Hai Số Phận

Chương 1: 1906 – 1923



Ngày 18 tháng 4, 1906 Slonim, Ba-lan Chỉ sau khi đã chết rồi cô ta mới không kêu hét nữa. Và cũng vào chính lúc đó đứa bé mới bắt đầu gào khóc.

Chú nhỏ đang đi săn thỏ trong rừng gần đó nghe thấy lạ nhưng không phân biệt được đó là tiếng hét cuối cùng của người đàn bà hay tiếng khóc đầu. tiên của đứa bé. Đột nhiên chú quay người lại, cảm thấy có chuyện gì nguy hiểm, đôi mắt chú dò tìm xem có con thú nào bị đau. Chú chưa bao giờ nghe một con thú nào kêu lên như vậy. Chú cẩn thận đi từng bước đến gần nơi phát ra tiếng kêu. Lúc này tiếng kêu đã thành rên rỉ nhưng vẫn không giống với tiếng của bất cứ con thú nào chú được biết. Chú chỉ mong con thú này nhỏ để chú đủ sức giết được và để có cái gì mới thay cho món thịt thỏ bữa tối. Chú thợ săn nhỏ rón rén ra phía bờ sông, nơi có tiếng kêu lạ vẳng đến. Chú nấp sau từng gốc cây để có chỗ dựa nếu xảy ra chuyện gì. Chú nhở lời bố dặn là chớ bao giờ đứng ra ngoài chỗ trống. Ra đến bìa rừng, chú đã có thể nhìn rõ cả một khoảng thung lũng kéo dài xuống đến sông, và lúc này chú mới nhận ra tiếng kêu quái lạ ấy không phải phát ra từ một con thú bình thường. Chú bò dần về phía có tiếng rên.

Đến đây, chú đã hoàn toàn ra chỗ trống. Bỗng chú trông thấy người đàn bà nằm đó, áo váy vén lên ngang ngực còn hai chân thì giang rộng. Chú chưa hề thấy người đàn bà nào như thế bao giờ. Chú chạy vội đến bên cạnh, nhìn xuống bụng người đàn bà và chú hoảng sợ. Giữa hai chân người đàn bà có một vật nhỏ đỏ hỏn và ướt đẫm, dính vào người bằng một cái gì đó như sợi dây thừng. Chú bé thợ săn bỏ mấy con thỏ mới lột da xuống rồi quỳ vào bên cạnh vật nhỏ bé ấy.

Chú ngỡ ngàng nhìn một lúc rồi lại quay ra nhìn người đàn bà. Chú chưa biết mình phải làm thế nào. Thân thể người đàn bà đã tái xanh vì rét lạnh. CÔ ta chỉ ngoài hai mươi nhưng khuôn mặt đã già cỗi khiến chú bé tưởng cô đã đến tuổi trung niên. Chú biết là cô ta đã chết rồi. Chú bỗng nhấc cái cơ thể nhỏ bé lên. Chú cũng không biết tại sao mình làm như vậy. CÓ lẽ vì chú thấy đứa bé đưa mấy ngón tay nhỏ xíu lên cào vào bộ mặt nhăn nhúm của nó nên chú sợ chăng.

Nhấc lên rồi chú mới biết là giữa người mẹ với đứa con vẫn còn dính vào nhau bằng một sợi dây nhầy nhụa.

Trước đó ít ngày chú đã được xem một con cừu đẻ. Bây giờ chú cố nhớ lại. Chú biết người chăn cừu đã làm như thế nào, nhưng chú không biết là với một đứa bé thì có thể làm như vậy được không? Đứa bé đã thôi không rên rỉ nữa. Chú cảm thấy mình

phải gấp rút quyết định. Chú rút con dao ra, con dao chú vừa dùng để lột da thỏ, lau vào tay áo rồi, ngập ngừng một chút, chú cắt đứt sợi dây Ở chỗ gần bụng đứa bé. Máu tuôn ra Ở hai đầu dây. Chú thử nhớ lại xem người chăn cừu đã làm như thế nào. Ông ta thắt một cái nút để máu khỏi chảy. à, đúng thế rồi. Chú bứt một cọng cỏ dài Ở dưới đất và thắt vội vào đầu dây rồi bế đứa bé lên. Chú từ từ đứng dậy và bỏ lại đó ba con thỏ với người đàn bà đã chết. Trước lúc đi, chú khép hai chân lại cho người mẹ và kéo chiếc váy xuống đến đầu gối. Chú chỉ biết làm như vậy được thôi.

Ôi lạy Chúa! – Mỗi khi làm điều gì hoặc rất tốt hặc rất xấu, chú vẫn thường thốt lên như vậy. Trong trường hơp này, chú chưa thể biết là xấu tốt như thế nao.

Chú bé thợ săn cứ thế chạy vội về nhà. Chú biết là mẹ chú chỉ chờ chú mang thỏ về là sửa soạn bữa ăn tối Bà mẹ sẽ hỏi hôm nay chú săn được mấy con. Nhà có những tám miệng ăn, phải có ít nhất là ba con thỏ mới đủ. Đôi khi chú kiếm được con vịt hoặc con ngỗng, có lúc được cả một con chim trĩ bay lạc từ trong trại của Nam Tước ra đây. BỐ chú làm Ở trang trại ấy.

Nhưng hôm nay chú lại bắt được một con thú khác. Về đến cửa nhà, chú không dám rời tay khỏi đứa bé chú đang bế, chú lấy chân đá vào cửa để mẹ nghe thấy và ra mở. Chú lặng lẽ giơ đứa bé lên cho mẹ xem. Người mẹ không đón ngay đứa bé mà còn đưa tay lên ngực và nhìn nó một lát.

Ôi, lạy Chúa! – Người mẹ nói và làm dấu thánh giá. Chú ngước nhìn mẹ xem bà vui hay buồn. Nhưng đôi mắt người mẹ cúi xuống nhìn một cách rất hiền dịu chú chưa từng thấy. Chú biết ngay rằng điều mình làm là tốt.

Em bé, hả mẹ?

Con trai, – Mẹ chú gật đầu khẽ nói. – Con tìm thấy Ở đâu thế ?

Ở gần bờ sông, mẹ ạ, – Chú đáp.

Còn mẹ đứa bé đâu?

– Chết rồi.

Người mẹ làm dấu thánh giá.

Con mau chạy đi nói với bố. BỐ sẽ tìm bà Urszula Wojnak trên trại. Rồi con phải dẫn cả hai người đến chỗ có người mẹ của đứa bé này. Sau đó mọi người về đây ngay nhé.

Chú thợ săn nhỏ trao đứa bé cho mẹ. Chú mừng thầm trong bụng là mình đã không bỏ mặc đứa bé. Trao được cho mẹ rồi, chú lau hai tay vào quần và chạy đi tìm bố.

Người mẹ lấy vai đẩy cửa vào trong và gọi đứa con gái lớn ra đặt nồi nước lên bếp lò. Rồi bà ngồi xuống một chiếc ghế gỗ, cởi khuy áo và ấn đầu vú vào cái miệng lthăn nhúm của đứa bé. Thế là Sophia, đứa con gái mới được sáu tháng, tối nay sẽ phải nhịn không còn sữa ăn nữa. Người mẹ lấy làm lo buồn. – Nhưng sao lại thế nhỉ? – Người mẹ bỗng thốt lên và kéo chiếc khăn choàng lên cánh tay mình cùng với đứa bé. – Ôi, chú

bé tội nghiệp này, để đến sáng mai thì chú cũng chết mất thôi.

Lúc bà đỡ già Urszula Wojnak tắm rửa và thắt lại rốn cho đứa bé thì người mẹ không nhắc lại những ý nghĩ vừa rồi nữa. Còn ông chồng chỉ đứng lặng yên mà nhìn.

CÓ khách vào nhà tức là có Chúa vào nhà, – Người mẹ chợt nhắc đến một câu tục ngữ Ba lan.

ông chồng nhổ toẹt một cái.

ĐỒ chết dịch Ở đâu. Nhà này còn thiếu gì trẻ con nữa chứ?

Người mẹ làm như không nghe thấy ông ta nói gì, ehỉ đưa tay vuốt mấy sợi tóc đen trên đầu đứa bé.

Ta đặt tên nó là gì nhỉ? – Người đàn bà nói và ngước mắt nhìn chồng.

Ai mà biết được? Cứ để cho nó chết mà không có tên tuổi gì hết là xong. – Ông nhún vai.

***

Ngày 18 tháng 4, 1906 Boston, Massachusetts
Bác sĩ nắm lấy cổ chân đứa bé mới đẻ nhấc cao lên và phát cho nó một cái vào đít Đứa bé bật khóc. Ở Boston, bang Massachusetts, có một bệnh viện chuyên phục vụ cho những ai mắc các chứng bệnh của người giàu có, và vào một số trường hơp đặc biệt nào đó bệnh viện cũng kiêm cả việc đỡ đẻ cho những trẻ sơ sinh giàu có được ra đời. Ở bệnh viện đa khoa Massachusetts này, các bà mẹ không phải kêu hét và cũng không phải mặc quần áo bình thường khi sinh đẻ Lệ là như thế rồi.

Một người đàn ông trẻ tuổi đi đi ìa.i lại bên ngoài phòng đẻ. Bên trong có hai bác sĩ khoa nhi cùng với một bác sĩ riêng của gia đình làm nhiệm vụ. Người cha này không dám để xảy ra chuyện gì cho đứa con đầu lòng của mình. Hai bác sĩ khoa nhi sẽ được trả một món tiền lớn với mỗi một việc là đứng đó để chứng kiến chuyện sinh đẻ thôi. Một trong hai bác sĩ

ấy đã mặc sẵn bộ lễ phục bên dưới chiếc áo choàng trắng của bệnh viện, để hễ xong Ở đây ra là ông đi dự tiệc Ở đâu đó ông ta không thể nào vắng mặt trong ca sinh đẻ đặc biệt này được. Trước đó, cả ba bác sĩ đâ rút thăm với nhau xem ai trong số họ sẽ trực tiếp

đỡ đẻ Cuối cùng, người rút trúng là bác sĩ đa khoa MacKenzie. Người cha vừa đi lại ngoài hành lang vừa nghĩ xem sẽ đặt cái tên gì cho hay và gặp nhiều may mắn. Thực ra, anh cũng không lo đến chuyện ấy lắm.

Sáng hôm đó, Roberts đã chở Anne, vợ anh, đến bệnh viện bằng cỗ xe ngựa hai bánh. VỢ anh đã tính đến hôm đó là ngày thứ hai mươi tám của tháng thứ chín rồi. CÔ ta bắt đầu đau đẻ ngay từ sau lúc ăn sáng, nhưng người ta bảo anh là nếu có đẻ cũng phải đến chiều sau giờ ngân hàng anh đóng cửa. Anh là một người rất có kỷ luật, không muốn việc vợ mình đẻ ảnh hưởng gì đến giờ giấc của người khác. Anh vẫn cử

đi đi lại lại trong hành lang như vậy. Mấy cô y tá và bác sĩ trẻ tất tả ra vào đều biết anh đang có mặt Ở đây. Đi qua gần chỗ anh, họ thì thầm với nhau nhưng ra xa họ lại nói bình thường. Anh không để ý chuyện đó, vì đã quen với mọi người vẫn đối xử với mình như vậy Phần lớn những người Ở đây chưa gặp anh bao giờ nhưng mọi người đều biết anh là ai. Nếu đứa bé sinh ra hôm nay là con trai, có lẽ anh sẽ xây tặng cho bệnh viện một khu nhi mới mà bệnh viện đang rất cần. Anh đã tặng họ một thư viện và một trường học rồi. Anh chàng sắp làm bố ấy giở tờ báo buổi chiều ra xem nhưng chẳng đọc chữ nào ra chữ nào. Anh bứt rứt, lo lắng. Chắc là họ (anh gọi mọi người là “họ” hết) chẳng bao giờ có thể hiểu được là anh dứt khoát phải có con trai, để một ngày kia nó sẽ thay anh làm thống đốc và chủ tịch ngân hàng. Anh lật mấy trang báo buổi chiều. Đội Tất ĐỎ Boston đấu

với đội Cao Nguyên New York. Xong trận này chắc họ sẽ khao to. Anh chợt nhớ đến mấy dòng chữ to Ở trang đầu bèn lật lại xem. Báo đưa tin một vụ động đất tệ hại nhất trong lịch sử nước Mỹ. San Phrancisco bị tàn phá ghê gớm. ít nhất có bốn trăm người chết. Ôi, bao nhiêu là tang tóc. Anh bỗng thấy bực dọc trong người. Chuyện động đất làm mất cả ý nghĩa việc đứa con anh sắp ra đời. Đáng lẽ người ta phải nhớ rằng trong những ngày này còn có sự kiện gì khác nữa chứ. Anh chưa hề có lúc nào nghĩ rằng đứa bé có thể là con gái. Anh lật tờ báo sang trang tài chính và xem lại mục thị trường chứng khoán: chỉ số đã tụt xuống mấy điểm. Thế là vụ động đất chết tiệt kia đã làm giảm mất giá tn cổ phần của anh trong ngân hàng tới một trăm ngàn đô-la. Tuy nhiên, với tài sản riêng của anh hiện vẫn còn trên 16 triệu đô-la thì đến mấy vụ động đất như Ở Caliphornia cũng chưa làm gì anh được.

Anh vẫn còn có thể hưởng tiền lãi suất, còn cả cái vốn 16 triệu kia vẫn sẽ nguyên đó để con trai anh sau này thừa kế. Anh tiếp tục đi lại trong hành lang và làm như vẫn đọc tờ báo buổi chiều.

ông bác sĩ khoa nhi đã mặc sẵn lễ phục khi nãy bước ra khỏi phòng đẻ để báo tin. Ông ta cảm thấy

mình phải làm cái gì đó cho xứng với món tiền to sắp được lĩnh, và ông nghĩ mình cũng đang là người ăn mặc chỉnh tề nhất để thông báo tin này. Hai người đứng nhìn nhau một lúc. Ông bác sĩ thấy hơi xúc động nhưng không muốn biểu lộ gì trước mặt người mới làm bố.

Xin chúc mừng ông, ông đã có con trai, một chú bé nhỏ tí và rất xinh đẹp. Người cha nghĩ bụng ông bác sĩ nói thế là dở quá, vì đứa nào mới sinh ra mà chả

nhỏ tí? Nhưng cái tin con trai ông ta vừa nói đến giờ mới ngấm vào người anh. Suýt nữa anh bật lên nói tạ Ơn Chúa. Ông bác sĩ hỏi thêm một câu nữa để phá tan cái im lặng lúc đó.

ông đã định đặt tên cháu là gì chưa ?

Người cha trả lời ngay, không ngập ngừng:

Cháu tên là William Loquell Kane.

***

Sau khi cả nhà đã hết nhộn nhịp với việc đứa bé mới về nhà này và mọi người đã

đi ngủ từ lâu rồi, người mẹ vẫn còn thửc với đứa bé trong tay. Helena Khôngskiequicz là một người rất tin Ở cuộc sống. Bằng chứng là chị đã đẻ và nuôi được sáu đứa con. Trước đó chị đã để mất đi ba đứa từ lúc chúng còn nhỏ, nhưng chị cũng chưa để cho đứa nào chết một cách dễ dàng được. Chị chỉ mới ba mươi lăm tuổi nhưng biết là anh chồng Jasio của mình, trước đây vốn là một người rất khỏe mạnh, sẽ chẳng cho chị thêm đứa con trai con gái nào nữa. Bây giờ Chúa đã đem đứa bé này đến cho chị, chắc chắn là nó phải sống. Helena cũng là con người có đức tin rất đơn giản, và điều đó cũng phải thôi, vì số phận chả bao giờ cho chị có được cuộc sống nào khác hơn cuộc sống đơn giản hiện nay. Người chị xanh xao gầy mòn, không phải do chị muốn như vậy mà do chị được ăn quá ít, lại làm lụng vất vả và không có tiền để dành. Chị chẳng bao giờ phàn nàn điều gì nhưng các nếp nhăn trên mặt khiến chị chẳng khác gì một người đã có cháu gọi bằng bà chứ không phải người mẹ Ở thế giới ngày nay. Đời chị chưa một lần nào được mặc quần áo mới. Helena bóp thật mạnh vào hai bên vú đến hãn đỏ cả lên. Mấy giọt sữa tuôn ra. Ở cái tuổi ba mươi lăm, tức là đã nửa đời người, ai nấy đều đã ít nhiều có kinh nghiệm thành thạo, và Helena chính là đang Ở thời kỳ như vậy.

Chú nhỏ của mẹ nào, – Chị khẽ nói với đứa bé và ấn đầu vú vào miệng nó đang chúm cong lên chờ sữa. Đôi mắt xanh của nó hé mở. Vài giọt mồ hôi lấm tấm trên mũi. Cuối cùng người mẹ cũng lăn ra ngủ từ lúc nào.

Jasio Khôngskiequicz, anh chồng lờ đờ chậm chạp có bộ ria mép rất rậm và cũng là thứ duy nhất để anh ta có thể tự khẳng định được mình trong cuộc sống đi làm thuê khồ sở này, chợt tỉnh dậy vào lúc năm giờ, thấy vợ với đứa bé kia còn đang ngủ trên chiếc ghế bao. Đêm đó anh ta cũng không chú ý đến việc không có mặt vợ trên giường. Anh ta đứng chăm chăm nhìn vào đứa bé không cha không mẹ. Anh cảm ơn Chúa vì ít ra đứa bé không còn kêu hét nữa. Hay là nó chết rồi? Jasio nghĩ bụng thôi mình chả nên dính đến cái của nợ này nữa. Cứ việc đi làm như thường, để mặc cho vợ anh lo chuyện sống chết của nó, còn anh thì tính làm sao có mặt Ở trang trại của Nam Tước từ sáng sớm là được. Anh tu mấy hớp sữa dê vào bụng rồi quệt miệng vào tay áo. Sau đó một tay cầm khoanh bánh và một tay vớ lấy chiếc bẫy anh ta lặng lẽ chuồn ra ngoài, bụng chỉ sợ người đàn bà thức dậy và bảo anh làm gì đó. Anh ta rảo bước về phía rừng, không muốn nghĩ gì đến đứa bé nữa và chỉ mong đây là lần cuối cùng anh ta trông thấy nó.

Phlorentyna, cô con gái lớn, là người thứ hai bước vào bếp. Chiếc đồng hồ cổ không biết đã được bao nhiêu năm vừa điểm sáu giờ sáng. NÓ chẳng qua chỉ để nhắc cho những ai trong nhà muốn biết giờ phải dậy hay phải đi ngủ mà thôi. Công việc

hàng ngày của Phlorentyna chỉ có mỗi chuyện là chuẩn bị bữa ăn sáng, cụ thể là chia bọc sữa dê và miếng bánh mì đen ra cho đủ tám người trong gia đình cùng ăn. Việc chỉ có thế thôi nhưng nó đòi hỏi cô phải có cái khôn ngoan như của Solomon(l) mới làm nổi để không một ai có thể phàn nàn gì được ìà phần của người khác nhiều hơn phần mình.

Phlorentyna là một cô bé mảnh khảnh, xinh đẹp, ai mới trông thấy cũng quý mến ngay được. Chỉ tội một điều là đã hai năm nay cô bé vẫn chỉ có mỗi chiếc áo đề mặc. Nhưng cứ trông cô bé là người ta hiểu ngay tại sao trước đây anh chàng Jasio đã say mê mẹ cô đến thế. Phlorentyna có mớ tóc vàng óng mượt và đôi mắt màu hạt dẻ long lanh, bất chấp tuổi nhỏ và ăn uống thiếu thốn.

CÔ rón rén bước đến bên ghế chao nhìn mẹ và đứa bé. Phlorentyna đã thích đứa bé ngay từ lúc đầu. Đã tám tuổi rồi nhưng cô bé chưa bao giờ được có một con búp bê. Thực ra cô bé mới chỉ thấy búp bê có một lần khi gia đình được mời đến dự tiệc Giáng Sinh Ở lâu đài của Nam Tước. CÔ bé chỉ trông thấy thôi chứ chưa được sờ vào búp bê. Bây giờ cô rất muốn được bế đứa bé này trong tay mình. CÔ cúi xuống gỡ đứa bé ra khỏi tay mẹ, nhìn vào đôi mắt xanh nhỏ tí của nó và khẽ ru trong miệng. Đang Ở chỗ ấm của vú mẹ sang đôi tay lạnh của cô, đứa bé tỏ ra khó chịu. NÓ bỗng khóc vang lên làm người mẹ bừng tỉnh dậy. Chị lấy làm ân hận mình đã ngủ lúc nào không biết.

Ôi lạy Chúa, nó hãy còn sống, – Chị nói với Phlorentyna.

Con sửa soạn ăn sáng cho các em, để mẹ cho nó bú nữa.

Phìorentyna miễn cưỡng đưa trả đứa bé lại cho mẹ và nhìn mẹ lại cố vắt sữa ra nữa. CÔ bé đứng đó mê mẩn cả người.

Mau lên con, Phlorcia, – Mẹ cô giục – Phải cho cả nhà ăn nữa chứ. Phlorentyna đành bỏ ra ngoài. Các em cô mới ngủ dậy đã từ trên gác kho bước xuống chào mẹ và nhìn đứa bé bằng những con mắt kinh ngạc. Chúng chỉ biết là đứa bé này không phải từ trong bụng mẹ mà ra. Phlorentyna mải mê với đứa bé nên sáng nay bỏ cả ăn sáng. Bọn em cô chia luôn phần của cô ra ăn còn để lại phần của mẹ trên bàn. Cả nhà bận rộn với công việc của mình nên không một ai để ý rằng từ lúc có đứa bé về nhà đến giờ, người mẹ chưa hề ăn tí gì vào bụng.

Helena Khôngskiequicz hài lòng thấy các con mình đã sớm học được cách tự lo lấy thân mình. Chúng có thể cho gia súc ăn, vắt sữa dê sữa bò và chăm sóc rau cỏ ngoài vườn mà không cần phải chờ chị sai bảo hay giúp đỡ Buổi tối, lúc Jasio về nhà, chị mới nhớ ra là mình chưa sửa soạn bữa tối cho chồng. Nhưng ngay sau đó chị biết là Phlorentyna đã bắt đầu làm món thịt thỏ mà chú em thợ săn Phranck đem về cho chị. Phlorentyna lấy làm tự hào được phụ trách bữa ăn tối, một công việc mà chỉ khi nào mẹ Ốm đau mới giao cho cô và Helena Khôngskiequicz thì họa hoằn lắm mớí để cho con gái phải làm như vậy. Chú bé thợ săn mang về được bốn con thỏ, bố mang về

được sáu cây nấm với ba củ khoai, tối nay câ nhà sẽ được ăn tiệc thực sự. ăn tối xong rồi, Jasio Khôngskiequicz ngồi xuống ghế bên lò sưởi và bây giờ mới được dịp nhìn kỹ đứa bé. Nâng đầu đứa bé lên bằng mấy ngón tay, anh ta quan sát khắp người đứa bé với con mắt của một người đi săn thú. Khuôn mặt nhăn nhúm của nó chỉ có mỗi đôi mắt xanh nhỏ tí và chưa biết nhìn là đẹp hơn cả. Anh ta nhìn tiếp xuống thân hình mỏng mảnh của nó và chợt chú ý ngay đến một cái gì đó. Anh ta bỗng nhăn mặt và gại gại ngón tay cái vào ngực đứa bé. Em đã thấy cái này chưa, Helena? – Anh ta nói và giơ sườn đứa bé ra. – Cái thằng khốn này hóa ra chỉ có một bên vú thôi! – Chị vợ cũng lấy làm lạ bèn tự mình gại ngón tay vào ngực nó xem sao. Chị tưởng làm như thế thì một bêøn vú nữa sẽ xuất hiện. Chồng chị nói đúng:

đứa bé chỉ có một đầu vú nhỏ tí bên trái, còn cả nửa ngực bên phải thì phẳng lì và không có một dấu vết gì khác.

Đầu óc mê tín của người đàn bà bỗng nổi lên. – Thế là Chúa đã cho em thằng bé này. – Chị nói. – Đây là dấu vết của Chúa để lại cho nó đây.

Người đàn ông tức mình đưa ngay đứa bé cho vợ. – Em thật là điên, Helena ạ. Đứa bé này là do một người có máu xấu truyền sang cho mẹ nó. – Anh ta nhổ một cái vào lò sưởi. – Dù sao, anh cũng đánh cuộc là thằng bé này không sống được. Thực ra, Jasio Khôngskiequicz cũng chẳng cần biết thằng bé sống hay chết. Anh ta vốn không phải một người nhẫn tâm, nhưng đứa bé này không phải là của ạnh, mà trong nhà thêm một miệng ăn nữa chỉ làm cho mọi chuyện rắc rối.

Giả thử có như vậy đi nữa thì bản thân anh cũng không phải là người đi cầu Chúa cứu giúp. Rồi không nghĩ ngợi gì về đứa bé nữa, anh ta ngủ thiếp đi bên đống lửa lò sưởi.

Ngày tháng trôi qua, chính Jasio Khôngskiequicz cũng dần dần tin rằng đứa bé có thể sống được. Nếu hôm trước đánh cuộc thật thì anh ta đã thua rồi. Đứa con trai lớn nhất, tức là chú thợ săn, được các em giúp một tay, đã kiếm gỗ trong rừng của Nam Tước về làm cho thằng bé một chiếc giường. Phlorentyna cắt những mẩu vải áo cũ của cô khâu lại làm áo cho nó. Những mẩu vải ấy khâu lại với nhau trông như áo của anh hề Harlequin mà bọn trẻ chưa được biết. Trong nhà, mỗi khi định đặt tên cho thằng bé thì chẳng ai đồng ý với nhau được. Riêng người bố không có ý kiến gì. Cuối cùng họ gọi nó là Wladek, và chủ nhật sau đó, tại nhà thờ trong trang trại của Nam Tước, thằng bé được mang tên là Wladek Khôngskiequicz. Người mẹ thì cầu Chúa phù hộ cho nó, còn người bố thì mặc kệ, bảo nó muốn ra sao thì sao. Tối hôm đó có một bữa tiệc nhỏ để chúc mừng gia đình. Trang trại của Nam Tước cho một con ngỗng để thêm vào bữa tiệc. Mọi người ăn uống vui vẻ.

Từ hôm đó trở đi, Phlorentyna phải học cách chia bữa ăn sáng ra cho chín miệng

ăn.

***

Anne Kane đã ngủ yên được hết đêm. Sau bữa ăn sáng, chị lại sốt ruột đòi cô y tá bệnh viện đưa trả lại cậu bé William cho chị bế.

Nào, bà Kane, cô y tá mặc đồng phục trắng nói, – Bây giờ cũng phải cho em bé ăn sáng nữa chứ ?

Cô y tá cho Anne ngồi dậy trên giường và hướng dẫn cách cho con bú. Anne chợt hiểu ra bộ ngực mình đã căng phồng. Chị biết là nếu mình tỏ ra lúng túng lúc này thì người ta sẽ bảo mình không biết làm mẹ.

Chị chăm chăm nhìn vào đôi mắt xanh của William, thấy nô xanh hơn cả mắt bố. Chị cảm thấy địa vị của mình đã vững vàng hơn, và rất hài lòng. Ở cái tuổi hai mươi mốt, chị không còn thiếu một thứ gì. Chị thuộc họ Cabot, đi lấy một người bên gia đình Loquell, và bây giờ lại có đứa con đầu lòng mang truyền thống của hai gia đình được tóm tắt lại bằng mấy dòng trong tấm thiếp của người bạn học cũ gửi đến cho chị như sau:

Đây là quê cũ Boston Có đậu có cá ai không nhớ về Loquell, Cabot đề huề Hạnh phúc hai họ tràn trề Boston Anne nói chuyện với William đến nửa giờ nhưng đứa bé chưa có phản ứng gì. Lát sau nó ngủ một cách ngon lành. Anne không đụng gì đến hoa quả bánh kẹo đem đến chất đầy ở bên giường. Chị đã có ý định đến mùa hè này sẽ trở lại với tất cả những mốt áo mới và giành lại chỗ của chị trong những tạp chí về trang phục. Chẳng phải chính Hoàng tử Garonne đã ca tụng chị là người đẹp duy nhất

Boston đó sao? Mớ tóc vàng mượt, những nét thanh tú và hình dáng thon thả của chị được người ta quý chuộng kể cả ở nhữag thành phố chị chưa đến bao giờ. Chị lại ngắm mình trong gương:

trên mặt chưa thấy có một nét gì khác thường, ít ai có thể tin được rằng chị vừa ìàm mẹ của một đứa trẻ rất bụ bẫm. Cảm ơn Chúa, đúng là nó bụ bẫm thật đấy Anne nghĩ bụng.

Chị ăn một bữa trựa nhẹ ngon miệng rồi chuẩn bị để tiếp những người khách sẽ đến thăm vào buổi chiều do cô thư ký riêng đã sắp xếp. Những ai được phép đến thăm trong mấy ngày đầu này đều phải là người trong gia đình hoặc là thuộc những gia đình quyền quý nhất. Còn những người khác sẽ chỉ được trả lời là chị chưa sẵn sàng tiếp. Nhưng Boston lại là một trong những thành phố ở Mỹ mà ai nấy đều biết rõ thân phận của mình cả rồi, nên cũng không loại trừ trường hơp sẽ có người không mời mà đến. Căn phòng chị nằm một mình ở đây vẫn còn đủ chỗ để kê thêm được đến năm chiếc giường nữa giá như người ta không đem hoa đến bầy cắm la liệt khắp nơi. Ai chợt đi qua nhìn vào nếu không thấy người đàn bà ngồi trên giường sẽ có thề tưởng như đây là một phòng triển lãm nhỏ về nghệ thuật trồng vườn. Anne bật đèn điện lên. Với chị, cái đó còn mới lạ. Richard và chị vẫn còn chờ cho bên họ nhà Cabot cùng lắp thì mới dùng. Với lại, ở Boston, ánh sáng bằng cảm ứng điện từ chưa được phổ biến lắm.

Người đầu tiên đến thăm Anne là bà Thomas Loquell Kane, mẹ chồng chị. Từ khi ông chồng chết năm ngoái, bà là người chủ đứng đầu cả gia đình. Bà đã ở cái tuổi cuối trung niên nhưng đi đứng còn rất điệu bộ và thanh thoát. Bà mặc chiếc áo thả xuống rất dài khiến không ai có thể trông thấy gót chân bà được Người duy nhất trông thấy gót chân của bà thì nay đã chết rồi. Bà luôn luôn có thân hình mỏng mảnh. Theo bà thì tất cả những phụ nữ béo mập đều do ăn uống tồi, thậm chí không biết ăn uống. Hiện nay bà là người nhiều tuổi nhất của họ nhà Loquell còn sống, và cũng là nhiều tuổi nhất cả bên họ nhà Kane nữa. Cho nên người đầu tiên đến đây thăm không thể ai khác ngoài bà. Vả lại, chính bà là người đã thu xếp Anne với Richard gặp nhau, chứ còn ai vào đó nữa? Đối với bà Kane, tình yêu chả có nghĩa gì lắm.

Bà chỉ ưng có ba thứ trên đời là tiền của, địa vị và uy tín. Tất nhiên, tình yêu cũng là tốt, nhưng bà cho rằng nó không phải là một thứ hàng hóa lâu bền. Chỉ có ba thứ trên mới ìâu bền được. Bà hôn vào trán cô con dâu với một vẻ tán thưởng. Anne bấm vào một cái nút trên tường và có tiếng vè vè nhỏ vang lên. Tiếng đó khiến bà Kane ngạc nhiên. Bà không tin là điện lại có thể dùng để gọi như thế được. Cô y tá xuất hiện cùng với đứa bé thừa tự. Bà Kane nhìn nó một lúc, tỏ vẻ hài lòng rồi bảo bế đi.

Khá lắm, Anne, – Bà nói, làm như cô con dâu của bà vừa được cái giải đi ngựa. Mọi người đều rất tự hào về con.

Mấy phút sau, bà Edquard Cabot là mẹ đẻ của Anne cũng đến. Cũng như bà Kane, bà góa chồng sớm. Bề ngoài hai bà không khác nhau mấy, nhìn từ xa người ta có thể lẫn hai bà với nhau. Tuy nhiên bà tỏ ra quan tâm nhiều hơn bà Kane đến đứa cháu ngoại của mình và cả với con gái nữa. Lát sau họ mới để ý đến những bó hoa gửi đến mừng.

Nhà Jackson thật là quý hóa quá, – Bà Cabot lẩm bẩm nói.

Bà Kane thì chỉ nhìn qua loa mấy bông hoa rồi để ý đến những tấm thiếp có tên người gửi. Bà khẽ lẩm nhẩm những tên đó để nhớ:

nhà Adam, nhà Laqurence, nhà Lodge, nhà Higginson. Cả hai bà không ai nói năng gì về những tên mà mình không biết. Họ đều đã quá cái tuổi muốn biết về bất cứ gì mới hay bất cử ai mới. Hai bà cùng ra về, cùng rất hài lòng:

vậy là một đứa con thừa tự đã ra đời, và mới trông cũng đã thấy thỏa mãn được rồi. Cả hai bà đều cho là nghĩa vụ cuối cùng đối với gia đình như thế là đã được thực hiện rất mĩ mãn, và từ nay trở đi mọi người có thể yên tâm vui vẻ.

Nhưng cả hai bà đều nhầm. Trong cả buổi chiều, các bạn thân của Anne và Richard kéo đến với đủ các quà mừng bằng vàng bằng bạc và những lời chúc tụng nhiệt tình. Lúc chồng chị đến sau glờ làm việc thì Anne đã có phần rất mệt mỏi. Trưa nay, lần đầu tiên trong đời, Richard đã uống sâm banh trong bữa ăn. Ông già Amos Kerbes với cả Câu lạc bộ Somerset đều ép nên Richard không sao từ chối được. Vợ anh thấy hình như anh đỡ cứng nhắc hơn mọi khi. Bệ vệ trong bộ áo đen dài với chiếc

quần kẻ sọc, người anh cao lớn với mái tóc đen rẽ ngôi giữa bóng mượt dưới ánh đèn điện. ít người đoán đúng được tuổi anh chỉ mới ba mươi ba. Đối với anh, còn trẻ tuổi hay không chả bao giờ là chuyện quan trọng, mà cái chất của con người mới là đáng kể. Một lần nữa, William Loquell Kane lại bị bê ra để xem xét kỹ lưỡng, chẳng khác nào như người bố điểm lại việc chi thu cuối ngày ở ngân hàng vậy Mọi thứ có vẻ đâu ra đấy. Đứa bé có đủ hai chân, hai tay, mười ngón tay, mười ngón chân. Richard không thấy có gì ở đứa bé để sau này khiến anh phải phiền lòng. Thế là William lại được bế đi. – Đêm qua anh đã điện cho ông hiệu trưởng trường St Paul. William đã được nhận vào đó tháng chín năm 1918.

Anne không nói gì. Rõ ràng là Richard đã bắt đầu tính đến sự nghiệp của William

rồi.

Thế rồi, em yêu quý, hôm nay em đã bình thường được rồi chứ? – Anh hỏi. Suốt ba mươi ba tuổi đời, anh chưa hề nằm ở bệnh viện một ngày nào. Vâng… không… em nghĩ thế, – Vợ anh ngần ngừ trả lời, cố nén không tỏ ra muốn khóc vì chị biết là chồng sẽ không bằng lòng như vậy. Nhưng câu trả lời như thế thì Richard cũng không hiểu như thế nào được Anh hôn vào má vợ rồi bước ra xe ngựa trở về ngôi nhà của gia đình ở Wảng trường Louisburg. Bây giờ với nhân viên phục vụ và người làm trong nhà, với đứa bé và cô bảo mẫu, thế là trong nhà có tất cả chín miệng ăn. Richard không phải nghĩ ngợi gì về chuyện đó. William Loquell Kane được ban phước và được mang tên bố đã đặt cho tại nhà thờ lớn St Paul của Tân giáo, với sự có mặt của tất cả những ai ở Boston có liên quan và một số ít không có liên quan. Giám mục William Laqurence làm lễ. J. P. Morgan và Alan Lloyd, hai vị chủ ngân hàng có thế lực, cùng với Milly Preston, người bạn thân nhất của Anne, được chọn làm cha mẹ đỡ đầu. Đức giám mục vẩy nước thánh lên đầu William. Thằng bé không có phản ứng gì. Hình như nó đã có cái máu của lớp người coi khinh thiên hạ rồi. Anne cảm ơn Chúa, coi như Người đã ghi vào sồ những thành tích của gia đình Kane từ đời này sang đời khác, cảm ơn Chúa đã cho anh đứa con trai để anh trao lại gia tài cho nó. Tuy nhiên, anh cũng nghĩ có lẽ có thêm đứa con trai nữa thì chắc chắn hơn. Đang quỳ làm lễ, anh liếc nhìn sang vợ, và trong bụng lấy làm hài lòng.

