu cô đã quay sang hướng phòng khách, hoàn toàn bị mê hoặc vì tiếng của trẻ nhỏ. Một lát sau, cô nhìn ra ngoài cửa sổ vào màn tuyết rơi. Cuối cùng cô nói, “Vậy ra đó là vợ anh. Hai người có vẻ không giống nhau lắm nhỉ”.
Parker cười. Ý của Lukas thực ra là: Làm thế quái nào mà anh lại lấy cô ta?
Một câu hỏi đúng đắn và là câu anh sẵn sàng trả lời. Nhưng làm thế đòi hỏi nhiều thời gian hơn họ đang có lúc này. Và nó cũng sẽ là một phần trong nghi lễ phức tạp mà cô phải chia sẻ ít nhất vài câu trả lời cho bí ẩn mang tên Margaret hay Jackie Lukas của mình.
Mà cô thì bí ẩn biết bao: Parker nhìn cô khắp một lượt, nào trang điểm, nào đồ trang sức. Chiếc áo sơ mi trắng mềm mại, lớp ren tinh tế của đồ lót bên trong. Và hôm nay, cô lại xịt nước hoa, chứ không chỉ có mùi xà phòng thơm. Nó nhắc anh nhớ tới gì nhỉ? Anh không biết được.
Cô liếc nhìn ánh mắt tọc mạch của anh.
Lại bị bắt quả tang. Anh không quan tâm.
Parker nói, “Trông cô chẳng giống đặc vụ FBI gì cả”.
“Hoạt động ngầm”, Lukas nói và cuối cùng cũng cười. “Tôi từng giỏi lắm đấy. Tôi đã đóng vai vợ của sát thủ mafia.”
“Người Ý? Với mái tóc kia à?”
“Tôi có sự trợ giúp của Quý cô Clairol mà.” Cả hai không ai nói gì. “Tôi sẽ ở lại đến khi cô ta đi. Một chút đời sống gia đình chắc sẽ giúp ích cho anh trước nhân viên xã hội.”
“Như thế là đòi hỏi quá nhiều so với một nhiệm vụ”, anh nói.
Cô nhún vai một cái y hệt Cage.
“Nghe này”, anh nói. “Tôi biết cô đã bảo là mình có hẹn rồi. Nhưng bọn Who và tôi định sửa sang cái sân.”
‘Trong tuyết à?”
“Ừ. Cắt bụi rậm ở sân sau ấy mà. Rồi chúng ta sẽ đi trượt tuyết nhé? Sao nào, ở đây không thường xuyên có tuyết mà?”
Anh ngừng nói. Kết thúc một câu kể bằng cách nhấn giọng hỏi ư? Lại còn bắt đầu câu bằng “Sao nào”. Nhà ngôn ngữ học trong anh không hài lòng chút nào. Chắc là lo lắng đây? Anh nói tiếp, “Tôi không biết cô có muốn không, nhưng mà.. Anh lại ngừng lời.
“Đó có phải lời mời không?”, Lukas hỏi.
“Ừm. Có chứ.”
“Kế hoạch của tôi ấy à?”, cô nói. “Tôi định dọn nhà và khâu nốt cái áo cho con gái của bạn thôi.”
“Thế có phải câu đồng ý không?”
Một nụ cười dè dặt. “Tôi đoán là vậy.” Im lặng một lát. “Cà phê thì sao? Tôi không hay pha. Thường thì tôi chỉ đến Starbucks.”
“Ngon lắm”, anh trả lời.
Cô đang đối mặt với cửa sổ. Nhưng mắt cô một lần nữa lại hướng ra cửa và đang lắng tai nghe tiếng bọn trẻ. Cô quay sang Parker. “À, tôi giải được rồi!”
“Cái gì?”
“Câu đố ấy.”
“Đố nào?”
“Còn bao nhiêu con diều hâu trên mái nhà. Sáng nay, lúc ngồi ở đây, tôi đã phát hiện ra.”
“Được. Cứ nói đi.”
“Đó là câu hỏi mẹo. Có nhiều hơn một câu trả lời”.
“Giỏi đấy”, Parker nói, “Nhưng như thế không có nghĩa đây là hỏi mẹo. Nó chỉ có nghĩa cô đã nghĩ đúng hướng, cô đã nhận ra câu trả lời đúng là có tới vài cách giải khả dĩ. Đó là điều đầu tiên mà một người giải đố cần phải học”.
“Đấy”, cô nói tiếp, “ta thường nghĩ rằng mọi dữ liệu cần đến đều đã được đưa vào câu đố, nhưng có vài thứ đã không được nhắc tới”.
Chính xác tuyệt đối. Anh gật đầu.
“À”, Parker nói, “nhưng bản chất của diều hâu thì liên quan gì đến câu đố?”.
“Bởi vì”, cô nói, chỉ một ngón tay vào anh và hé lộ nét nữ tính anh chưa từng trông thấy, “diều hâu có thể bị tiếng súng làm cho hoảng sợ. Nhưng có thể là không. Bởi vì, nhớ không, chúng cách nhau rất xa trên mái nhà. Đó là một manh mối, đúng chứ?”.
“Đúng. Tiếp đi.”
“Được rồi, bác nông dân bắn rơi một con chim, nhưng chúng ta không biết hai con kia làm gì. Cả hai có thể ở lại. Nên câu trả lời sẽ là còn hai con. Hoặc một con bay đi và một con ở lại. Hoặc cả hai bay đi, không con nào ở lại. Vậy nên, có tới ba câu trả lời”.
“Chà”, Parker đáp, “cô đã đúng khi cân nhắc những dữ liệu ẩn”.
Cô cau mày. “Ý là sao? Tôi có đúng không?”
“Sai”
“Nhưng”, Lukas phản đối, “Phải đúng chứ”.
“Không, sai mà.” Anh cười.
“Ít nhất cũng đúng một phần chứ?”
“Không có cái gì gọi là đúng một phần khi giải đố cả. Cô có muốn biết câu trả lời không?”
Một chút ngập ngừng. “Không. Như thế là ăn gian. Tôi sẽ tiếp tục giải.”
Đó là thời điểm chính xác để hôn cô và Parker đã làm như vậy, thật nhanh, rồi anh trở lại phòng khách trong lúc Lukas rót thêm cà phê. Anh ôm bọn trẻ và chúc chúng một buổi sáng đầu năm tốt lành.
 
—HẾT—

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.