Giọt Lệ Quỷ

PHẦN III: BỌN DIỀU HÂU – CHƯƠNG 20



Nghiên cứu về sự khác nhau trong cách viết là đặc biệt quan trọng. Các đặc tính cần được xem xét tỉ mỉ. Các từ lặp lại cần được so sánh với nhau, các biến thể tự nhiên hay tính đồng nhất không tự nhiên cũng phải được chú ý.
Osbom và Osbom.
Các vấn đề trong Tài liệu nghi vấn.
Thủ đô của thế giới tự do.
Trái tim của siêu cường quốc cuối cùng trên trái đất.
Thế mà Cage suýt thì làm gãy trục chiếc xe Crown Victoria công vụ của ông lần nữa, chỉ vì đâm phải một ổ gà khác.
“Cái thành phố chết tiệt này!”, ông lẩm bẩm.
“Cẩn thận nào”, Parker ra lệnh và gật đầu về phía hai mảnh kính đã được quấn cẩn thận, đang nằm trên đùi anh như một đứa trẻ sơ sinh. Anh đã ngó qua tập giấy vàng. Nhưng nó bị thiệt hại nặng đến mức chẳng thể tìm được chút manh mối nào chỉ dẫn tới mục tiêu thứ ba và thứ tư. Anh sẽ phải phân tích chúng trong phòng thí nghiệm.
Vượt qua vỉa hè nát bươm, đi dưới những ngọn đèn đường đã bị cháy từ nhiều tháng trước nhưng chẳng bao giờ được thay, lướt ngang những cái hố từng có thời trồng cột chỉ đường, song từ lâu đã bị đánh cắp hay húc đổ.
Thêm nhiều ổ gà nữa.
“Tôi không biết sao mình lại sống ở đây nữa.” Cage nhún vai.
Đặc vụ Cage, cùng Parker và Tiến sĩ John Evans, đang vội vã quay về trụ sở qua những con đường tối mịt của Đặc khu Columbia.
“Lại còn tuyết nữa chứ, chúng ta thê thảm rồi”, ông nói thêm.
Việc dọn tuyết cũng không phải là thế mạnh của Đặc khu và chỉ một trận bão tuyết có thể sẽ làm hỏng mọi nỗ lực chiến thuật của Jerry Baker nếu họ tìm được chỗ trốn của Digger hay địa điểm bị tấn công tiếp theo.
Evans đang nói chuyện điện thoại, rõ ràng là với gia đình ông ta. Giọng ông ta ngân nga như đang nói với trẻ con, nhưng từ những câu thoại một chiều thì có vẻ chính vợ ông mới đang ở đầu dây bên kia. Parker nghĩ thật kỳ lạ vì nhà tâm lý học lại nói chuyện với một người lớn khác theo cách đó. Nhưng anh là ai mà có quyền nói về các mối quan hệ nào? Mỗi khi Joan say xỉn hay làm mình làm mẩy, Parker cũng thường đối xử với cô ta như với một đứa trẻ mười tuổi.
Cage cũng lôi điện thoại của mình ra và gọi đến bệnh viện. Ông hỏi về tình trạng của Geller.
Sau khi cúp máy, ông nói với Parker, “Anh chàng may mắn. Chỉ bị hít phải khói và bong gân vì lao ra ngoài cửa sổ thôi. Không có gì nghiêm trọng. Họ sẽ giữ cậu ta lại qua đêm. Nhưng chỉ để đề phòng”.
“Nên cấp bằng khen cho cậu ấy”, Parker gợi ý.
“Có chứ. Yên tâm đi.”
Bản thân Parker cũng bị ho. Hơi cay của khói khiến người ta buồn nôn.
Họ đi tiếp khoảng sáu dãy nhà nữa trước khi Cage hỏi Parker, “Thế nào”.
“Thếnào”, Parker lặp lại. Rồi hỏi, “Ý ông là gì?”.
“Ôi dào, anh có khoảng thời gian thú vị chứ hả?”, viên đặc vụ nói và vỗ vào tay lái.
Parker lờ ông đi và nhét một mẩu giấy cháy nhỏ xíu xuống dưới mặt kính để bảo vệ những ghi chép của nghi phạm.
Cage phóng xe vòng qua một chiếc xe khác đang đi rất chậm. Một lát sau, ông hỏi, “Đời sống tình cảm của anh gần đây thế nào? Đang hẹn hò ai không?”.
“Giờ thì không.”