***

Waladek Khôngskiequicz lớn rất chậm. Bà mẹ nuôi dần hiểu ra rằng sức khỏe của nó có nhiều vấn đề. Nó mắc đủ các chứng bệnh của trẻ đang lớn và mắc cả những bệnh mà trẻ khác không có, lây lung tung cả sang mọi người trong gia đình Khôngskiequicz, Tuy thế Helena vẫn đối xử với nó như chính mình đẻ ra. Chị cũng bênh vực nó rất ghê mỗi khi Jasio bực mình đổ tội cho ma quỷ đã đưa thằng bé Wladek vào túp nhà nhỏ bé này của họ. Còn Phlorentyna thì săn sóc nó như ruột thịt. Ngay từ lúc đầu mới trông thấy nó cô bé đã rất thích. Cô có một nỗi lo sợ kín đáo trong lòng, nghĩ mình là đứa con gái nghèo xác của một người chuyên đi bẫy thú, sau

này lớn lên sẽ chẳng ai thèm lấy, và như thế thì sẽ chẳng có con được. Thế là cô coi Wladek như con mình vậy. Chú em trai lớn, tức chú bé thợ săn đã đem Wladek về, cũng thích thằng bé nhưng vì sợ bố nên không dám tỏ ra mặt. Thằng bé đang chập chững tập đi trông rất hay. Dù sao đến tháng Giêng tới ehú bé thợ săn sẽ phải bỏ học để lên làm việc ở trang trại của Nam tước rồi. Bố chú đã bảo trẻ con là chuyện để cho đàn bà lo. Ba đứa em nhỏ, Stephan, Joseph và Jan, chả đứa nào để ý gì đến Wladek. Còn Sophia là nhỏ nhất trong nhà thì chỉ biết cứ ôm lấy thằng bé là thích rồi. Có điều cả hai bố mẹ đều không tính đến là về nhiều mặt thằng bé rất khác với những đứa con trong nhà. Khác cả về hình thức và tính nết. Những đứa con nhà Khôngskiequicz thì đứa nào cũng cao lớn, to xương, tóc vàng và mắt xám, trừ có Phlorentyna không kể. Còn Wladek thì lùn, tóc đen và mắt lại rất xanh. Con nhà Khôngskiequicz thì chả đứa nào thiết đến chuyện đi học và nếu có thì cứ lớn lên một chút là thôi. Nhưng Wladek thì khác hẳn, tuy nó chậm biết đi nhưng mới mười tám tháng nó đã biết nói. Lên ba tuổi nó đã đọc được chữ nhưng mặc quần áo thì chưa biết. Lên năm tuổi nó đã biết viết nhưng vẫn còn đái dầm. Người bố thì thất vọng, nhưng người mẹ lại tự hào. Bốn năm đầu cúa nó chỉ luôn luôn quặt quẹo, và nếu như không được Heìena với Phlorentyna chăm sóc tử tế thì nó đã chẳng sống được. Nó mặc chiếc áo vá hàng trăm mảnh, đi chân đất, và suốt ngày chỉ biết lủi thủi quấn lấy chân mẹ. Lúc Phlorentyna ở trường về thì nó lại chuyển sang quấn lấy chị cho đến tận lúc đi ngủ. Mỗi khi chia thức ăn ra làm chín suất, Phlorentyna thường sẻ một nửa phần của mình cho Wìadek. Khi nào nó ốm đau cô để cho nó cả phần mình. Wladek mặc những quần áo cô khâu cho nó, hát những bài hát cô dạy nó, và cùng chơi những đồ chơi người ta cho cô bé.

Phlorentyna phải đi học xa gần hết ngày nên từ lúc bé Wladek đã muốn cùng đi với chị. Đến khi được phép là chú nắm chặt lấy tay chị đi suốát chín dặm đường qua các rừng cây và vườn tược đề đến Slonim theo học.

Wladek thích trường học ngay từ ngày đầu. Ở đây, chú coi như được thoát khỏi túp nhà lụp xụp đã sống từ bé. Đến trường học cũng là lần đầu tiên trong đời chú hiều được rằng phần phía Đông của Ba lan bị nước Nga chiếm đóng. Chú biết được rằng tiếng mẹ đẻ Ba-lan chỉ được nói riêng với nhau trong nhà, côn ở trường thì phải dùng tiếng Nga. Chú cảm thấy có một niềm tự hào gì đó như các trẻ em khác trong trường về tiếng mẹ đẻ của mình. Wladek cũng rất ngạc nhiên thấy thày giáo Khôngtoquski coi chú như ngưỡi lớn, khác với thái độ của bố ở nhà. Mặc dầu là bé nhất trong lớp nhưng chẳng bao lâu chú đã học giỏi hơn tất cả về các môn, chỉ trừ có người chú là không lớn hơn được mà thôi. Người chú quá nhỏ bé nên mọi người không đánh giá được hết những khả năng của chú. Trẻ em bao giờ cũng hình dung phải thật to lớn mới là giỏi Năm tuổi, Wladek đứng đầu tất cả các môn ở trong lớp.

Tối đến, trở về túp nhà gỗ, trong khi nhưng đứa khác hoặc chăm sóc những cây hoa tím nở thơm trong vườn hoặc đi hái dâu, chẻ củi, bắt thỏ và khâu quần áo thì

Wladek chỉ cặm cụi đọc sách, đọc hết sách của mình lại đọc sang những cuốn sách của các anh các chị. Dần dần Helena Khôngskiequicz hiểu ra rằng trước đây khi chú bé thợ săn không mang về cho bà ba con thỏ mà lại mang về thằng bé này, thì đúng là số phận đã an bài như vậy rồi. Wladek đã bắt đầu hỏi bà những câu mà bà không trả lời được. Bà biết là sẽ có lúc mình không biết đối phó với tình thế ra sao. Bà vẫn tin chắc là số phận đã được định như vậy thì chẳng có gì đáng phải ngạc nhiên nữa. Vào một buồi tối mùa thu năm 19 một 1 đã diễn ra bước ngoặt trong cuộc đời Wladek. Lúc đó gia đình đã vừa ăn xong bữa tối có món súp củ cải với thịt băm, Jasio Khôngskiequicz đang ngồi ngáy bên bếp lửa, Helena đang khâu vá và bọn trẻ còn đang chơi. Wladek đang ngồi đọc sách dưới chân mẹ. Stephan với Joseph đang tranh nhau mấy quả thông mới sơn màu, bỗng có tiếng gõ cửa rất to. Mọi người nín lặng. Với gia đình Khôngskiequicz thì tiếng gõ cửa là chuyện rất lạ, vì túp nhà gỗ này của họ cách xa làng Slonim đến chín dặm đường mà ở đây lên trang trại của Nam tước cũng mất đến vài ba dặm, chẳng có khách nào đến đây thăm bao giờ. Nếu có ai đó thì họ cũng chỉ biết mời một chén rượu dâu và ngồi nghe bọn trẻ làm ầm ĩ lên mà thôi. Cả nhà nhìn ra phía cửa mà trong bụng rất nghi hoặc. Mọi người ìặng yên chờ xem có tiếng gõ cửa lần nữa không. Có tiếng gõ thật, và lần này to hơn. Jasio mắt nhắm mắt mởû đứng dậy bước ra và từ từ mở cửa. Trông thấy người đứng đó, ai nấy đều cúi đầu chào. Chỉ có Wladek là không chào, và chú cứ trừng trừng nhìn lên một con người to lớn, có dáng vẻ oai vệ, quý tộc khoác chiếc áo lông gấu to xù đến chật cả nhà Chú thấy bố nhìn người đó với con mắt rất sợ hãi. Nhưng rồi một nụ cười thân mật đã đánh tan nỗi sợ ấy, và bố chú mời Nam tước vào bên trong. Không ai nói câu gì. Nam tước chưa bao giờ đến thăm họ như thế này nên có nói cũng không ai biết nói câu gì được.

Wladek bỏ cuốn sách của chú xuống, đứng dậy và bước đến bên người lạ mặt.

Chú giơ tay ra bắt mà bố ehú không kịp ngăn lại.

Kính chào ông, – Wladek nói.

Nam tước nắm lấy tay chú và hai người nhìn nhau. Lúc Nam tước bỏ tay ra, Wladek nhìn thấy cổ tay ông có một vòng bạc rất đẹp và có chữ trên đó mà chú không biết là gì.

– Cháu là Wladek hả?

Thưa ông vâng, – Chú đáp, giọng không tỏ ra ngạc nhiên chút nào khi thấy Nam tước biết tên chú.

– Chính là vì cháu mà ta đến gặp bố cháu đây, – Nam tước nói.

quladek cứ đứng đó nhìn lên Nam tước. Người cha ra hiệu cho bọn trẻ con ra ngoài. Thế là hai đứa con gái nhún chân hơi quỳ xuống, bốn dứa con trai cúi gập người rồi cả sáu đứa lặng lẽ rút lên trên gác kho.

Wladek vẫn đứng lại đó và cũng không ai bảo chú phải làm gì khác.

Khôngskiequicz, – Nam tước lên tiếng. Ông vẫn đứng đó vì không thấy ai mời mình ngồi. Anh chàng Jasio không mời ông ta ngồi xuống ghế vì hai lẽ:
một là anh ta quá sợ, và hai là anh ta nghĩ rằng Nam tước đến là để khiển trách điều gì đó. – Ta muốn nhờ anh giúp cho một việc.

Bất cứ việc gì, thưa ngài, bất cứ việc gì, – Người cha đáp, trong bụng nghĩ không biết mình có thể giúp cho ông ta được cái gì, vì cái gì mà ông ấy chẳng có nhiều gấp trăm lần mình nghĩ rồi?

Nam tước nói tiếp:

Thằng con ta, Leon, hiện nay đã sáu tuổi và nó đang có hai ông thày dạy riêng trong lâu đài. Một ông thày là người Ba lan của ta, còn một ông là người Đức Họ bảo ta là thằng Leon học khá nhưng nó không có ai để ganh đua, vì vậy nó có thắng thì chỉ là thắng nó thôi. Ông Khôngskiequicz ở trường làng có cho ta biết chỉ có mỗi thằng Wladek là đứa có thể ganh đua với Leon được thôi, mà Leon thì nó rất cần người như vậy Do đó ta đến đây hỏi xem anh có thể cho thằng con anh bỏ trường làng mà về với Leon và những ông thày của nó ở lâu đài không.

Wladek vẫn cứ đứng nhìn Nam tước. Trước mắt chú hiện ra một hình ảnh tuyệt vời với bao nhiêu thứ ăn uống sách vở và thày giáo hơn ông Khôngskiequicz nhiều. Chú liếc nhìn mẹ. Mẹ chú lại nhìn Nam tước, vừa ngạc nhiên vừa buồn. Bố chú quay sang nhìn mẹ.

Cái giây phút im lặng nhìn nhau ấy chú tưởng như dài không biết bao nhiêu mà kể. Anh chàng Jasio nhìn xuống chân Nam tước nói với một giọng khàn khàn.

Chúng tôi rất lấy làm vinh dự, thưa ngài.

Nam tước nhìn sang Helena Khôngskiequicz có ý hỏi.

– Đức mẹ đồng tnnh không cho phép tôi làm gì ngăn cản cháu bé, – Chị khẽ nói, – Tuy nhiên chỉ có Đức mẹ mới biết được xa nó thì tôi đau khổ thế nào.

Nhưng bà Khôngskiequicz ơi, cháu nó sẽ về nhà thăm bà luôn đấy mà.

Vâng, thưa ngài. Tôi rất mong được như vậy. – Chị định nói thêm điều gì đó nhưng lại thôi.

Nam tước mỉm cười.

Tốt. Thế là xong. Vậy sáng mai vào lúc bẩy giờ thì cho thằng bé đến lâu đài. Trong năm học, Wladek sẽ ở lại với chúng tôi, rồi đến Giáng sinh thì nó trở về nhà với gia đình.

quladek bỗng bật khóc.

Im đi con, – Người bố nói.

Con không đi đâu, – Wladek nói cứng, tuy trong bụng chú thật sự muốn đi.

Im đi con, – Người bố lại nói, lần này to tiếng hơn.

Tại sao không? – Nam tước hỏi, giọng thương cảm.

Cháu không bao giờ xa Phlorcia được, không bao giờ – Đó là con gái lớn của

chúng tôi, thưa ngài, – Người cha nói chen vào. Ngài đừng bận tâm đến chuyện đó, thưa ngài. Thằng bé sẽ bảo sao làm vậy thôi.

Không ai nói gì, Nam tước suy nghĩ một lát.

Wladek vẫn sụt sùi khóc.

Cháu gái bao nhiêu tuồi? – Nam tước hỏi.

Mười bốn, – Người cha đáp.

Cháu làm bếp được không” – Nam tước hỏi và yên tâm thấy Helena có vẻ như đã bình tĩnh hơn.

Ồ thưa có, ngài Nam tước, – Chị đáp. Phlorcia có thể nấu nướng được, khâu vá được, và nó có thể….

Tốt, tốt, thế thì cho cả nó đến nữa. Vậy đến bẩy giờ sáng mai ta sẽ chờ cả hai

cháụ.

Ngài Nam tước đi ra cửa và nhìn lại mỉm cười với Wladek. Wladek cười lại.

Thế là Wladek đã thắng trong cuộc mặc cả đầu tiên. Mẹ chú ôm chặt lấy chú. Chú nhìn theo cánh cửa đóng lại và nghe mẹ thì thầm:

A, con bé nhỏ của mẹ, rồi con sẽ thành ra thế nào đây?

Wladek sốt ruột. muốn biết xem thế nào.

Helena Khôngskiequicz bỏ ra cả buổi tối để gói ghém đồ đạc cho Wìadek và Phlorentyna, làm như gói ghém cho cả nhà vậy. Đến sáng, cả nhà đứng ở trước cửa nhìn theo hai chị em lên đường đến ìâu đài, mỗi người ôm một gói giấy trong tay. Phlorentyna, cao lớn và duyên dáng, vừa đi vừa nhìn lại, khóc và vẫy tay mãi.

Nhưng Wladek, lùn bé và vụng dại, không hề quay cổ lại lấy một lần. Phlorentyna nắm chặt tay em suất dọc đường đến lâu đài của Nam tước. Vai trò của hai người bây giờ đã đảo ngược lại. Từ ngày hôm nay trở đi chị sẽ phụ thuộc vào em.

Hai chị em đến trước một cánh cửa bằng gỗ sồi rất to và khẽ gõ lên cửa. Một người rất oai vệ mặc bộ chế phục thêu màu xanh đã đón sẵn ở đó. Hai chị em đã từng trông thấy những người lính mặc quân phục màu xám đứng gác ở thị trấn gần biên giới Nga

Ba-lan và nghĩ rằng họ cũng đã oai vệ lắm rồi, nhưng chưa bao giờ thấy ai mặc bộ quần áo của người hầu mà lại có vẻ lộng lẫy và quan trọng như ông này.

Trong hành lang có tấm thảm rất dầy. Wladek nhìn những hoa văn xanh đỏ rất đẹp, nghĩ bụng không bìết mình có phải tụt giầy ra không, nhưng đã bước lên thảm rồi chú mới ngạc nhiên thấy bước chân mình không có tiếng gì nữa. Rồi hai chị em được dẫn đến phòng ngủ ở hành lang phía Tây. Hai chị em, mỗi người một phòng riêng. Như thế này không biết có ngủ được không ít ra cũng có một cửa thông hai phòng với nhau, nên hai chị em không sợ phải cách biệt nhau lắm. Thực ra nhiều đêm hai chị em cùng ngủ với nhau trên một giường.

Bỏ đồ đạc xuống rồi, Phlorentyna được đưa vào bếp, còn Wladek thì đến một phòng giải trí ở phía Nam lâu đài để gặp con trai Nam tước. Leon là một cậu con trai

cao lớn xinh đẹp, tính tình dễ thương nên vừa gặp Wladek đã xua tan ngay thái độ hung hăng chú đã chuẩn bị từ trước, trái lại tỏ ra ngạc nhiên một cách thoải mái. Leon vốn là một đứa trẻ cô đơn, chẳng có ai mà chơi, trừ có mỗi bà bảo mẫu của cậu ta. Là một người đàn bà, Li-tu-a-ni rất tận tụy làm vú em cho cậu và săn sóc cậu từ khi mẹ chết sớm. Bây giờ có người làm bạn mới ở trong rừng ra khiến cậu rất thích. ít ra thì hai bạn cũng được coi như ngang hàng với nhau.

Leon lập tức dẫn Wladek đi xem quanh lâu đài, mất hết cả buồi sáng. Wladek không thể ngờ được là lâu đài to rộng đến thế, bàn ghế đồ đạc vô cùng nhiều và ở phòng nào cũng có thảm. Leon hỏi cảm tưởng thì chú chỉ nói là cũng thấy thú vị. ‘Dù sao chú cũng nghĩ mình đáng được đến ở ìâu đài này lắm chứ. Cậu con trai Nam tước giải thích cho chú rằng phần chủ yếu của tòa nhà này được xây dựag theo kiểu Gôtích, làm như Wladek đã rất hiểu như thế nào là Gôtích rồi. Wladek gật đầu. Sau đó Leon đưa anh bạn mới của mình xuống tầng hầm rộng mông mênh đầy những hàng chai rượu vang để lâu năm phủ kín bụi với mạng nhện. Wladek thích nhất là phòng ăn to và rộng có những chiếc cột lớn cửa vòm cuốn, mặt sàn trang trí các màu cờ quạt. Chung quanh tường treo các loại đầu thú. Leon chỉ cho Wladek đó là những hươu nai với hổ báo lang sói đủ các loại. Ở cuối phòng treo tấm huy hiệu lộng lẫy của Nam tước, đặt dưới một bộ sừng hươu thật to. Dòng chữ làm phương châm cho gia đình Rosnovski viết:

Thành công chỉ đến với người dũng cảm. Sau bữa ăn trưa mà Wladek chỉ ăn được rất ít vì chú chưa làm chủ được dao với dĩa, chú được đi gặp hai ông thày. Hai ông thày này tỏ ra không lấy gì làm nhiệt tình với chú lắm. Đến tối, chú trèo lên nằm ở chiếc giường dài nhất chú chưa từng thấy bao giờ và kể lại cho chị Phlorentyna nghe tất cả những cuộc phiêu lưu ban ngày của chú. Phlorentyna chỉ biết há mồm trợn mắt mà nghe chú kể lại một cách rất ly kỳ, nhất là khi cô nghe chú kể đến chuyện dao dĩa lúc ăn.

Lớp học bắt đầu vào bầy giờ đúng, trước lúc ăn sáng, rồi sau đó tiếp tục cho hết ngày, chỉ thỉnh thoảng nghỉ một quãng để ăn. Thời kỳ đầu, rõ ràng Leon vượt xa Wladek, nhưng rồi Wladek học rất kiên trì nên chỉ mấy tuần sau khoảng cách giữa hai người đã thu hẹp dần. Wan hệ vừa thân mật vừa ganh đua lẫn nhau cứ thế phát triền. Hai ông thày Đức và Ba-lan thấy rất khó có thể coi hai người học trò đó là bình đẳng với nhau được, vì một đằng là con Nam tước và một đằng là con anh thợ săn. Mặc dầu như vậy họ vẫn phải miễn cưỡng thừa nhận với Nam tước là ông giáo Khôngtoquski đã chọn đúng người để ganh đua với Leon. Tuy thế, Wladek chẳng bao giờ lo ngại về thái độ của các ông thày đối với mình, vì Leon đối xử với chú rất bình đẳng.

Ngài Nam tước cho biết là ngài hài lòng với việc hai đứa trẻ học tập tiến bộ, và thỉnh thoảng cũng thưởng cho Wladek quần áo với đồ chơi. Lúc đầu Wladek thấy xa cách và nể sợ đối với Nam tước nhưng rồi dần dần chú thấy rất tôn trọng. Đến kỳ

được nghỉ lễ Giáng sinh trở về túp nhà trong rừng với bố mẹ, Wladek cảm thấy buồn vì phải xa Leon.

Chú buồn cũng là phải. Mặc dầu khi mới về chú rất sung sướng được gặp lại mẹ, nhưng quãng thời gian ba tháng chú được ở trong lâu đài đã khiến cho chú cảm thấy nhà mình nghèo khổ quá đỗi, điều trước kia chú không hiểu được. Những ngày nghỉ ở nhà đâm ra quá dài. Wladek thấy ở trong căn nhà lụp xụp của mình ngột ngạt quá, ăn uống chẳng có gì mà lại ăn bốc, không những thế còn phải chia ra làm chín suất nữa.

lâu đài làm gì có thế. Sau hai tuần ở nhà, Wladek nóng ruột muốn trở lại với Leon và Nam tước.

Chiều chiều chú lại đi bộ mấy dặm đến trước tòa lâu đài và ngồi bên ngoài ngắm nhìn những bức tường cao chung quanh trang trại. Phlorentyna chỉ sống với những người hầu hạ trong bếp thôi nên coi việc về nhà là rất bình thường, nhưng cô không hiểu được tại sao căn nhà này không còn gần gũi đối với Wladek nữa. Ông thợ săn bây giờ không biết đối xử với con như thế nào. Ông thấy nó ăn mặc đàng hoàng, nói năng đâu ra đấy, và nói đến những cái xem ra ông không hiểu được và cũng không muốn hiểu. Thằng bé hình như cả ngày chẳng làm gì mà chỉ thấy ngồi đọc sách. Ông nghĩ không biết rồi nó sẽ trở thành thứ gì nếu như nó không biết cầm chiếc rìu bổ củi hoặc đặt chiếc bẫy thỏ. Rồi nó làm thế nào để kiếm sống một cách lương thiện được? Chính người bố cũng cầu mong cho ngày nghỉ chóng qua đi.

Helena thì lại lấy làm tự hào về Wladek và lúc đầu chị không dám nghĩ là giữa nó với những đứa con khác của chị đã có một khoảng ngăn cách. Nhưng rồi điều đó cuối cùng cũng lộ rõ, vì có một buối tối lúc bọn trẻ chơi đánh trận với nhau thì Stephan và Phranck đóng vai tướng ở phía quân bên kia đã từ chối không nhận Wladek vào phe của chúng.

Tại sao lại cứ gạt em ra thế? – Wladek hỏi. – Cho em chơi đánh trận với chứ – Vì mày không phải là người của chúng tao, – Stephan nói.

Mày không thật sự là em chúng tao. Chúng im lặng một lúc rồi Phranck nói tiếp.

Joseph không bao giờ muốn có mày ở đây. Chỉ có mẹ là đứng về phía mày thôi. Wladek đứng lặng yên và nhìn một lượt tất cả đám trẻ chung quanh, tìm xem

Phranck nói thế nghĩa là thế nào? Em không phải là em của chị sao? – Chú hỏi. Thế là Wladek được giảng giải về chuyện chú ra đời như thế nào, và chú hiểu tại

sao mình cứ bị để riêng ra với các anh các chị. Bây giờ, mặc dầu chú không muốn tỏ ra một thái độ gì đề cho mẹ phải buồn, Wladek vẫn ngầm cảm thấy hài lòng khi biết rằng mình chẳng có gì liên quan đến dòng máu của người thợ săn xấu tính kia, mà chú xuất thân từ một dòng dõi vô danh nào đó, rất có thề chứa đựag một tinh thần tạo nên mọi thứ khác hay hơn.

Đến hôm hết hạn nghỉ ở nhà, Wladek phấn khởi lên đường trở lại tòa lâu đài. Leon

vui vẻ hoan nghênh chú, vì vắng Wladek, những ngày lễ Giáng sinh của cậu ta ở lâu đài cũng chẳng có gì vui thú. Từ đó trở đi, hai người rất gắn bó với nhau, không sao rời nhau được. Đến kỳ nghỉ hè, Leon xin với bố để cho Wladek ở lại lâu đài. Nam tước đồng ý, vì chính ông cũng đã bắt đầu thấy quý Wladek. Wladek rất vui mừng và chỉ còn trở lại túp nhà của người thợ săn một lần trong đời nữa mà thôi.

Mỗi khi hết giờ học trong lớp, Wladek và Leon dành nhữag giờ còn ìa.i vào cáe trò chơi. Cái trỏ hai người thích nhất là thứ trò trốn tìm, vì tòa lâu đài có bẩy mươi hai phòng, và rất ít khả năng đã trốn ở chỗ nào một lần rồi thì lần sau lại ở chỗ đó. Chỗ Wladek thích trốn nhất là ở những căn hầm dưới lâu đài. Ơ đây có những căn hầm chỉ có một tia sáng nhỏ từ khe tường tít bên trên rọi xuống mà muốn tìm đường ra chung quanh cũng phải thắp nến lên mới thấy được.

Wladek không hiểu những căn hầm ấy dùng để làm gì mà chú cũng chưa hề thấy ai trong số những người hầu nhắc đến, vì từ xưa đến nay không ai nhớ được nó đã dùng để làm gì.

Wladek biết rằng mình có bình đẳng với Leon thì chỉ là trong lớp học mà thôi, còn khi đã chơi thì chẳng thế nào đua với anh bạn kia được, trừ có đánh cờ. Con sông Shchara chảy quanh trang trại cũng là một nơi cho họ ra chơi. Mùa xuân họ câu cá, mùa hè họ bơi lội còn đến mùa đông khi mặt sông đóng băng thì họ đeo ván trượt bằng gỗ vào chân rồi đuổi nhau trên băng, trong khi đó Phlorentyna ngồi trên bờ nhìn xuống nhắc họ phải cẩn thận vì mặt băng rất mỏng có thể vỡ. Wladek không bao giờ để ý đến lời dặn của cô nên bị ngã luôn. Leon thì lên nhanh chóng và khỏe mạnh. Cậu ta chạy hay bơi đều giỏi và hình như chả bao gỉờ biết mệt hay ốm đau gì. Lần đầu tiên Wìadek hiểu ra rằng cao lớn khỏe mạnh là rất quan trọng. Dù chạy, hay obơi, hay trượt băng, chú biết là không bao giờ mình có thề theo kịp Leon được. Tệ hơn nữa, trong khi cái rốn ở bụng Leon phải để ý mới thấy được thì ở Wladek nó lại lồi ra một cách thô bỉ ở giữa cái bụng béo tròn. Wladek thường ngồi nhiều giờ trong căn phòng riêng của mình, ngắm nhìn cơ thể mình trong gương và tự hỏi tại sao mình chỉ có một bên vú trong khi tất cả những đứa khác mà chú biết thì hễ cởi trần ra là đứa nào cũng có cả hai bên vú rất cân đối. Đôi khi chú nằm trên giường không ngủ được, lấy ngón tay nâm mê lên ngực rồi lấy làm tủi thân khóc cả ra gối. Chú ngủ thiếp đi và cầu nguyện đến sáng hôm Bau tỉnh dậy mọi thứ sẽ đổi khác. Những lời cầu nguyện của chú không bao giờ được đáp ứng. Mỗi đêm Wladek dành ra một lúc để tập luyện thân thề. Chú làm thật kín không cho ai biết, kể cả Phlorentyna. Chú quyết tâm tìm cách nào đó để cho mình có vẻ cao hơn lên. Chú tự treo đầu chân đầu tay vào một thanh xà trong phòng ngủ, hy vọng như vậy người chú sẽ dài ra được. Nhưng Leon thì có ngủ cũng vẫn cứ lớn lên như thường. Wladek buộc phải thừa nhận rằng suốt đời mình vẫn sẽ cử thấp hơn con trai Nam tước một đầu, và muốn làm thế nào cũng không thể có thêm được một bên vú nữa. Chẳng phải do Leon mà Wladek thấy ghét cái thân hình

của mình. Vả lại Leon cũng chỉ có Wladek là bạn gần gũi với mình nên cậu ta rất quý và chẳng bao giờ có ý kiến gì về hình thức của bạn mình hết.

Nam tước Rosnovski cũng ngày càng tỏ ra ưa thích chú bé tóc đen rất bạo dạn này, vì chú cũng lại là người thay thế cho đứa em trai của Leon chết thê thảm cùng với bà Nam tước khi bà sinh đẻ.

Hai cậu cùng được ăn tối với Nam tước trong căn phòng lớn có ốp đá chung quanh. Những ngọn. nến thắp lên lúc đó chiếu lung linh vào những chiếc đầu thú treo trên tương thành những bổng hình ghê sợ.

Kẻ hầu người hạ nhẹ nhàng đi lại không có tlếng chân và tay bưng những đĩa vàng khay bạc trên có thịt cá với rượu và hoa quả, thỉnh thoảng có những món lạ mà Wladek rất thích. Rôi sau đó, lúc trời đã tối hẳn, Nam tước cho những người đứng hầu rút lui và ông kề lại cho hai cậu bé nghe nnữag chuyện về lịch sử Ba lan, lại cho hai cậu đươc nhấp một chút rượu vốtka của vùng Danzig. Wladek thường đòi? ông.kể cho nghe về chuyện Taduesz Khôngsciuskhông.

Một nhà yêu nước lớn và anh hùng đấy, – Nam tước nói. – Ông tượng trưng cho cuộc đấu tranh giành độc lập của ta. Ông được rèn luyện ở Pháp….

Càng kính phục và yêu quý những người như thế chúng ta lại càng căm ghét bọn Nga hoàng và bọn áo, – Wladek nói chêm vào. Tỏ ra chú có hiểu biết và những lúc đó không thể không lấy làm hứng thú lên tiếng.

Ai kể chuyện cho ai nghe ấy nhỉ, Wladek? – Nam tước cười rồi ông lại cùng chiến đấu với George Washington ở Mỹ cho tự do dân chủ. Năm 1792, ông lãnh đạo người Ba lan trong trận chiến ở Dubienka.

Khi ông vua khốn khổ của chúng ta là Stanislaqu Augustus bỏ chúng ta đề chạy theo người Nga thì Khôngsciuskhông trở về với quê hương yêu dấu để chiến đấu lật đổ ách thống trị của Nga hoàng. Ông đã thắng trong trận ở đâu nhỉ, Leon?

Thưa đó là trận Raclaquice, rồi sau ông giải phóng Warsaqu.

Tốt, con thật đáng khen…. Nhưng rồi, than ôi, bọn Nga đã tập trung một lực lượng lớn ở Maciejoquice và cuối cùng ông đã bị thua và bị bắt làm tù binh. Ông cụ bốn đời của ta ngày đó cũng cùng chiến đấu với Khôngsciuskhông và sau lại tham gia binh đoàn của Dabroquski ở thời kỳ Napoleon Bonaparte nữa.

Và vì nhữag cống hiến cho đất nước Ba lan mà có Nam tước Rosnovski, một danh tước mà gia đình ta sẽ còn mãi mãi để nhớ lại những ngày vĩ đại ấy. – Wladek dõng dạc lên tiếng, làm như một ngày kia danh tước ấy sẽ được truyền sang cho chú vậy.

Phải, những ngày vĩ đại ấy rồi sẽ trở lại, – Nam tước nhẹ nhàng nói. – Ta chỉ cầu làm sao cho mình sống được để trông thấy những ngày đó.

Lễ Giáng sinh năm đó, một số tá điền đem vợ con đến lâu đài đề cùng làm lễ cầu kinh ban đêm. Đám trẻ đã nhịn đói sẵn, Chỉ chờ xuất hiện ánh sao đầu tiên ngoài cửa

sổ là sẽ bắt đầu được ăn tiệc. Trước lúc đó Nam tước sẽ nói mấy lời cầu Chúa, và khi mọi người ngồi xuống rồi, Wladek sẽ phải lấy làm ngượng về chuyện Jasio KhôngBkiequicz ăn uống quá nhiều, không bỏ bất cứ món nào bầy trên bàn, và rồi sẽ lại như năm ngoái, tức là lăn ra ốm ở trong rừng trên đường trở về nhà cho mà xem.

Sau bữa tiệc, Wladek rất thích được phân phát những gói quà mắc trên cây thông Giáng sinh cho bọn trẻ con của các nhà tá điền đang ngạc nhiên nhìn lên đó Chú chia một con búp bê cho Sophia, một con dao đi rừng cho Joseph, một chiếc áo mới cho Phlorentyna, vì đó là món quà đầu tiên mà Wladek xin ở Nam tước.

Sau khi nhận quà ở tay Wladek, Joseph nói với mẹ:

Đúng đấy mẹ ạ, Wladek nó không phải là em của chúng con.

– Không, mẹ chú đáp, – Nhưng nó vẫn là con của mẹ.

Wa mùa đông và mùa xuân năm 1914, Wladek đã lớn lên hơn và học giỏi hơn. Rồi bỗng đến tháng bẩy năm đó, ông thày người Đức tự nhiên bỏ lâu đài ra đi mà

không nói một lời từ biệt nào. Cả hai cậu bé đều không hiểu tại sao. Họ không bao giờ có thể nghĩ được là việc ông thày ra đi có liên quan đến chuyện một sinh viên của phái vô chính phủ đã ám sát Hoàng tử Phrancis Pherdinand của nước áo ở Sarajevo. Ông thày còn lại đã mô tả việc này cho các cậu nghe bằng một giọng nghiêm hơn bao giờ hết. Từ đó Nam tước tỏ ra trầm mặc ít nói, và cả hai cậu bé đều không hiều tại sao. Những người hầu hạ trong nhà, nhất là những người mà hai cậu ưa thích, đều tự nhiên thấy mất dần, hai cậu cũng không hiểu tại sao. Ngày tháng trôi qua, Leon đã lớn lên hơn, Wladek đã khỏe hơn. Hai cậu đã trở thành khôn ngoan hiểu biết hơn.

Một buổi sáng tháng tám năm 1915, vào những ngàý gọi là rông rài rỗi rãi, Nam tước lên đường đi Warsaqu nói là để thu xếp công việc trên đó. Ông đi vắng ba tuần rưỡi, tức là hai mươi lăm ngày vì Wladek mỗi sáng đều đánh dấu lên cuốn lịch trong phòng chú. Chú cứ tưởng như ông đi mãi không về. Vào hôm Nam tước đã hẹn về, hai cậu đi xuống tận ga Slonim đón Nam tước về bằng chuyến xe lửa hàng tuần. Rồi ba người lặng lẽ về lâu đài, không ai nói câu gì.

Wladek nghĩ bụng Nam tước trông đã có vẻ già đi và mệt mỏi. Chú không dè trường hợp này bao giờ. Cả một tuần lễ sau đó, Nam tước thường có những cuộc đốí thoại không bình thường với những người hầu hạ chủ yếu trong lâu đài. Mỗi khi có Leon lloặc Wladek bước vào thì họ lại thôi không nói chuyện nữa. Điều đó có vẻ như vụng trộm khiến hai cậu vừa khó chịu vừa sợ, không biết có phải mình là nguyên nhân gây ra như vậy hay không. Wladek thì ìo rằng Nam tước lại có thể gửi trả chú về với túp nhà của ông thợ săn, vì chú biết rằng mình vẫn là một người xa lạ trong một ngôi nhà xa lạ.

ít ngày sau đó, vào một buổi tối, Nam tước cho gọi hai cậu đến găp ông ở sảnh đường lớn. Hai cậu rón én bước vào, lo sợ. Ông không giải thích gì nhiều mà chỉ nói rằng họ sắp phải đi một chuyến rất dài ngày.

Những lời nói ngắn gọn của ông, vào lúc đó tưởng như ‘.không có nghĩa gì ghê gớm, lại hoá ra cứ bám chặt lấy Wladek trong suốt cả cuộc đời.

Nam tước trầm giọng nói:

Các con yêu quý của ta, bọn gây chiến người Đức và bọn đế quốc áo – Hung hiện đã đến cửa ngõ Warsaqu và chẳng bao lâu sẽ đánh đến chỗ chúng ta ở đây Wladek nhớ lại một câu khó hiểu mà ông thày Ba-lan đã nói với ông thày Đức trước đây khi hai người có căng thẳng với nhau vào những ngày cuối cùng:

Phải chăng như vậy có nghĩa là đã đến lúc những dân tộc bị nhận chìm ở châu âu rơi vào chúng tôi? – Ông thày Ba-lan đã hỏi thế.

Nam tước âu yếm nhìn khuôn mặt ngây thơ của Wladek.

Tinh thần dân tộc của chúng ta đã không bị mất đi trong suốt một trăm năm mươi năm bị đàn áp mòn mỏi – Chú nói. – Rất có thể số phận của Ba-lan cũng bị đe dọa như số phận của Serbia vậy. Chúng ta bất lực không làm thay đổi gì lịch sử được. Số phận của húng ta tuỳ thuộc vào ba đế quốc hùng mạnh ở chung quanh.

Chúng ta mạnh, chúng ta có thể chiến đấu được,- Leon nói. – Chúng ta có kiếm gỗ và có mộc, Chúng ta không sợ bọn Đức hoặc bọn Nga.

Con ơi, con chỉ mới biết chơi đánh trận thôi. Nhưng trận chiến này không phải như trẻ con chơi với nhau đâu. Chúng ta phải tìm một chỗ nào đó xa lánh và yên ổn để mà sống và chờ xem lịch sử quyết định số phận của chúng ta thế nào. Và chúng ta phải đi ngay, càng sớm sàng tốt. Ta chỉ cầu làm sao đây không phải là ngày kết thúc tuổi trẻ của các con. Cả Leon và Wladek đều thấy hoang mang bứt rứt về những lời Nam tước vừa nói. Chiến tranh, trong đầu óc hai cậu, có vẻ như một cuộc phiêu lưu đầy thú vị nếu như bây giờ bỏ lâu đài này ra đi thì họ sẽ mất cơ hội ấy. Những người hầu trong nhà đã bỏ ra nhiều ngày để gói ghém các đồ đạc của Nam tước. Wladek và Leon được báo trước là vào ngày thứ hai tới hai cậu sẽ lên đường về ngôi nhà nghỉ hè nhỏ bé ở phía bắc Grodno. Hai cậu vẫn tiếp tục học hành và chơi bời như thường, không cần có ai giám sát, nhưng chẳng gặp được ai và có lúc nào để người ta trả lời được cho hai cậu về những câu hỏi nêu ra.

Vào nhữag ngày thứ bẩy, hai cậu phải học vào buổi sáng. Hôm đó, hai cậu đang dịch cuốn Pan Tadeusz của Amdam Mickiequicz ra tiếng La-tinh thì bỗng nghe thấy có tiếng súng nồ. Lúc đầu, Wladek tưởng đó chỉ là tiếng súng quen thuộc của một bác thợ săn nào đó bên ngoài trang trại. Hai cậu quay trở về với công việc đang làm. Nhưng rồi lại có một loạt tiếng súng nữa, lúc này nghe gần hơn nhiều. Hai cậu bỗng nghe thấy tiếng kêu hét ở nhà dưới. Họ nhìn nhau quái lạ Họ không tỏ ra sợ hãi gì hết, vì chưa bao giờ thấy những chuyện như thế trong đời. Ông thày bỏ chạy, để mặc hai cậu lại đó. Rồi có một tiếng súng nữa, lần này ngay ở hành lang bên ngoài phòng các cậu ngồi. Hai người khiếp sợ, ngồi im không dám thở. Cánh cửa bỗng bật mở. Một người đàn ông, không lớn tuồi hơn ông thày học là mấy, mặc bộ quân phục màu xám,

đầu đội mũ sắt, bước vào nhìn hai người. Leon ôm lấy Wìadek, còn Wladek nhìn lên người kia.

Hắn ta quát tháo bằng tiếng Đức, hỏi hai người là ai. Cả hai cậu bé không ai trả lời mặc dầu rất thạo tiếng đó như tiếng mẹ đẻ. Một tên lính khác bước đến sau lưng hắn. Hắn tiến đến nắm lấy cổ hai cậu bé gần như xách hai con gà lôi ra hành lang rồi kéo xuống nhà đem ra phía trước lâu đài rồi quẳng hai người vào trong vườn ở đấy Phlorentyna cũng đang kêu hét như điên trước quang cảnh cô đang nhìn thấy. Leon không dám nhìn, gục đầu vào vai Wladek. Wladek inh ngạc trông ra một dẫy xác chết, phần lớn là những người hầu hạ trong nhà, bị vứt úp mặt xuống đất Chú lặng người khi trông thấy một người có bộ ria nằm úp xuống vũng máu. Người đó chính là bác thợ săn. Wladek không cảm thấy gì nhưng Phlorentyna thì vẫn cứ kêu hét.

– Bố có đây không? – Leon hỏi. – Bố có đây không?

Wladek nhìn lại một lượt những xác chết. Chú cảm ơn Chúa là không thấy có bóng dáng Nam tước Rosnovski ở đây. Chú đang định quay ra nói với Leon thì một tên lính bước tới bên cạnh.

Wer hat gesprochen? – Tên lính gắt.

ich, Wladek bạo dạn đáp Tên lính giơ súng lên lấy báng đập vào đầu Wladek. Chú lăn ra đất, máu chảy đầy mặt. Nam tước đâu rồi? Có chuyện gì thế này? Tại sao họ lại đối xử như thế này ở ngay nhà mình? Leon vội nhẩy đè lên Wladek để tránh cho chú bị một đòn thứ hai của tên lính định đánh vào bụng. Nhưng nhát súng quá mạnh giáng xuống lại trúng vào sau gáy Leon.

Cả hai cậu bé nằm không động đậy. Wladek nằm im vì chú vẫn chưa hết khiếp sợ với nhát đòn vừa rồi và cả với khối nặng của người Leon bỗng nhiên đè lên chú. Còn Leon nằm im vì cậu ta đã chết rồi.

quladek có thể nghe thấy tiếng một tên lính khác trách cứ tên lính vừa rồi vì hắn đã quá tay. Chúng lôi Leon đi, nhưng Wladek cứ bám chặt lấy. Phải hai tên lính mới kéo nổi được xác Leon ra khỏi tay Wladek và quẳng vào đống người đã nằm đó, mặt úp xuống cỏ.

Đôi mắt Wladek không rời khỏi cái xác của người bạn thân nhất trên đời. Cuối cùng họ bắt chú quay trở vào lâu đài để cùng với một số người còn sống sót bị dẫn xuống tầng hầm. Không ai dám thốt lên một lời vì sợ phải đi theo những người đã bị vứt trên cỏ. Cửa hầm bị khóa chặt và tiếng lầm rầm của bọn lính đã xa dần. Lúc đó Wladek mới lên tiếng, “Chúa lòng lành” vì chú trông thấy Nam tước ngồi dúi vào trong góc tường. Ông không bị đánh đập gì, nhưng có vẻ rất khiếp sợ Ông cứ ngồi lặng yên nhìn vào khoảng không. Ông còn sống được vì bọn xâm lược còn cần đến ông để cai quản đám tù binh. Wladek bước đến bên chỗ ông. Những người khác, trái lại, càng ngồi xa chỗ ông chủ càng tốt. Hai người nhìn nhau đúng như họ đã nhìn trong ngày đầu gặp nhau. Wladek đưa tay ra, và cũng như ngày đầu, Nam tước cầm

lấy tay chú.

Wladek nhìn thấy những giọt nước mắt chảy xuống khuôn mặt tự hào của Nam tước. Không ai nói một lời nào. Cả hai đều vừa mới mất con người mình yêu quý nhất trên đời.

***

William Kane lớn rất nhanh. Chú được mọi người chung quanh yêu quý, nhất là những năm đầu chung quanh chú thường chỉ có bà con trong nhà và những người hầu hạ được chọn lọc Tầng trên gác của ngôi nhà thuộc họ Kane xây theo kiểu thế kỷ mười tám ở Wảng trường Louisburg trên đồi Beacon đã bị biến thành trung tâm nuôi trẻ, chất đầy các thứ đồ chơi. Bên cạnh đó là một phòng ngủ và phòng khách dành cho cô bảo mẫu mới thuê được về Từ đây xuống đến nhà dưới còn một quãng xa nên Richard Kane không thể hay biết gì về những chuyện như trẻ con mọc răng, tã ướt, hoặc nó khóc bất thường đòi ăn Tiếng khóc đầu tiên, chiếc răng mọc đầu tiên, bước đi đầu tiên, tiếng nói đầu tiên của đứa bé đều được mẹ của Wiìliam ghi vào sổ gia đình cùng với những tiến bộ của nó về chiều cao và cân nặng. Anna ngạc nhiên thấy những con số thống kê này chẳng khác gì lắm với bất cứ đứa trẻ nào mà chỉ đã biết ở trên đồi Beacon.

Cô bảo mẫu là một người thuê ở tận bên Anh mang về Cô nuôi thằng bé theo một chế độ mà đến một sĩ quan ky binh của nước Phổ cũng phải lấy làm hài lòng. Chiều chiều cứ sáu giờ là bố của William lên thăm. Vì không biết nói chuyện với con như thế nào nên hai bố con chỉ biết nhìn nhau. William nắm chặt lấy ngón tay trỏ cúa bố, ngón tay mà người bố đã dùng để kiểm tra những bảng cân bằng thu chi ở ngân hàng. Richard nhìn con mỉm cười. Sau năm đầu, thủ tục có hơi thay đổi đi một chút. Thằng bé được đưa xuống nhà dưới để thăm bố. Richard ngồi ở chiếc ghế da có lưng tựa rất cao nhìn đứa con đầu lòng của mình bò dưới chân bàn ghế, lúc ẩn lúc hiện, khiến Richard tưởng như con mình rồi sẽ trở thành một Thượng nghị sĩ cũng chưa biết chừng. Mười ba tháng là Wilham đã chập chững biết đi và bám vào đuôi áo eủa bố. Tiếng đầu tiên của nó nói ra là Dada, làm mọi người rất thíeh, kề cả bà nội Kane và bà ngoại Cabot, hai bà là những người đến thăm nó thường xuyên. Các bà không đi theo chiếc xe đẩy William đi quanh Boston, nhưng vào những chiều thứ năm thường bước theo sau cô bảo mẫu trong công viên và nhìn những người trông trẻ khác cũng ra đó. Những trẻ con khác cho vịt ăn ở những vườn công cộng, nhưng William thì được chơi với thiên nga trong hồ của biệt thự rất sang trong nhà ông Jack Gardner.

Sau hai năm thì các bà nội bà ngoại đều có ý nói khéo rằng đã đến lúc thằng William phải có em đi là vừa. Anne đành nghe theo các cụ và để có mang lần nữa, nhưag được đến tháng thứ tư thì chị rất thất vọng thấy người mình cứ mỗi lúc một ốm yếu nhợt nhạt đi.

Lúc khám thai cho người mẹ, bác sĩ MacKenzie không còn cười vui vẻ được nữa,

và đến tuần thứ mười sáu khi Anne bị sẩy thai thì ông ta tuy không ngạc nhiên nhưng cũng không để cho chị đau buồn vô cớ. Ông ta nói:

Anne, cái lý do khiến bà cảm thấy mình không khỏe đó là do huyết áp của bà quá cao, và nếu cứ như thế thì càng có mang nhiều tháng huyết áp càng cao lên nữa. Tôi e rằng các bác sĩ hiện nay chưa có cách gì ngăn được huyết áp cao. Mà chúng tôi thì chỉ có thể biết được là điều đó nguy hiểm cho mọi người, nhất là cho đàn bà có mang.

Anne cố cầm nước mắt và hiểu rằng như thế có nghĩa là trong tương lai mình sẽ không thể có con được nữa.

Nhưng nếu tôi có mang lần sau thì chắc không thế nữa chứ~ – Chị lựa lời hỏi để bác sĩ dễ trả lời mình hơn.

Tôi sẽ rất ngạc nhiên nêu như không còn như vậy. Tôi phải lấy làm tiếc mà nói điều này, nhưng tôi thành thật khuyên bà là không nên có mang nữa.

Nhưng dù có ốm đau vài tháng cũng không sao, nếu nhự…

Tôi không nói về chuyện ốm đau đâu, bà Anne. Mà tôi nói là bà không nên mạo hiềm với mạng sống của mình một cách không cần thiết như vậy.

Richard và Anne rất lấy làm lo ngại, vì bản thân hai người cũng là con một và hai người đều sớm mất cha. Họ đã tưởng mình sẽ tạo ra một gia đình tương xứag với quy mô của nhà này và trách nhiệm đối với những thế hệ tiếp theo. Hai bà nội bà ngoại Cabot và Kane đều nói:

phận sự của người đàn bà chỉ có thế thôi chứ còn gì khác nữa đâu? Lâu dần, không ai nhắc nhở đến vấn đề đó nữa, và William trở thành trung tâm chú ý của mọi người.

Richard, sau sáu năm có chân trong ban giám đốc đã lên thay thế người cha qua đời năm 1904 làm chủ tịch Ngân hàng và Công ty Tín dụng Kane và Cabot. Từ đó anh chỉ biết lao vào công việc của ngân hàng. Ngân hàng này có trụ sở tại phố State, một tòa nhà đồ sộ được xây dựng đẹp và chắc chắn, và có chi nhánh ở New York, l’ondon và San Phrancisco. Cái chi nhánh thứ ba này thành một vấn đề đáng lo ngại cho Richard vào đúng ngày William ra đời, vì nó đã bị sập cùng một lúc với Ngân hàng quốc gia Crocker, Ngân hàng Wells Phargo và Caliphornia trong vụ động đất lớn năm 1906, không phải sập về mặt tài chính mà sập đúng với nghĩa đen của nó. Richard vốn là một người biết lo toan từ trước nên tài sản của anh được hãng Lloyd’s của London bảo hiểm. Đều là những người đứng đắn cả, nên sau vụ đó họ bồi thường cho đến từng xu một, do đó Richard có thể xây dựng lại ngân hàng. Richard phải mất cả một năm vất vả di lại bằng xe lửa giữa Boston với San Phrancisco, mỗi lượt đi mất bốn ngày trời, để theo dõi giám sát việc xây dựng lại.

Anh cho khánh thành nhà ngân hàng mới trên Wảng trường liên hiệp, tháng mười năm 1907, sau đó lại phải quay sang bờ biền phía đông ngay để giải quyết những vấn

đề mới nẩy sinh. Lúc này ở các ngân hàng New York người ta đang rút bớt tiền gửi. Nhiều ngân hàng nhỏ không đối phó nổi với tình hình ấy và bắt đầu phá sản. J.P.Morgan, chủ tịch của một ngân hàng lớn mang tên ông ta và đã nổi tiếng từ lâu, đã mời Richard cùng cộng tác với ông ta để lập một ngân hàng hùn vốn nhằm đối phó với tình hình này.

Richard đồng ý. Thái độ dũng cảm của anh đã có hiệu quả và vấn đề khó khăn đã bị đẩy lùi dần. Tuy .thế, Richard cũng đã phải mất nhiều đêm không ngủ được.

William, trái lại ngủ rất kỹ, không cần biết gì đến những chuyện động đất và ngân hàng sập. Chú còn có việc phải cho những con thiên nga ăn và phải đi đi lại lại Milton, Brookline và Beverley để được gặp những bà con họ hàng quyền quý.

Đầu mùa xuân năm sau đó Richard nhận được một món quà do anh đã đầu tư vốn một cách thận trọng vào cho một người tên là Henry Phord và người này tuyên bố có thể sản xuất ra một loại xe hơi để phục vụ nhân dân. Ngân hàng mời ông Phord đến ăn trưa, và người ta đã vận động Richard mua một chiếc xe mẫu T với các giá cực sang là 850 đô-la. Henry Phord đảm bảo với Richard rằng nếu được ngân hàng ủng hộ Ông ta sẽ có thề chỉ trong vài năm giảm giá xe xuống 350 đô-la một chiếc và như vậy thì mọi người đều có thể mua xe được, thế là những người ủng hộ Ông ta sẽ thu được lợi nhuận rất lớn. Richard ủng hộ. Đó là lần đầu tiên anh đưa đồng tiền có hiệu quả vào tay một người có thề hạ giá thành sản phẩm xuống còn một nửa. Richard cũng còn băn khoăn rằng chiếc xe hơi của mình, mặc dầu sơn màu đen ảm đạm như thế, vân có thể chưa được coi là phương tiện chuyên chở xứng đáng với một ông thống đốc và chủ tịch ngân hàng. Tuy nhiên, anh cũng yên tâm thấy những người ở hai bên đường liếc nhìn và trầm trồ khen ngợi. Với tốc độ mười dặm một giờ, nó còn làm ầm ĩ hơn cả một con ngựa, nhưng dù sao cũng có cái tốt là nó không để lại một đống phân trên đường phố Vemon. Điều duy nhất anh phải cãi cọ với ông Phord là ông ta không chịu nghe lời đề nghị về việc mẫu T của xe hơi không nên chỉ có màu đen mà nên sơn nhiều màu khác nữa. Ông Phord nhất định là xe nào cũng chỉ sơn màu đen để giảm giá bán. Anne nhậy cảm hơn chồng trong cái quan hệ xã hội mà chị nghĩ phải tỏ ra khiêm tốn lễ độ hơn, đã quyết định là chỉ ngồi xe khi nào bên nhà Cabot cũng có xe như mình.

Nhưng William thì rất thích cái “ô-tô” đó. Báo chí đã đặt cho nó cái tên như vậy rồi. Chú thích hơn vì cho rằng bố mua cái xe đó là mua cho chú, để thay vào chiếc xe đẩy không có máy móc gì. Chú cũng thích cả người lái xe hơn là cô bảo mẫu. Người lái xe có đôi mắt kính rất to với chiếc mũ dẹt xuống đầu. Bà nội Kane và bà ngoại Cabot tuyên bố sẽ chẳng bao giờ ngồi vào chiếc xe máy gớm khiếp đó, và đúng là các cụ không chịu ngồi thật.

Tuy vậy bà nội Kane vẫn đòi thông báo là bà có ngồi trong xe hơi đề đi dự tang lễ. Trong hai năm sau đó, ngân hàng tiếp tục phát triển lớn mạnh. Wilìiam cũng lớn

theo với nó. Những người Mỹ lại một lần nữa đầu tư vào những công trình mở rộng và những khoản tiền lớn theo nhau kéo về ngân hàng Kane và Cabot, rồi tiền đó lại tái đầu tư vào những công trình như nhà máy thuộc da Loquell ở Massachusetts. Richard theo dõi sự lớn mạnh của cả ngân hàng và con trai mình với một tâm lý thỏa mãn tỉnh táo. Vào ngày sinh nhật lần thứ năm của William, anh rút thằng bé ra khỏi bàn tay quản lý của đàn bà và giao nó cho một ông thày dạy tư và trả lương cho ông ta 450 đô-la một năm. Ông thày tên là Munro, một người do Richard đích thân chọn lựa trong số tám người được cô thư ký riêng của anh giới thiệu lên. Ông thày Murro được giao nhiệm vụ là phải đảm bảo cho William đến năm mười hai tuổi có thể sẵn sàng vào trường St Paul được. William lập tức yêu thích ngay ông thày Munro, một người chú tưởng là đã già và tài giỏi nhưng thực ra ông thày ấy chỉ mới có hai mươi ba tuổi, đã tốt nghiệp loại ưu về Anh ngữ ở Đại học Edinburgh.

William học đọc và viết rất nhanh chóng dễ dàng, nhưng chú đặc biệt rất thích thú với những con số. Điều phàn nàn duy nhất của chú là trong tám bài học mỗi tuần chỉ có một bài là toán. Nhưng William cũng đã có thể cho bố chú thấy được là một phần tám thời gian ấy coi như một thứ đầu tư nhỏ cho ai đó một ngày kia sẽ trở thành thống đốc và chủ tịch của một ngân hàng. Để bù vào chỗ thiếu nhìn xa thấy rộng của ông thày, William đem những bài toán chú nhẩm trong đầu ra đánh đố những người khác trong nhà. Bà ngoại Cabot chả bao giờ biết chia số ìe? ra ìàm bốn mỗi khi trả lời chú chỉ toàn sai, nên bà đành nhận là thằng cháu giỏi hơn bà. Nhưng bà nội Kene thì lại biết chút ít về phân số nên khôn khéo hơn, mặc dầu như vậy cũng không giải quyết được bài toán chia tám chiếc bánh cho chín đứa trẻ như thế nào.

Đến lúc bà chịu thua thì Wilham nói:

Bà ớ, bà cử mua cho cháu một cái thước lô-ga-nt, là cháu sẽ không quấy rầy bà nữa. Bà ngạc nhiên không ngờ thằng cháu mình lại sớm tinh khôn đến thế, nhưng bà vẫn cứ mua thước cho nó mặc dù bà chưa biết là nó có dùng được cái đó hay không. Đó cũng là lần đầu tiên trong đờí của bà nội Kane giải quyết vấn đề một cách chóng vánh như vậy. Còn những vấn đề của Richard thì lại bắt đầu chuyển sang phía Đông. Người chủ tịch cbi nhánh ngân hàng của anh ở London đột nhiên chết tại chỗ làm việc và ở đó người ta cần anh có mặt để giải quyết Anh gợi ý với Anne là chị với thằng con William cùng đi với anh sang châu âu. Anh nghĩ có đề thằng bé nghỉ học ít ngày cũng không sao, hơn nữa nó lại còn có thể được thăm tất cả những chỗ mà thày Munro đã dạy nó và thường nhắc đến luôn. Anne chưa được sang châu âu bao giờ nên nghe nói thế rất phấn khởi Chị chất đầy những áo mới hch sự và đắt tiền vào ba chiếc hòm gởi xuống tàu để đem sang mặc ở Thế giới cũ. William không bằng lòng với mẹ là đã không cho chú mang theo chiếc xe đạp là thứ rất cần thiết đề đi lại của chú.

Gia đình nhà Kena đi xuống New York bằng xe lửa, và từ đó xuống tàu Aquitania để đi Southampton.

Anne lấy làm lạ thấy ở New York sao có nhiều người mới di cư đến và đẩy xe bán hàng rong thế. Chị chỉ đám ngồi trên toa nhìn xuống thôi. William trái lại, rất ngạc nhiên với thành phố New York mà chú không ngờ to như vậy:

Xưa nay chú chỉ cho ngân hàng của bố chú là tòa nhà lớn nhất ở Mỹ mà có lẽ cũng là lớn nhất thế giới. Chú rất muốn mua chiếc kem có màu đỏ và vàng của một người đang đẩy chiếc xe nhỏ, nhưng bố chú coi như không nghe thấy gì. Vả lại, Richard không bao giờ có tiền lẻ trong túi. William vừa trông thấy chiếc tàu to đã lấy làm thích ngay, và chú làm bạn ngay với ông thuyền trưởng được, ông ta Chỉ cho chú xem tất cả những cái lý thú nhất trên tàu thủy. Richard và Anne cố nhiên được ngồi cùng bàn với thuyền trưởng, phải xin lỗi là thằng bé đã làm mất thì giờ của ông nhiều quá.

Không đâu, – Ông thuyền trưởng có bộ râu đã bạc trả lời quilliam với tôi đã là bạn thân với nhau rồi đấy Tôi chỉ tiếc là không trả lời được tất cả những câu hỏi của nó về thời gian, tốc độ và cự ly mà thôi. Chính tôi vẫn cứ phải mỗi tối nghe ông kỹ sư thứ nhất giảng giải cho để có thể dự đoán được tình hình ngày hôm sau thì mới sống nổi được.

Sau mười ngày vượt biển, tàu Aquitania đi vào con sông nhỏ để đậu ở Southampton. William còn luyẽn tiếc không chịu rời tàu. Chú suýt khóc nhưag rồi lại vui ngay vì thấy đã có một xe Rolls-Royce sang trọng với lái xe chờ sẵn ở dưới bến để đưa họ về London. Ngay lúc đó Richard đã có ngay một quyết định là khi xong việc trở về sẽ cho chở chiếc xe này sang New York. Đó là một quyết định biểu lộ tính khí của anh hơn bao giờ hết. Anh nói với Anne là muốn để cho Henry Phord được tận mắt trông thấy chiếc xe ấy.

Trong khi ở London, gia đình Kane bao giờ cũng ở khách sạn Ritz trong khu Piccadilly, tiện cho cơ quan của Richard trong thành phố. Những lúc Richard bận công việc ở ngân hàng, Anne tranh thủ đưa Willian đi thăm Tháp London, Cung điện Buckingham và xem cảnh đổi gác. William thấy mọi thứ đều rất “hay” chỉ trừ có ngữ điệu tiếng Anh ở đây chú thấy hơi khó hiểu.

Tại sao họ không nói như chúng ta, hả mẹ? – chú hỏi thế, và chú lấy làm lạ thấy mẹ bảo chính ra là câu hỏi phải đặt ngược lại mới đúng, vì “họ” có trước.

Wilham rất thích xem những người lính gác mặc bộ quân phục màu đỏ tươi có những khuy đồng bóng loáng đứng gác ở bên ngoài Điện Buckingham. Chú muốn nói chuyện với họ, nhưng chỉ thấy họ nhìn thẳng đi đâu mà không chớp mắt nữa kia.

Chứng ta có thể mang một người về nhà được không mẹ? – Chú hỏi.

Không, con ạ, họ còn phải đứng đây để gác cho Vua chứ.

Nhưng ông Vua có nhiều người gác quá, con không có được một người sao? Richard bỏ ra một buổi chiều “đặc biệt để đưa Aune và Wilìiam sang vùng phía

Tây London xem kịch câm truyền thống của người Anh biểu diễn ở Wần Ngựa. William xem vừa thích và sợ tưởng như đằng sau mỗi ngọn cây đều có ma quỷ nấp ở

đó. Xem xong, họ lại quay về Phortnum uống trà. Anne và William được nếm món bánh rán bọc kem rất ngon. William rất thích nên mấy ngày sau đó chú được dẫn đến phòng trà ở Phortnum để tiếp tục ăn món bánh ấy.

William và mẹ chú thấy những ngày nghỉ trôi qua rất nhanh. Riêng Richard thì hài lòng với công việc ở phố Lombard và lấy làm mừng đã cử được một chủ tịch mới của chi nhánh ngân hàng, do đó trong đầu đã nghĩ đến ngày về. Hàng ngày đều có điện ở Boston gửi tới khiến anh sốt ruột muốn trở về làm việc ở nhà ngay. Cuối cùng có một bức điện dài báo cho anh biết 2.500 công nhân ở nhà máy sợi Laqurence, Massachusetts, nơi ngân hàng đã đầu tư khá nhiều vào đó hiện nay đang đình công. May mà chỉ còn ba ngày nữa anh đã lên đường về nước.

William thì mong về nhà để kể lại cho ông thày Munron nghe mình đã làm những gì ở Anh, và cũng về với bà nội bà ngoại nữa. Chú đoán các bà mình chưa bao giờ được xem hát ở ngoài trời với đông đảo công chúng như ở đây. Anne phấn khởi với chuyến đi không kém gì William, nhưng bây giờ có phải về nhà cũng vẫn thích, vì chị cho là mình đã được dịp khoe với người Anh vốn không ưa lòe loẹt lắm nhữag bộ áo mới và cả sắc đẹp của mình nữa. Trước ngày xuống tàu về William còn được mẹ đưa đến dự bữa tiệc trà ở Wảng trường Eaton do bà vợ Ông chủ tịch mới của chi nhánh ngân hàng đứng ra chiêu đãi. Bà ta cũng có đứa con lên tám tuổi, tên là Stuart. William đã cùng với nó làm bạn được hai tuần rồi, và chơi với nhau khá thân. Bữa tiệc trà không được vui lắm vì Stuart bị Ốm. Để chia sẻ nỗi buồn với bạn mình, Wiììiam cũng bảo với mẹ là có lẽ chú sắp ốm. Thế là hai mẹ con trở về khách sạn Ritz sớm hơn dự định. Nhưng Anne cũng không thất vọng lắm, vì về sớm càng có thời gian xem lại những đồ đạc đóng gói gửi xuống tàu. Chị biết William muốn chia sẻ ốm đau với bạn đó thôi. Nhưng đến tối lúc cho William lên giường ngủ, chị bỗng thấy thằng bé cũng có hơi sốt thật, và chị báo cho Richard biết.

Có lẽ đó là do phấn khởi sắp được về nhà thôi, – Richard nói, như có vẻ không quan tâm lắm.

Em cũng mong thế, – Anne đáp, – Em không muốn nó ốm trong sáu ngày đi đường.

Mai là nó khỏe thôi, – Richard nói và không để ý gì thêm nữa. Nhưng đến sáng hôm sau lúc Anne vào đánh thức con dậy thì thấy người nó có nhiều chấm đỏ và sốt cao hơn trước, có lẽ đến bốn mươi độ. Bác sĩ của khách sạn đến khám bảo là thằng bé bị sởi và dứt khoát không thể cho đi biển được, đó là vì nó và vì cả các hành khách khác nữa. Không có cách nào khác hơn là cứ phải để nó nằm đó cho đến khi khỏi hẳn mới về được. Richard thì không thể nào ở lại chờ được hai tuần, nên anh quyết định cứ lên đường theo dự kiến. Anne phải miễn cường thay đổi lại. kế hoạch đi đứng William nằng nặc đòi bố cho đi theo, vì ở đây chờ mười bốn ngày cho con tàu trở lại Southompton thì lâu quá. Nhưng Richard kiên quyết nhất định không chiều con, thuê

một cô bảo mẫu đến phục vụ và thuyết phục Wilham là chú đang bị Ốm rất nặng không đi đâu được.

Anne cùng đi với Richard xuống Southompton bằng chiếc xe Rolls-Royce mới. Lúc chia tay, chị mạnh bạo nói một câu, chỉ sợ chồng cho mình là đàn bà hay xúc

động quá đáng:

Richard, không có anh, em ở lại London cô đơn quá – Thì ở Boston không có em, anh cũng cô đơn không kém, – Anh nói vậy, nhưng đầu óc nghĩ đến những công nhân nhà máy sợi đang đình công.

Aune trở về London bằng xe ìửa, trong bụng nghĩ không biết hai tuần sắp tới ở London chị sẽ làm gì.

Wilìiam được một đêm ngủ yên hơn và đến sáng hôm sau những vết sởi đã dịu dần. Bác sĩ và y tá vẫn cứ bắt chú phải nằm yên trên giường. Aune tranh thủ rỗi rãi viết những bức thư thật dài về cho gia đình. William phản đối không chịu nằm mãi ở giường, và đến sáng hôm thử ba chú dậy sớm tìm sang phòng mẹ. Lúc này chú đã gần như trở lại bình thường. Chú trèo lên giường, và đôi tay lạnh của chú làm mẹ tỉnh dậy. Aune yên tâm thấy con đã khỏi bệnh. Chị bấm chuông gọi mang đồ ăn sáng lên cho cả hai mẹ con ở trên giường, điều mà bố của William trước đây chả bao giờ cho phép làm như thế.

Có tiếng gõ cửa nhẹ rồi một người mặc áo vừa đỏ vừa vàng bước vào với chiếc khay bạc to với đủ các món trên đó, trứng, thịt rán, cà chua, bánh mì nướng và mứt hoa quả, chẳng khác nào một bữa tiệc. William nhìn khay thức ăn mà bụng đói như cào. Chú không nhớ là mình đã ăn một bữa thật no vào hôm nào. Anne liếc nhìn vào tờ báo buổi sáng. Thời gian ở London, Richard thường vẫn đọc Thời báo, vì vậy ban giám đốc khách sạn cho là chị vẫn có yêu cầu đọc tờ báo đó.

Ô mẹ nhìn này, – William nói và chỉ vào tấm ảnh ở trang bên trong, – Đây là ảnh chiếc tàu của Bố. Tai nạn là cái gì, hả Mẹ?

ảnh con tàu Titanic chiếm hết cả bề ngang của trang báo.

Không cần nghĩ đến người của họ Cabot hay họ Kane phải xử sự như thế nào, Anne bỗng ôm chặt lấy con mà khóc nức nở. Hai mẹ con cứ ôm nhau ngồi trên giường như thế một lúc lâu. William không hiểu đầu đuôi thế nào. Anne biết là hai mẹ con đã mất đi người thân yêu nhất của mình trên đời này. Ông Piers Campbell, bố của anh bạn Stuart, đến phòng thượng khách 107 của khách sạn Ritz. Ông ta chờ ở hành lang trong khi người đàn bà góa bận đồ đen vào người. Chị chỉ mang đi theo có một bộ đồ sẫm đó thôi. William cũng được mặc quần áo chỉnh tề. Cho đến lúc này chú vẫn chưa hiểu tai nạn là thế nào. Anne đề nghị Ông Piers giải thích như thế nào đó cho đứa con của chị hiểu được. Nhưng William chỉ nói:

Cháu muốn cùng đi tàu với bố cháu, nhưng bố cháu không cho đi. Chú không khóc, vì chú không thể nào tin rằng bố chú lại có thể bị chết được. Thế nào trong số

những người sống sót cũng có bố chú.

Suốt đời ông Piers làm một nhà chính trị, nhà ngoại giao, và bây giờ làm chủ tịch ngân hàng Kane và Cabot ở London, ông chưa hề thấy một người nào còn nhỏ tuổi mà có nhiều nghị lực như vậy. ít người có cá tính như chú nhỏ này. Nhiều năm sau ông vẫn còn thấy đúng như vậy. Cá tính ấy đã từng có ở Richard Kane và truyền lại cho đứa con duy nhất của anh. Vào ngày thứ năm của tuần đó, William đã lên sáu tuổi. Nhưng chú không hề mở bất cứ gói quà nào đến tặng chú.

Anne xem đi xem lại rất kỹ những danh sách người còn sống sót được gửi dần từ Mỹ sang. Danh sách nào cũng đều xác nhận là Richard Loquell Kane còn đang mất tích trên biển, coi như đã bị chết đuối. Một tuần sau nữa, ngay cả đến William cũng không còn hy vọng gì là bố chú còn sống. Anne đau đớn bước lên tàu Aquitania trở về Mỹ. William muốn được ra ngay biển khơi. Chú ngồi hàng giờ trên boong tàu nhìn xuống mặt nước phẳng lặng. Ngày mai con sẽ tìm thấy bố, – Chú cứ nói mãi với mẹ như thế. Lúc đầu, bằng một giọng tin tưởng, nhưng dần dần tự chú cũng thấy khó mà tin được.

William con ạ, chả ai có thề sau ba tuần ở Bắc Đại Tây Dương này mà còn sống được đâu.

Cả bố con cũng thế ư?

Cả bố con cũng thế.

Khi Anne trở về đến Boston, cả bà nội bà ngoại đều đã chờ sẵn chị Ở nhà rồi.

Trách nhiệm bây giờ giao lại cho hai bà. Anne để mặc eho hai cụ làm chủ mọi thứ.

Chị thấy cuộc đời đối với mình bây giờ chả có ý nghĩa gì mấy nữa. Điều quan trọng là William, mà số phận của chú bây giờ là các cụ nhất định phải nắm lấy. William thì tỏ ra rất lễ độ, nhưng không muốn gần hai bà. Ban ngày, chú yên lặng ngồi học với ông thày Munro, và đến đêm lại khóc trong lòng mẹ.

Nó cần phải có những đứa trẻ khác làm bạn mới được – Các cụ tuyên bố như vậy, và liền sau đó cho cả ông thày Munro và cô bảo mẫu nghỉ việc, và cho William đến Viện Sayre theo học vì các cụ tin rằng cho nó sống với thế giới thực tế bên ngoài và có thêm nhiều bạn khác thì thằng bé sẽ trở lại bình thường.

Richard đã để lại phần lớn tài sản cho William, với sự ủy nhiệm của gia đình, cho đến khi nào chú hai mươi mốt tuổi. Trong chúc thư của bố chú có một bản phụ lục. Richard muốn rằng con trai mình sau này sẽ xứng đáng là Thống đốc và Chủ tịch của ngân hàng Kane và Cobot. Chỉ có mỗi điểm đó trong chúc thư là William thấy hứng thú, còn những cái khác tất nhiên đều là quyền của chú được hưởng cả. Aune được nhận một số tiền gốc là 500 nghìn đôla với thu nhập hàng năm là 100 nghìn đô-la cho đến chót đời trừ các khoản thuế, và số tiền đó chỉ chấm dứt ngay nếu chị tái giá. Chị cũng được hưởng cả ngôi nhà trên đồi Beacon, biệt thự mùa hè trên Bờ Bắc, ngôi nhà

Maine với cả một hòn đảo nhỏ ngoài khơi Mũi Cá Thu, và tất cả những tài sản ấy

sau khi chị qua đời sẽ trao lại cho William. Hai cụ nội ngoại mỗi người được hưởng 250 nghìn đô-la cùng những thư dặn lại là nếu Richard chết trước các cụ thì trách nhiệm của các cụ là như thế nào. Toàn bộ tài sản của gia đình do ngân hàng quản lý và được ủy thác cho những cha mẹ đỡ đầu của William. Thu nhập do tất cả những thứ trên đây đem lại được tái đầu tư mỗi năm vào những xí nghiệp đã săn có.

Cũng phải mất đến một năm trời các cụ mới cảm thấy hết tang tóc, còn Aune thì mặc dầu chị chỉ mới hai mươi tám tuổi nhưng đến bây giờ chị mới thấy mình lần đầu tiên trong đời sống lại được cái tuổi đó.

Các cụ không như Anne, không che giấu nỗi buồn của mình làm gì. William thấy thế không bằng lòng, lên tiếng trách các cụ.