Anh nhớ là đã chín tháng kể từ lần cuối anh thường xuyên hẹn hò với một người phụ nữ. Anh nhớ Lynne. Cô trẻ hơn anh mười tuổi, xinh đẹp, khỏe khoắn. Họ đã có nhiều kỷ niệm vui bên nhau: cùng đi bộ, ăn tối, đi chơi trong ngày tới Middleburg. Anh nhớ tính cách sôi nổi của cô, khiếu hài hước của cô (lần đầu tiên tới nhà anh, cô đã liếc thấy chữ ký của Franklin Delano Roosevelt và nói tỉnh như không, “Ôi em có nghe nói về ông này. Ông ta chính là người đã khởi nghiệp Franklin Mint (xưởng đúc tư nhân, chuyên sản xuất đồng xu, tượng và các vật lưu niệm nhỏ khác). Em có bộ sưu tập đê của hãng này”. Nhưng bản năng làm mẹ của cô vẫn còn chưa trỗi dậy dù cô đã gần ba mươi. Khi có bọn trẻ của anh, cô rất vui được đi cùng tới các viện bảo tàng hay rạp chiếu phim, nhưng Parker thấy rõ rằng những cam kết sâu đậm hơn với bọn Who, và với anh, sẽ nhanh chóng trở thành gánh nặng cho cô. Parker tin rằng tình yêu cũng giống như khiếu hài hước, chỉ đẹp khi đúng thời điểm. Rốt cuộc, hai người chia tay với thỏa thuận là vài năm tới, khi cô đã sẵn sàng có con, họ có thể cân nhắc thứ gì đó lâu dài hơn. (Tất nhiên, cả hai đều biết rằng với tư cách tình nhân, họ đang chia tay nhau vĩnh viễn.)
Lúc này, Cage đang nói, “Ừ. Thế là anh cứ ngồi nhà thôi à?”.
“Vâng”, Parker đáp. “Và sục đâu vào cát giống đà điểu Ozzie ấy.”
“Ai cơ?”
“Trong sách của bọn trẻ ấy mà!”
“Anh không có cảm giác là thế giới đang chuyển động quanh mình còn anh thì đang bỏ lỡ nhiều thứ khác?”
“Không, Cage, tôi không thấy vậy. Tôi có cảm giác bọn trẻ đang lớn dần và tôi chẳng hề bỏ lỡ điều ấy.”
“Việc đó quan trọng, ừ hứ. Tôi có thể thấy là việc ấy tương đối quan trọng.”
“Rất quan trọng.”
Evans nói trên điện thoại rằng ông ta yêu vợ. Parker gạt những lời ấy ra khỏi đầu. Chúng làm anh chán nản.
“Anh nghĩ sao về Lukas?”, cuối cùng Cage hỏi.
“Tôi nghĩ sao à? Cô ấy giỏi. Sẽ leo cao. Có khi còn là bậc cao nhất. Nếu trước đó, cô ấy chưa bị nổ trong.”
“Nổ tung ấy à?”
“Không, nổ trong. Như bóng đèn ấy.”
“Nghe hay đấy.” Cage cười. “Nhưng ý tôi hỏi không phải thế. Anh nghĩ gì về cô ấy với tư cách là một người phụ nữ?”
Parker lại ho. Anh rùng mình khi nhớ lại những viên đạn và ngọn lửa. “Ông đang cố gán ghép Lukas và tôi đấy à?”
“Tất nhiên là không.” Rồi, “Tôi chỉ ước gì cô ấy có thêm bạn. Tôi quên mất rằng anh cũng khá vui tính. Hai người có thể hẹn hò một chút”.
“Cage…”
“Cô ấy chưa kết hôn. Chưa có bạn trai. Và tôi không biết anh có để ý không”, viên đặc vụ tinh quái nhận xét, “nhưng cô ấy rất ưa nhìn. Anh không nghĩ vậy à?”.
Chắc chắn rồi, tôi có nghĩ chứ. Đối với một nữ cảnh sát, thì đúng là như vậy. Tất nhiên, Parker bị cô hấp dẫn, và không chỉ bởi vẻ ngoài của cô. Anh nhớ lại cái nhìn đặc biệt trong mắt cô khi cô theo dõi Robby chạy lên cầu thang lúc đầu giờ chiều. Con đường tới trái tim của một người đàn ông là thông qua lũ trẻ của anh ta…
Nhưng anh lại nói với Cage, “Cô ấy chẳng chờ nổi đến lúc vụ này kết thúc để khỏi phải thấy tôi nữa ấy chứ”.
“Anh nghĩ thế à?”, ông hỏi, nhưng lần này không còn vẻ hoài nghi nữa.
“Ông nghe cô ấy nói rồi đấy, về chuyện súng của tôi.”
“Trời ạ, cô ấy chỉ không muốn trả anh về với lũ trẻ trong đống băng quấn mông thôi.”
“Không chỉ có vậy đâu. Tôi đang làm phật ý cô ấy và cô ấy không thích thế. Nhưng tôi muốn cho cô ấy biết: Tôi sẽ còn tiếp tục làm vậy nếu tôi nghĩ mình đúng.”
“Đấy thấy chưa.”
“Ý ông là sao?”
“Cô ấy cũng đã nói y hệt thế. Hai người đúng là một cặp..
“Cage, thôi đi.”
“Nghe này, mục tiêu duy nhất của Margaret là tóm cổ thủ phạm. Cô ấy tự tôn vô cùng, chắc chắn rồi, nhưng đó là kiểu tự tôn tích cực. Cô ấy là điều tra viên tốt thứ nhì mà tôi từng biết.” Parker lờ đi cái liếc mắt đi kèm câu nói trên. Cage nghĩ thêm một phút. “Anh biết điểm tốt của Lukas là gì không? Cô ấy tự chăm sóc bản thân mình.”
“Ý ông là sao?”
“Để tôi kể cho anh nghe. Vài tháng trước, nhà cô ấy đã bị đột nhập.”
“Cô ấy sống ở đâu?”
“Georgetown.”
“Phải, chuyện ấy hay xảy ra ở đó”, Parker nói. Dù anh rất thích Đặc khu nhưng lại không bao giờ sống ở khu vực đấy, nhất là cùng với bọn trẻ. Tình trạng tội phạm rất kinh khủng.
Cage nói tiếp, “Cô ấy từ văn phòng về nhà thì thấy cửa bị bẻ khóa. Hình dung ra chưa? Con chó của cô ấy thì ở sân sau và..”
“Cô ấy nuôi chó à? Loại nào?”
“Tôi không biết? Làm sao tôi biết được? Loại chó to, lông đen.
Để tôi nói nốt. Sau khi đã chắc chắn rằng con chó không sao, thay vì gọi điện báo cảnh sát, cô ấy trở lại chỗ xe của mình, mặc áo chống đạn rồi lấy khẩu MP-5 ra và tự mình lục soát căn nhà.”
Parker cười phá lên. Hình ảnh một cô gái tóc vàng mảnh mai, quyến rũ đi khắp nhà với khẩu súng laze lăm lăm trong tay nghe có vẻ thật lố bịch. Nhưng vì lý do gì đó, nó hoàn toàn bình thường với Lukas. “Vẫn không hiểu ý ông, Cage.”
“Chẳng có ý gì cả. Tôi chỉ đang nói rằng Lukas không cần bất kỳ ai chăm sóc cho cô ấy. Anh biết đấy Parker, đàn ông và đàn bà đến với nhau theo cách đó là tốt nhất, không phải sao? Chẳng ai phải chăm sóc cho ai? Đấy là quy tắc. Ghi lại đi.”
Parker cho rằng viên đặc vụ đang ám chỉ đến Joan. Cage đã trông thấy Parker và Joan đi cùng nhau vài lần. Đúng thật, Parker bị hút về phía vợ cũ của mình vì cô ta luôn tìm kiếm người chăm sóc cho cô ta, và một Parker vừa mất bố mẹ hồi họ mới quen biết thì đang tha thiết mong được chăm lo cho ai đó. Parker nhớ lại mấy giờ đồng hồ trước, Lukas đang phân bổ lính tới Gravesend. Có lẽ đó chính là điều khiến anh rung động nhất khi lắng nghe lời lẽ của cô: không phải ở sự chuyên nghiệp mà là tính độc lập của cô.
Họ ngồi im lặng trong giây lát.
“MP-5 à?”, Parker hỏi và mường tượng ra khẩu súng máy nặng nề màu đen của Heckler & Koch.
“Phải. Còn nói là cô ấy chỉ lo lỡ phải nổ súng thì sẽ làm hỏng mất mấy đồ trang trí trên tường nhà mình. Cô ấy còn may vá nữa cơ. Làm ra mấy cái chăn anh không tin nổi đâu.”
“Cái đó ông kể rồi. Thế còn thủ phạm, cô ấy tóm được chứ?”
“Không. Hắn bị tóm trước rồi.”
Parker nhớ lại cơn giận của cô ở Gravesend. Anh hỏi Cage “Thế ông nghĩ trong trường hợp của tôi, sao cô ấy lại thế?”.
Một lát sau, viên đặc vụ trả lời, “Có lẽ cô ấy ghen tị với anh”.
“Ghen tị? Ý ông là sao?”
Nhưng ông không trả lời. “Tôi không có tư cách để nói. Chỉ cần anh nhớ lấy điều đó và khi nào bị cô ấy chỉ trích thì nên bỏ qua”.
“Ông nói vớ vẩn gì vậy, Cage. Cô ấy mà ghen tị với tôi?”
“Cứ xem nó như mấy câu đố của anh ấy. Hoặc anh tự tìm ra câu trả lời hoặc cô ấy sẽ nói với anh. Tùy cô ấy thôi. Nhưng tôi chẳng cho anh manh mối nào đâu.”
“Sao tôi lại muốn biết câu trả lời về Margaret Lukas nhỉ?”
Nhưng Cage chỉ lao xe qua một ổ gà đặc biệt to khác mà chẳng nói gì thêm.
Evans tắt điện thoại, rót cho mình một cốc cà phê nữa từ bình ủ. Chắc nó phải chứa đến một lít rưỡi cà phê mất. Lần này, Parker nhận cốc được mời và uống mấy ngụm liền loại cà phê đậm đặc ấy.