Bà không nhớ bố cháu hay sao? – Chú ngước đôi mắt xanh lên hỏi bà nội Kena khiến bà nhớ đến đứa con trai của mình.

Có chứ cháu, nhưng bố cháu không muón cho chúng ta cứ ngồi đó để mà thương thân được…

Nhưng cháu muốn tất cả chúng ta lúc nào cũng phải nhớ đến bố cháu cơ, luôn luôn nhớ đến, – Wilham xẵng giọng nói.

William này, bây giờ bà sẽ nói với cháu như lần đầu tiên nói chuyện với một nguời lớn nhé. Tất cả chúng ta sẽ luôn luôn có hình ảnh thiêng liêng của bố cháu trong lòng, còn cháu thì cháu sẽ phải làm thế nào cho xứng với điều bố cháu mong muốn ở cháu.

Bây giờ cháu là người đứng đầu trong gia đình và là người thừa kế một tài sản lớn. Vậy cháu phải chuẩn bị làm thế nào cho xứng đáng với sự thừa kế đó, cũng với tinh thần mà bố cháu đã làm để đến lượt cháu được thừa hưởng như vậy.

William không trả lời. Nhưng như vậy là chú đã hiểu được mình sống có mục đích như thế nào. Trước đây chú không biết. Bây giờ chú sẽ nghe theo lời khuyên của bà nội. Chú học cách sống với nỗi đau buồn của mình nhưng không một lời phàn nàn kêu ca.

Từ đó trở đi, chú chăm chỉ học tập, và chỉ khi nào thấy bà nội Kena có vẻ bằng lòng thì chú mới yên tâm. Chú giỏi tất cả các môn học, và riêng trong môn toán không những chú đứng đầu lớp mà còn vươn tới cả những lớp trên nữa. Bất cứ gì bố chú đã làm được, chú quyết tâm làm được hơn thế. Chú gần gũi với mẹ hơn bao giờ hết, và trở thành hoài nghi đối với tất cả những ai không phải trong gia đình. Cứ như vậy, chú trở thành một đứa trẻ cô đơn, đơn độc, và hóa ra một con người hợm mình.

Các cụ đã tính rằng khi nào William bảy tuổi thì sẽ đến lúc dạy cho nó hiểu biết về giá trị của đồng tiền. Các cụ cho chú bắt đầu được có tiền túi cứ mỗi tuần một đô-la, nhưng bắt chú phải làm bản khai về mỗi đồng xu tiêu vào việc gì. Với chủ trương đó, các cụ tặng chú một cuốn sổ bìa da màu xanh giá 95 xu và trừ ngay vào khoản một đô-la của tuần đầu. Từ tuần thứ hai trở đi, các cụ cứ mỗi sáng thứ bảy lại phát một đô-

la cho chú. William đầu tư năm mươi xu vào quỹ tiêu hai mươi xu, đem mười xu cho bất cứ đối tượng từ thiện nào mà chú muốn, còn giữ lại hai mươi xu dự trữ. Cứ đến cuối mỗi quý, các cụ lại rà soát sổ sách và xem chú báo cáo về các khoản chi tiêu như thế nào. Sau ba tháng đầu, William đã hoàn toàn sẵn sàng tự xử lý lấy mọi thứ. Chú đã hiến 1,30 đô-la cho tổ chức Hướng đạo sinh Mỹ mới thành lập, đầu tư 5,55 đô-la và yêu cầu bà nội Kane gửi vào quỹ tiết kiệm theo tài khoản của cha đỡ đầu J.P. Morgan đã quá cố Chú chi 2,60 đô-la không phải thanh toán và để 2,60 đô-la vào quỹ dự trữ. Sổ thu chi của chú khiến cho các cụ rất hài lòng. Rõ ràng William là đứa con của Richard Kane, không còn nghi ngờ gì nữa.

trường, William không có mấy bạn, phần vì chú ngại không muốn chơi với những ai không thuộc gia đình Cabot và Loquell, hoặc đám trẻ thuộc những gia đình giàu có hơn mình. Điều đó khiến chú trở thành một con người hay tư lự. Mẹ chú lo ngại, thâm tâm chỉ muốn chú sống một cuộc sống bình thường, không thích chú lao vào những chuyện sổ sách chi thu hoặc chương trình đầu tư gì hết. Anne muốn William có nhiều bạn trẻ hơn là mấy vị cố vấn già, muốn chú cứ chơi nghịch cho bẩn thỉu và xây xát còn hơn là lúc nào cũng sạch sẽ trắng bong, muốn chú sưu tập ếch nhái và rùa hơn là chú ý đến chứng khoán và báo cáo của công ty, tóm lại muốn chú như tất cả mọi đứa bé khác Tuy nhiên chị không bao giờ dám có can đảm nói với các cụ về những điều chị suy nghĩ, vả lại các cụ cũng chẳng quan tâm gì đến bất cứ đứa trẻ nào khác Vào ngày sinh nhật thứ chín của chú, William đưa sổ cho các cụ kiểm soát lần thứ hai trong năm. Cuốn sổ bọc da màu xanh cho thấy trong hai năm qua chú đã tiết kiệm được hơn năm đô-la. Đặc biệt chú rất tự hào nêu ra cho các cụ thấy một khoản đã ghi từ lâu đánh dấu “B6”, tức là khoản tiền chú đã rút ở ngân hàng J.P. Morgan ra ngay sau khi chú được tin nhà tài chính lớn này qua đời, vì chú nhớ là ngay những chứng khoán của ngân hàng bố chú đã bị tụt xuống sau khi có tin bố chú mất. Wilham đã tái đầu tư số tiền đó ba tháng sau, và chú cũng như công chúng hiều rằng một công ty bao giờ cũng lớn hơn một cá nhân Các cụ thấy thế rất cảm động, cho phép William bán chiếc xe đạp cũ của chú đi và sắm chiếc xe mới.

Mua xong, vốn liếng của chú vẫn còn trên 100 đô-la. Bà nội Kane đem số tiền đó của chú đầu tư vào công ty dầu hỏa Standard của bang New Jersey. William biết rằng dầu hỏa là thứ chỉ có mỗi ngày một đắt lên. Chú giữ cuốn sổ thu chi đó rất kỹ và ghi hên tục vào đó cho đến ngày chú hai mươi mốt tuổi. Giá như đến lúc đó các bà nội ngoại của chú còn sống, thì chắc các cụ sẽ làm tự hào về mục cuối cùng ghi vào cột bên phải của cuốn sổ, nhan đề “Tài sản”.

***

Tháng Chín, William trở lại Viện Sayre để tiếp tục học với tâm lý ổn định và sẵn sàng hòa với mọi người hơn. Chú lập tức tìm cách ganh đua với những người lớn tuổi hơn mình. Với bất cứ môn học gì, nếu chú thấy mình không giỏi hơn người thì không

yên tâm. Những người cùng lớp với chú xem ra không ai địch nổi được chú. Dần dần Wilham hiểu ra là phần lớn những ai xuất thân từ hoàn cảnh quyền quý như chú thì đều không có gì để kích thích đua tranh được, mà muốn có được địch thủ thì phải tìm được những ai so với chú nhỏ hơn và có ít điều kiện học hành hơn kia.

Năm 1915, trong trường có một phong trào sưu tập nhãn diêrn. William đứng ngoài quan sát phong trào này một cách rất thích thú nhưng không tham gia.

Chỉ trong mấy ngày, những nhãn diêm bình thường đã trao tay với giá mười xu một nhãn, thứ nào hiếmcó giá tới năm mươi xu. William nghiên cứu tình hình đó rồi quyết định sẽ không làm chuyện sưu tập mà làm viêc kinh doanh.

Vào ngày thứ bẩy sau đó, chú đến nhà hàng Leavitt và Peirce, một trong những nhà buôn thuốc lớn nhất Boston, và ngồi cả một buối chiều ghi lại tên và địa chỉ của những nhà sản xuât diêm chủ yếu trên thế giới, đặc biệt ghi tên những nước nào không tham gia chiến tranh. Chú bỏ ra năm đô la mua giâý, phong bì và tem, viết thư cho tất cả những chủ tịch hay giám đốc công ty mà chú đã có trong danh sách. Thư chú viết rất đơn giản, nhưng cùng đã phải viết đi viết lại đến bẩy lần.

Thưa ông Chủ tịch, Tôi là một nguời rât thích sưu tập các thứ nhãn diêm, nhưng tôi không có tiền để mua tất cả mọi thứ diêm đượC. Tiền túi của tôi mỗi tuần có một đô-la thôi, nhưng tôi xin gửi kèm theo đây chiếc tem ba-xu để chứng thực rằng việc sưu tập nhãn diêm của tôi là nghiêm túc. Tôi xin lỗi đã làm ông phải phiền lòng, nhưng tôi chỉ có thể tìm được tên ông để viết thư này.

Kính thư, William Kane (9 tuổi) T.B. Nhãn diêm của ông là một trong những thứ tôi thích nhất.

Trong vòng hai tuần, William có được 55 phần trăm thư trả lời và có được 78 loại nhãn diêm khác nhau. Hầu hết những người trả lời thư cho chú đều gửi lại chiếc tem ba xu, mà William cũng dự kiến trước là họ sẽ làm như vậy.

Trong bẩy ngày sau đó, William dựng lên một thị trường về nhãn diêm ở ngay trong trường. Chú luôn luôn nghĩ xem cái gì có thể bán được thì mới mua. chú để ý thấy có một số bạn học không quan tâm mấy đến loại nhãn diêm hiếm, mà chỉ xem nó đẹp hay không thôi. Thế là với những người này, chú đem những nhãn đẹp đổi lấy nhãn hiếm để bán lại cho những ai sưu tập công phu hơn. Sau hai tuần mua bán, chú cảm thấy thị trường đã đạt đến một đỉnh cao vì chú tính nếu mình không cẩn thận thì sắp đến những ngày nghỉ lễ là sẽ không mấy ai quan tâm đến chuyện này nữa. Chú bèn nghĩ ra một cách quảng cáo, thuê in một loạt giấy thông báo, mỗi tờ mất nửa xu, và chú để tờ giấy đó vào từng chỗ ngồi của các lớp, báo cho biết chú sẽ tổ chức bán đấu giá tất cả 211 nhãn diêm chú đã sưu tập được. Cuộc bán đấu giá tiến hành trong phòng tắm rửa của trường vào giờ ăn trưa. Số người tham gia còn đông hơn cả những trận đấu khúc côn cầu trong trường.

Kết quả là William đã thu được 57,32 đô-la, so với số tiền đầu tư ban đầu của chú

đã lãi được 51,32 đô-la. William gửi 25 đô-la vào ngân hàng với lãi suất 2,5 phần trăm, mua chiếc máy ảnh 10 đô-la, đem năm đô-la biếu cho Hội Thiên Chúa những người trẻ tuổi lúc này đang mở rộng hoạt động cứu trợ cho những người mới nhập cư, mua một ít hoa tặng mẹ, còn mấy đô la cất vào túi. Thị trường nhãn diêm bị xẹp xuống trước khi kết thúc khóa học. Đó là một trong những cơ hội đầu tiên William học làm chủ được tình hình thị trường. Bà nội bà ngoại của chú nghe kể lại chuyện này rất lấy làm tự hào về chú. Các cụ thấy rất giống như trường hợp các cụ Ông ngày xưa đã làm giàu trong thời kỳ hỗn độn của năm 1873.

Đến kỳ nghỉ hè, William nghĩ có lẽ có một cách khác đem lại lãi suất nhiều hơn cho số vốn chú gửi ngân hàng tiết kiệm. Trong ba tháng sau đó, chú nghe bà nội Kane đem tiền bỏ vào những chứng khoán do tờ Nhật báo phố Wall quảng cáo. Chú đã bị mất quá nửa số tiền thu được do kinh doanh nhãn diêm, vì vậy bây giờ chú chỉ tin vào những lời khuyên về chuyên môn của tờ báo trên đây, hoặc cùng lắm là dựa vào những thông tin chú thu nhặt được ở ngoài đường phố.

Tức mình vì bị mất đi 20 đô-la, William quyết định trong những ngày nghỉ lễ Phục sinh thế nào cũng phải tìm cách thu hồi lại. Chú tính xem trừ những buổi chiêu đãi và các việc khác mà mẹ chú cần chú tham gia, còn lại chú chỉ có mười bốn ngày được hoàn toàn tự do. Chừng đó thôi là đủ cho chú có thể tính chuyện làm ăn được. Chú đem bán hết những cổ phần còn lại trong tờ Nhật báo phố Wall, được 12 đô-la. Với số tiền này, chú mua một mảnh gỗ, hai bộ bánh xe, trục, và một sợi dây thừng, tất cả hết năm đô-la sau khi đã mặc cả nhiều lần. Rồi chú đội một chiếc mũ vải và mặc bộ quần áo cũ đã chật và ra ga xe lửa địa phương kiếm ăn. Chú đứng ở ngoài cửa ra vào, trông có vẻ đói và mệt, chờ một số hành khách bước ra ngoài và nói với họ rằng những khách sạn chính ở Boston đều gần ga xe lửa, không cần phải thuê tắc xi hoặc xe cộ gì khác, mà chú sẵn sàng chở hành lý cho họ với 20 phần trăm giá tắc xi thôi. Chú còn thuyết phục họ là đi bộ cho khỏe người. Cứ như thế làm mỗi ngày sáu tlếng chú đã có thể kiếm được suýt soát bốn đô-la. Năm ngày trước khi kỳ học mới bắt đầu, chú đã có thể phục hồi được những khoản bị mất và còn kiếm thêm được 10 đô-la lợi nhuận. Nhưng đến đây chú gặp phải một vấn đề. Những tay lái xe tắc xi đã bắt đầu khó chịu với chú. William bèn nói với họ là chú chỉ mới có chín tuổi, nhưng chú sẵn sàng rút lui khỏi chỗ này nếu mỗi người giúp cho chú 50 xu để chú bù vào cái tiền chú đã phải mua vật liệu để làm lấy chiếc xe chở đồ. Họ đồng ý ngay. Thế là chú lại kiếm được thêm 8,50 đô-la nữa. Trên đường trở về nhà trên đồi Beacon, William bán lại chiếc xe đó với giá hai đô-la cho một bạn học lớn hơn chú hai tuổi, anh bạn kia tưởng có thể kiếm ăn bằng chiếc xe đó được, nhưng những tay lái xe tắc xi không cho, vả lại trời mưa suốt những ngày còn lại trong tuần.

Ngày trở về trường học, William lại gửi tiền vào ngân hàng với lãi suất 2,5 phần trăm. Trong suốt năm học sau đó, chú không có điều gì đáng lo ngại vì tiền tiết kiệm

của chú vẫn tiếp tục tăng lên. Việc con tàu Lusitania bị đắm vào tháng năm 1915 và lời tuyên chiến của Tổng thống Wilson đối với Đức năm 1917 không làm cho William bận tâm. Chú cam đoan với mẹ chú là chẳng có gì và chẳng có ai đánh nổi nước Mỹ đâu. William còn bỏ ra 10 đô-la mua công trái Tự do để chứng minh nhận định của chú là đúng.

Đến ngày sinh nhật lần thứ mười một của William, cuốn sổ thu chi riêng của chú cho thấy chú đã thu được lợi nhuận 412 đô-la. Chú mua tặng mẹ chiếc bút máy và tặng hai cụ bà nội ngoại hai chiếc trâm cài áo mua ở hàng vàng bạc địa phương. Chiếc bút máy có nhãn hiệu Parker, còn hai chiếc trâm được gói vào những hộp đồ trang sức đặc biệt gửi về tận nhà cho hai cụ. Không phải là chú có ý lừa dối gì các cụ bằng những thứ bao bì rất đẹp ấy, mà chính là chú đã rút được kinh nghiệm hồi bán nhãn diêm, biết rằng bao bì càng đẹp càng dễ bán sản phẩm. Các cụ thấy hộp đồ mang nhãn hiệu Shreve, Crump và Loqu, lấy làm hãnh diện về những chiếc trâm của mình và luôn luôn cài trên áo.

Các cụ theo dõi từng bước cúa William và quyết định rằng đến tháng Chín năm tới sẽ chuyển chú lên học ở trường St Paul, ở Concord ban New Hamphires như trước đây đã dự kiến. Chú lại được hưởng học bổng cho môn toán, đỡ được khoản 300 đô-la một năm cho gia đình mà thực ra điều đó không cần thiết. Vì vây mặc dầu William nhận học bống nhưng các cụ vẫn trả lại tiền cho nhà trường để “nhường cho những đứa trẻ ít may mắn hơn”. Anne không thích chuyện William phải xa mẹ để vào trường nội trú, nhưng các cụ đã muốn như vậy, hơn nữa, chị biết rằng trước đây Richard cũng đã muốn như vậy. chị thêu tên đánh dỉấu vào những đồ dùng của William, giầy dép, quần áo, và cuối cùng chị đích thân sửa soạn hòm xiểng cho chú, không nhờ ai giúp đỡ. Khi William sắp sửa lên đường, mẹ chú hỏi chú cần bao nhiêu tiền túi cho học kỳ sắp tới – Con không cần, – Chú trả lời gọn.

William hôn vào má mẹ. Chú không hiểu được mẹ chú sẽ nhớ chú như thế nào. Chú đi xuống đường, mặc chiếc quần dài đầu tiên trong đời, tóc cắt rất ngắn, tay

xách chiếc va-li nhỏ, và tiến đến chỗ anh lái xe Roberts. Chú ngồi lên phía sau chiếc xe Rolls Royce. Chiếc xe đưa chú đi. Chú không ngoái cổ lại. Mẹ chú cứ vẫy tay mãi rồi khóc.

William cũng muốn khóc, nhưng chú biết giá bố còn sống thì bố sẽ không bằng lòng như vậy. Điều đầu tiên Wilham Kane thấy rất lạ là ở trường này, tất cả những học sinh khác không ai cần biết rằng chú là ai. Ở đây không còn những cái nhìn trầm trồ hoặc im lặng thừa nhận sự có mặt của chú nữa. Một đứa nhiều tuổi hơn hỏi tên chú là gì, nhưng sau khi chú nói tên rồi, không thấy nó tỏ vẻ xúc động gì hết. Thậm chí có đứa gọi chú là Bill. Chú đã phải cải chính ngay và giải thích rằng xưa kia không ai gọi bố chú là Dick cả Cơ ngơi mới của chú là một căn phòng nhỏ với những giá sách bằng gỗ, hai chiếc bàn, hai ghế, hai giường với một chiếc ghế dài bọc da đã hơi cũ. Bàn ghế

và chiếc giường kia là của một cậu học sinh khác từ New York đến, có tên là Matthequ Lester. Bố cậu ta là Chủ tịch công ty Lester ở New York, cũng là một gia đình ngân hàng cũ.

William đã sớm quen ngay với những giờ giấc hàng ngày ở trường. Bẩy rưỡi sáng ngủ dậy, tắm rửa, ăn sáng ở phòng ăn lớn với cả trường, 220 học sinh hối hả với những món trứng, thịt rán và cháo kê. ăn sáng xong vào nhà thờ, rồi vào lớp, trước bữa ăn trưa có ba tiết mỗi tiết 50 phút, sau bữa ăn trưa có hai tiết nữa, rồi tiếp theo đó là bài học nhạc mà William rất ghét vì chú không thể nào hát được cho đúng nốt và chú cũng không hề có ý muốn học chơi bất cứ một thứ nhạc cụ nào. Bóng đá vào mùa thu, khúc côn cầu và bóng quần vào mùa đông, chèo thuyền và quần vợt vào mùa xuân, ngoài những thứ đó ra, chú không còn mất thời giờ làm gì khác. Vì là học lớp chuyên toán nên mỗi tuần William lại có ba buổi được phụ đạo đặc biệt do ông thày thuê riêng tên là G. Raglan phụ trách. Bọn trẻ cho ông thày này một biệt danh, gọi là ông “Xấu tính”.

Trong năm học đầu, William tỏ ra rất xứng đáng với học bổng của chú, luôn luôn dẫn đầu ở tất cả các môn và cả trong lớp chuyên toán. Chỉ có anh bạn mới, Matthequ Laster, là đối thủ thực sự với chú, vì hai người cùng ở một phòng với nhau. Trong khi theo học chính quy như vậy, William vẫn tỏ ra mình là một nhà tài chính. Mặc dầu chuyến đầu tư đầu tiên của chú không thành công, chú vẫn không từ bỏ niềm tin của mình là thế nào rồi cũng thu về được món tiền lớn, và chú cho rằng giành được nó trên thị trường chứng khoán mới là quan trọng. Chú theo dõi tờ Nhật báo phố Wall và báo cáo của các công ty. Mới mười hai tuổi, chú đã bắt đầu thí nghiệm làm những cuộc đầu tư vào một hồ sơ giả. Chú ghi lại tất cả những cuộc mua bán giả, cái tốt và cái không tốt lắm, vào một cuốn sổ khác màu, rồi đến cuối tháng đem so sánh những dự tính của mình với thị trường xem sao. Chú không theo những chứng khoán đã có trong danh sách, mà tập trung vào một số những công ty vô danh nào đó không có khả năng mua vào nhiều hơn những cổ phần họ có được. Wilham tự quy ước cho mình bốn điều trong đầu là:

bội số thu nhập thấp, tỷ lệ phát triển cao, cơ sở tài sản mạnh và triển vọng kinh doanh thuận lợi. Chú thấy ít có chỗ nào cổ phần đáp ứng được đầy đủ những tiêu chuẩn chú đặt ra như vậy Nhưng chú tính nếu mình đã làm thì phải trông thấy lợi nhuận mới được.

Đến lúc chú thấy rằng chương trình đầu tư ma của mình đã có thể liên tục thắng được những chỉ tiêu Doqu Jones, thế là William biết rằng đã có thể bỏ tiền ra đầu tư được rồi. Chú bắt đầu với 100 đô-la và luôn luôn cải tiến phương pháp của mình. Chú theo sát lợi nhuận và giảm bớt hao hụt. Một khi chứng khoán tăng lên gấp đôi, chú đem bán ngay một nửa cổ phần, giữ lại nguyên một nửa không suy chuyển và kinh doanh phần chứng khoán còn lại của chú, coi như đó là một phần thưởng của lãi suất.

Một số những công ty chú phát hiện ra lúc đầu, như Eastman Khôngdak và ỊB.M sau trở thành nhữag công ty đứng đầu ở quy mô toàn quốc. Chú cũng ủng hộ cả công ty Sears, một công ty kinh doanh hàm thụ, vì chú cho rằng càng về sau này nó sẽ là một khuynh hướng phổ biến trong cách mua bán.

Vào khoảng cuối năm học đầu tiên ở trường, chú đã trở thành cố vấn cho nửa số nhân viên và một số phụ huynh học sinh về chuyện làm ăn. William Kane thấy mình

trường rất hạnh phúc. William đi học ở St. Paut nên ở nhà chỉ còn có một mình Aune Kane đơn độc với hai bà nội và ngoại giờ đã mỗi lúc một già thêm. Chị lấy làm buồn thấy mình đã ngoài ba mươi rồi, và cái tươi đẹp của tuổi trẻ trước đây bây giờ đã biến đi đâu mất. Chị bắt đầu liên hệ lại với những bạn cũ do cái chết của Richard làm cho đứt đoạn. John và Milly Preston, mẹ đỡ đầu của William, lại mời chị đi ăn và đi xem hát, lần nào cũng chú ý kéo thêm một người đàn ông để cho Anne có bạn. Những người mà vợ chồng Preston mời đi theo thường là những người mà Anne thấy khủng khiếp, và chị cười thầm với mình mỗi khi họ tỏ ra muốn ve vãn.

Cho đến một hôm vào tháng giêng 1919, sau ngày William về nghỉ đông và đã trở lại trường, Anne được mời đến dự bữa ăn thân mật bốn người. Milly thú thật với chị là họ chưa hề gặp người khách này bao giờ, chỉ biết đó là Henry osborue và nghe như trước đây cùng học với John ở Harvard.

Milly nói trên điện thoại:

Thực ra John không biết rõ lắm về anh ấy, có điều John bảo anh ta khá đẹp trai. Về điều này, cả Anne và Milly đều công nhận ý kiến của John là đúng. Lúc Anne

đến, anh ta đang ngồi bên lò sưởi. Anh ta đã đứng ngay dậy để chờ Milly giới thiệu. Người cao lớn, tóc đen, mắt đen, dong dỏng và có dáng thể thao. Anne cảm thấy hài lòng được ngồi nói chuyện buổi tối với một người đàn ông trẻ đẹp và có vẻ cương nghị, còn Milly thì cũng bằng lòng với ông chồng đang bước vào tuổi trung niên so với anh bạn học cũ kia. Henry osborne phải đeo tay vào một sợi băng gần che lấp chiếc ca-vát Harvard trên ngực.

– Anh là thương binh ư? – Anne hỏi với giọng thương cảm.

Không, tội bị ngã cầu thang ngay sau cái tuần ở mặt trận phía Tây về, – Anh ta cười nói.

Đó là một trong những bữa ăn khá hiếm đối với Anne, vì thời gian trôi đi một cách vui vẻ nhẹ nhõm. Henry osbome trả lời tất cả nhữag gì Anne tò mò muốn hỏi. Sau khi rời trường Harvard, anh ta làm việc cho một công ty quản lý nhà đất ở Chicago là nơi anh ta sinh trưởng. Chiến tranh nổ ra, anh không thể không tham gia. Anh có cả một kho chuyện lý thú về Châu âu và về cuộc đời anh đóng vai một trung úy đứng ra bảo vệ danh dự của nước Mỹ ở trận Mame. Từ sau khi Richard mất đi, Milly và John chưa từng thấy Anne cười nhiều như thế bao giờ, và lúc Henry đề nghị đánh xe đưa chị về nhà thì họ mỉm cười nhìn nhau ra vẻ hiểu ý.

Bây giờ sau khi đã trở về với đất của những anh hùng này, anh định sẽ làm gì đây?

Anne hỏi trong khi Henry osbome đánh chiếc xe Stutz ra ngoài và đi vào phố Charles.

Tôi chưa định gì hết, – Anh ta đáp. – May mà tôi còn một ít tiền riêng nên chưa vội lao vào chuyện gì hết. Có thể tôi sẽ tiến hành đặt ngay công ty nhà đất của tôi ở Boston này. Từ hồi ở trường Harvard, tôi vẫn luôn luôn cảm thấy gần gũi với thành phố này.

Vậy anh không quay về Chicago nữa ư ?

Không, tôi chả còn gì ở đó. Cha mẹ tôi đã chết cả, và tôi lại là con một, vì vậy tôi có thể lại bắt đầu ở bất cứ chỗ nào cũng được. Way phía nào đây?

Ô rẽ sang phải ở ngã tư đầu, – Aune nói.

Chị Ở trên đồi Beacon ư?

Vâng. Khoảng hơn một trăm thước phía bên phải trên đường Chesnut, có ngôi nhà đỏ ở góc quảng trường Louisburg ấy.

Henry osborne đỗ xe lại và đưa Anne đến tận cửa nhà Chào và chúc ngủ ngon xong, anh ta đi ngay mà Anne chưa kịp cảm ơn. Chị nhìn theo xe anh ta từ từ đi xuống đồi Beacon, biết rằng thế nào cũng còn gặp lại:

Ngay sáng hôm sau, chị lấy làm sung sướng tuy không ngạc nhiên lắm thấy anh ta gọi điện thoại lại cho chị.

Dàn nhạc giao hưởng Boston, Mazart với một nhân tài mới rất ầm ĩ, Mahler, vào thứ hai tới, mời chị đi được không.

Anne bối rối thấy mình mong cho chóng đến thứ hai. Hình như đã lâu lắm chị mới thấy có một người mà chị cho là hấp dẫn theo đuổi chị. Henry osbonle đến rất đúng giờ hẹn. Hai người bắt tay nhau hơi ngượng ngập. Chị mời anh ta uống một cốc quisky.

Ờ trên quảng trường Louisburg này cũng thú vị lắm nhỉ. Chị thật là một người may mắn.

Vâng, có lẽ thế. Thực ra tôi cũng không để ý lắm. Tôi sinh trưởng trên Đại lộ Commonquealth kia. Tôi thì lại cho là ở chỗ này hơi bí.

Tôi đang nghĩ nếu tôi quyết định ở lại Boston thì có thể mua một ngôi nhà ở ngay trên đồi này.

Người ta không có sẵn nhà bán như vậy nhiều lắm đâu, – Anne nói. – Nhưng có thể anh sẽ may mắn mua được. Ta đi thôi chứ) Đi nghe hòa nhạc mà đến muộn và phải giẵm lên chân người khác để vào chỗ ‘lgồi của mình thì chán lắm.

Henry liếc nhìn đồng hồ tay.

Vâng, tôi cũng thấy thế. Vả cũng còn phải xem nhạc trưởng bước vào nữa chứ. Tuy nhiên, chị không phải lo giẵm lên chân ai trừ chân tôi, vì chúng ta ngồi đầu hàng ghế.

Sau buổi hòa nhạc thú vị ấy, Henry cầm tay Anne dẫn chị vào nhà hàng Ritz, và anh ta cho điều đó là tự nhiên. Từ sau khi Richard mất, chỉ có William là người đã cầm tay chị nhưng phải nói mãi chú mới làm vì chú cho rằng như thế là có tính đàn bà. Lại một lần nữa, thời gian trôi qua nhanh, không biết đó là do rnón ăn ngon hay do có Henry cùng đi? Lần này, anh ta kể những chuyện về Harvard làm cho chị cười, và những kỷ niệm về chiến tranh khiến chị phải khóc.

Mặc dầu chị rất biết rằng trông bề ngoài anh ta trẻ hơn chị, nhưng đời anh ta đã trải qua rất nhiều sự kiện nên ngồi trước mặt anh ta, chị cảm thấy mình bé nhỏ và ngây thơ hơn nhiều. Chị nói lại cho anh ta biết về cái chết của chồng chị, và lại khóc. Anh ta cầm lấy tay chị. Chị nói về đứa con trai của mình với một niềm kiêu hãnh và trìu mến. Anh ta nói là vẫn mong muốn có một đứa con trai. Henry rất ít nói đến Chicago hay đời sống gia đình riêng của mình, nhưng Anne biết chắc là anh ta thấy thiếu gia đình lắm.

Đêm đó đưa chị về nhà, anh ta nán ngồi lại uống rượu một lát rồi lúc ra về hôn vào má chị. Trước khi ngủ, Anne ôn lại trong đầu từng phút hai người đã sống với nhau.

Ngày thứ ba, họ lại cùng nhau đi xem hát. Thứ tư, họ rủ nhau lên thăm ngôi nhà nghỉ hè của Anne ở Bờ Bắc. Thứ năm, rủ nhau về nông thôn Massachusetts phủ đầy băng tuyết. Thứ sáu, đi mua đồ cổ và thứ bẩy thì làm tình với nhau. Sau ngày chủ nhật, hai người hầu như không rời nhau nữa. Milly và John Preston hoàn toàn sung sướng thấy việc giới thiệu của mình như thế là đã rất thành công. Milly đến khắp nơi ở Boston khoe với mọi người rằng chính chị đã làm cho hai ngườl gắn bó với nhau được.

Không ai ngạc nhiên đối với việc hai người tuyên bố đính hôn với nhau mùa hè năm đó, trừ có một người là William. Chú đã tỏ ra không thích Henry ngay từ cái hôm Anne, với một vẻ ngần ngại, đã giới thiệu hai người với nhau. Câu chuyện đầu tiên diễn ra dưới dạng Henry thì hỏi rất nhiều, tỏ ra muốn thân mật, nhưng Wilham thì toàn trả lời nhát gừng, ra vẻ không ưa anh ta. Từ đó William vẫn cứ như thế. Anne cho rằng chẳng qua con mình ghen đó thôi, vì sau Richard qua đời chỉ có William là người thân yêu nhất. Hơn nữa, William ìuôn luôn cho rằng sau khi bố chú mất đi, trên đời này không thể có ai thay thế vào được nữa. Anne cố thuyết phục Henry rằng với thời gian rồi William sẽ thay đổi tính nết và thái độ lạnh nhạt của chú.

Anne Kane trở thành bà Henry osborne vào tháng mười năm đó ở nhà thờ lớn của giáo phái E-pi-xcô-panli St. Paul, đúng vào lúc lá vàng bắt đầu rụng, tức là khoảng hơn chín tháng kể từ ngày họ mới gặp nhau. William giả vờ ốm để khỏi đến dự đám cưới, và chú cũng quyết định ở lại trường luôn. Các cụ bà nội ngoại đều có tham dự nhưng không giấu được sự bất bình của các cụ đối với việc Anne tái giá, nhất là lại đi lấy một người có vẻ trẻ hơn chị rất nhiều. Bà nội Kane nói:

– Thế nào rồi cũng kết thúc bằng một tai họa.

Đôi vợ chồng mới ngay ngày hôm sau đáp tầu đi Hy Lạp cho đến tận giữa tháng chạp mới trở về căn nhà đỏ trên đồi, vừa đúng lúc để đón Wilham về nghỉ những ngày lễ Giáng sinh. William khó chịu thấy ngôi nhà đã trang hoàng lại, hầu như không còn dấu vết gì của cha chú nữa. Wa lễ Giáng sinh, thái độ của William đối với ông bố dượng vẫn không tỏ ra dịu đi chút nào, mặc dầu Henry đã tặng chú chiếc xe đạp mới và chú cũng hiểu đó là một thứ hối lộ. Henry osbome vẫn kiên nhẫn chịu đựng thái độ ấy và không thèm nói gì nữa. Anne lấy làm buồn thấy ông chồng mới tuyệt vời của mình không tỏ ra cố gắng tranh thủ cảm tình gì của con mình nữa.

William cảm thấy bực dọc về chuyện ngôi nhà của mình bị người khác xâm chiếm, chú thường biến đi đâu chơi cả ngày. Khi Anne hỏi chú đi đâu, chú chỉ ậm ừ hoặc không nói gì. Các cụ bà cũng thấy vắng chú nhưng không hỏi. Những ngày nghỉ lễ Giáng sinh vừa hết là William trở lại trường ngay. Thấy chú đi, Henry cũng không lấy gì làm buồn. Còn Anne thì lấy làm lo ngại đối với cả chồng và con.

***

Dậy đi! Bé con? Dậy đi! Một tên lính thúc báng súng vào cạnh sườn Wladek. Chú giật mình ngồi dậy, nhìn nấm mộ của chị chú, cả Leon và của Nam tước. Rồi chú ngước nhìn tên lính. Chú không còn giọt nước mắt nào nữa.

Tôi sẽ sống. Anh không giết tôi được, – Chú nói bằng tiếng Ba-Lan. – Đây là nhà của tôi. Các anh đang ở trên đất của tôi.

Tên lính nhổ toẹt vào Wladek một cái và đẩy chú về bên bãi cỏ đang có tất cả đám người hầu ở đó, người nào cũng mặc bộ áo ngủ màu xám trên lưng đều có ghi số. Vừa trông thấy thế Wladek đã khiếp sợ. Chú biết là mình sẽ không tránh khỏi số phận ấy. Tên lính dẫn chú về phía sau lâu đài và bảo quỳ xuống.

Chú nghe có tiếng dao trên đầu và thấy mớ tóc đen rậm của chú rụng xuống cỏ. Chỉ độ mươi nhát như thế là họ đã cạo sạch tóc trên đầu chú, chẳng khác gì người ta cắt lông cừu. Sau đó chú được lệnh mặc vào người bộ đồng phục mới, tức bộ áo ngủ màu xám gồm một chiếc sơ mi rộng thùng thình và một chiếc quần. Wladek cố giấu chiếc vòng bạc đeo ở cổ tay. Rồi chú được dẫn ra nhập bọn với đám người hầu ở phía trước lâu đài Họ đứng chờ trên bãi cỏ. Bây giờ không ai còn tên gì nữa, chỉ có số. Wladek bỗng nghe xa xa có tiếng ồn rất lạ tai. Chú quay về hướng có tiếng ghê rợn ấy. Một chiếc xe từ ngoài cổng sắt lớn tiến vào. Xe này có bốn bánh, không có ngựa hay bò kéo mà nó di chuyển được Tất cả tù nhân đều nhìn vào đó mà không tin ở mắt mình. Khi chiếc xe đó dừng lại, bọn lính kéo đám tù nhân đến gần và bắt trèo lên xe. Rồi chiếc xe không có ngựa kéo ấy quay đầu đi ra ngoài những hàng cổng sắt. Không một ai dám mở miệng nói gì.

Wladek ngồi phía sau xe, đăm đăm nhìn lại tòa lâu đài của chú cho đến lúc không còn thấy những tháp gôtích trên nóc nó nữa.