“Gia đình ông thế nào?”, Parker hỏi ông ta.
“Tôi nợ bọn trẻ một món to đùng”, nhà tâm lý học cười rầu rĩ.
“Ông có mấy đứa con?”
“Hai.”
“Tôi cũng vậy”, Parker nói. “Mấy tuổi rồi?”
“Đang thiếu niên cả. Khó khăn lắm!” Ông ta không đi vào chi tiết và có vẻ cũng chẳng muốn nói thêm. Rồi ông ta hỏi, “Còn anh?”.
“Một đứa tám, một đứa chín tuổi.”
“À, anh vẫn còn có vài năm yên bình và tĩnh lặng.”
Cage nói, “Cháu chắt là tuyệt vời nhất. Cứ tin tôi đi. Các anh chơi với chúng, làm chúng bẩn bê bẩn bết, cho chúng đánh đổ kem đầy người, chiều chuộng chúng như điên rồi trả chúng về với bố mẹ. Còn các anh thì chỉ việc đi uống bia và xem bóng đá. Thấy có tuyệt không hả?”.
Họ lại lái xe trong im lặng trước khi Evans hỏi, “Tai nạn xảy ra với con trai anh mà anh từng nói? Chuyện gì xảy ra thế?”.
“Ông có nghe nói về Người chèo thuyền bao giờ chưa?”, Parker hỏi.
Cage thận trọng nhìn Parker, rồi lại nhìn đường.
Evans nói, “Có nhớ đã đọc trên báo… Nhưng tôi không chắc lắm”.
Parker rất ngạc nhiên; tên sát nhân đã được phơi trên mặt báo nhiều tháng trời. Có lẽ vị bác sĩ này mới đến chăng. “Hắn là tội phạm giết người hàng loạt ở Bắc Virginia, Nam Maryland. Từ bốn năm trước. Hắn bắt cóc phụ nữ, cưỡng đoạt rồi giết cô ta và bỏ xác lại một cái xuồng hay thuyền nào đấy. Đôi lần là trên sông Potomac. Có lúc lại là Shenandoah. Khi thì là hồ Burke ở Fairfax. Chúng tôi có những đầu mối dẫn tới một kẻ sống ở Arlington nhưng không đủ làm bằng chứng. Cuối cùng, tôi đã tìm được mối liên hệ giữa hắn với một trong các vụ giết người nhờ mẫu chữ viết tay. Đội SWAT bắt được hắn. Hắn bị kết án nhưng trốn thoát trên đường đến nhà tù liên bang. Vào khoảng thời gian ấy, tôi đang ở giữa cuộc chiến giành quyền nuôi con với vợ cũ. Tòa đã giao cho tôi quyền giám hộ tạm thời. Bọn trẻ, người quản gia và tôi đang sống trong một ngôi nhà ở Falls Church. Rồi một đêm nọ, khoảng nửa đêm, Robby bắt đầu gào thét. Tôi lao vào phòng nó. Tên kia thì đang cố chui vào”.
Evans gật đầu, cau mày tập trung. Đôi mắt ông ta màu xanh nhạt và đang quan sát Parker rất kỹ.
Đến tận bây giờ, dù đã nhiều năm sau, trái tim Parker vẫn còn đập dữ dội khi nghĩ lại: không chỉ bởi hình ảnh khuôn mặt chữ điền đờ đẫn đang nhìn qua cửa sổ phòng ngủ mà còn vì nỗi hoảng loạn vô bờ của con trai anh. Nước mắt rơi lã chã từ đôi mắt mở to của nó, hai bàn tay run rẩy của nó. Anh đã không kể cho Evans và Cage về năm phút, mà dường như kéo dài hàng giờ đồng hồ, sợ hãi và tuyệt vọng ấy: lùa lũ trẻ vào phòng bà quản gia, gác cửa trong lúc lắng nghe Người chèo thuyền đi khắp nhà.
Cuối cùng, khi cảnh sát hạt Farifax mãi không đến, anh đã phải bước ra hành lang với khẩu súng công vụ trong tay.
Anh nhận ra lúc này Evans càng quan sát anh kỹ hơn và cảm thấy mình như một bệnh nhân. Vị tiến sĩ đã nhận ra biểu cảm của Parker và nhìn đi chỗ khác. Ông ta hỏi, “Vậy anh đã bắn hắn?”.
“Phải. Tôi đã bắn.”
Khẩu súng nổ to quá! Parker nghĩ ngợi một cách điên cuồng trong lúc nổ súng, biết rằng tiếng nổ sẽ làm tăng thêm nỗi hoảng loạn của Robby và Stephanie.
Súng nổ to quá!
Khi Cage đỗ xe trước trụ sở, Evans đã nhét bình ủ vào ba lô và đặt một bàn tay lên cánh tay Parker. Ông ta nhìn sâu vào mắt nhà giám định tài liệu. “Có biết chúng ta sẽ làm gì không?”
Parker nhướng một bên lông mày.
“Chúng ta sẽ bắt tên khốn này rồi cả hai sẽ trở về nhà với gia đình của mình. Nơi chúng ta cần phải có mặt.”
Parker Kincaid nghĩ: Amen.
Bên trong phòng Thí nghiệm Tài liệu ở trụ sở, cả đội đã tập hợp.
Margaret Lukas đang gọi điện thoại.
Parker liếc nhìn cô. Cái nhìn khó hiểu mà cô đáp trả anh khiến anh nhớ lại mấy lời của Cage ở trong xe.
Có lẽ cô ấy ghen tị với anh…
Cô lại nhìn xuống đống ghi chép đang viết dở. Anh để ý tuồng chữ của cô. Phương pháp Palmer. Chính xác và tiết kiệm một cách đáng ghen tị. Không lằng nhằng gì cả.
Hardy và c. p. Ardell đứng ngay cạnh, cũng đang nói chuyện điện thoại.
Parker đặt các mảnh kính lên bàn giám định.
Lukas tắt máy rồi nhìn Cage và những người khác. “Ngôi nhà đã sập hoàn toàn. Đội PERT đang kiểm tra lại nhưng chẳng còn gì cả. Máy tính lẫn đĩa mềm đều đã tan tành.”
Cage hỏi, “Thế còn tòa nhà mà Digger đứng bắn thì sao?”.
“Sạch sẽ y như Kho sách Texas”, cô cay đắng nói. “Lần này, họ thu được vỏ đạn nhưng hắn mang..
“Găng tay cao su”, Parker nói và thở dài.
“Đúng vậy. Khi hắn nạp đạn ấy. Và găng tay da lúc vào trong căn hộ. Không có một mẩu bằng chứng nào.”
Điện thoại reo, Lukas liền nhấc máy. “Vâng?… ồ, được rồi!” Cô nhìn lên. “Là Susan Nance. Cô ấy đã có thêm thông tin từ Boston, White Plairis và Philly về các vụ tấn công Czisman nhắc tới. Tôi sẽ bật loa lên.
Cô bấm một nút.
“Nói đi Susan.”
“Tôi đã dò theo các thanh tra phụ trách sự vụ, Họ kế với tôi rằng y hệt như vụ ở đây, không có một bằng chứng pháp y cụ thể nào. Không dấu vân tay, không nhân chứng. Tất cả các vụ án trên đều đang để mở. Họ đã có ảnh của nghi phạm do chúng ta gửi đến nhưng không ai nhận ra gã. Song tất cả bọn họ đều nói một câu giống nhau. Một câu kỳ lạ”
“Là gì?”, Parker hỏi. Anh cẩn thận lau miếng kính đang giữ tập giấy vàng bị cháy.
“Về cơ bản, bạo lực luôn áp đảo tiền bạc. Như vụ ở cửa hàng trang sức Boston? Tất cả những gì gã lấy đi chỉ là một cái đồng hồ.”
“Một cái đồng hồ à?”, c. p. Ardell hỏi. “Có phải gã chỉ có cơ hội nhặt cái đó lên không?”
“Không. Có vẻ như gã chỉ muốn có thế. Tuy đó là một chiếc đồng hồ Rolex… Nhưng nó chỉ có giá khoảng hai ngàn. Ở White Plains, gã trốn thoát với ba mươi ngàn đô la. Philly, vụ giết người trên xe buýt? Tiền chuộc chỉ là một trăm ngàn đô.”
Thế mà gã đòi hai mươi triệu đô từ Đặc khu, Parker nghĩ. Nghi phạm đang ngày một làm lớn hơn chăng.
Rõ ràng Lukas cũng nghĩ tương tự. Cô hỏi Evans, “một tên tội phạm gia tăng mức độ?”.
Tội phạm gia tăng mức độ là một loại hình tội ác liên hoàn, kẻ không ngừng gây án sau nghiêm trọng hơn án trước.
Nhưng Evans lắc đầu. “Không. Có vẻ là vậy nhưng chuyện tăng mức độ luôn là do dục vọng thúc đẩy. Chủ yếu là bọn sát thủ bạo dâm.” Ông ta cọ bàn tay xương xẩu lên bộ râu của mình. Râu của ông ta vẫn còn ngắn, cứ như chỉ mới quyết định nuôi gần đây, và chắc là da ông ta ngứa ngáy lắm. “Chúng ngày càng trở nên bạo lực là vì tội ác trước không làm thỏa mãn nhu cầu của chúng. Nhưng cô hiếm khi bắt gặp loại hành vi lũy tiến này ở các tội phạm nhắm đến tiền.”
Parker cảm thấy câu đố dường như càng phức tạp hơn trước.
Hay có lẽ đơn giản hơn.
Dù là thế nào, anh cũng thấy thất vọng vì không tìm ra được giải pháp khả dĩ.