Chiếc xe không có ngựa kéo chạy về phía làng Slonim. Wladek vừa không hiểu sao chiếc xe đó chạy được vừa không biết nó đưa mọi người đi đâu. Chú bắt đầu nhận ra những con đường chú đã từng đi học trước đây. Ba năm sống dưới hầm lâu đài khiến chú không còn nhớ được những con đường ấy đi đến tận nơi nào. Đi được mấy dặm thì chiếc xe dừng lại và mọi người bị xua xuống. Ra đây là nhà ga xe lửa.

Wladek chỉ mới trông thấy chỗ này một lần trong đời, tức là khi chú cùng Leon ra đón Nam tước ở Warsaqu về. Chú còn nhớ là khi họ bước vào sân ga thì người lính gác ở đó đã giơ tay chào. Lần này không có ai chào, và tù nhân thì chỉ được uống sữa dê, ăn. súp củ cải và bánh mì đen. Wladek lại được đứng ra nhận thức ăn về đem chia cho mười ba người còn lại với chú. Chú ngồi trên một chiếc ghế gỗ và đoán rằng họ đang chờ một chuyến xe lửa. Đêm đó, mọi người nằm ngủ trên đất nhìn trời sao. Nếu so với căn hầm thì đây đã là thiên đường rồi. Chú cảm ơn Chúa là mùa đông này không lấy gì làm rét lắm.

Đến sáng hôm sau, mọi người vẫn chờ đợi. Wladek hướng dẫn mọi người vận động một chút, nhưag chỉ được vài phút thì phần lớn đã gục xuống. Chú bắt đầu nhẩm trong bụng để nhớ tên những người cho đến hôm nay còn sống sót. Tất cả còn lại có mười hai người đàn ông, hai người đàn bà, trong số hai mươi bảy người đã bị giam trong hầm trước đây. Cả ngày hôm ấy họ vẫn cứ phải ngồi chờ chuyến xe lửa mà không thấy nó đến. Có một chuyến tàu đến nhưng chỉ thả thêm lính xuống đây, rồi lại đi mà không chở đám người của Wladek. Họ lại ngủ một đêm nữa trên đất.

quladek nằm nhìn lên trời sao trong bụng nghĩ không biết có thể làm thế nào để trốn đi được. Trong đêm, một trong số mười ba người của chú bỏ chạy sang bên kia đường xe lửa, nhưng chưa sang được đến nơi đã bị lính bắn chết. Wladek chăm chăm nhìn vào chỗ đồng bào của chú vừa ngã xuống. Chú sợ không dám cbạy ra cứu vì rất có thể lại cùng chịu số phận ấy Sáng hôm sau, bọn lính gác cứ để xác chết đó nằm trên đường để đe những người khác đừng có bắt chước chạy mà chết.

Không ai nói gì về chuyện đã xảy ra, nhưng suốt ngày hôm đó mắt Wladek không rời được người đã chết. Người đó chính là Ludquik, một trong hai người đã đến làm chứng lúc Nam tước dặn dò. để lại gia tài cho Wladek.

Vào buổi tối ngày thứ ba, một chuyến xe lửa khác từ từ lăn bánh vào ga. Một chiếc đầu tầu rất to chạy bằng hơi nước kéo theo một lô toa chở hàng và chở hành khách. Những toa chở hàng chất đầy rơm và hai bên sườn có viết chữ Gia Súc. Một số toa khác đã chở toàn những tù nhân mà Wladek trông họ cũng nhem nhuốc như đám người của chú vậy. Chú và tốp người của chú bị vứt ìên một trong những toa đó để bắt đầu một cuộc hành trình. Phải chờ mấy tiếng đồng hồ nữa đoàn tàu mới bắt đầu ra khỏi ga và đi về một hướng mà Wladek đoán là hướng Đông vì mặt trời đang lặn phía sau.

Cứ ba toa lộ thiên thì có một lính gác ngồi bắt tréo chân ở toa trên có mái. Suốt

dọc đường tưởng như không bao giờ hết ấy, thỉnh thoảng lại có tiếng súng bắn trên tàu, khiến Wladek nghĩ có muốn chạy trốn cũng vô ích.

Lúc tàu đỗ lại ở Minsk, họ được cho ăn một bữa đầu tiên gồm bánh mì đen, nước uống, lạc và kê. Rồi lại đi tiếp Có khi họ đi đến ba ngày trời mà chẳng thấy một ga nào. Rất nhiều người trên tàu này bị đói lả và chết. Họ bị vứt xuống đường trong khi tàu đang chạy. Khi tàu dừag lại, có khi họ phải chờ đến hai ngày đề nhường đường cho tàu khác đi về phía Tây.

Những chuyến tàu ấy thường là chở đầy lính. Wladek hiểu ra là tàu chở quân đội bao giờ cũng được ưu tiên đi trước. Trong đầu Wladek lúc nào cũng chỉ nghĩ đến chuyện trốn, nhưng có hai điều khiến chú chưa dám thực hiện tham vọng ấy. Thứ nhất là chú thấy hai bên đường tàu chỉ toàn là rừng thẳm không biết đến đâu mới hết, và thứ hai là tất cả những người còn sống sót ở nhà hầm ra đây đều chỉ biết dựa vào chú. Chính Wladek là người lo ăn uống cho họ và cố động viên cho họ còn muốn sống. Chú là người trẻ nhất trong cả bọn và cũng là người cuối cùng tin ở cuộc sống.

Từ đây trở đi, đêm nào cũng rất lạnh, có khi lạnh tới 30 độ dưới không. Họ phải nằm sát vào nhau trên sàn để người nọ truyền hơi ấm sang cho người kia.

Wladek thầm đọc lại những đoạn Aeneid để cố ngủ cho được. Nếu một người muốn giở mình thì tất cả những người khác đều phải đồng ý giở mình một lượt mới được. Wladek nằm ở đằng đầu và cứ qua mỗi giờ đồng hồ, chú đoán như vậy vì chỉ có thể căn cứ vào bọn lính đổi gác, thì chú lại ìấy tay gõ vào thành xe và mọi người lại cứ thế trở mình quay sang phía kia.

Một đêm, có một người không trở mình được nữa. Họ báo cho Wladek biết và chú báo lại cho tên lính gác biết. Đó là một người đàn bà trong nhóm, và bà ta đã chết. Phải bốn người mới nhấc được xác bà ta lên và vứt xuống cạnh đường trong khi tàu vẫn đang chạy.

Tên lính gác còn bắn theo xác chết một loạt đạn nữa đề biết chắc rằng đó không phải là người định trốn.

Đi quá Minsk hai trăm dặm, họ đến một thị trấn tên là Smolensk. Ở đây họ được ăn súp củ cải nóng hơn với bánh mì đen. Trong toa xe của Wladek có thêm mấy tù nhân nữa, và mấy người này nói cùng một thứ tiếng với bọn lính gác. Người cầm đầu nhóm mới này hình như cũng cùng tuổi với Wladek. Wladek với mười một người còn lại trong nhóm, mười đàn ông, một đàn bà, đã thấy nghi ngờ ngay bọn mới lên này. Họ chia toa xe ra làm hai nửa, mỗi nhóm ở một bên toa.

Một đêm trong khi Wladek đang nằm thức và ngắm nhìn trời sao, chờ cho người nóng lên, chú bỗng thấy tên cầm đầu của nhóm người mới lên ở Smolenski bò đến chỗ người nằm ngoài của nhóm chú, tay hắn cầm một sợi dây thừng. Chú trông rõ thấy hắn luồn sợi dây vào cổ Alphons lúc này đang ngủ. Alphons là người hầu cận của Nam tước trước đây. Wladek biết rằng nếu mình nhổm dậy ngay thì hắn sẽ nghe

thấy và chạy về đầu toa bên kia, vì thế chú khẽ bò dọc theo nhóm người của chú. Họ biết chú bò qua mình nhưng không ai lên tiếng.. Đến cuối hàng, chú nhảy chồm lên người tên kia. Mọi người trong toa thức dậy ngay. Ai nấy kéo dồn về một đầu toa, trừ có Alphons nằm lại đó không động đậy. Tên cầm đầu đám Smolenski cao lớn và nhanh nhẹn hơn Wladek. Nhưng vật nhau trên sàn toa thì cũng như nhau cả. Cuộc đấu diễn ra đến mấy phút.

Bọn gác nhìn cười và đánh cuộc xem ai được. Một tên thấy đánh nhau mà không có máu thì không thích, bèn quẳng một chiếc lưỡi lê xuống giữa sàn tàu. Cả hai tranh nhau giành lấy lưỡi lê sáng loáng. Tên Smolenski vớ được trước. Hắn đâm một nhát vào cạnh chân Wladek tóe máu. Bọn người Smolensk thấy thế hoan hô. Nhát đâm thứ hai trượt qua tai Wladek cắm xuống sàn tàu. Hắn chưa kịp rút lười lê lên được thì Wladek đã dùng hết sức mình thúc một cái thật mạnh vào dái hắn. Hắn ngửa người ra sau và phải rời tay khỏi lưỡi lê, quladek chồm lên, nắm lấy cán lưỡi lê và đè lên người tên Smolenski, thọc một nhát vào miệng hắn. Hắn thét lên một tiếng làm náo động cả đoàn tàu. Wladek rút lưỡi lê ra rồi lại liên tiếp thọc xuống mấy nhát nữa cho đến khi tên kia hết cựa quậy.

Wladek quỳ lên người hắn thở dốc rồi lát sau nhấc người hắn lên vứt ra ngoài tàu. Chú nghe rõ tiếng xác hắn rơi đánh huych xuống cạnh đường tàu và cả tiếng súng của bọn gác bắn theo.

Wladek loạng choạng đi đến chỗ Alphons còn nằm đó. Chú quỳ xuống bên cạnh.

Anh ta đã chết thật rồi. Thế là người làm chứng thứ hai của chú cũng chết nốt.

Bây giờ còn có ai tin được Wladek là người Nam tước đã chọn ra để thừa kế gia sản của ông nữa? Cuộc đời thế là không còn mục đích gì nữa rồi.

Chú cúi gục xuống, nắm chặt hai tay vào cán và xoay mũi lưỡi lê vào bụng. Bỗng một tên lính gác nhảy xuống giằng lưỡi lê ra khỏi tay chú.

ô không được, không được, – Hắn càu nhàu.

“Chúng tao cần có những người sống như mày ở trong trại giam. Đừng hòng chúng tao làm mọi việc, nghe không”.

Wladek ôm hai tay lên đầu. Bây giờ chú mới thấy đau buốt ở chỗ chân bị lưỡi lê đâm lúc nãy. Chú đã mất hết cả gia tài, để bây giờ cầm đầu luôn cả lũ người Smolenski kia nữa. Cả toa tàu bây giờ là giang sơn của chú, và chú phải quản hai chục tù nhân. Chú lập tức chia họ ra để mỗi người Ba-lan bao giờ cũng nằm kề với một người Smolenski, và như vậy giữa hai nhóm không còn có chuyện lục đục với nhau được nữa.

Wladek bỏ thì giờ ra đề học cái ngôn ngữ quái lạ của họ. Mãi sau chú mới biết đó chính là tiếng Nga, rất khác với thứ tiếng Nga cổ điển mà Nam tước đã dạy cho chú. Và bây giờ thì chú biết là đoàn tàu đi về hướng nào.

Ban ngày, chú lấy ra hai người Smolenski để dạy tiếng của họ cho chú. Khi nào

hai người đó mệt quá rồi, chú lại lấy hai người khác, cứ thế cho đến lúc cả bọn người đó mệt rũ.

Dần dần chú đã có thể nói chuyện dễ dàng với bọn người mới phụ thuộc vào chú. Chú phát hiện ra một số trong bọn đó là lính Nga, sau khi về nước bị đi đày ngay về cái tội đã để cho bọn Đức bắt làm tù binh. Số còn lại là người Bạch Nga, toàn là dân làm ruộng, làm mỏ và lao động bình thường nhưag đều là những người rất chống đối cách mạng.

Đoàn tàu đi tiếp đến những vùng đất trơ trụi mà Wladek chưa hề thấy bao giờ. Họ đi qua những thị trấn chú cũng chưa từng nghe nói đến bao giờ, như omsk, ovosibirsk, Krasnoyarsk. Chỉ những nghe đến tên thôi chú cũng đã thấy sợ. Cuối cùng, sau hai tháng trời và qua hơn ba ngàn dặm họ đến được irkutsk, và đến đây là hết đường sắt.

Họ bị xua ra khỏi tàu, được cho ăn uống và được phát những đôi giày bằng da thô, và những chiếc áo choàng rất nặng. Họ phải tranh nhau để giành lấy áo ấm nhưng cũng chẳng có thứ áo nào chống nổi cái lạnh mỗi lúc một ghê gớm hơn.

Lúc sau thấy xuất hiện những chiếc xe không có ngựa kéo, giống như loại xe Wladek đã thấy lúc rời khỏi lâu đài. Họ quẳng xuống một loạt những dây xích. Các tù nhân bị khóa một tay vào dây xích dài ấy mỗi bên hai mươi lăm ngưởi. Bọn lính gác trèo lên xe, còn đám tù nhân đi theo với dây xích buộc vào xe.

Họ cứ đi bộ như thế liền trong mười hai tiếng đồng hồ, được nghỉ lại hai tiếng rồi lại đi tiếp. Sau ba ngày. Wladek tưởng mình sẽ chết vì lạnh và mệt, nhưng ra khỏi những vùng có dân cư rồi, họ chỉ phải đi ban ngày, còn ban đêm được nghỉ. Một bếp lưu động của tù nhân trong trại cứ sáng ra và tối trước khi nghỉ cho họ ăn xúp củ cải và bánh mì. Wladek hỏi những tù nhân trong trại thì được biết rằng tình hình ở đó còn tệ hơn.

Trong tuần đầu, họ không được tháo ra khỏi xích nhưng dần dà thấy không ai có thể nghĩ đến trốn chạy được nữa, họ được tháo xích vào ban đêm để ngủ. Tù nhân phải tự đào lấy hố trong tuyết để tìm chỗ ấm. Đôi khi vào những ngày nắng ráo họ tìm được một khu rừng để ngả lưng, nằm ngổn ngang khắp chỗ. Họ vẫn tiếp tục đi qua những hồ nước rất rộng và những con sông băng giá. Họ đi mãi về phía bắc, gió càng lạnh, tuyết càng dầy. Chỗ chân bị thương của Wladek luôn luôn đau buốt, nhưng đến giờ thì hai tai và các đầu ngón tay bị giá lạnh còn buốt hơn nữa. Chung quanh là cả một khoảng mênh mông trắng toát, không có dấu hiệu gì của sự sống và thứ gì ăn được.

Wladek biết rằng ban đêm có trốn đi đâu thì cũng sẽ chỉ chết mòn vì đói. Những người già yếu ốm đau thì đêm đêm chết dần, và như thế họ cũng còn là may mắn. Còn những người không may, không bước đi được nữa, thì được tháo ra khỏi xích và bỏ lại một mình trong bãi tuyết vô tận. Những người còn sống sót với dây xích lại đi tiếp, đi

mãi về phía bắc, cho đến lúc Wladek hoàn toàn không còn khái niệm gì về thời gian nữa, chỉ còn biết tay mình vẫn bị khoá vào xích. Chú cũng không còn nhớ là mình đã đào hố vào trong tuyết đề ngủ đêm và sáng hôm sau tỉnh dậy như thế nào nữa. Những ai không còn biết được như vậy coi như đã sắp đào mồ để chôn chính mình rồi. Sau một chặng dài chín trăm dặm, những người nào còn sống sót thì được dân ostyak đem xe trượt do hươu kéo ra đón. Ostyak là dân du mục trên thảo nguyên Nga. Bây giờ tù nhân lại bị xích vào những xe trượt ấy và được dẫn đi tiếp. Gặp một trận bão tuyết lớn đoàn tù phải dừng lại mất gần hai ngày. Wladek tranh thủ nói chuyện được với một tay ostyak trẻ trên chiếc xe trượt mà chú đang bị xích vào đó. Chú dùng thứ tiếng Nga cổ với giọng Ba lan để nói lõm bõm với anh ta được ít câu. Chú phát hiện ra một điều là dân ostyak cũng rất ghét những người Nga ở phía nam, vì họ đối đãi với dân này tồi tệ chẳng khác gì với các tù nhân. Dân ostyak do đó cũng có phần nàó cảm tình với những người tù tội nghiệp không có tương lai này. Họ gọi tù nhân ìà những người bất hạnh.

Chín ngày sau, trong ánh sáng mờ mờ của đêm mùa đông Bắc cực, họ đến được Trại 201. Wladek không thể nào ngờ được rằng mình còn có cái may mà trông thấy chỗ này. Trước mắt chú là một dãy những căn lều bằng gỗ và một khoảng không gian mênh mông trống rỗng. Những căn lều cũng đánh số như tù nhân vậy. Lều của Wladek số 33. Giữa căn lều có một chiếc lò nhỏ đen sì. Chung quanh là những dãy giường ván có đệm rơm ở trên với chiếc chăn mỏng.

Trong đêm đầu không có mấy tù nhân ngủ được. Tiếng gào tiếng khóc trong Lều 33 có khi còn to hơn cả tiếng gầm rú của chó sói ở bên ngoài.

Sáng hôm sau, ngay từ lúc mặt trời chưa mọc, họ đã bị tiếng gõ vào thanh sắt tam giác đánh thức dậy.

Sương giá đóng đầy cả hai mặt cửa sổ khiến Wladek nghĩ thế nào mình cũng chết rét. ăn sáng chỉ được kéo dài mười phút trong một gian chung lạnh buốt với một bát cháo kê hơi âm ấm trong có vài miếng cá mòi và một cọng rau cải nổi lềnh bềnh. Những người mới đến bỏ xương cá lên bàn, nhưng những tù nhân đã quen với cảnh ở đây rồi thì ăn hết xương và cả mắt cá nữa.

ăn sáng xong, họ được giao nhiệm vụ. Wladek trở thành anh chặt củi. Anh được dẫn đi bảy dặm đến một khu rừng hoang và được lệnh mỗi ngày phải chặt được một số cây nhất định. Tên lính gác bỏ anh lại đó với nhóm sáu người và suất ăn của họ gồm có một ít cháo kê vàng nhạt nhẽo và bánh mì. Bọn lính gác không sợ có tù nhân nào dám trốn, vì đến được thị trấn gần đó nhất cũng phải một nghìn dặm và dù có biết hướng đi cũng không đi nổi.

Đến cuối ngày tên lính gác sẽ quay lại đếm số củi đã chặt được. Anh ta cũng đã nói trước với tù nhân là nếu chặt không đủ số củi quy định thì anh ta sẽ giữ thức ăn lại đến hôm sau mới phát. Nhưng lúc anh ta quay lại thì đã bảy giờ tối, chỉ còn thu thập

được cho đầy đủ tù nhân thôi, chứ không nhìn được xem họ đã chặt bao nhiêu củi. Wladek bày cho những người trong nhóm biết cách để một phần thời gian buổi chiều quét dọn tuyết trên đống củi đã chặt hôm trước và xếp vào cùng với củi chặt hôm sau. Cách đó của anh rất có hiệu quả, vì vậy nhóm của Wladek không ngày nào bị cắt suất ăn cả. Đôi khi họ cố gắng đem theo một ít củi về trại bằng cách buộc nó vào chân ở trong quần, để đến đêm có thể cho vào lò mà sưởi.

Nhưng họ cũng phải rất cẩn thận vì mỗi lần ra vào đều bị khám xét kỹ lưỡng. Nếu chẳng may bị bắt mang theo gì trong người, họ có thể bị phạt ba ngày không được ăn.

Wa mấy tuần nữa, cái chân của. Wladek bị cứng ra và rất đau. Anh mong cho có những ngày cực rét, vì khi nào thời tiết xuống tới 40 độ dưới không thì họ không phải đi làm ở ngoài trại, mặc dầu ngày ở nhà ấy sẽ phải thế bằng một ngày chủ nhật khác, mà chủ nhật thì họ thường được phép nằm nghỉ cả ngày trên giường Một buổi tối trong khi Wladek đang vác củi, anh bỗng thấy chân mình đau nhức không thể chịu nổi. Nhìn xuống vết sẹo do tên Smolenski gây ra, anh thấy nó sưng vù lên và bóng đỏ. Đêm đó anh giơ vết thương cho tên lính gác xem. Hắn bảo anh đến sáng mai sớm phải báo cho bác sĩ của trại biết. Wladek ngồi suốt đêm áp chân vào gần lò. Chung quanh lò toàn những ủng ướt. Lửa trong lò quá yếu nên không làm cho anh bớt đau tí nào.

Hôm sau Wladek dạy sớm hơn bình thường một giờ vì anh nghĩ nếu không gặp được bác sĩ trước giờ làm việc thì sẽ lại phải để đến hôm sau nữa. Nếu để qua một ngày nữa thì Wladek không thể chịu đau nổi.

Anh đến báo cáo với bác sĩ, ghi tên và số tù của anh. Pierre Dubien hóa ra là một ông già dễ tính. Ông ta hói đầu, hơi gù lưng. Wladek nghĩ có lẽ ông ta còn già hơn cả Nam tước trước khi qua đời. Bác sĩ khám chân Wladek và không nói gì.

Vết thương có việc gì không, thưa bác sĩ? – Wladek hỏi. Anh nói tiếng Nga được à?

Thưa được.

Mặc dầu, anh sẽ bị thọt, nhưng chân anh rồi sẽ khỏi. Nhưng khỏi để làm gì? Để suốt đời đi chặt củi ư?

Không, thưa bác sĩ, cháu có ý muốn trốn và trở về Ba-lan, Wladek nói.

Bác sĩ chằm chằm nhìn anh.

Nói khẽ chứ, ngốc ở đâụ… Đến bây giờ thì anh biết là không trốn được chứ. Chính tôi đã bị bắt ở đây mười lăm năm nay rồi, và không một ngày nào là tôi không nghĩ đến trốn. Nhưng không có cách nào được. Chưa hề có ai trốn mà lại sống được, mà chỉ nói đến chuyện trốn không thôi cũng đã bị phạt giam mười ngày dưới xà-lim, mà ở đó thì ba ngày người – Ta mới cho anh ăn một lần, còn lò thì đốt chỉ đủ để tan giá ở trên tường thôi. Wa được cái đoạn trừng phạt ấy mà anh còn sống là may lắm rồi đấy.

– Cháu sẽ trốn, nhất định trốn, – Wladek nhìn ông già nói.

Bác sĩ nhìn vào mắt Wladek và mỉm cười.

Này anh bạn ơi, chớ có nhắc đến chuyện trốn nữa, kẻo họ có thể giết anh đấy. Anh trở về làm việc đi, cố giữ cho cái chân tiếp tục vận động, rồi mỗi sáng đến đây cho tôi xem.

Wladek trở về rừng chặt củi, nhưng anh thấy bây giờ mình chỉ kéo được gỗ đi mấy bước thôi. Chân đau đến mức anh tưởng như nó sắp rụng ra. Sáng hôm sau trở lại chỗ bác sĩ, ông ta khám chân anh cẩn thận hơn.

Chà, gay go đây, – Bác sĩ nói. – Anh bao nhiêu tuổi rồi?

Có lẽ cháu mười ba rồi, – Wladek nói. Năm nay là năm bao nhiêu ạ?

Một nghìn chín trăm mười chín, – Bác sĩ đáp.

Vâng, mười ba. Còn ông bao nhiêu? – Wladek hỏi. Ông ta nhìn xuống đôi mắt xanh của cậu thanh niên, hơi lấy làm ngạc nhiên về câu hỏi.

Ba mươi tám, – Ông khẽ nói. – Ôi lạy Chúa, – Wladek nói.

Nếu anh bị tù mười lăm năm thì cũng sẽ già như tôi thôi, – Bác sĩ nói với một giọng bình thản.

Nhưng tại sao ông lại ở đây chứ? – Wladek nói. Tại sao đã bao nhiêu lâu thế mà họ không để cho ông đi?

Tôi bị bắt ở Moscoqu năm 1904, ngay sau khi, tôi có danh nghĩa bác sĩ. Tôi làm việc cho sứ quán Pháp ở đó Họ bảo tôi là gián điệp, nên bỏ tôi vào tù ở Moscoqu. Tôi nghĩ cho đến sau cách mạng cũng vậy.

Họ tống tôi vào cái địa ngục này đây. Ngay cả đến những người Pháp cũng quên rằng tôi còn sống. Cả thế giới chả ai tin được là có một chỗ như thế này. Ở cái Trại Hai-Không-Một này chưa từng có ai ở cho đến hết hạn được, vì vậy tôi sẽ chết ở đây như một người khác mà thôi. Có điều chưa chết ngay được đâu.

Không, ông không nên mất hy vọng, Bác sĩ ạ.

Hy vọng ? Tôi đã mất hết hy vọng từ lâu rồi. Có lẽ anh thì không, nhưng anh nên nhớ là đừng có nhắc đến hy vọng ấy với bất cứ ai. Ở đây có những tù nhân họ chỉ nghe nói thế là đi báo cáo ngay, để nhận về một phần thưởng hoặc đó là thêm một miếng bánh hoặc một chiếc khăn mà thôi. Bây giờ thế này nhé. Wladek, tôi sẽ cho anh làm việc phụ bếp trong một tháng, và suốt thời gian đó sáng nào anh cũng phải đến báo cáo. Đó là cơ hội duy nhất để anh khỏi mất cái chân kia, mà tôi có cưa chân của anh đi thì cũng chẳng sung sướng gì. Ở đây chúng tôi không có những dụng cụ giải phẫu tốt lắm đâu, – Ông vừa nói vừa nhìn lên một con dao to.

Wladek rùng mình sợ hãi.

Bác sĩ Dubien viết tên Wladek lên một mẩu giấy. Sáng hôm sau Wladek xuống trình diện dưới nhà bếp.

Anh được giao việc rửa bát đĩa trong nước lạnh cóng và chuẩn bị thức ăn không cần phải ướp lạnh. Sau một thời gian phải chặt củi suốt ngày, anh thấy đây là một sự

thay đổi đáng mừng. Được ăn thêm súp cá, thêm bánh mì đen, và nhất là được ở trong nhà ấm áp. Có hôm anh được nhà bếp chia cho một nửa quả trứng mà không ai biết rằng đó là trứng con gì. Chân anh đã dần dần khỏi, tuy phải hơi chịu thọt một chút. Bác sĩ Dubien không thể có được thứ thuốc gì tử tế mà chữa cho anh, chỉ biết theo dõi từng ngày vậy thôi.

Ngày giờ trôi qua, bác sĩ trở thành người bạn của Wladek, thậm chí còn tin ở hy vọng của tuổi trẻ đối với tương lai. Mỗi sáng hai người thường nói chuyện với nhau bằng các thứ ngôn ngữ, nhưng người bạn mới kia thích nhất là được nói tiếng Pháp vì đó là tiếng mẹ đẻ.

Trong bảy ngày nữa, Wladek, anh sẽ phải trở lại với nhiệm vụ Ở trong rừng. Bọn lính gác sẽ khám phá cái chân của anh, và tôi sẽ không thể giữ anh ở lại trong bếp nữa. Vậy anh nghe kỹ tôi nói đây nhé, vì tôi đã có một kế hoạch cho anh trốn đi.

Cùng trốn, bác sĩ. – Wladek. – Chúng ta cùng trốn.

Không, chỉ mình anh thôi. Tôi nhiều tuổi rồi, không đi được xa như thế, mặc dầu hơn mười lăm năm nay lúc nào tôi cũng mơ đến chuyện trốn. Tôi sẽ chỉ làm vướng chân anh thôi. Biết có ai trốn đi được là tôi đủ hài lòng rồi, và anh là con người đầu tiên tôi gặp khiến tôi tin rằng anh có thể thành công được.

Wladek yên lặng ngồi trên sàn nghe bác sĩ nói kế hoạch của ông.

Trong mười lăm năm qua, tôi đã dành dụm được hai trăm rúp. Đây là tiền làm “ngoàì giờ” nhưng không phải như một tù nhân Nga đâu. – Wladek nhăn nhó cười. – Tôi giấu tiền trong một chai thuốc. Có bốn tờ mỗi tờ năm mươi rúp. Khi nào anh đi thì phải khâu tiền đó vào trong áo. Tôi sẽ làm việc đó cho anh.

áo nào? – Wladek hỏi.

Tôi có một bộ quần áo và một sơ mi trước đây mười hai năm đã mua lại được của một tên lính gác, và hồi đó tôi còn tin ở chuyện trốn được. Bộ quần áo không mới lắm, nhưng có thể phục vụ cho mục đích của anh được.

Mười lăm năm dành dụm được hai trăm rúp, một chiếc sơ mi và một bộ quần áo, thế mà bác sĩ sẵn sàng chỉ trong chốc lát hy sinh tất cả những cái đó cho quladek. Suốt đời mình, Wladek sẽ chẳng còn bao giờ được thấy một hành động quên mình như thế nữa.

Thử năm tới sẽ là cơ hội duy nhất của anh, – Bác sĩ nói tiếp. – Tù nhân mới sẽ đến irkutsk bằng xe lửa. Bọn ìính gác bao giờ cũng lấy bốn người của nhà bếp để tổ chức những chuyến xe thức ăn cho bọn người mới đến.

Tôi đã thu xếp với “bếp trưởng” – Ông ta buồn cười với cái từ đó để anh được lên xe thức ăn. Tôi đem một ít thuốc đánh đổi cho anh ta đấy. Không khó khăn gì lắm đâu. Thực ra không ai muốn đi một chuyến đến tận đó rồi lại quay về đây, nhưng anh thì chỉ đi một lượt ra đến đó thôi. Wladek vẫn nghe rất kỹ.

Ra .đến ga, anh hãy chờ cho đến khi nào tàu chở tù nhân vào ga. Một khi họ đã

xuống sân ga cả rồi thì anh chạy qua đường sắt rồi nhảy lên chuyến tàu sẽ đi Moscoqu, mà chỉ sau khi tàu chở tù nhân đến rồi thì tàu đó mới khởi hành được vì bên ngoài ga chỉ có một đường tàu thôi. Anh phải mong làm sao cho đến lúc có hàng trăm tù nhân mới chạy đi chạy lại như thế thì bọn gác mới không để ý đến chuyện anh biến mất được. Từ lúc đó trở đi là tuỳ anh định liệu. Nên nhớ rằng nếu chúng trông thấy anh là chúng bắn liền chứ không cần hỏi han gì hết. Tôi chỉ có thể giúp anh được một điều này nữa. Mười lăm năm từ khi tôi bị đưa đến đây, tôi đã vẽ trong đầu óc một bản đồ con đường đi từ Moscoqu đến Thổ nhĩ kỳ. Có lẽ đến bây giờ nó không còn chính xác nữa nhưng có thể đáp ứng cho mục đích của anh được. Anh phải tìm hiểu cho chắc chắn xem người Nga họ đã chiếm đóng Thổ-nhĩ-kỳ chưa. Có Trời mà biết được cho đến nay họ đã làm những gì. Theo tôi biết thì có thể họ cũng đã kiểm soát được cả nước Pháp nữa.

Bác sĩ bước vào phòng thuốc và lấy ra một cái chai lớn trông như đựng một chất gì đó màu nâu. Ông mở nút và lấy ra một tấm da khô đã cũ. Nét mực đen qua năm tháng đã bị nhạt màu, mang chữ “Tháng mười 1904”. Trên mảnh da vẽ con đường từ Moscoqu đến odessa và từ odessa đi Thổ nhĩ ‘kỳ, tất cả 1.500 dặm đường đi đến tự do.

Trong tuần này, mỗi sáng anh cứ phải đến đây và chúng ta sẽ lại bàn thêm về kế hoạch này. Nếu như không thành công thì đó không phải là do thiếu chuẩn bị.

Mỗi đêm, Wladek thức giấc nhìn ra ánh sáng mờ mờ ngoài cửa sổ, thử nghĩ trước những tình huống bất ngờ xem mình sẽ đối phô như thế nào. Đến sáng, anh lại đem bàn thêm với bác sĩ. Vào tối thứ tư trước ngày WTladek định trốn, bác sĩ gấp mảnh bản đồ đó làm tám, cùng để với bốn tờ bạc 50 rúp vào một gói nhỏ và ghim nó vào bên trong tay áo của bộ đồ. Wladek cởi bỏ quần áo cũ, mặc chiếc sơ mi vào người rồi lại mặc quần áo tù ra ngoài. Lúc anh mặc lại thì cặp mắt của bác sĩ bỗng trông thấy chiếc vòng bạc của Nam tước Từ khi mặc áo tù, anh vẫn luôn luôn đeo nó lên trên khuỷu tay vì sợ bọn lính gác trông thấy sẽ cướp mất của quý duy nhất còn lại đó của anh.

Cái gì thế? – Bác sĩ hỏi. – Trông rất đẹp đấy – Đây là quà tặng của cha tôi, – Wladek nói. Tôi có thể tặng lại ông để tỏ lòng cảm tạ của tôi được không? Anh trút chiếc vòng xuống cổ tay và đưa cho bác sĩ.

Bác sĩ nhìn chiếc vòng bạc một lúc lâu rồi cúi đầu nói:

Không nên. Thứ này chỉ có thể thuộc về một người thôi. – Ông im lặng nhìn anh. – Hẳn cha anh là một người cao quý lắm.

Bác sĩ đeo trả lại chiếc vòng bạc vào cổ tay Wladek, rồi bắt tay anh nồng nhiệt.

Chúc anh may mắn, Wladek. Có lẽ chúng ta không bao giờ còn gặp nhau nữa. Họ Ôm chầm lấy nhau và bước ra ngoài. Anh cầu cho đây là đêm cuối cùng của

mình ở trong lều trại giam. Anh không sao ngủ được suốt đêm đó, chỉ sợ một trong những tên lính gác phát hiện ra bộ quần áo dưới áo tù Tiếng chuông buổi sáng vừa

vang lên, anh đã mặc xong quần áo và xuống bếp sớm. Tù nhân bếp trưởng đẩy Wladek đi lên trước khi bọn lính gác đến kiểm soát xe thức ăn. Tổ phục vụ chọn ra có bốn người tất cả. Wladek là trẻ nhất trong đám.

Tại sao lại thằng này? – Một tên gác chỉ tay vào Wladek hỏi:

Wladek như chết đứng và khắp người lạnh run. Kế hoạch của bác sĩ thế là hỏng, và phải ba tháng nữa mới lại có một đợt tù nhân nữa đến trại. Đến lúc đó thì anh sẽ không còn ở bếp nữa.

Nó nấu bếp rất giỏi, – Tù nhân bếp trưởng nói. – Nó được rèn luyện trong lâu đài của một Nam tước đấy Chỉ có nó mới nấu ăn được ngon lành cho lính gác thôi.

thế đấy, – Tên lính gác nói, nghi ngờ không bằng tham ăn. Vậy thì nhanh lên. Cả bốn người chạy ra xe, rồi đoàn xe lên đường. Cuộc hành trình lại một lần nữa

chậm chạp, vất vả, nhưng lần này ít nhất anh không phải đi bộ và cũng không lạnh chết người vì bây giờ đang là mùa hè. Wladek làm việc cật lực đề chuẩn bị thức ăn. Anh không muốn để ai chú ý đến mình. Suốt dọc đường anh chỉ nói vài câu với bếp trưởng là Atanislaqu. Cuối cùng, sau khi họ đã đến được irkutsk tính ra hết gần mười sáu ngày. Chuyến tàu chờ đi Moscoqu đã nằm sẵn ở ga. Nó đã đến đây mấy tiếng đồng hồ rồi nhưng không thể bắt đầu cuộc hành tnnh quay trở về Moscoqu chừng nào chuyến tàu chở tù nhân mới chưa đến được. Wladek cùng với mấy người làm bếp ngồi chờ ở sân ga bên này, ba người không quan tâm đến gì khác chung quanh, còn một người chú ý theo dõi đoàn tàu ở bên kia sân ga. Có nhiều cửa lên tàu, nhưng Wladek đã ngắm trước một cửa để đến lúc là anh sẽ nhảy lên đó.

Anh có định trốn không? Atanislaqu chợt hỏi.

Wladek toát mồ hôi nhưng không trả lời.

Đúng là anh định trốn rồi – Atanisla chăm chăm nhìn anh. Wladek vẫn không nói gì.

ông bếp già vẫn nhìn anh thanh niên mười ba tuổi, rồi ông ta gật đầu ra vẻ tán

thành. Giá như anh có cái đuôi thì nó đã vẫy ngay rồi.

-Chúc anh may mắn. Tôi sẽ cố làm cho họ không để ý đến chuyện anh vắng mặt, được chừng nào hay chừng đó.