Bác nông dân chỉ có một viên đạn trong khẩu súng…
Parker lau xong tấm kính và hướng sự chú ý về phía bằng chứng. Anh quan sát những gì còn lại của hai trang giấy rồi thất vọng nhận thấy rất nhiều tro đã bị rã ra. Thiệt hại từ ngọn lửa nghiêm trọng hơn anh tưởng.
Tuy nhiên, anh vẫn có thể đọc được đôi chữ của nghi phạm trên những mẩu tro lớn nhờ chiếu đèn hồng ngoại trên bề mặt tro. Mực cháy hay vết bút chì sẽ phản lại bước sóng khác với lớp giấy bị cháy và thường thì bạn sẽ nhận ra được hầu hết các chữ.
Parker cẩn thận đặt các miếng kính giữ hai tờ giấy vàng bên cạnh nhau trên máy soi hồng ngoại Foster Freeman. Anh gập người rồi cầm chiếc kính lúp rẻ tiền tìm được trên mặt bàn (tức giận nghĩ: Ten Digger khốn kiếp vừa mới phá hỏng cái kính Leitz cổ năm trăm đô la của mình).
Hardy liếc nhìn tờ giấy bên trái. “Mê cung. Gã vẽ mê cung.”
Mặc dù vậy, Parker lờ nó đi và tập trung vào tờ có nhắc tới Nhà hát Mason. Anh đoán nghi phạm cũng đã viết nốt hai mục tiêu còn lại, vị trí tấn công vào lúc tám giờ và nửa đêm. Nhưng những mẩu giấy ấy đã bị rã ra và lẫn lộn vào nhau rồi.
“À, vẫn còn vài thứ có thể nhìn thấy được”, anh lẩm bẩm. Nheo mắt lại rồi kéo kính xuống một phần khác trên tờ giấy. “Chúa ơi”, anh bật thốt. Lắc đầu.
“Sao?”, c. p. hỏi.
“Ôi, hai mục tiêu Digger đã tấn công thì rõ như ban ngày. Metro và Nhà hát Mason. Nhưng còn hai cái sau… tôi không đọc được. Địa điểm tấn công lúc nửa đêm, vị trí cuối cùng… dễ đọc hơn địa điểm thứ ba. Viết lại đi!”, anh nói với Hardy.
Chàng thanh tra chộp vội cây bút và một tập giấy ghi chú. “Đọc đi!”
Parker nheo mắt. “Trông như là, ‘Nơi tôi…’ Xem nào. ‘Nơi tôi đưa.. anh đến/ Rồi một cái gạch ngang. Rồi từ ‘đen’. Không, ‘cái gì đó đen/. Có một cái lỗ trên giấy. Mất hoàn toàn rồi.”
Hardy đọc lại, “Nơi tôi đưa anh đến, gạch ngang,… đen”.
“Đúng nó.”
Parker ngẩng lên. “Hắn đang nói về chỗ quái nào đấy?” Nhưng không ai biết.
Cage nhìn đồng hồ. “Thế còn địa điểm lúc tám giờ? Đó mới là cái chúng ta đang phải tập trung vào. Chúng ta chỉ còn chưa đến một giờ.
Parker soi dòng chữ thứ ba, ngay dưới dòng về Nhà hát Mason. Anh quan sát nó suốt một phút trong tư thế gập người. Rồi đọc,… hai dặm về phía nam. R../ Đó là một chữ R viết hoa nhưng sau đó thì tro bị vụn hết. Tôi có thể thấy nhiều dấu vết nhưng chúng đều rã ra hết rồi.”
Parker cầm bản chép lại và bước đến chiếc bảng treo trên tường phòng thí nghiệm. Anh chép ra các chữ cái cho tất cả mọi người cùng đọc:
“Thế có nghĩa là gì?”, Cage hỏi. “Nghi phạm đang nóí đến chỗ quái nào thế nhỉ?”
Parker chẳng hiểu gì cả.
Anh quay khỏi mặt bảng và cúi đầu trên những miếng kính cứ như đang nhìn một tên bắt nạt trong sân trường.
Nhưng những mảnh vụn của tờ giấy đã đễ dàng chiến thắng cuộc chơi.
“Hai dặm về phía nam của cái gì?”, anh lẩm bẩm. “‘R’ là cái gì?”
Anh thở dài.
Cửa phòng thí nghiệm bật mở và Parker phải nhìn lại lần thứ hai. “Tobe!”
Tobe Geller khập khiễng bước vào phòng. Chàng trai trẻ đã thay quần áo và có vẻ cũng đã tắm gội nhưng vẫn bốc mùi khói và thi thoảng vẫn ho.
“Chàng trai, cậu chẳng có việc gì ở đây cả”, Cage nói.
Lukas nói, “Cậu điên à? Về nhà đi”.
“Về với cái phòng độc thân thảm não của tôi ấy à? Sau khi đã hủy cuộc hẹn Giao thừa với cô bạn gái ‘chẳng nghi ngờ gì’ là sẽ thành bạn gái cũ sau đêm nay sao? Tôi không nghĩ vậy?” Cậu ta bắt đầu cười phá lên, nhưng âm thanh ấy vụn ra thành một tiếng ho. Cậu ta cố kiềm chế và hít thở sâu.
“Cậu sao rồi, anh bạn?”, c. p. Ardell hỏi và ôm Geller thật chặt. Trên gương mặt viên đặc vụ to con, bạn có thể trông thấy nỗi lo lắng cảm động dành cho đồng đội mà các đặc vụ phải trực tiếp chiến đấu thường thể hiện.
“Họ còn chẳng buồn xếp mức độ cho vết bỏng của tôi ấy chứ”, Geller giải thích. “Chỉ như là rám nắng ở New England thôi. Tôi ổn.” Cậu ta lại ho. “À, ngoài hai lá phổi ra. Không giống như vị tổng thống nào đó, tôi vẫn phải hít thở chứ. Nào. Chúng ta đến đâu rồi?”
“Tập giấy vàng à?”, Parker rầu rĩ nói. “Ghét phải nói ra nhưng chúng ta chẳng đọc được gì mấy”.
“Ai da”, viên đặc vụ nói.
“Ừ, đau thật.”
Lukas đi đến bàn giám định. Đứng cạnh Parker. Anh không thể ngửi thấy mùi xà phòng thơm được nữa, giờ chỉ còn mùi khét của khói.
“Hừm”, một lát sau cô nói.
“Sao?”
Cô chỉ vào đống tro bị trộn lẫn với nhau. “Có thể một vài mảnh trong này sẽ khớp với phía sau chữ R đúng không?”
“Có thể.”
“Nó nhắc anh nhớ tới cái gì?”
Parker nhìn xuống. “Tranh ghép hình”, anh thì thầm.
“Đúng”, cô nói. “Còn anh thì là bậc thầy giải đố. Anh có thể ghép chúng với nhau không?”
Parker quan sát hàng trăm mảnh tro vụn. Việc này có thể tiêu tốn nhiều giờ, nếu không nói là nhiều ngày; đâu có như một bức tranh ghép thật, các cạnh của mảnh ghép bằng tro đã bị hư hại đến nỗi không nhất thiết chúng phải khớp với nhau.
Nhưng Parker chợt nảy ra một ý. “Tobe?”
“Sao?” Viên đặc vụ trẻ ho, chùi một bên lông mày đã bị cháy.
“Trên máy tính có chương trình để giải các câu đố đảo chữ đúng không?”
“Đảo chữ, đảo chữ? Anh mới nói chúng là gì ấy nhỉ?”
Người trả lời câu hỏi lại là anh chàng c. p. Ardell xăm trổ đầy mình, trong khi người khác chỉ đoán được mức độ hoạt động trí óc cao nhất của anh là so sánh giá chiết khấu của các loại bia với nhau, “Ghép các từ khác nhau từ một bộ chữ cái. Ví dụ như là n-o-w, o-w-n, w-o-n”.
Geller nói, “Ồ, chắc chắn là có chứ. Nhưng anh có bao giờ dùng phần mềm để giúp mình giải đố đâu, đúng không Parker?”.
“Không, như thế là ăn gian.” Anh mỉm cười với Lukas. Khuôn mặt đá tảng của cô chẳng biểu lộ điều gì ngoài một cái liếc mắt thoáng qua, rồi trở lại ngay với đống tro.
Parker nói tiếp, “Sau cụm hai dặm. R../, cậu thấy những chữ cái rời rạc trên tro không? Cậu có thể ghép chúng với nhau chứ?”
Geller cười lớn. “Tuyệt vời”, cậu ta nói. “Chúng ta sẽ quét một mẫu chữ viết tay từ lá thư. Như thế sẽ có các tiêu chuẩn cho toàn bộ các chữ cái của nghi phạm. Rồi tôi sẽ chụp các mảnh tro trên máy ảnh kỹ thuật số qua bộ lọc hồng ngoại, gạt bỏ lớp nền giấy đã cháy. Như thế chúng ta chỉ còn lại các mảnh chữ cái. Và tôi sẽ để máy tính chắp chúng lại với nhau.”
“Có được không?”, Hardy hỏi.
“Ồ, có chứ”, Geller tự tin đánh giá. “Tôi chỉ không biết sẽ mất bao lâu thôi.”
Geller cầm máy ảnh và chụp đống tro cùng bức thư. Cậu ta kết nối máy ảnh với một cổng trên máy tính rồi bắt đầu tải các hình ảnh lên.
Ngón tay cậu ta lại lướt trên bàn phím. Tất cả mọi người đều im lặng.
Chính điều đó làm cho tiếng chuông điện thoại của Parker nghe càng đinh tai hơn khi nó reo vang vài phút sau đó.
Anh nảy lên vì bị giật mình và mở điện thoại. Anh thấy đó là số của nhà mình.
“Xin chào?”, anh trả lời.
Tim anh đông cứng lại khi bà Cavanaugh nói bằng giọng căng thẳng, “Parker”.