Atanislaqu nắm lấy tay anh. Wladek nhìn thấy đòàn tàu chở tù nhân ở ngoài xa đang từ tử tiến đến chỗ họ ngồi. Anh cảm thấy căng thẳng, tim dồn dập, mắt theo dõi cử chỉ của từng tên lính. Anh chờ cho đến khi đoàn tàu kia dừng hẳn, nhìn theo đám tù nhân trên tàu đổ xuống sân ga. Họ có hàng trăm người, dáng mệt mỏi, không tên không tuổi. Trong lúc sân ga .đang bề bộn một đống người và bọn lính gác bận rộn, Wladek chui xuống dưới gầm đoàn tàu chở tù nhân rồi nhẩy lên đoàn tàu sẽ đi Moscoqu. Không một ai trên tàu để ý đến anh lúc đó vào phòng vệ sinh ở cuối toa. Anh cài cửa lại rồi đứng bên trong chờ, bụng lâm râm cầu nguyện, chỉ sợ có ai gõ cửa. Wladek cứ đứng như thế không biết bao nhiêu lâu rồi mới thấy đoàn tàu bắt đầu lăn

bánh ra khỏi ga. Thực ra, chỉ có mười bảy phút.

Thế là xong, thế là xong, – Anh thốt lên. Anh nhìn qua khung cửa sồ con của buồng vệ sinh, thấy nhà ga nhỏ dần và xa dần, đám tù nhân mới đã bị xích tay vào nhau sắp sửa lên đường về Trại 201, và bọn lính gác thì vừa cười vừa xích họ lại. Không biết sẽ có bao nhiêu người sống sót khi về đến trại? Bao nhiêu người sẽ làm mồi cho chó sói? Bao lâu nữa thì họ biết là thấy thiếu anh?

Wladek ngồi trong buồng vệ sinh thêm mấy phút nữa, không dám động đậy và không biết bây giờ mình phải làm gì. Bỗng có tiếng đập cửa. Wladek nghĩ ngay, không biết đó là tên ìính gác hay người soát vé? Bao nhiêu hình ảnh diễn ra trong óc anh, mỗi hình ảnh một ghê sợ hơn. Anh thấy cần phải sử dụng buồng vệ sinh một lần xem sao. Tiếng đập cửa vẫn tiếp tục.

Nhanh lên, nhanh lên, – Một giọng Nga ồm ồm lên tiếng.

Wladek không chần chừ được nữa. Nếu là một tên lính thì anh sẽ không có lối thoát. Cửa sổ nhỏ thì đến một chú bé tí hon cũng không chui lọt qua được.

Nhưng nếu không phải là một tên lính thì việc anh ở lâu trong này chỉ càng khiến người ta chú ý. Anh cởi bỏ bộ áo tù, cuộn nó lại thành một túm nhỏ rồi vứt ra ngoài cửa sổ. Sau đó lấy ra một chiếc mũ mềm để sẵn trong túi bộ đồ đội lên đầu bị cạo trọc và mở cửa bước ra. Một người đàn ông sốt ruột đẩy cửa bước vào Wladek chưa ra khỏi thì thấy ông ta đã tụt quần ngồi xuống.

Ra đến hành lang rồi, Wladek thấy mình bơ vơ ghê gớm, lại thêm khiếp sợ đối với bộ đồ lạc hậu mình đang mặc trên người, khác nào như một quả táo nằm giữa đống cam. Anh lập tức lại đi tìm ngay một chỗ nào khác có buồng vệ sinh. Tìm được một chỗ không có người, anh chui tọt ngay vào đó, khóa cửa lại, rồi tháo gỡ mấy tờ bạc 50 rúp giấu ở trong tay áo ra. Anh giấu trở lại ba tờ, rồi quay ra hành lang. Anh tìm đến một toa nào đông người nhất rồi rúc vào ngồi trong một góc toa. Mấy người ngồi giữa toa đang đánh súc sắc ăn vài rúp Wladek đã quen chơi trò này với Leon ở lâu đài và lần nào cũng được, nên anh rất muốn nhập vào đám người kia nhưng lại sợ đánh được thì họ chú ý đến mình ngay. Họ vẫn ngồi đánh rất lâu, và Wladek dần dần nhớ lại những thủ thuật của mình. Anh chợt thấy thèm đem 200 rúp của mình ra mà sử dụng lúc này.

Một tay chơi bị thua khá nhiều bỗng rút ra và ngồi xuống bên cạnh Wladek, miệng chửi thề.

Số ông không may rồi, – Wladek lên tiếng. Anh cũng muốn nói lên xem giọng mình thế nào.

A, đúng là không may, – Tay kia nói. – Ngày nào tớ cũng đánh được với bọn nông dân ấy, nhưng tớ cạn mất tiền rồi.

Ông có muốn bán cái áo của ông không? – Wladek hỏi.

Tay chơi này là một trong số ít hành khách trên toa khoác chiếc áo lông cừu dầy

đẹp và ấm như vậy.

ông ta nhìn cậu thanh niên.

Cậu không mua nổi đâu. – Wladek nghe giọng nói của ông ta thì biết là mình sẽ có thể mua được. – Tớ sẽ đòi bảy mươi lăm rúp.

Tôi trả ông bốn chục, – Wladek nói.

Sáu chục, – Tay chơi kia nói.

Không. Sáu chục là ít nhất thì tớ mới bán được. Chiếc áo này giá hơn một trăm rúp kia đấy, – Tay chơi nói.
áo cũ rồi, – Wladek nói và nghĩ bụng sẽ lấy tiền trong tay áo ra cho đủ, nhưng rồi anh lại thôi vì sợ làm người ta chú ý đến mình. Anh đành chờ một dịp khác vậy. Wladek không muốn tỏ ra mình có thể mua được chiếc áo. Anh sờ tay vào cái cổ và nói với một giọng khinh khỉnh? – Ông bạn ơi, đắt quá đấy. Thôi, năm chục rúp, không thêm một xu nào nữa. – Wladek đứng dậy làm như sắp bỏ đi chỗ khác.

Khoan, khoan, – Tay chơi kia nói. – Tớ để cho cậu năm chục rúp vậy.

Wladek móc túi lấy ra tờ bạc năm mươi rúp và tay chơi kia cũng cởi tấm áo đổi lấy tờ bạc đỏ đã cũ. Chiếc áo đối với Wladek quá rộng và dài gần chấm đất, nhưng chính anh đang cần như thế để che bộ đồ bên trong hơi lộ liễu. Anh nhìn tay chơi trở lại chỗ đánh bạc và thấy ông ta lại thua nữa. Từ ông thày mới trước đây, anh đã học được hai điều, đó là:

chớ bao giờ đánh bạc trừ phi anh có thủ thuật giỏi và chắc ăn, và khi đã mặc cả đến mức nhất định nào đó thì nên bỏ đi là vừa.

Wladek bỏ sang ngồi toa khác, trong bụng cảm thấy yên tâm hơn với chiếc áo mới mua được. Anh bắt đầu nhìn ngắm toa tàu đề tìm hiểu. Hình như các toa chia làm hai hạng, hạng phổ thông trong đó hành khách chỉ có đứng hoặc ngồi trên những dẫy ghế gỗ, và hạng đặc biệt trong đó anh rất lạ thấy chỉ có một người đàn bà ngồi mà thôi. Bà ta cỡ trung niên và ăn mặc có vẻ sang trọng hơn mọi hành khách khác trên tàu Bà ta mặc chiếc áo xanh thẫm và quàng một tấm khăn trên đầu. Wladek nhìn bà ta ngập ngừng. Bà ta mỉm cười, khiến anh yên tâm bước vào trong toa.

Tôi ngồi được không?

Xin mời, – Người đàn bà nhìn anh nói.

Wladek không nói gì nữa. Anh đề ý nhìn người đàn bà và những đồ đạc chung quanh. Bà ta có nước da nhợt và hơi nhăn nheo, to béo quá khổ, có lẽ vì ăn nhiều. Mớ tóc ngắn và đen, mắt nâu, có thể như đã từng một thời hấp dẫn. Bà có hai chiếc túi to bằng vải để ở giá trên đầu với một chiếc va-li con để bên cạnh.

Mặc dầu đang trong hoàn cảnh nguy hiểm như vậy, nhưng Wladek thấy mình đã mệt quá không chịu nổi nữa. Anh đang nghĩ không biết mình có dám ngủ đi ở đây không, thì nguời đàn bà lên tiếng.

Anh đi đâu?

Câu hỏi bất chợt làm Wladek giật mình.

Moscoqu, – Anh nói và nín thở.

– Tôi cũng đi Moscoqu, – Bà ta nói.

Wladek bắt đầu cảm thấy toa xe nảy vắng vẻ quá và lấy làm chột dạ về điều mình vừa nói ra, dù chỉ là một câu. Anh nhớ là bác sĩ đã dặn:

“Chớ nói chuyện với ai. Nhớ đấy đừng có tin ai hết.

Nhưng Wladek cũng yên tâm thấy bà ta không hỏi gì thêm nữa. Anh vừa cảm thấy thế thì người soát vé đến. Wladek bắt đầu toát mồ hôi, mặc dầu lúc đó thời tiết là hai mươi độ âm. Người soát vé cầm lấy tấm vé của người đàn bà, xé một đoạn rồi trả lại cho bà ta và quay sang Wladek.

Vé, anh bạn, – Ông ta nói gọn lỏn, bằng một giọng trầm buồn. Wladek không biết nói gì, chỉ sờ vào túi áo để tìm ít tiền.

Nó là con tôi, – Người đàn bà nói ngay.

Người soát vé quay lại nhìn bà ta, rồi lại nhìn Wladek, cúi đầu chào bà ta rồi bỏ đi không nói câu gì.

Wladek ngước nhìn bà ta.

Cảm ơn bà – Anh khẽ nói, và không biết làm gì hơn nữa.

Tôi đã trông thấy anh chui dưới gầm đoàn xe tù,- Người đàn bà bình thản nói. Wladek cảm thấy rụng rời, – Nhưng tôi không tố cáo anh đâu. Tôi cũng có một người anh em họ Ở trong cái trại khủng khiếp ấy, và tất cả chúng tôi ai cũng biết về những trại ấy đều sợ rằng sẽ có một ngày mình phải vào đấy. Anh mặc đồ gì dưới chiếc áo này?

Wladek định bụng chạy ra ngoài cởi chiếc áo lông, nhưng nếu chạy ra ngoài kia thì trên tàu không còn chỗ nào khác mà trốn được. Anh đành chỉ cời khuy ngoài.

Thế này cũng không có gì đáng ngại lắm đâu, – Bà ta nói.

Vậy còn bộ áo tù anh để đâu?

Tôi vứt ra ngoài cửa sổ.

Mong rằng họ không tìm thấy nó trước khi anh đến Moscoqu.

Anh có chỗ nào ở Moscoqu không?

Anh lại nghĩ đến lời dặn eủa bác sĩ là đừng có tin ai, nhưng anh nghĩ tin bà này thôi.

Tôi không có chỗ nào cả.

Vậy anh có thể ở với tôi đến khi nào anh tìm được một chỗ khác. Chồng tôi là trưởng ga ở Moscoqu, và toa xe này chỉ giành cho những quan chức chính phủ thôi – Bà ta giải thích. – Nếu anh lại nhầm một lần như thế nữa thì họ cho anh ngồi xe trở về irkutsk ngay.

Bây giờ tôi có nên đi không? – Wladek hồi hộp.

Không, vì người soát vé đã trông thấy anh rồi. Lúc này anh ở đây với tôi thì được yên. Anh có giấy tờ gì không?

– Không. Giấy tờ như thế nào?

Từ sau cách mạng, mỗi người công dân Nga đều phải có giấy chứng minh để người ta biết mình là ai, ở đâu làm gì, nếu không sẽ phải ngồi tù cho đến khi có được những giấy tờ ấy. Nếu không có được thì sẽ ngồi tù mãi, – Bà ta thủng thẳng nói. – Vậy đến Moscoqu, anh phải đi sát bên tôi, và nhớ là đừng có mở miệng.

Bà đối với tôi tốt quá, – Wladek nói với vẻ ngờ vực – Bây giờ Nga hoàng đã chết rồi, trong chúng ta đây chẳng có ai yên thân được đâu. Tôi may mắn mà lấy được một người có thế, – Bà ta nói tiếp. – Còn không có người công dân nào ở nước Nga này, kể cả các quan chức chính phủ, mà lại không sống trong nỗi lo sợ là có thể bị bắt và đưa vào trại giam. Tên anh là gì?

Wladek.

Tốt. Bây giờ anh ngủ đi, Wladek, vì trông anh mệt mỏi lắm. Đường thì còn rất xa, mà anh thì cũng chưa an toàn được đâu.

Wladek ngủ ngay.

Lúc anh tỉnh dậy thì mấy tiếng đồng hồ đã trôi qua nhưng trời bên ngoài đã tối. Anh nhìn người đàn bà đã che chở cho mình, bà ta mỉm cười nhìn lại.

Wladek thầm mong có thể tin được bà ta, đừng có nói với các quan chức rằng anh là ai. Hay là bà ta đã nói rồi? Bà ta lấy ra ít. thức ăn trong gói đưa cho Wladek. Anh yên lặng ăn. Tàu dến ga sau, hầu hết hành khách bước xuống. Một số xuống hẳn, một số chỉ đề ruỗi chân ruỗi tay, nhưng phần lớn là tìm xem có gì uống được không.

Người đàn bà trung niên đứng dậy nhìn Wladek nói:

Đi theo tôi.

Anh đứng dậy theo bà ta xuống sân ga. Bà ta đem anh nộp lại chăng? Nhưng không, bà ta giơ tay ra và anh cầm lấy tay bà như bất cứ đứa trẻ mười ba tuổi nào đi theo mẹ vậy. Bà đi đến một nhà vệ sinh có chữ để dành cho phụ nữ. Wladek ngập ngừng đứng lại. Bà cứ bảo anh vào. Vào đến bên trong rồi, bà bảo Wladek cời bỏ quần áo ra. Anh ngoan ngoãn nghe theo. Từ sau khi Nam tước qua đời, anh chưa nghe theo ai như vậy. Trong khi anh cởi quần áo, bà mở vòi nước gần đó Một làn nước vừa lạnh vừa đục chầm chậm chảy ra. Bà thấy kinh tởm, nhưng với Wladek thì nước này còn khá hơn nhiều so với nước trong trại giam. Người đàn bà bắt đầu lấy mảnh giẻ ướt lau những vết xây xát trên người anh. Bà nhăn mặt khi trông thấy vết thương xù xì ở chân. Wladek đau nhưng không xuýt xoa tí nào, và bà lau rất nhẹ.

– Về đến nhà, tôi sẽ chữa chạy cho anh tử tế, – Bà nói. – Còn ở đây hãy tạm thế này

đã.

Bà trông thấy chiếc vòng bạc ở tay anh. Bà đọc những chữ trên đó rồi nhìn kỹ

Wladek, và hỏi:

Cái này có phải của anh không? Anh lấy nó của ai thế ? Wladek hơi giận.
Tôi không lấy của ai. Bố tôi cho tôi trước khi ông chết.

Bà ta lại chăm chăm nhìn anh, nhưng cái nhìn lần này khác. Không biết đó là sợ hay tôn kính? Bà ta cúi đầu nói :

Anh phải cẩn thận đấy, Wladek. Người ta có thể giết anh vì cái của quý này đấy. Anh gật đầu và bắt đầu mặc vội quần áo vào. Họ quay trở lại toa xe. Tàu chậm lại

ga một giờ đồng hồ là chuyện thường. Đến khi đoàn tàu lại bắt đầu lăn bánh, Wladek cảm thấy mừng lại được nghe tiếng bánh xe lạch cạch ở dưới. Tàu đi mất mười hai ngày rưỡi thì đến Moscoqu. Khi người soát vé mới xuất hiện, Wladek và người đàn bà lại diễn lại những động tác như cũ Wladek thì tỏ ra còn nhỏ dại và người đàn bà thì tỏ ra một người mẹ. Người soát vé cúi chào người đàn bà trung niên ấy, và Wladek bắt đầu nghĩ rằng ở nước Nga thì những trưởng ga hẳn phải là những người rất quan trọng.

Sau khi đã hoàn thành chuyến đi một ngàn dặm đến Moscoqu, Wladek coi như đã tin hẳn ở người đàn bà và mong chóng được trông thấy ngôi nhà của bà ta.

Tàu đến ga vào đầu buổi chiều. Mặc dầu đã trải qua một đoạn đường dài như thế. Wladek vẫn thấy khiếp sợ không hiều rồi tình hình sẽ ra sao. Anh chưa được thấy một thành phố lớn nào bao giờ, nói gì đến thủ đô của toàn nước Nga. Anh cũng chưa được thấy nhiều người như thế bao giờ, và ai cũng đi lại vội vã Người đàn bà hiểu được tâm trạng anh lúc này.

Đi theo tôi, đừng nói gì và đừng có bỏ mũ ra.

Wladek lấy hai cái túi của bà ở trên giá xuống, kéo chặt cái mũ lên đầu lúc này đã lởm chởm ít tóc đen, rồi bước theo bà xuống sân ga. Một đống người đang nối nhau ở trước thang chắn để chờ ra khỏi một cánh cửa rất nhỏ.

Họ ùn lại vì mỗi người phải xuất trình giấy tờ cho lính gác. Bước đến gần cái thang chắn ấy, Wladek thấy tim mình đập thình thình như trống trận.

Nhưng đến lượt họ thì nỗi sợ lại tan bỉến đi rất nhanh. Người lính gác chỉ liếc nhìn vào giấy tờ của người đàn bà.

Đồng chí, – Anh ta nói và giơ tay chào. Rồi nhìn Wladek.

vâng, mời đồng chí. – Anh ta lại chào. Thế là Wladek đã ở Moscoqu.
Mặc dầu đã đặt hết lòng tin vào người đồng hành mới này, linh tính đầu tiên của

Wladek là muốn bỏ chạy. Nhưag với 150 rúp thì không thể sống được nên anh quyết định hãy chờ đã, để khi nào có dịp sẽ chạy.

Một chiếc xe ngựa đã chờ sẵn ở ngoài ga để đưa người đàn bà với đứa con mới của bà ta về nhà. Ông trưởng ga không có đấy, nên bà đã tranh thủ xếp ngay một cái

giường cho Wladek nằm. Rồi bà đun nước đổ vào một chiếc thùng kẽm lớn và bảo anh ngồi vào đó. Đây là lần tắm đầu tiên của anh sau hơn bốn năm, trừ lần hụp xuống sông trước đây. Bà lại đun thêm nước nóng nữa và bảo anh tắm với xà phòng. Bà cọ lưng cho anh.

Nước tắm dần dần đục ngầu. Wladek lau khô người rồi, bà bôi thuốc lên chân tay cho anh và băng bó vào những chỗ bị nặng. Bà nhìn vào bộ ngực chỉ có một bên vú và lấy làm lạ. Anh mặc vội quần áo và theo bà vào bếp. Bà đã chuẩn bị một bát súp nóng với đậu. Wladek háo hức ăn như ăn tiệc. Hai người không ai nói gì. Anh ăn xong rồi, bà khuyên anh tốt nhất là lên giường ngủ một giấc..

Tôi không muốn cho ông nhà.tôi trông thấy anh trước khi tôi cho ông ấy biết tại sao anh ở đây – Bà giải thích. – Anh có muốn ở đây với chúng tôi không, Wladek, nếu chồng tôi đồng ý?

Wladek gật đầu cảm ơn.

Vậy anh đi ngủ ngay đi, – Bà nói.

***

Wladek nghe lời bà, trong bụng thầm mong ông chồng bà sẽ cho phép anh được ở lại đây. Anh chậm chạp cởi quần áo và trèo lên giường. Người anh đã sạch sẽ lắm rồi, khăn trải giường cũng rất sạch, đệm rất mềm. Anh bỏ chiếc gối lên sàn nhà. Tất cả những tiện nghi đó đều rất mới lạ nhưng anh đã quá mệt rồi nên nằm ngủ thiếp đi từ lúc nào không biết. Mấy tiếng đồng hồ sau, anh bỗng tỉnh dậy vì nghe có tiếng nói to

trong bếp. Anh không biết là mình đã ngủ được bao lâu. Bên ngoài trời đã tối. Anh bò ra khỏi giường bước đến mở hé cửa và nghe rõ hai người đang nói chuyện trong bếp.

Bà thật ngốc, – Wladek nghe một giọng hơi gắt. – Bà không hiểu là nếu họ bắt được thì sẽ rắc rối như thế nào ư Có thể là bà bị người ta tống vào trại giam đấy – Nhưng, Poitr, ông không biết là nó như một con thú bị săn đuổi ấy.

Thế là bà muốn bản thân chúng ta sẽ như những con thú bị săn đuổi chứ gì, – Người đàn ông nói. – Có ai trông thấy nó không?

Không, không có ai đâu, – Người đàn bà nói.

Thế thì cảm ơn Chúa. Phải cho nó đi ngay trước khi có ai biết là nó ở đây. Chỉ còn cách đó thôi.

Nhưag đi đâu, Poitr? Nó lạc lõng và không quen biết một ai, – Người đàn bà che chở cho Wladek nói. – Mà tôi thì vẫn mong có đứa con trai.

Tôi không cần biết bà muốn gì hay là nó đi đâu. Nó không phải là trách nhiệm của chúng ta, và chúng ta phải tống nó đi cho nhanh chóng.

Nhưng, Poitr, tôi nghĩ nó là dòng dõi quý tộc. Hình như bố nó là một Nam tước. Nó có đeo một chiếc vòng bạc ở cổ tay, trên đó có những chữ….

Như thế lại càng rắc rối. Bà không biết là các nhà lãnh đạo mới đã ra lệnh như

thế nào ư? Không Nga hoàng, không vua chúa, không đặc quyền đặc lợi gì hết. Mà chúng ta cũng chẳng cần phải đến trại giam nữa cơ, các nhà cầm quyền có thể bắn chết mình luôn chưa biết chừng.

Chúng ta vẫn mong có đứa con trai, Poitr. Chẳng lẽ chúng ta không dám mạo hiểm chuyện này được ư?

– Bà mạo hiểm được, nhưng tôi thì không. Tôi bảo nó phải đi và đi ngay.

Wadek không cần nghe họ nói gì thêm nữa. Anh nghĩ cách duy nhất để đỡ cho bà ta là người đã có ơn với anh là iến hẳn vào đêm tối. Anh vội mặc quần áo vào và nhìn lại chiếc giường, chỉ mong không phải chờ thêm bốn năm nữa mới lại được nằm một chiếc giường như thế Anh đang tìm cách.mở cứa sổ thì cửa ra vào phòng bỗng bật tung và ông trưởng ga bước vào Người ông ta nhỏ bé, không cao hơn Wladek nhưng có cái bụng to và cái đầu hói chung quanh chỉ còn ít sợi bạc chải qua loa tưởng như một bộ tóc giả.

ông ta đeo đôi mắt kính không có gọng khiến dưới mỗi con mắt có nét hằn đỏ trũng xuống. Tay ông ta cầm chiếc đèn nến. Ông ta đứng nhìn Wladek. Wladek nhìn lại như thách thức.

Đi xuống dưới này, – Ông ta ra lệnh. Wladek miễn cưỡng theo ông ta xuống bếp. Người đàn bà đang ngồi khóc bên bàn.

Bây giờ chú bé nghe đây nhé – Ông ta nói.

Tên nó là Wladek, – Người đàn bà chen vào.

Bây giờ chú bé nghe đây, – Ông ta nhắc lại. – Anh sẽ gây ra chuyện rắc rối ở đây, vì vậy tôi muốn anh phải đi khỏi chỗ này và đi càng xa càng tốt.

Tôi cho anh biết là tôi sẽ làm như thế này để giúp anh nhé. Giúp ư? Wladek nhìn ông ta không nói.

Tôi sẽ cho anh một cái vé tàu. Anh muốn đi đâu?

Odessa, – Wladek nói. Anh không biết nơi đó là ở đâu và đây đến đó hết bao nhiêu tiền. Anh chỉ biết đó là thành phố thứ hai bác sĩ vẽ trên bản đồ để từ đó mà đi đến tự do.

Odessa, hừ, nơi sản sinh ra tội ác, thật là một địa chỉ thích hơp đấy, – Ông trưởng ga cười khẩy. – Đến đó thì anh chỉ gặp toàn những người như anh và rắc rối thêm mà thôi.

Thế thì đề nó ở lại đây, Piotr. Tôi sẽ chăm nom cho nó, tôi sẽ….

Không, không bao giờ. Tôi thà mất tiền cho nó còn hơn.

Tôi sẽ cho nó tấm vé và một giấy thông hành đi làm việc ở odessa. – Ông ta quay sang Wladek. – Anh lên tàu đó đi rồi, nếu tôi còn trông thấy anh hay nghe nói đến anh

Moscoqu, tôi sẽ báo cho người ta bắt và giam anh ở một nhà tù nào gần đây nhất. Rồi người ta sẽ tống anh trở lại cái trại đó ngay, nếu không thì họ cũng bắn anh luôn.

ông ta nhìn lên chiếc đồng hồ trên bếp:

đã mười một giờ năm phút. Ông ta quay sang phía vợ.

Có chuyến tàu đi odessa vào mười hai giờ đêm. Tôi sẽ tự đưa nó ra ga. Tôi muốn biết chắc chắn là nó đã rời Moscoqu rồi. Anh có hành lý gì không?

Wladek vửa sắp trả lời không thì người đàn bà đã nói ngay:

Có để tôi đi lấy cho nó.

Wladek với ông trưởng ga nhìn nhau hằn học. Người đàn bà đi một lúc lâu. Chuông đồng hồ đánh lên một tiếng. Hai người vẫn không ai nói gì. Mắt ông trưởng ga không rời khỏi Wlađek. Bà vợ Ông ta quay lại tay cầm một gói giấy màu nâu có buộc dây cẩn thận Wladek nhìn gói giấy, định lên tiếng từ chối nhưng thấy trong ánh mắt của bà có cái gì như sợ hãi, nên anh chỉ biết nói:

Cảm ơn bà.

Hãy ăn cái này đi đã, – Bà ta nói và đẩy bát súp nguội đến chỗ anh.

Anh nghe theo. Mặc dầu bụng anh lúc này vẫn còn đang rất no, nhưng anh cũng ăn bát súp thật nhanh để bà ta khỏi phiền lòng.

Súc vật – Người đàn ông nói.

Wladek ngước nhìn ông ta, mắt đầy căm giận. Anh lấy làm tội nghiệp cho người đàn bà phải sống với một ông chồng như vậy suốt đời.

– Đi thôi, chú bé, – Ông trưởng ga nói. – Mau kẻo lỡ tàu thì phiền lắm.

Wìadek theo người đàn ông ra khỏi bếp. Anh ngập ngừng một chút khi đi qua chỗ người đàn bà đứng. Anh giơ tay ra và bà ta khẽ nắm lấy tay anh. Không ai nói gì, nhưng có nói cũng không nói được gì. Ông trưởng ga với con người tị nạn ấy vừa đi vừa nấp qua mấy phố tối của Moscoqu và đến ga. Ông ta lấy một chiếc vé đi một lượt đến odessa và đưa cho Wladek.

Còn giấy thông hành của tôi đâu? – Wladek hỏi. Ông ta rút ở túi trong ra một tấm giấy, ký vội vào đó rồi kín đáo đưa cho Wladek. Ông ta để ý nhìn quanh xem có thể có gì nguy hiểm không. Trong bốn năm qua, Wladek đã từng trông thấy những đôi mắt giống như của ông trưởng ga này nhiều lần rồi. Đó là đôi mắt của một anh hèn.

Đừng để tôi trông thấy anh hay nghe nói đến anh nữa nhé, .- Ông trưởng ga nói. Giọng nói thì ra vẻ hách dịch. Trong bốn năm qua,Wladek cũng đã được nghe những giọng nói như thế nhiều lần.

Anh nhìn lên ông ta, định nói lại, nhưng ông ta đã đi vào bóng đêm mất rồi. Wladek nhìn vào những người đi qua trước mặt anh. Cũng những đôi mắt sợ sệt như nhau cả. Trên đời này không ai được tự do cả sao? Wladek cắp cái gói giấy nâu vào nách, sửa lại mũ trên đầu rồi bước ra chỗ thang chắn. Lần này, anh cảm thấy tự tin hơn. Anh xuất trình giấy thông hành cho người gác và đi qua không có chuyện gì. Anh trèo lên toa tàu. Thế là anh chỉ được thấy Moscoqu có một lúc ngắn ngủi, Và trong đời anh sẽ chẳng còn bao giờ thấy lại thành phố này nữa. Anh sẽ nhớ mãi lòng

tốt của người đàn bà vợ Ông trưởng ga ấy. Đồng chí gì nhỉ…. Anh cũng không biết

đến cả tên bà ta nữa.quladek ngồi ở toa thường. Odessa gần Moscoqu hơn nhiều so với irkutsk. Trên bản đồ của bác sĩ, khoảng cách chỉ bằng ngón tay, vậy mà trên thực tế những 800 dặm. Wladek đang nhìn vào chiếc bản đồ sơ sài ấy thì ở đầu toa cũng đang diễn ra một vụ cờ bạc. Anh giấu bản đồ vào trong áo rồi bắt đầu để ý đến chỗ đánh bạc ấy. Anh thấy một người dù chơi thế nào cũng vẫn thắng, không lần nào bị thua cả. Wladek nhìn kỹ một lúc thì hiểu ra anh chàng kia là một tên bịp bợm.

Anh chuyển sang đứng phía bên kia, đối diện với tên bạc bịp để xem hắn làm ăn thế nào. Nhưng đứng chỗ này khó nhìn nên anh cố chen vào ngồi được bên trong. Anh thi hành một cái mẹo là chờ cho tên bạc bịp giả vờ thua thi anh bỏ tiền vào đó gấp đôi lên cho đến lượt hắn được. Tên bạc bịp không thấy ngay được thủ thuật ấy của anh nên không để ý. Chỉ mãi đến lúc tàu đỗ ở ga sau hắn mới hiểu ra. Wladek đánh được mười bốn rúp. Anh bỏ ra hai rúp mua quả táo và một chén súp nóng. Anh đã kiếm được đủ tiền cho cả chuyến đi xuống đến odessa. Anh thầm nghĩ nếu cứ tiếp tục chơi kiểu này thì sẽ kiếm thêm được ít tiền nữa. Nghĩ thế, anh quay trở lại sòng bạc và sẵn sàng theo đuổi cál mẹo cũ của mình. Nhưng vừa bước vào đến trong toa, anh đã bị đánh một nhát ngã dúi vào góc. Tay bị bẻ quặt ra sau lưng và đầu bi đập vào thành toa. Máu mũi anh chảy ra. Một mũi dao kề vào sau gáy.

Mày nghe tao nói không, thằng nhóc?

Dạ, – Wladek hoảng sợ đáp.

Mày còn quay lại toa này nữa, tao sẽ cắt cái tai này đi, biết chưa? Tao mà cắt tai thì mày không còn nghe được nữa, biết chưa?

Vâng ạ, – Wladek nói.

Wladek cảm thấy mũi dao ấn vào sau mang tai rồi máu bắt đầu chảy xuống cổ.

– Tao cảnh cáo cho mày biết thế.

Một cái đầu gối bỗng thúc mạnh vào bụng anh. Wladek nằm lăn ra sàn tàu. Một bàn tay sục vào mấy túi áo của anh, lấy đi mấy rúp anh vừa kiếm được.

– Tiền của tao, – Hắn nói.

Máu vẫn còn chảy ở mũi và ở cổ Wladek. Lúc anh mở mắt ra nhìn lên thì không thấy tên bạc bịp đâu nữa. Anh cố đứng dậy nhưng không đứng được, đành cứ ngồi lại trong góc toa một lúc. Đứng dậy được rồi, anh lê bước ra đầu toa đằng kia, tránh xa chỗ tên bạc bịp chừng nào hay chừng đó. Anh chui vào một toa chỉ có đàn bà trẻ con rồi ngủ thiếp đi. Đến ga sau, Wladek không dám xuống tàu. Anh mở gói giấy xem trong đó đựng gì. Hóa ra trong đó có đủ thứ táo bánh mì, lạc, một chiếc sơ mi, một chiếc quần và có cả một đôi giầy nữa. Thật là cả một kho báu. Anh bèn thay ngay những quần áo mới vào người. Ôi, người đàn bà quý hóa quá. Còn ông chồng, sao mà quá đáng thế.

Anh ăn rồi lại ngủ, lại mơ. Cuối cùng, sau năm đêm bốn ngày, đoàn tàu lừ đừ lăn

bánh vào ga odessa. Ở cửa chắn vẫn kiểm soát vé và giấy tờ như cũ Giấy tờ của anh hợp lệ nên tên lính gác không để ý gì hết. Từ lúc này trở đi, anh phải tự do lấy hết.

Anh vẫn còn 150 rúp giấu trong tay áo. Anh chưa dám tiêu đi đồng nào vào lúc này.

Wladek đi lang thang cả ngày trong thành phố để làm quen với đường xá ở đây, nhưng có nhiều cảnh lạ mắt quá nên anh không nhớ được chỗ nào với chỗ nào.

Toàn những nhà to, cửa hàng lớn, rất nhiều những người đi bán rong trên đường phố, thậm chí có cả một con khỉ ngồi trên đầu gậy của người bán hàng rong nữa. Wladek cứ đi mãi đến lúc anh ra tới bến cảng và trông thấy biển. À ra đây rồi, đúng cái mà Nam tước gọi là biển đây. Wladek đứng lặng nhìn khoảng mênh mông xanh ngắt. Nơi xa kia là tự do, là trốn thoát khỏi nước Nga. Thành phố này hẳn là vừa trải qua trận chiến ghê gớm, vì còn những căn nhà cháy trụi và nhiều chỗ nhếch nhác, rất không hơp với làn gió biển thơm mát đang thổi vào đây. Wladek không biết trong thành phố còn đánh nhau không. Anh không biết hỏi ai được. Mặt trời đã lặn xuống sau những ngôi nhà cao tầng. Anh phải bắt đầu đi tìm một chỗ nào để ngủ đêm. Wladek đi vào một ngõ bên đường cái Khoác chiếc áo lông dài chấm đất và cắp một gói giấy nâu trong tay, trông anh thật lạc lõng giữa khung cảnh ở đây. Anh không tìm thấy một chỗ nào an toàn được. Lát sau anh ra đến khu đường sắt, thấy có một toa tàu nằm đơn độc một chỗ. Anh ngó nhìn vào bên trong, chỉ thấy tối và yên lặng. Trong toa không có người. Anh quẳng gói giấy lên đó, trèo vào bên trong và chui vào một góc nằm ngủ. Anh vừa đặt mình xuống thì một thân hình đè lên người anh và hai tay ghì chặt lấy cổ họng. Anh hầu như không thở được – Mày là ai? – Giọng một đứa bé gầm lên. Trong bóng tối, anh đoán tên kia không lớn tuổi hơn mình được – Wladek Khôngskiequicz.

Mày ở đâu đến?

Moscoqu. – Lúc đó Wladek đã định nói là Slonim.

Mày không được ngủ trong toa của tao, dù là mày ở Moscoqu đến, – Tên kia nói. Xin lỗi, – Wladek nói. – Tôi không biết.- Mày có tiền không? – Hai ngón tay cái

của tên .kia ấn chặt xuống cổ họng anh.

ít thôi, – Wladek nói.

Bao nhiêu? Bẩy rúp.
Đưa đây.

Wladek thọc tay vào túi áo. Tên kia cũng bỏ một tay ra mò vào túi áo khác. Còn một tay hắn bỏ lỏng. Wladek chợt dồn hết sức vào đầu gối thúc lên hạ bộ của nó một nhát. Tên kia ôm lấy dái lăn ra. Wladek chồm dậy đánh liên hồi. Tự nhiên tình hình thay đổi hẳn. Tên kia không thể địch lại Wladek. Thế là nằm ngủ trong một toa tàu bỏ hoang chẳng khác nào như một khách sạn năm sao so với những căn hầm và trại giam

mà anh vừa trải qua.

Wladek chỉ ngừng tay khi tên kia đã chịu nằm bẹp xuống sàn tàu, cựa quậy gì được nữa. Hắn phải van xin Wladek.

Mày ra tít đầu toa kia mà nằm và cứ ở yên đấy,- Wladek nói. – Mày mà động đậy nữa tao giết.

Vâng, vâng, – Tên kia cố bò di.

Wladek theo dõi thấy hắn đã bò đến đầu toa. Anh ngồi nghe động tĩnh một lúc không thấy gì mới từ từ đặt mình xuống sàn toa và lát sau ngủ thiếp đi.

Lúc anh tỉnh dậy đã thấy mặt trời chiếu qua khe ván của toa tàu. Anh quay người lại và bây giờ mới nhìn thấy rõ tên địch thủ đêm qua. Hắn vẫn nằm co rúm và còn ngủ
đầu toa đằng kia.

Lại đây, – Wladek ra lệnh. Tên kia từ từ thức dậy.

Lại đây, – Wladek nhắc lại, giọng to hơn trước. Tên kia vâng lời ngay. Lần đầu tiên Wladek mới nhìn kỹ được hắn. Hai người chạc tuổi nhau nhưng rõ ràng tên kia cao lớn hơn Wladek một chút, mặt mũi trông trẻ hơn và mớ tóc hắn bù xù.

Việc đầu tiên là kiếm cái gì ăn đã, – Wladek nói.

Anh theo tôi, – Tên kia nói và nhảy luôn ra ngoài toa. Wladek thất thểu đi theo hắn lên đồi và vào trong thành phố lúc đó đang họp chợ sáng.

Kể từ sau những bữa ăn tuyệt vời ở chỗ Nam tước đến giờ, anh chưa từng thấy ở đâu có nhiều thức ăn như thế. Các thứ hoa quả, rau cỏ, kể cả thứ lạc mà anh thích, chất đầy trên các ngăn hàng. Tên kia cũng có thể thấy Wladek bị ngợp trước cảnh này.
Bây giờ chúng mình làm thế này nhé, – Tên kia nói bằng một giọng tin tưởng. – Tôi sẽ đi vào một góc ngăn hàng ăn cắp một quả cam rồi bỏ chạy. Anh sẽ đứng đó và hét thật to:

Bắt lấy thằng ăn cắp? Người trông hàng sẽ đuổi theo tôi, thế là lúc đó anh nhặt ngay lấy mấy quả nhét vào túi. Đừng có lấy nhiều, chỉ đủ ăn một bữa thôi. Xong rồi, anh quay lại chỗ này, hiểu chưa nào?

Có lẽ thế, – Wladek nói.

Để xem dân Moscoqu như anh có làm được chuyện đó không. – Hắn nhìn anh cười khẩy một cái rồi bước ra. Wladek nhìn theo hắn với một vẻ khâm phục. Hắn đàng hoàng đi vào góc một sạp chợ nhấc lấy một quả trên cả một đống cam cao ngất, nói câu gì đó với người bán hàng rồi thủng thẳng bước đi. Hắn nhìn lại Wladek lúc đó đã hoàn toàn quên cả câu nói “Bắt lấy thằng ăn cắp”, nhưng người bán hàng ngửng lên trông thấy vội chạy ra đuổi. Mọi người đang chú ý nhìn theo tên kia thì Wladek vơ quàng lấy ba quả cam, một quả táo và một củ khoai nhét cả vào túi áo ngoài. Lúc người bán hàng đã sắp đến gần tên kia thì hắn ném quả cam trả lại cho ông ta. Người đó đứng lại vừa nhặt quả cam vừa chửi rủa, giơ nắm đấm lên dọa rồi quay lại quầy hàng phàn nàn với những người khách quanh đó.

Wladek đang có vẻ khoái trá với cảnh vừa rồi thì một bàn tay đã đặt mạnh lên vai.

Anh hoảng sợ quay lại tưởng mình bị bắt.

– Anh có vớ được gì không, anh Moscoqu, hay chỉ đứng đó xem thôi?.

quladek cười và đưa ra ba quả cam, quả táo với củ khoai. Tên kia cũng cười theo.

Tên cậu là gì? – Wladek hỏi.

Stephan.

Thôi đi anh Moscoqu, anh đừng tưởng thế là khôn nhé Nếu muốn làm nữa thì phải ra đầu chợ đằng kia và phải chờ ít ra một giờ nữa. Tôi đã chuyên làm ở đây rồi, nhưng anh đừng tưởng là thỉnh thoảng không bị bắt đâu.

Hai anh chàng lặng lẽ đi ra đầu chợ đằng kia. Stephan đi với một vẻ rất đàng hoàng khiến Wladek nghĩ bụng giá mình không biết thì đã mất hết với hắn rồi. Họ trà trộn vào chỗ những người mua hàng buổi sáng, và khi Stephan cho rằng đã đến lúc thì họ tái diễn hai lần cảnh đã làm lúc trước. Cả hai người đều rất thỏa mãn, quay trở về toa xe bỏ hoang để hưởng những gì đã ăn cắp được:

sáu quả cam, năm quả táo, ba củ khoai, một quả -lê, rất nhiều loại lạc với một phần thưởng đặc biệt là quả dưa to. Trước kia Stephan không bao giờ có túi đủ to để cho quả dưa vào đó được Chiếc áo ngoài của Wladek bây giờ mới làm được chuyện ấy.

ăn được, – Wladek cắn vào củ khoai và nói.

Cậu ăn cả vỏ ư? – Stephan ngạc nhiên nói.

Mình đã ở những chỗ được ăn vỏ khoai đã là sang lắm rồi, – Wladek nói. Stephan nhìn anh bằng con mắt khâm phục.

Vấn đề nữa ìà chúng ta làm thế nào có. tiền đây?- Wladek nói.

Trong một ngày mà cậu muốn có đủ thứ thế ư, hả ông chủ? – Stephan nói. – Nếu cậu định làm ăn to thì phải nhập bọn với đám ở ngoài bến kia, ông Moscoqu ạ.

Cậu chỉ cho tớ xem. – Wladek nói.

Họ ăn hết nửa số quả và giấu chỗ còn lại xuống dưới đống rơm ở góc toa xe, rồi Stephan dẫn Wladek xuống bến chỉ cho anh xem rất nhiều tàu đậu dưới đó. Wladek không tin ở mắt mình nữa. Anh đã được nghe Nam tước kể cho biết về những tàu to chạy xuyên qua các biển lớn đem hàng đến cho nước ngoài, nhưng những chiếc tàu anh được thấy tận mắt đây còn to hơn nhiều so với điều anh tưởng tượng, và chúng đậu thành một hàng dài không thể nhìn thấy hết được.

Stephan nói làm anh sực tỉnh.

Cậu trông thấy chiếc tàu to tướng màu xanh kia không? Nếu muốn làm thì cậu chỉ việc xuống dưới gầm cái ván cầu, nhặt một cái rổ, chất đầy thóc vào đó rồi trèo lên thang và đổ xuống khoang tàu. Cứ bốn chuyến như thế thì cậu được một rúp. Cậu phải đếm cho đúng, không thì cái thằng cầm đầu ấy sẽ bịp và ăn chặn tiền của cậu

đấy.

Cả buổi chiều, Stephan và Wladek làm cái việc vác thóc lên thang. Hai người kiếm được hai mươi sáu rúp. Sau một bữa ăn no nê với số lạc, bánh và hàng ăn cắp được, hai người lăn ra ngủ trong cái toa xe lúc trước.

Sáng hôm sau Wladek dậy trước và Stephan thấy anh ngồi xem bản đồ.

Cái gì thế? – Stephan hỏi.

Đây là bản vẽ con đường để tớ chạy ra khỏi nước Nga.

Cậu có thể ở đây và nhập bọn với tớ thì việc gì phải bỏ nước Nga? – Stephan nói.

Chúng mình cùng làm ăn với nhau được chứ! – Không, tớ phải đi đến Thổ nhĩ kỳ. Đến đó tớ sẽ được là người tự do lần đầu tiên trong đời. Sao cậu không cùng đi với tớ, hả Stephan?

Tớ chả bao giờ có thể bỏ odessa được. Đây là nhà tớ Đường sắt là nơi tớ sống, những người ở đây tớ đã quen biết từ bé đến giờ rồi. Ở đây chẳng hay gì lắm, nhưng có khi ở Thổ nhĩ kỳ còn tệ hơn. Nhưng nếu cậu muốn đi thì tớ sẽ giúp.

Tớ làm sao biết được tàu nào đi Thổ nhĩ kỳ? – Wladek hỏi.

Dễ thôi, tớ có thể biết tất cả những tàu nào sắp đi đâu Tụi mình sẽ hỏi ông Joe Một Răng ở cuối cầu tàu là biết ngay. Nhưng cậu phải trả ông ấy một rúp.

Chắc hai người lại chia nhau chứ gì?

Mỗi người một nửa. – Stephan nói. – Cậu học được nhanh đấy, cậu Moscoqu ạ. – Nói đến đây, hắn liền nhảy ngay ra ngoài toa.

Wladek chạy theo hắn len lỏi giữa những toa tàu. Anh càng thấy bọn chúng đứa nào cũng nhanh nhẹn, chỉ có mình là phải đi cà nhắc thôi. Đến cuối cầu tàu, Stephan dẫn anh vào một căn lều nhỏ có những đống sách phủ đầy bụi và những bảng giờ tàu đã cũ. Wladek không nhìn thấy ai, nhưng bỗng có tiếng nói từ đằng sau đống sách:

Chúng mày muốn gì thế? Tao không có thì giờ đâu nhé.

Hỏi một tí cho anh bạn tôi đây, Joe. Chuyến tàu sang sắp tới đi Thổ nhĩ kỳ là bao giờ đấy?

Bỏ tiền ra đã, – Một ông già thò đầu từ phía sau đống sách nói. Mặt mũi ông rõ ra một người đã trải qua nhiều nắng gió. Đầu đội mũ lính thủy. Đôi mắt đen nhìn xoáy vào Wladek.

Ông ấy là người đi biển giỏi lắm nhé, – Stephan nói thầm với Wladek nhưng đủ để Joe nghe thấy.

Đừng nói lôi thôi, mày. Rúp đâu?

Ông bạn tôi cầm tiền, – Stephan nói. – Wladek, -cậu đưa đồng rúp cho ông ấy. Wladek lấy ra đồng tiền. Joe cắn thử vào đồng tiền xem có thật không, rồi đi ra tủ

sách rút lấy một bảng giờ tàu màu xanh rất to. Bụi bay tứ tung. Ông ta vừa ho vừa lật mấy trang trong đó, đưa ngón tay sần sùi dò tìm các tên tàu.

– Thứ năm sau tàu Renaska sẽ đến lấy than, rồi có lẽ đi vào thứ bảy. Nếu nó lấy

được nhanh thì có thể đi vào đêm thứ sáu để đỡ tiền thuê cảng. Nó sẽ đậu ở cảng mười bảy.

Cảm ơn ông Một Răng nhé, – Stephan nói. – Để tôi xem có thể dẫn vài ông bạn giàu đến đây được không.

Joe Một Răng giơ nắm đấm lên chửi, còn Stephan với Wladek kéo nhau chạy ra ngoài.

Trong ba ngày sau đó, hai anh chàng lại tiếp tục đi ăn cắp lương thực, khuân vác thuê và lăn ra ngủ. Đến hôm thứ năm tuần sau đó, chiếc tàu Thổ’ nhĩ. kỳ đến cảng thì Stephan hầu như đã thuyết phục được Wladek ở lại odessa. Nhưng cuối cùng vì nỗi sợ hãi đối với người Nga ám ảnh Wladek nên anh thấy cuộc sống mới với Stephan dù sao cũng không thể hấp dẫn anh hơn được nữa.

Họ đứng trên cầu tàu nhìn con tàu mới đến đậu ở cảng mười bảy.

Mình làm thế nào lên tàu được? – Wladek hỏi.

Dễ thôi, – Stephan nói, – Sáng mai mình sẽ nhập bọn với đám người khuân vác. Tớ sẽ đi sát ngay sau cậu. Chờ lúc nào than đổ gần đầy thì cậu nhảy ùm ngay xuống đó, tìm chỗ trốn, còn tớ thì nhặt cái giỏ của cậu và quay ra phía bên kia.

Rồi cậu lĩnh luôn cả phần tiền của tớ chứ gì, – Wladek nói.

Tất nhiên, – Stephan đáp. – Tớ có sáng kiến thế thì phải được thưởng tiền chứ, nếu không thì ai người ta còn tin ở chuyện làm ăn tự do được nữa?

Sáng hôm sau, họ nhập hội với đám khuân vác than. Họ lên lên xuống xuống trên chiếc ván cầu đồ than, nhưng than đổ xuống mãi chỉ thấy lọt thỏm. Cho đến tận chiều tối mà vẫn chưa được nửa khoang. Đêm đó, hai người ngủ thật say. Rồi lại đến sáng hôm sau nữa, họ tiếp tục khuân vác cho đến giữa buổi chiều thì khoang tàu chở than mới gần đầy. Stephan đá vào gót chân Wladek làm hiệu.

Lần sau nhé, cậu Moscoqu, – Hắn nói. Lên đến đầu ván cầu, Wladek đổ thúng than của mình xuống, bỏ lại cái thúng trên cầu tàu, vịn vào lan can và nhẩy xuống đống than. Stephan nhặt cái thúng của Wladek lên rồi tiếp tục đi sang phía bên kia, vừa đi vừa huýt sáo.

Tạm biệt anh bạn nhé, – Stephan nói. – Và chúc cậu may mắn với bọn Thổ vô đạo nhé.

Wlađek ép người vào góc khoang tàu và nhìn đống than tiếp tục đổ xuống bên cạnh mình. Bụi than bay mù lên, vào cả mũi mồm, chui cả vào phổi và vào mắt anh. Anh cố gắng chịu đau không dám ho lên, sợ thủy thủ trên tàu nghe thấy. Đúng đến lúc anh thấy không thể nào chịu được cái không khí ngột ngạt, đã định quay lên với Stephan để rồi sau này tìm cách khác mà trốn thì người ta đóng cửa khoang lại. Wladek được thể, ho ran một hồi.

Một lúc sau, anh thấy có cái gì như cắn vào gót chân. Anh rùng mình nhìn xuống xem là cái gì, hóa ra đó là chuột rất to. Anh cầm cục than nén vào con vật khủng

khiếp ấy, nhưng nó vừa chạy đi thì con khác, rồi lại con khác nữa kéo đến. Con sau còn mạnh bạo hơn, leo cả lên chân anh. Không biết nó ở đâu ra.

Vừa to, vừa đen sì và rất đang đói ăn. Anh cúi xuống nhìn kỹ. Lần đầu tiên trong đời Wladek thấy chuột có mắt đỏ. Anh vội trèo lên đống than và cố mở cái nắp trên cửa khoang. ánh nắng rọi vào và lũ chuột chui tọt xuống hầm dưới. Anh định trèo ra ngoài, nhưng con tàu vừa ra khỏi bến cảng. Anh hoảng sợ, lại rút vào trong khoang. Nếu như con tàu này buộc phải quay lại và giao Wladek cho nhà cầm quyền thì anh biết chắc mười mươi là sẽ phải trở về trại giam 201 bọn Bạch Nga mà vĩnh viễn không bao giờ ra khỏi được nữa. Anh đành ở lại với lũ chuột. Anh vừa đậy cái nắp vào là chúng lại kéo đến. Anh phải nhặt than ném liên tiếp vào chúng, nhưng con này vừa đi thì con khác lại xuất hiện. Chốc chốc anh phải hé mở cái nắpcho ánh sáng lọt vào, vì chỉ có ánh sáng mới là đồng minh duy nhất giúp cho anh có thể xua lũ chuột đi được Suốt hai ngày ba đêm Wladek phải vật lộn chiến đấu với lũ chuột, không được một lúc nào ngủ yên với chúng. Cuối cùng khi con tàu đến cảng Constantinople và người ta mở nắp khoang ra thì Wladek đen kịt suốt từ đầu đến chân, còn từ đầu gối xuống đến ngón chân thì đầy những máu, Thủy thủ trên tàu kéo anh ra khỏi đống than. Wladek cố đứng dậy, nhưng rồi lại ngã gục xuống trên boong tàu.

Lúc Wladek tỉnh lại – Anh không biết mình ở đâu và sau đó bao lâu – Thấy mình nằm trên chiếc giường trong một căn phòng nhỏ, có ba người mặc áo dài trắng đứng chung quanh đang nhìn anh rất kỹ, và họ nói một thứ tiếng gì đó anh chưa từng nghe thấy bao giờ Trên thế giới này có bao nhiêu thứ ngôn ngữ nhỉ?

Anh nhìn lại mình, vẫn còn đen kịt và đầy những máu me. Anh định ngồi dậy thì một trong ba người mặc áo trắng, nhiều tuổi nhất và có bộ râu dê trên khuôn mặt gầy nhỏ, lại đẩy anh nằm xuống. Ông ta nói với Wladek bằng một thứ tiếng gì lạ lắm. Wladek lắc đầu ông ta lại nói tiếng Nga. Anh vẫn lắc đầu. Anh biết là nếu mình trả lời bằng tiếng đó thì lập tức bị đưa về chỗ cũ ngay. Thứ tiếng sau đó ông bác sĩ thử nói là tiếng Đức. Wladek biết rằng mình còn giỏi hơn ông ta về tiếng này.

Anh nói được tiếng Đức?

Vâng.

Không.

Vậy anh làm gì ở Nga?

Tôi trốn.

À ra thế. – Ông ta quay lại nói với những người kia bằng thứ tiếng của mình, rồi ba ngliời đi ra ngoài.

Một cô y tá bước vào lau sạch người cho Wladek, mặc cho anh kêu đau. Cô ta buộc thuốc vào chân cho anh, rồi bỏ anh nằm đó ngủ tiếp. Lần thứ hai Wladek tỉnh dậy thấy chỉ có mỗi mình anh trong phòng. Anh nhìn lên trần nhà trắng toát, suy nghĩ

xem sẽ làm gì.

Anh vẫn không biết được mình đang ở xứ nào. Anh trèo lên bệ cửa sổ nhìn ra ngoài. Anh thấy có một cái chợ, không khác gì lắm với chợ Ở odessa, chỉ trừ có những nguời ở đây mặc áo dài trắng và da dẻ họ thẫm hơn. Họ cũng đội những chiếc mũ có nhiều màu, trông những chậu hoa con ở trên đầu, còn chân thì đi dép.

Đàn bà thì mặc toàn đồ đen, cả đến mặt họ cũng che kín chỉ chừa hai con mắt cũng đen. Wladek nhìn họ đi lại tấp nập trong chợ, nhìn các bà mua bán, và anh cảm thấy có lẽ ở xứ nào thì cũng chỉ là như vậy thôi.

Lát sau anh nhìn thấy bên cạnh cửa sổ có chiếc thang đỏ bằng sắt gắn vào tường và xuống đến tận đất Anh bước xuống và khẽ ra mở cửa, ngó nhìn hành lang bên ngoài. Mọi người đi đi lại lại nhưng không ai để ý gì đến anh. Anh lại khẽ đóng cửa vào, tìm ra mấy thứ đồ vật của anh trong ngăn tủ ở góc phòng rồi vội mặc quần áo vào. Wần áo của anh vẫn còn bám đầy than, cọ sát vào da thịt anh lúc này đã được rửa ráy sạch sẽ. Anh quay trở ra cửa sổ. Cánh cửa sổ mở rất dễ. Anh bám lấy thang vịn chữa cháy nhảy ra ngoài cửa sổ rồi theo cái thang sắt xuống đến đất.

Điều đầu tiên là anh thấy nóng, nóng hết sức. Anh chỉ muốn mình đừng khoác cái áo lông nặng nề này nữa.

Xuống đến đất, Wladek đã định chạy ngay, nhưng đôi chân anh còn yếu và rất đau nên chỉ có thể đi được chậm. Anh ước gì mình thoát được cái cảnh cà nhắc này. Anh không quay lại nhìn bệnh viện nữa mà đi lẫn vào đám đông trong chợ.

quladek nhìn vào những thứ bầy trên quầy hàng mà thèm. Anh định mua một quả cam và ít lạc. Anh lần tìm trong áo, nhớ là tiền còn giấu ở trong tay áo.

Nhưng anh không thấy gì, và cả đến chiếc vòng bạc cũng không còn nữa. Ra những người mặc áo trắng trong bệnh viện đã lấy mất của anh rồi. Anh định quay lại bệnh viện đòi cái di sản ấy những nghĩ bụng phải ăn một cái gì đã, rồi có đi đâu mới đi được. Có lẽ trong túi còn tiền. Anh sục tay vào các túi bỗng thấy cả ba tờ bạc và một ít tiền đồng. Cả tấm bản đồ của bác sĩ và chiếc vòng bạc cũng còn trong đó.

Wladek vui mừng hết sức. Anh đeo lại chiếc vòng bạc vào tay và kéo nó lên tận trên khuỷu tay. Wladek chọn lấy một quả cam to nhất với một gói lạc Người bán hàng nói cái gì đó anh không hiểu.

Wladek nghĩ cách dễ dàng nhất để ông ta hiểu được ìà đưa ra tờ bạc 50 rúp. Người bán hàng nhìn vào tờ giấy bạc, cười và giơ hai tay lên trời.

Lạy Thánh Allah? – Ông ta kêu lên, giằng lấy gói lạc và cam trong tay Wladek rồi giơ ngón tay trỏ xua anh đi. Wladek buồn rầu bước ra ngoài. Anh nghĩ là có lẽ tiếng nói khác thì phải dùng thứ tiền khác. Ở Nga thì nghèo, còn ở đây thì anh không có một xu nào. Có lẽ anh phải ăn cắp một quả cam thôi, Nếu sắp bị bắt thì vứt trả lại cho người bán hàng. Wladek đi ra đầu chợ đằng kia như kiểu Staphan đã làm, nhưng anh không bắt chước được kiểu đi đàng hoàng và tin tưởng như Stephan. Anh chọn quầy hàng cuối cùng, và liếc nhìn thấy không có ai trông hàng, anh vội nhặt một quả cam

rồi bỏ chạy. Bỗng có tiếng ồn ào phía sau. Anh tưởng như có đến nửa thành phố này đang đuổi theo mình.

Một người to lớn nhẩy đến túm lấy Wladek vật xuống đất. Sáu bảy người nữa nắm lấy anh kéo trở lại quầy hàng. Một đám đông xúm lại chung quanh. Một viên cảnh sát đứng đó chờ. Người ta làm biên bản. Người bán hàng với viên cảnh sát to tiếng với nhau. Viên cảnh sát quay sang quát tháo với Wladek, nhưng anh chẳng hiểu ông ta nói gì. Viên cảnh sát nhún vai rồi lấy tai Wladek dẫn đi. Những người chung quanh đó nhìn anh quát mắng. Một số người còn nhổ vào mặt anh. Về đến trạm cảnh sát, Wladek bị tống xuống một gian xà lim chật hẹp trong đó đã có sẵn vài ba chục những tên lưu manh ăn cắp mà anh không biết ai vào ai nữa. Wladek không nói năng gì với chúng, và bọn chúng cũng có vẻ không muốn nói gì với anh.

Anh ngồi dựa lưng vào tường, co rúm người lại, im lặng và khiếp sợ. Họ để anh ngồi đó một ngày một đêm không cho ăn uống gì. Ngửi mùi hôi thối trong xà lim khiến anh nôn mửa hết không còn gì trong bụng.

Anh không thể ngờ rằng lại có một ngày mà ngay cả đến những căn hầm ở Slonim cũng còn yên ấm dễ chịu hơn.

sáng hôm sau có hai người hnh gác đến kéo Wladek ra khỏi nhà hầm để ra bên ngoài cùng xếp hàng với nhiều tù nhân khác. Họ bị buộc vào với nhau bằng một sợi dây thừng vòng quanh ngực rồi đưa ra phố. Một đám đông người đã đứng chờ sẵn ở đây. Họ reo hò khi thấy tù nhân được dẫn ra. Rồi họ kéo theo đoàn tù ra chợ, vừa vỗ tay vừa hét. Wladek không hiểu tại sao họ làm như vậy. Ra đến chợ, tất cả dừng lại Tên tù đầu tiên được cởi trói? và dẫn ra giữa chợ:

đây đã có hàng trăm người đứng chung quanh, và ai cũng hò hét rầm trời Wladek nhìn quang cảnh mà không thể tưởng tượng được. Khi tên tù đầu tiên ra đến quảng trường, hắn bị tên lính gác đánh cho quỳ xuống rồi bàn tay phải của hắn bị buộc lên một cục gỗ to. Một người khác to lớn giơ cao lưỡi kiếm lên khỏi đầu và chặt xuống cổ tay tên tù đó. Người kia chỉ chặt vào đúng mấy đầu ngón tay. Tên tù hét lên đau đớn. Người kia lại giơ cao lưỡi kiếm lên. Lần này chặt vào đúng cổ tay, nhưng bàn tay chưa đứt hẳn, còn lủng lẳng ở cánh tay tên tù và. máu tuôn xuống mặt đất. Lưỡi kiếm lại giơ lên lần thứ ba và lần này thì bàn tay của tên tù rụng hẳn xuống đất. Đám người chung quanh rồ lên tán thưởng. Tên tù được cởi dây trói và lăn ra đó, ngất đi. Một tên lính gác đến kéo hắn ra ngoài, vứt dưới chân đám người đứng đó. Một người đàn bà khóc lóc, – Wladek đoán đó là vợ anh ta – Và vội lấy một mảnh vải ra buộc cho cầm máu. Tên tù thứ hai đã chết luôn sau nhát kiếm thứ tư. Tên đao phủ to lớn kia không quan tâm đến chuyện ai sống ai chết.

Hắn chỉ vội vã làm nhiệm vụ của hắn. Hắn được trả lương để chuyên chặt tay những người khác.

Wladek nhìn ra chung quanh mà khiếp sợ đến nghẹt thở. Giá như còn cái gì trong

bụng thì anh cũng đến nôn ra hết. Anh quay ra các phía xem có ai cứu giúp hoặc có cách gì trốn được. Không ai nói cho anh biết là theo luật của Hồi giáo, nếu định chạy trốn thì sẽ bị chặt chân. Trong các khuôn mặt đứng trong đám đông, anh nhìn ra một người ăn mặc bộ đồ sẫm như kiểu Châu âu. Người đó đứng cách Wladek chỉ độ vài chục mét và rõ ràng là ông ta nhìn cảnh này với một thái độ kinh tởm. Nhưng ông ta không nhìn về phía Wladek, cũng không nghe tiếng anh gào lên kêu cứu mỗi khi có nhát kiếm hạ xuống. Không biết ông ta là người Pháp, hay Đức, hay Anh, hoặc có thể là Ba-lan nữa? Wladek không biết ông ta là người nước nào nhưng hẳn phải có lý do gì mới đứng xem cái cảnh rùng rợn này. Wladek vẫn cứ nhìn về phía ông ta, chỉ mong ông ta quay ra nhìn về phía mình. Nhưng không, ông ta vẫn nhìn đi chỗ khác. Wladek còn một bên tay không bị trói giơ lên vẫy nhưag ông ta không để ý Họ cởi trói người thứ hai đứng trước Wladek và kéo anh ta đi. Lưỡi kiếm lại vung ìên đám đông lại reo hò. Người đàn ông mặc bộ đồ sẫm quay mặt đi không dám nhìn. Wladek lại giơ tay vẫy ông ta lần nữa. Ông ta nhìn Wladek rồi quay sang nói với người bên cạnh mà Wladek từ nãy không để ý thấy. Lúc này tên lính gác đang giằng co với một tù nhân đứng trước Wladek. Anh ta đặt bàn tay tù nhân xuống dưới sạp. Lưỡi kiếm vung lên và chỉ một nhát là bàn tay đó rụng. Đám đông thấy thế thất vọng. Wladek lại quay lại nhìn mấy người châu âu kia. Lúc này cả hai người đó đều nhìn anh. Anh muốn họ bườc đến, nhưng họ chỉ đứng đó nhìn.

Tên lính gác bước đến, vứt chiếc áo 50 rúp của Wladek xuống đất, mở khóa và xắn tay áo của anh lên. Hắn lôi Wladek đi nhưng anh cố giẫy giụa. Anh không đủ sức cưỡng lại tên lính. Ra đến gần cục gỗ, hắn đá vào khoeo chân cho anh quỳ xuống đất. Sợi dây da lại được quấn vào cổ tay anh. Anh không còn biết làm gì nữa, chỉ nhắm mắt lại trong khi tên đao phủ giơ cao lưỡi kiếm lên trên đầu hắn. Anh hồi hộp chờ đợi nhát kiếm hạ xuống, nhưag tự nhiên thấy trong đám đông im lặng hẳn đi, và chiếc vòng bạc của Nam tước từ trên khuỷu tay anh rơi tụt xuống lăn trên cục gỗ. Đám người chung quanh im lặng nhìn chiếc vòng bạc di sản kia óng ánh dưới nắng. Tên đao phủ ngừng lại, bỏ kiếm xuống và ngắm nghía chiếc vòng bạc. Wladek mở mắt ra. Tên lính đứng đó định lồng chiếc vòng bạc trở lại cổ tay Wladek, nhưng còn vướng sợi dây da nên không kéo lên được. Một người mặc quân phục ở đâu vội chạy đến bên tên đao phủ. Anh ta cũng nhìn vào chiếc vòng bạc với nhưng chữ viết trên đó rồi chạy đến một người khác, có lẽ là cấp chỉ huy, vì người đó cũng đang chầm chậm bước đến chỗ Wladek. Thanh kiếm vẫn nằm trên mặt đất. Đám đông lại bắt đầu gào hét. Tên lính thứ hai cũng định kéo chiếc vòng bạc lên nhưng không được vì muốn thế thì hắn phải cởi sợi dây da mới được. Hắn quát mấy tiếng vào mặt Wladek, nhưng anh không hiểu gì và chỉ đáp lại bằng tiếng Ba-lan:

– Tôi không nói được tiếng của ông.

Tên sĩ quan tỏ vẻ ngạc nhiên, giơ hai tay lên trời và hét ìên một tiếng:

– Allah?

Wladek nghĩ có lẽ đó cũng giống như câu “Lạy Chúa”. Tên sĩ quan bước đến chỗ hai người mặc bộ đồ Châu âu đứng trong đám đông và hoa tay múa chân một lúc. Wladek thầm cầu nguyện. Trong hoàn cảnh này, người ta cầu nguyện bất cứ thần linh nào, dù đó là thánh Allah hay là Đức mẹ đồng trinh. Hai người Châu âu nhìn về phía Wladek và Wladek cũng gật đầu rối rít. Một trong hai người đó bước theo tên sĩ quan Thổ Nhĩ Kỳ đến chỗ anh. Người đó quỳ một chân xuống bên cạnh Wladek, nhìn chiếc vòng bạc rồi nhìn anh rất kỹ. Wladek chờ đợi. Anh có thể nói chuyện được bằng năm thứ tiếng, và anh thầm mong ông ta sẽ nói một trong năm thứ tiếng ấy. Khi nghe thấy người âu Châu đó quay sang nói với tên sĩ quan kia bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ thì anh thất vọng. Đám đông lúc này đang rít lên và ném những quả thối vào phía trong. Tên sĩ quan kia gật đầu rồi người âu Châu quay sang nhìn Wladek.

Anh nói được tiếng Anh không? Wladek thở dài nhẹ người.
Thưa ông có. Tôi nói được. Tôi là công dân Ba-lan.

Tại sao anh có được chiếc vòng bạc ấy?

Nó là của cha tôi, thưa ông. Cha tôi chết trong nhà tù của người Đức ở Ba lan, còn tôi thì bị bắt và tống giam vào một trại tù ở Nga. Tôi đã trốn được và đến đây bằng tàu thủy. Đã nhiều ngày nay tôi không được ăn uống gì. Khi người bán hàng không chịu bán cho tôi quả cam bằng tiền rúp, tôi phải lấy một quả vì tôi đói quá rồi.

Người Anh từ từ đứng dậy, quay sang phía tên sĩ quan và nói với một giọng cứng rắn. Tên sĩ quan lại nói với tên đao phủ. Tên đao phủ ngập ngừng một chút, nhưng tên sĩ quan gắt lên hắn mới cúi xuống miễn cưỡng tháo sợi dây da. Wladek lại nôn ọe.

Đi theo tôi, – Người Anh nói, – Đi mau lên, kẻo họ thay đổi ý kiến. quladek vẫn còn hoang mang chưa hiểu, vội vớ lấy chiếc áo rồi đi theo ông ta. Đám đông đứng ngoài la ó kêu hét và ném theo các thứ họ có sẵn trong tay. Tên đao phủ nhanh chóng đặt bàn tay một tù nhân khác lên cục gỗ, rồi bằng nhát kiếm đầu hắn chỉ chặt đi một ngón tay cái thôi. Hình như chỉ có cách đó mới làm yên được đám đông.

Người Anh lách qua được đám đông nhốn nháo ra đến ngoài quảng trường, và người bạn cùng đi với ông ta cũng ra theo.

Chuyện gì thế, Edquard?

Chú bé này này nó là người Ba-lan và trốn khỏi nước Nga. Tôi nói với tên sĩ quan trong kia bảo nó là người Anh, vì vậy nó thuộc thẩm quyền của chúng ta.

Bây giờ hãy đưa nó về sứ quán rồi tìm hiểu xem nó có nói thật hay không.

Wladek chạy theo giữa hai người rảo bước qua chợ và đi vào phố Bẩy ông Vua. Anh vẫn còn nghe loáng thoáng tiếng người trong đám đông mỗi khi lưỡi kiếm của tên đao phủ hạ xuống lại reo hò tán thưởng.

Hai người Anh đi qua một cái cổng cuốn vào một mảnh sân rải sỏi và đến trước

một ngôi nhà lớn quét sơn màu xám. Họ bảo Wladek đi theo. Trên cửa có tấm biển đề ĐẠi SỨ QUÁN ANH. Bước vào trong nhà rồi, Wladek mới cảm thấy an toàn. Anh đi theo sau hai người qua một dãy hành lang dài trên tường có treo những bức tranh vẽ lính và thủy thủ ăn mặc rất lạ Ở cuối hành lang là bức chân dung một người già trong bộ quân phục màu xanh của Hải quân và trên ngực đeo rất nhiều huân chương. Bộ râu của nglrời đó khiến Wladek nhớ đến Nam tước. Một người lính ở đâu bước ra chào.

Ông cai Smithers, ông nhận lấy chú bé này, cho nó đi tắm. Rồi cho nó ăn ở trong bếp. Bao giờ nó ăn xong và đỡ cái mùi hôi thối thì ông kiếm cho nó vài cái quần áo mới rồi dẫn nó lên chỗ tôi nhé.

Thưa vâng, – Ông cai nói và lại giơ tay chào.

Cậu bé, đi theo tôi. – Ông ta bước đi và Wladek ngoan ngoãn theo sau. Anh phải chạy mới theo kịp bước chân ông ta được. Ông ta đưa anh xuống tầng hầm sứ quán và dẫn vào một căn phòng nhỏ, có cửa sổ bé tí. Ông ta bảo anh cởi quần áo ra rồi chờ đó. Lát sau ông ta quay lại với mấy chiếc quần áo mới, nhưng thấy Wladek vẫn mặc nguyên quần áo và ngồi ở cạnh giường xoay xoay chiếc vòng bạc quanh cổ tay.

Nhanh lên cậu bé. Đây không phải chỗ dưỡng bệnh nhé.

Xin lỗi ngài ạ. – Wladek nói.

Đừng gọi tôi là ngài. Tôi là ông Cai Smithers. Gọi tôi là Cai thôi. _ – Dạ, tôi là Wladek Khônggkiequicz. Ông gọi tôi là Wladek – – Này, đừng có đùa. Trong quân đội Anh đã có khối người đùa rồi, không cần phải có thêm cậu vào đấy nữa.

Wladek không hiều ông ta nói gì. Anh vội cởi quần áo.

Theo tôi nhanh lên. Wladek lại được tắm một lần tắm tuyệt vời với xà phòng và nước nóng. Wladek nghĩ đến người đàn bà Nga đã che chở cho anh. Suýt nữa thì anh đã trở thành con trai bà ta, nếu như không có chồng bà ta.

Và lại một bộ quần áo mới nữa. Lạ, nhưng sạch sẽ thơm tho. Không biết nó là của con ai thế nhỉ. Nhưng kia, ông ấy đã đến rồi kìa.

ông cai Smithers dẫn Wladek vào bếp và giao anh cho một bà làm bếp to béo có bộ mặt hồng hào, một bộ mặt dễ thương nhất kể từ khi anh rời đất Ba lan đến giờ. Bà ta khiến anh nhớ đến mẹ nuôi nhưng không biết bây giờ bà đã ra sao ở Trại 201 rồi.

Chào chú, – Bà ta tươi cười nói, – Tên chú là gì nào?.

Này chú, tôi sẽ cho chú ăn một bữa đàng hoàng của người Anh, chứ những cái món Thồ Nhĩ Kỳ ở đây là không ăn được đâu. Bắt đầu bằng súp nóng với thịt bò. Trước khi đi gặp ông Prendergast, thì chú phải chén cho đã vào chứ. -bà ta cười ” Chú nhớ là đừng có sợ Ông ấy nghe không. Mặc dầu ông ấy là người Anh, nhưng ông ấy cũng khá tốt bụng đấy.

Thế bà không phải người Anh ư? – Wladek ngạc nhiên hỏi.