Phía sau bà, anh nghe thấy tiếng Robby đang khóc.
“Có chuyện gì?”, anh hỏi, cố không hoảng loạn.
“Mọi người đều ổn”, bà vội nói. “Robby không sao. Nó chỉ hơi sợ. Nó nghĩ mình lại trông thấy gã đó ở sân sau. Người chèo thuyền ấy.”
Ôi không…
“Không có ai ở đó cả. Tôi đã bật đèn ngoài sân lên. Con chó của ông Johnson lại chạy rông và đã nhảy vào lùm cây ấy. Chỉ có thế thôi. Nhưng thằng bé rất sợ. Thật sự sợ hãi.”
“Cho nó nghe máy đi!”
“Ba ơi? Ba!”, giọng thằng bé lả đi vì sợ. Không có gì khiến Parker buồn hơn là nghe giọng thằng bé thế này.
“Chào con, Robby!”, Parker vui vẻ nói. “Có chuyện gì vậy?”
“Con đã nhìn ra ngoài.” Nó khóc thêm một lát nữa. Parker nhắm mắt. Nỗi sợ của con trai anh giống như của chính anh vậy. Thằng bé tiếp tục, “Và con trông thấy hắn. Người chèo thuyền. Đó là… Con sợ quá”.
“Nhớ này, nó chỉ là bụi cây thôi. Mai ba con mình sẽ cắt hết.”
“Không, ở trong gara cơ mà”
Parker giận chính mình. Anh đã lười biếng để mặc cửa gara mở, nơi đó có nhiều thùng hộp mà người ta dễ tưởng nhầm là dáng người đột nhập.
Parker nói với con trai, “Con nhớ mình phải làm gì không?”.
Không có câu trả lời.
“Robby? Có nhớ không?”
“Con có tấm khiên.”
“Tốt rồi. Thế còn mũ bảo hiểm?” Parker ngước mắt lên và trông thấy Lukas đang nhìn mình chăm chú. “Con có mũ sắt chưa?”
“Có ạ”, thằng bé trả lời.
“Thế còn đèn?”
“Mình bật hết lên.”
“Bao nhiêu bóng?”, Parker hỏi.
“Tất cả các bóng đèn”, thằng bé nhắc lại.
Ôi, chuyện này thật khó khăn, phải nghe giọng con anh… Và biết việc mình phải làm lúc này. Anh nhìn quanh phòng thí nghiệm cùng những khuôn mặt đã trở thành chiến hữu của mình đêm nay. Rồi anh nghĩ, bằng chút may mắn và sức mạnh, người ta có thể tách biệt bản thân khỏi vợ, tình nhân hay các đồng nghiệp. Nhưng không phải với con cái. Không bao giờ. Chúng đã bắt giữ trái tim bạn mãi mãi mất rồi.
Anh nói vào điện thoại, “Ba về nhà ngay đây. Đừng lo!”.
“Thật ạ?”, thằng bé hỏi.
“Nhanh hết mức ba có thể lái xe về được ấy.”
Anh cúp máy. Tất cả mọi người đều nhìn anh, bất động.
‘Tôi phải đi”, anh nói, nhìn vào Cage. “Tôi sẽ quay lại. Nhưng giờ phải đi ngay.”
“Tôi có giúp gì được không?”, Hardy hỏi.
“Không, cảm an Len”, Parker trả lời.
“Lạy Chúa, Parker”, Cage định nói và nhìn lên đồng hồ. “Tôi rất tiếc vì thằng bé sợ nhưng…”
Margaret giơ tay lên và khiến viên đặc vụ lớn tuổi hơn phải giữ im lặng. Cô nói, “Không đời nào Digger biết anh có liên quan. Nhưng tôi sẽ cử hai đặc vụ nằm vùng bên ngoài nhà anh”.
Anh đã tưởng cô nói thế là để tiền trạm cho câu yêu cầu anh ở lại, Nhưng rồi cô lặng lẽ thêm vào, “Con trai anh phải không? Về nhà đi. Làm cho thằng bé vui vẻ lên. Bất kể mất bao lâu”.
Parker nhìn vào mắt cô thêm một giây nữa và tự hỏi: Có phải anh vừa tìm thấy manh mối của mê cung mang tên đặc vụ Lukas?
Hay đây chỉ là một lối đi giả?
Anh định cảm ơn cô nhưng đột nhiên cảm thấy rằng bất kể anh có thể hiện lòng biết ơn theo kiểu nào, có phản ứng ra sao, cũng sẽ làm mất thế cân bằng mong manh giữa hai người. Vì vậy, anh chỉ gật đầu và vội vã đi ra cửa.
Lúc đi ra, anh chỉ nghe thấy duy nhất giọng khàn khàn của Geller nói với cái máy tính, “Nhanh nào, nhanh nào, nhanh nào!”. Giống như cách một người chơi cá cược cầu xin con ngựa sắp thua trên trường đấu.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.