Trời ơi, không đâu chú ạ. Tôi là người Xcốt-len. Khác lắm chứ. Người Xcốt-len

chúng tôi ghét người Anh hơn cả bọn Đức ghét người Anh nữa kia, – Bà ta vừa nói vừa cười. Bà ta đặt xuống trước mặt Wladek một đĩa súp nóng có rất nhiều thịt và rau trong đó.

Anh đã hoàn toàn quên mất rằng thức ăn có thể thơm và ngon như vậy. Anh ăn từ từ, trong bụng chỉ sợ rằng có thể còn rất lâu nữa mới lại được ăn như thế này.

ông Cai lại? xuất hiện.

Cậu bé ăn no chưa?

Dạ, no rồi, cảm ơn ông lắm.

ông Cai nhìn Wladek với vẻ nghi hoặc, nhưng thấy Wladek không có vẻ đùa, bèn nói:

– Tốt. Thôi, Bây giờ đi thôi. Phải lên trình diện với ông Prendergast cho sớm.

ông Cai đã đi khuất sau cửa bếp nhưng Wladek còn nán lại nhìn bà bếp. Anh rất không thích chia tay với người nào mới gặp, nhất là người đó lại tốt với mình.

Thôi chú đi đi, chúc chú gặp may nhé. – Cảm ơn bà, – Wladek nói. Thức ăn của bà là ngon nhất. Tôi sẽ nhớ mãi.

Bà bếp nhìn anh mỉm cười. Anh lại phải nhẩy cà nhắc để chạy theo ông cai có những bước đi rất dài.

ông ta dừng lại bất ngờ trước một khung cửa khiến Wladek suýt đâm sầm vào.

Này, cậu bé cẩn thận đấy, phải nhìn chứ. Ông ta đưa tay lên gại vào cửa.

Vào – Một giọng nói bên trong vẳng ra. Ông cai mở cửa và chào.

Cậu bé Ba lan, thưa ngài. Đã tắm rửa ăn uống tử tế rồi.

Cảm ơn ông Cai. Có lẽ nhờ ông nói giùm với ông Grant bảo ông cùng đến đây

cho.

Eđquart Prendergast ngồi phía sau bàn giấy nhìn lên. Ông ta ra hiệu cho Wladek ngồi xuống. Ông không nói gì và lại tiếp tục xem giấy tờ. Wladek ngồi nhìn ông ta rồi lại nhìn lên nhữag bức chân dung trên tường. Lại thấy những ông tướng và đô đốc và cả ông có râu anh đã thấy lúc trước, nhưng trong tranh này ông ta mặc quần áo ka-ki của quân đội. Vài phút sau, một người Anh khác mà anh nhớ là đã thấy ở ngoài chợ bước vào phòng.

Cảm ơn anh cùng đến, Harry. Mời anh ngồi. – Ông Prendergast quay sang Wladek.

Nào, chú bé, bây giờ chú nói lại từ đầu đi xem nào. Chú phải nói đúng sự thật, không được nói quá, hiểu không?

Thưa ông vâng.

Wladek bắt đầu câu chuyện từ những ngày sống ở Ba lan. Anh phải dừng lại một đôi chỗ để tìm cho đúng những từ tiếng Anh. Cứ xem nét mặt hai người Anh này, Wladek cũng thấy là lúc đầu họ tỏ ra không tin. Thỉnh thoảng họ ngắt lời và hỏi anh vài câu hỏi, rồi nhìn nhau gật đầu sau khi anh trả lời. Sau một giờ nói chuyện, những điều Wladek kể mới đi đến chỗ lúc này anh đang ngồi trong cơ quan lãnh sự của Nữ

hoàng Anh tại Thổ Nhĩ Kỳ.

Harry ạ, – Ông phó lãnh sự nói, – Tôi nghĩ bổn phận chúng ta là phải báo ngay cho đoàn Ba-lan biết rồi trao chú Khôngskiequicz này lại cho họ. Tôi thấy trong trường hợp này thì dứt khoát đó là trách nhiệm của họ.

Đồng ý, – Người có tên là Harry nói. – Chú bé này, hôm nay chỉ một suýt nữa là chú chết ở ngoài chợ. Cái luật Hồi giáo đã cũ này, người ta gọi là Sher, quy định hễ ai ăn cắp là phải chặt một tay, về lý thuyết mà nói, đã bị chính thức bãi bỏ từ lâu rồi. Thực ra, trong bộ luật hình ottoman thì xử như thế là phạm tội ác rồi. Tuy nhiên, trên thực tế thì bọn man rợ vẫn tiếp tục thực hiện điều đó. – Ông ta nhún vai.

Tại sao họ không chặt tay tôi? – Wladek hỏi và ôm lấy cổ tay.

Tôi bảo họ là muốn chặt tay tất cả những người Hồi giáo thì tuỳ, nhưng không được chặt tay người Anh, – Edquard Prendergast nói.

Ôi tạ Ơn Chúa, – Wladek nói.

Tạ Ơn Edquard Prendergast chứ, ông phó lãnh sự nói và bây giờ ông ta mới mỉm cười. – Đêm nay chú có thể nghỉ lại đây, rồi mai chúng tôi sẽ đưa sang đoàn đại diện bên đó. Người Ba lan không có sứ quán ở Constantinople, – Ông ta nói bằng một giọng hơi khinh thường, – Nhưng ông bạn đồng sự của tôi bên đó là một người tốt, vì là người ngoại quốc. – Ông ta bấm chuông gọi, và ông cai xuất hiện ngay.

Ngài gọi gì ạ.

Ông Cai, ông đưa chú bé Khôngskiequicz này về phòng. Sáng mai cho chú ấy ăn sáng rồi chín giờ đúng đưa đến chỗ tôi.

Vâng. Đi lối này, cậu bé, mau lên.

Wladek đi theo ông cai. Anh không kịp cảm ơn hai người Anh đã cứu cho bàn tay của anh, có lẽ cứu cả mạng sống của anh nữa. Trở về căn phòng nhỏ có chiếc giường sạch sẽ chẳng khác gì như anh là khách danh dự Ở đây, anh cởi quần áo ra, vứt chiếc gối xuống sàn rồi lăn ra ngủ một mạch cho đến tận sáng hôm sau khi mặt trời chiếu vào qua khung cửa sổ nhỏ tí.

Dậy rửa mặt, cậu bé, rnau lên.

Đó là ông cai, mặc bộ quân phục trắng bong và là thẳng tắp, như ông ta không nằm giường bao giờ.

Trong khoảnh khắc bừng tỉnh dậy, Wladek tưởng như mình đang còn trong Trại 201, vì tiếng đập bằng chiếc gậy của ông cai vào khung giường sắt giống như tiếng gõ của thanh sắt tam giác mà Wladek vẫn nghe quen trong trại. Anh trườn ra khỏi giường và vơ lấy quần áo.

Đi rửa đã, cậu bé, đi rửa đã. Chúng ta không nên đề cho ông Prendergast sáng sớm ra phải ngửi cái mùi của cậu, phải thế không nào?

Wladek không biết là mình phải rửa ráy như thế nào nữa, vì anh thấy đã sạch lắm rồi. Ông cai chăm chú nhìn anh.

Chân cậu làm sao thế?

Không sao, không sao, – Wladek nói và quay mặt đi chỗ khác.

Thôi được, ba phút sau tôi trở lại. Ba phút đấy, nghe không? Phải sửa soạn cho xong đấy. Wlađek rửa tay rửa mặt thật nhanh rồi mặc quần áo Anh ngồi ở đầu giường ôm chiếc áo lông cừu chờ ông cai đến đưa anh đi gặp ông phó lãnh sự. Ông Prendergast tỏ vẻ ôn hòa hơn hôm qua rất nhiều.

Chào chú Khôngskiequicz.

Dạ thưa chào ông.

Tại sao không? – Ông phó lãnh sự nói, và quay sang nhìn ông cai. Ngủ quá giờ, thưa ngài. Nếu ăn sẽ đến muộn.
Ồ thế thì phải làm thế nào chứ nhỉ. Ông cai, nhờ ông nói với bà Henderson đem cho một quả táo hay cái gì đó – Vâng, thưa ngài.

Wladek cùng ông phó lãnh sự chậm chạp bước theo hành lang đi ra phía cửa sứ quán, rồi đi tiếp qua sân rải sỏi ra một chiếc xe đỗ bên ngoài. Đó là chiếc xe Austin, một trong những xe hiếm có ở Thổ Nhĩ Kỳ và cũng là lần đầu tiên Wladek được ngồi trên một chiếc xe riêng. Anh lấy làm tiếc phải rời sứ quán Anh. Đây là nơi an toàn đầu tiên mà từ bao nhiên năm nay anh mới cảm thấy được. Anh không biết là suốt đời mình còn có dịp nào được ngủ một đêm nữa trên chiếc giường như ở đó nữa không. Ông cai chạy xuống ngồi vào tay lái. Ông đưa cho Wladek một quả táo với vài tấm bánh còn nóng.

Cậu ăn đi và đừng để vãi trong xe nhé. Bà bếp gởi lời chào cậu đấy.

Chiếc xe từ từ chạy qua những phố đông đúc và nóng nực. Tốc độ như người đi bộ. Người Thổ Nhĩ Kỳ luôn luôn cho rằng chẳng có gì có thể đi nhanh hơn một con lạc đà, vì vậy họ cũng không tránh đường cho chiếc xe Austin đi lên làm gì. Xe mở tất cả các cửa kính mà Wladek vẫn thấy nóng đến ngạt thở, nhưng ông Prendergast thì vẫn cứ tỉnh như không, không hề tỏ ra khó chịu gì. Wlađek chúi người vào sau xe, sợ có ai đã chứng kiến sự việc hôm trước và nhận ra anh trong xe có thể lại hô hoán lên chăng. Chiếc xe Austin nhỏ và sơn đen đỗ lại trước một ngôi nhà nhỏ đã cũ có biển đề LÃNH SỰ QUÁN BA-LAN. Wladek cảm thấy xúc động pha lẫn với thất vọng.

Cả ba người bước xuống xe.

Hạt táo đâu, cậu bé, – Ông cai hỏi.

Tôi ăn rồi.

ông cai cười rồi gõ cửa. Một người đàn ông nhỏ bé, tóc đen, cằm vuông và có vẻ thân mật ra mở cửa. Ông ta mặc áo sơ-mi ngắn tay, người sạm đen, rõ ràng là do cái nắng Thổ Nhĩ Kỳ. Ông ta nói tiếng Ba Lan.

Đây là những tiếng mẹ đẻ đầu tiên Wladek được nghe thấy kể từ hôm rời trại giam đến nay. Wladek nhanh chóng trả lời ngay và giải thích tại sao anh đến đây. Ông ta

quay sang ông phó lãnh sự Anh.

Xin mời ông đi lối này, ông Prendergast , – Ông ta nói tiếng Anh rất thạo. – Ông đích thân đưa cậu bé đến đây, thật là quý hóa quá.

Họ trao đổi với nhau vài câu ngoại ngữ lịch sự rồi ông Prendergast và ông cai ra về. Wladek nhìn theo họ, cố nghĩ ra xem có câu tiếng Anh nào nói đầy đủ hơn chữ “Cảm ơn” không. Ông Prendergast thân mật xoa lên đầu Wladek. Ông ra theo ông Cai rồi nháy mắt nói với Wladek.

Chúc chú may mắn nhé. Chúa phù hộ cho chú được hưởng may mắn đấy.

ông lãnh sự Ba lan tự giới thiệu mình với Wladek là Paquel Zaleski. Wladek lại một lần nữa kể lại câu chuyện của mình và anh thấy mô tả bằng tiếng Ba Lan dễ hơn tiếng Anh nhiều. Paquel Zaleski yên lặng nghe anh nói, và lắc đầu buồn bã.

Tội nghiệp chú quá, – Ông- Khẽ nói. – Chú còn trẻ thế mà đã phải chịu đựng quá nhiều cái đau khổ của đất nước ta. Bây giờ phải làm gì cho chú đây?

Tôi phải trở về Ba lan để đòi lại cái lâu đài của tôi -Wladek nói.

Ba Lan ư – Paquel Zaleski nói. – Đó là đâu? – Mảnh đất chú đã sống ấy hiện nay còn đang tranh chấp, và chiến sự còn đang nổ ra giữa người Ba Lan với người Nga. Tướng Pilsudski còn đang làm mọi cách để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc chúng ta. Nhưng nếu chúng ta lạc quan thì sẽ là điên rồ. Ở Ba Lan bây giờ chẳng còn mấy chút gì cho chú đâu.

Không, điều tốt nhất cho chú bây giờ là bắt đầu một cuộc sống mới hoặc ở Anh hoặc ở Mỹ.

Nhưng tôi không muốn đi sang Anh hay sang Mỹ. Tôi là người Ba lan.

Chú vẫn cứ là Ba lah, Wladek ạ. Dù chú quyết định sống ở đâu thì cũng chẳng ai lấy đi được cái danh nghĩa đó của chú. Nhưng chú phải thực tế đối với cuộc sống của mình, mà cuộc sống ấy bây giờ mới chỉ là bắt đầu thôi.

Wladek cúi đầu thất vọng. Anh đã phải trải qua tất cả những điều trên đây để rồi bây giờ được nghe nói là sẽ chẳng bao giờ trở lại với quê cha đất tổ nữa hay sao? Anh cố nín không khóc.

Paquel Zaleski quàng tay ôm lấy vai anh. Chú đừng bao giờ quên rằng chú là một trong những người may mắn đã có thể trốn thoát và sống sót được Chú chỉ cần nhớ đến ông bạn bác sĩ Dubien để thấy rằng cuộc sống có thể như thế nào.

Wladek không nói gì.

Bây giờ chú phải gạt bỏ tất cả những chuyện quá khứ lại phía sau, vả chỉ nên nghĩ đến tương lai thôi. Có thể, trong đời chú, một ngày kia lại trông thấy đất nước Ba Lan đứng dậy, mà điều đó thì ai cũng mong muốn lắm.

Wladek vẫn im lặng, không nói gì.

Nhưng thôi, chú không cần phải có ngay một quyết định gì, – Ông lãnh sự thân mật nói. – Chú có thể ở lại đây muốn bao lâu cũng được, rồi sẽ tính đến tương lai của

chú sau.

***

Tương lai là điều Anne lấy làm lo ngại. Mấy tháng đầu lấy nhau là hạnh phúc. Chị chỉ hơi phiền về chuyện William mỗi lúc một tỏ ra không ưa Henry, còn anh chồng mới của chị xem ra cũng chưa thể làm việc ngay được. Henry có phần nào không yên, giải thích cho Anne biết là đến bây giờ anh vẫn còn bị chiến tranh làm cho chệch choạc, và anh không muốn vội vã lao vào một cái gì đó để rồi bị kẹt suốt cả đời. Chị nghe nói thế không thông, và cuối cùng thì hai người bắt đầu cãi lộn.

Em không hiểu tại sao anh không tiếp tục cái nghề kinh doanh nhà đất mà anh đã thông thạo rồi ấy Henry.

Anh không thề. Mà cũng chưa đến lúc. Thị trường nhà đất lúc này không có vẻ hứa hẹn gì lắm.

Gần một năm nay anh vẫn cứ nói đi nói lại câu đó Không biết đến bao giờ anh mới cho là hứa hẹn được Nhất định sẽ hứa hẹn chứ. Sự thực là anh cần có thêm chút vốn liếng nữa mới khởi sự được. Nếu em cho anh có được ít tiền của em, thì ngay ngày mai anh khởi? sự được ngay.

Điều đó là không được Henry. Anh biết những điều khoản trong di chúc của Richard rồi:

Chúng ta lấy nhau là lập tức trợ cấp của em bị chấm dứt, và bây giờ thì chỉ còn lại có vốn riêng thôi.

Chỉ cần một chút đó thôi là gìúp cho anh làm ăn được rồi, mà em cũng đừng quên là cái thằng bé yêu quý ấy của em còn có trên hai mươi triệu tiền ủy thác của gia đình.
Hình như anh biết kỹ về tiền của William lắm nhỉ, Anne nói với một giọng nghi hoặc.

Thôi đi, em. Em cũng phải cho anh được làm chồng của em chứ. Đừng làm anh cảm thấy như mình là khách trong nhà của chính mình.

Vậy tiền của anh đâu? Anh vẫn nói để em tin rắng anh có đủ tiền làm ăn rồi kia

mà.

Em vẫn biết là về mặt tài chinh thì anh không thể đứng vào hạng của Richard được. Mà trước đây đã có lúc em nói rằng điều đó không quan trọng. Em vẫn sẽ lấy anh, Henry, dù anh không có một xu nào – Anh nhại lại cái giọng của Anne.

Aune bật khóc. Henry tìm cách an ủi. Cả buổi tối đó chị nằm trong vòng tay của anh bàn đi bàn lại chuyện ấy. Aune nghĩ .bụng mình làm như vậy thì không phải là người vợ, và cũng không rộng rãi gì lắm. Chị có nhiều tiền hơn là chị cần. Chẳng lẽ chị không trao được một ít cho người đàn ông mà chị nguyện đã trao cả cuộc đời mình cho anh ta hay sao?

Nghĩ thế, chị đồng ý cho Henry 100 nghìn đô-la để anh ta thiết lập một văn phòng nhà đất ở BoBton. Trong vòng một tháng, Henry đã tìm được địa điểm làm văn phòng

rất đẹp trong khu hiện đại của thành phố, kiếm một số nhân viên và khởi sự làm việc. Chẳng bao lâu anh đã quan hệ được với những chính khách quan trọng của thành phố và những vị kinh doanh nhà đất khác ở Boston. Họ bàn tán với nhau về chuyện ruộng đất đang phát triển mạnh và tỏ ra ca tụng Henry. Anne không quan tâm lắm về những mối quan hệ xă hội ấy, nhưng Henry thì sung sướng và có vẻ như anh rất thành

công trong nhữug hoạt động của mình.

Khi Wilham mười lăm tuổi thì anh đã học năm thứ ba ở trường St.Paul, đứng thứ sáu trong lớp và đứng đầu về toán Anh cũng trở thành một nhân vật đang nổi trong Hội Tranh Luận Mỗi tuần, anh viết thư về cho mẹ một lần để báo cáo về việc học hành của mình. Thư nào anh cũng chỉ đề ngoài bì là bà Richard Kane, không thừa nhận là có Henry osborne. Anne phân vân không biết có nên nhắc nhở điều đó với con không. Mỗi buổi sáng thứ hai, chị cẩn thận ra hòm thư để lấy thư của William gửi về, cốt để cho Henry khỏi trông thấy chữ đề trên phong bì. Chị vẫn hy vọng là đến một lúc William sẽ thấy thích Helry. Nhưng rõ ràng hy vọng đó là không thực tế, nhất là khi viết thư về nhà William có một lần xin phép mẹ cho anh cùng đi nghỉ hè với người bạn là Matthequ Lester, lúc đầu là đi trại hè ở Vermont và sau đó là về với gia đình của Lester ở New York. Yêu cầu đó của anh làm cho Anne thấy đau buồn, nhưng rồi chị cũng đành chấp thuận và Henry hình như cũng tán thành như vậy.

William rất ghét Henry osborne và cứ nuôi trong lòng sự căm giận ấy mà không biết mình phải làm thế nào. Anh mừng thầm là Henry không bao giờ đến trường thăm anh. Anh không thể nào chịu được để cho các bạn khác trông thấy, mẹ anh đi với con người ấy Anh lấy làm khổ tâm phải sống với Henry ở Boston.

Lần đầu tiên kề từ sau khi mẹ anh tái giá, William nóng ruột muốn cho những ngày hè đến sớm. Chiếc xe Packard của nhà Lester có người lái và chạy rất êm đưa William và Matthequ đến trại hè ở vermont. Trên đường đi, Matthequ bỗng hỏi Wlliam là ở trường St. Paul ra anh sẽ làm gì..

Lúc ra trường, mình sẽ đứng đầu lớp, là trưởng lớp và mình sẽ giành được danh hiệu nhận giải thứởng học bổng Hamilton về toán để lên Harvard, Wilham trả lời không hề lúng túng.

Tại sao lại quan trọng thế – Metthequ ngớ ngẩn hỏi.

Vậy khi nào cậu làm được như thế, mình sẽ giới thiệu cậu với bố mình. William mỉm cười.
Hai anh chàng thanh niên này sống sáu tuần vui vẻ và hoạt động sôi nổi ở

Vermont, từ đánh cờ đến đá bóng. Hết kỳ nghỉ ở đây, họ lại quay về New York sống nốt một tháng hè nữa với gia đình Lester.

Người quản gia đứng sẵn ở cửa ra đón họ. Ông ta gọi Matthequ là “ông”. Một cô gái mười hai tuổi mặt đầy tàn nhang thì gọi anh là “Béo”. Wilham buồn cười, vì bạn

anh thì gầy, mà chính cô ta mới là béo. Cô gái cười nhe bộ răng gần như bịt hết. ‘ Chắc cậu không tin rằng Susan là em gái mình đâu nhỉ – Matthequ nói với một vẻ khinh thường cô em.

Không, mình không blết, William nói và nhìn Susan cười. – Cô em trông còn xinh hơn cậu nhiều.

Từ đó trở đi, cô ta rất quý Wllliam.

Wilham mới gặp bố Matthequ đã thích ông ta ngay. Anh thấy ông có nhiều cái rất giống với bố mình trước kia. Anh đề nghị ngay với ông Charles Lester cho anh được xem nhà ngân hàng lớn mà ông làm chủ tịch.

Charles Lester suy nghĩ mãi về yêu cầu đó của anh. Xưa nay chưa có đứa nhỏ nào được phép vào đến khu vực 17 phố Broad bao giờ, kể cả chính con ông. Ông bèn làm như mọi nhà ngân hàng khác là chiều chủ nhật đưa anh đi quanh các tòa nhà ở phố Wall vậy.

William phải hoa mắt về những cơ quan làm việc, những cửa cuốn, phòng ngoại hối, phòng họp của các vị lãnh đạo và văn phòng của chú tịch. Những hoạt động ngân hàng của nhà Lester còn rộng rãi sôi nổi hơn nhiều so với nhà Kane và Cabot. Wa tài khoản (đầu tư riêng rất nhỏ của mình, William vẫn nhận dược bản sao báo cáo hàng năm và anh biết rằng nhà lester còn có vốn hơn rất nhiều so với nhà Kane và Cabot. Ngồi trên xe trở về nhà, William yên lặng và có vẻ rất tư lự. ‘ – Thế nào, William, cháu xem ngân hàng có thích không? – Ông Charles Lester vui vẻ hỏi.

ồ thưa ông có, William đáp. – Cháu thích lắm. – Ngừng một lát, anh nói tiếp:

Ông Lester ạ, một ngày kia cháu cũng muốn làm chủ tịch ngân hàng của ông. Charles Lester cười. Tối hôm đó ngồi ăn với các vị khách mời đến nhà, ông cũng

kể lại câu nói của William Kane đối với Công ty Lester và mọi người cười ran.

Chỉ có William thì không nghĩ rằng đó là một câu đùa.

******* Anne rất lạ thấy Henry lại về đòi chị bỏ thêm tiền ra nữa. – Tiền này cũng vững như ngôi nhà vậy, – Anh ta đảm bảo với chị. – Em cứ hỏi Alan Doyd xem. Là chủ tịch ngân hàng thì bao giờ ông ấy chả nghĩ đến lợi tức của em là chuyện hàng đầu.

Nhưng còn hai trăm năm mười nghìn? – Anne hỏi.

Một cơ hội tuyệt vời, em ơi. Em phải coi đó như một khoản đầu tư mà trong hai năm nó sẽ tăng lên gấp đôi.

Sau một hồi cãi lộn với nhau nữa, Anne lại phải đồng ý, và cuộc sống lại vui vẻ như cũ. Lúc kiềm tra lại tài khoản của mình trong ngân hàng. Anne thấy vốn đã tụt xuống còn có một trăm năm mươi nghìn. Nhưng chị cũng thấy hình như Henry vẫn làm ăn với nhưng người tử tế và thu chi đâu ra đấy. Chị định đem vấn đề ra bàn với Alan Lloyd bên nhà Kane và Cabot, nhưng nghĩ thế nào lại thôi, vì như vậy sẽ có nghĩa là chị không tin ở người chồng mà chị muốn để cho mọi người tôn trọng. Vả lại, Henry cũng đã chẳng đưa ra đề nghị ấy nếu như anh ta không chắc chắn là vụ vay

mượn này không được sự tán thành của Alan.

Anne cũng lại bắt đầu thăm bác sĩ MacKenzie và hỏi xem chị có hy vọng gì đẻ được nữa không, nhưng bác sĩ vẫn khuyên chị là không nên. Với tình trạng huyết áp cao đă làm cho chị sẩy thai lần trước, Andrequ MacKenzie cho rằng ở cái tuổi ba mươi lăm thì Anne không nẽn nghĩ đến chuyện làm mẹ một lần nữa. Aune đem vấn đề bàn với các cụ bà nột ngoại thì các cụ hoàn toàn nhất trí với ý kiến của bác sĩ. Cả hai cụ chẳng ai muốn quan tâm gì đến Henry, và các cụ lại càng không muốn nghĩ đến chuyện mai kia một đứa con đẻ ra mang dòng họ Henry lại đòi được hưởng tài sản của họ nhà Kane, mà lúc đó các cụ. đã đi cả rồi thì làm sao. Anne đành chịu làm mẹ của một đứa con vậy. Henry thì lấy thế làm tức giận, bảo chị là phản bội. Anh ta nói giá như Richard còn sống thì chị đã đẻ nữa rồi. Chị nghĩ bụng không biết mình yêu ai hơn. Chị cố làm cho Henry yên lòng, thầm mong cho công việc của anh ta khấm khá lên và lúc nào cũng bận rộn để quên đi. Anh ta thường ở lại cơ quan làm việc rất khuya. vào một ngày thứ hai trong tháng Mười, tức là sau ngày nghỉ cuối tuần kỷ niệm hai năm hữ cưới nhau, Aime nhận được mấy lá thư của một “người bạn” không ký tên, báo cho chị biết là Henry đi với những phụ nữ khác ở quanh Boston, đặc biệt đi với một bà mà trong thư không tiện nói tên. Lúc đầu, Anne đốt ngay những bức thư ấy. Mặc dầu nó làm chị băn khoăn lo lắng, chị vẫn không nói gì với Henry cả. Lần nào nhận thư chì cũng mong đó là lá thư cuối cùng. Chị cũng vẫn không có đủ can đảm nói lên chuyện đó với Henry, nếu như không có việc Henry lại đòi chị bỏ ra nết số tiền 15 không.000 đô-la còn lại của chị.

Anh sẽ mất hết toàn bộ số vốn liếng nếu như không có được số tiền ấy bây giờ, Anne.

Nhưng tất cả em chỉ còn có thế thôi, Henry. Nếu bây giờ đưa cho anh nữa thì em không còn gì hết.

Riêng ngôi nhà này thôi đã đáng giá trên hai trăm nghìn. Ngày mai em có thể đem cầm nó được.

Ngôi nhà này là của Wilham.

William, Wilham, William. Bao giờ cũng chỉ có William cản trở hết cả công việc của tôi, – Henry quát lên và vùng vằng đi ra.

Mãi đến sau mười hai giờ đêm anh ta mới về nhà, tỏ vẻ hối hận, nói là đáng lẽ không nên đụng gì đến tiền của chị nữa, vì dù sao hai người cũng còn rất yêu nhau. Anne nghe anh ta nói thế rất yên tâm, rồi đến khuya hai người lại làm tình với nhau. Sáng hôm sau, chị ky luôn vào tờ séc 15 không.000 nghin đô-la, cố quên đi rằng mình chẳng còn một đồng nào nữa để cho Henry có thể tiếp tục theo đuổi vụ làm ăn của anh ta. Chị cũng hơi lạ thấy yêu cầu của Henry lần này đúng với số tiền còn lại trong gia tài chị được hưởng.

Tháng sau đó, Anne tắt kinh. Bác sĩ MacKenzie rất lo ngại nhưng không biểu lộ ra

mặt. Các cụ bà thì hoảng hốt và lo ra mặt, nhưng Henry thì sung sướng và bảo Anne rằng đó là điều tuyệt diệu nhất trong cả đời anh ta. Anh ta còn đồng ý xây một khoa nhi cho bệnh viện, điều mà trước đây Richard đã định làm khi chưa qua đời.

Khi William nhận được thư mẹ báo tin đó, anh ngồi suy nghĩ suốt cả buổi tối, ngay cả với Mathequ anh cũng không dám nói gì về điều lo ngại. Sáng thứ bảy sau đó, được phép của chủ nhà trọ, ông Raglan Nóng Tính, anh đi xe lửa lên Boston. Đến nơi, anh rút một trăm đô-la trong quỹ tiết kiệm rồi đến văn phòng luật sư Cohen và Yablons ở phố Jephpherson. Ông Thomas Cohen, một người cao lớn, xương xương và có chiếc cằm bạnh, rất ngạc nhiên thấy William bước vào văn phòng ông ta.

– Tôi chưa bao giờ tiếp một người mười sáu tuổi như thế này, – Ông Cohen nói. – Với tôi thì chuyện này là rất mới đây. – Ông ta ngập ngừng nóị… – Ông Kane.

ông ta thấy nói “ông Kane” nó ngường ngượng thế nào ấy. – Nhất là ông nhà trước kia hình nhự… không biết tôi nên nói thế nào nhỉ… hình như không có cảm tình gì lắm đối với những người trong giáo phái của tôi.

Cha tôi, – William nói, – Là một người rất khâm phục những thành tựu của dân tộc Hibru và đặc biệt quý trọng hãng của ông thì ông đứng ra bênh vực cho đối thủ của cha tôi. Tôi có nghe cha tôi và ông Doyd nhắc đến tên ông rất nhiều lần. Vì vậy mà hôm nay tôi tìm đến ông, chứ không phải ông tìm tôi. Như vậy ông đủ tin được chưa.

ông Cohen lập tức gạt bỏ chuyện tuổi William sang một bên.

Đúng thế, đúng thế. Tôi nghĩ là phải coi con trai của Richard Kena như một ngoại lệ. Nào, bây giờ tôi có thể giúp anh được gì đây?

Tôi muốn được ông trả lời cho tôi ba câu hỏi, thưa ông Cohen. Một là, tôi muốn biết nếu mẹ tôi, tức bà Henry osborne, đẻ ra một đứa con, dù là trai hay gái, thì đứa con đó có quyền hợp pháp gì đối với gia tài ủy thác của gia đình Kane hay không. Hai là, tôi có nghĩa vụ gì về mặt pháp lý đối với ông Henry osbome chỉ vì ông ấy lấy mẹ tôi hay không? Và ba là, đến tuổi nào thì tôi có quyền đòi ông Henry osborne phải rời khỏi ngôi nhà của tôi trên quảng trường Luisburg ở Boston?

Ngòi bút của ông Cohen chạy rất nhanh trên mảnh giấy để trước mặt, làm bắn cả mấy giọt mực xanh lên mặt bàn vốn đã có nhiều vết mực rồi.

William đặt một trăm đô-la lên mặt bàn. Ông luật sư sửng sốt nhưng vẫn cầm đồng tiền lên đếm. – Xin ông dùng tiền cho thận trọng, thưa ông Cohen. Lúc ra trường Harvard, tôi sẽ cần đến một luật sư giỏi – Anh đã được nhận vào trường Harvard rồi ư? Tôi xin chúc mừng. Tôi hy vọng con trai tôi cũng sẽ được vào đó Không, tôi chưa vào, nhưng trong hai năm nữa tôi sẽ vào Một tuần nữa tôi sẽ trở lại Boston, thưa ông Cohen. Nếu trong đời tôi còn nghe thấy ai nói đến chuyện này ngoài ông ra, thì coi như quan hệ giữa ông với tôi chấm dứt đấy. Xin chào ông.

Lẽ ra Thomas Cohen cũng phải chào lại, nhưng ông chưa kịp thốt ra lời nào thì

William đã ra ngoài và cánh cửa đã khép sau lưng anh rồi.

Bảy ngày sau, William trở lại văn phòng luật sư Cohen và Yablons.

A, chào ông Kane, – Thomas Cohen nói – Rất mừng gặp lại ông. Ông uống cà phê chứ?

Không ạ, xin cảm ơn ông. ,Tôi cho người đi mua Coca-cola về nhé? Mặt William phớt tỉnh.

Thôi ta làm việc vậy, – Ông Cohen nói với vẻ hơi lúng túng. – Ông Kane, chúng tôi đã cho đi điều tra với sự giúp đỡ của một số người. Những câu hỏi ông nêu ra không hoàn toàn thuộc về lĩnh vực kinh viện.

Tôi nghĩ là có thể có được những câu trả lời chắc chắn cho tất cả những câu hỏi ông nêu ra. Ông hỏi nếu như đứa con mà mẹ Ông đẻ ra cho ông osborne thì đứa con đó có được quyền hưởng gì tài sản của họ Kane hay không, hay nói đúng hơn là tài sản được ủy thác do cha ông để lại. Câu trả lời đơn giản là không, nhưng cố nhiên bà osborne vẫn có thể để một phần trong số năm trăm nghìn đô-la do cha ông để lại cho bà và bà muốn đem nó cho ai thì tuỳ.

ông Cohen nhìn lên.

Tuy nhiên, ông Kane ạ, có lẽ ông cũng muốn biết rằng mẹ Ông đã rút hết toàn bộ số tiền năm nghìn trong tài khoản ấy của bà ở ngân hàng Kane và Cabot trong mười tám tháng qua rồi, nhưng chúng tôi thì không sao tìm ra được là số tiền ấy đã được dùng như thế nào. Rất có thể là bà ấy đã quyết định gửi số tiền ấy sang một ngân hàng khác.

William tỏ vẻ khó chịu. Đó là dấu hiệu đầu tiên của sự mất bình tĩnh mà Thomas Cohen thấv được ở anh.

Không có lý gì bà ấy làm thế, – William nói. – Tiền chỉ có thể vào tay một người. ông luật sư ngồi im chờ anh nói nữa. Nhưng Wiìliam chững lại không nói gì thêm.
Ông Cohen lại tiếp tục – Trả lời cho câu hỏi thứ’hai của ông là:

ông không có bất cứ nghĩa vụ gì, dù là cá nhân hay pháp nhân, đối với ông Henry osbome hết. Theo những điều khoản trong di chúc của cha ông, thì mẹ Ông là người được ủy thác quản lý nhà đất cùng với ông Alan Uoyd và bà John Preston là những cha mẹ đỡ đầu hãy còn sống, cho đến khi ông hai mươi mốt tuổi.

Thomas Cohen lại nhìn lên. William không biểu lộ gì trên mặt. Ông Cohen biết như vậy là cứ tiếp tục nói nốt.

– Và thứ ba là:

ông không thể nào đuổi được ông osborne ra khỏi ngôi nhà trên đồi Beacon chừng nào ông ta vẫn còn lấy mẹ Ông và tiếp tục sống với bà ấy.

Khi nào bà ấy chết thì ngôi nhà này tự nhiên thuộc về ông. Đến lúc đó, nếu ông ta còn sống, thì ông có thể yêu cầu ông ta đi được. Tôi nghĩ như vậy là đã trả lời được hết những câu hỏi của ông rồi đó, ông Kane.

Xin cám ơn ông, ông Cohen, William nói. – Tôi cảm tạ Ông về hỉệu quả và sự kín dáo của ông trong vấn đề này. Bây giờ, xin ông cho biết tôi phải trả ông bao nhiêu tiền?

Một trăm đô-la thì không hoàn toàn bao được hết công việc này, ông Kane ạ. Nhưng chúng tôi tin ở tương lai của ông, và…

Tôi không muốn mang ơn đối với bất cứ ai, thưa ông Cohen. Xin ông cứ coi tôi như một người mà không bao giờ ông còn phải bận tâm đến nữa. Như vậy tôi còn thiếu bao nhiêu, xin ông cứ cho biết.

ông Cohen suy nghĩ một lúc rồi nói:

Nếu vậy thì chúng tôi tính ông hai trăm hai mươi đôla.

William rút trong ttú ra sáu tờ bạc 20 đôla đưa cho ông Cohen. Lần này, ông luật sư không đếm nữa.

Tôi rất cảm ơn ông giúp đỡ, thưa ông Cohen. Tôi tin chắc chúng ta sẽ còn gặp nhau nữa. Xin chào ông.

Xin chào ông Kane. Tôi có thể nói mặc dầu chưa có vinh dự được gặp người cha kính yêu của ông trước đây nhưng làm việc với ông thì tôi tưởng như đã có vinh dự đó rồi.

Wilham mỉm cười và dịu giọng xuống. Xin cảm ơn ông.

Để chuẩn bị cho đứa bé ra đời, Anne lúc nào cũng bận rộn. Chị thấy dễ mệt và cứ làm gì một chút là lại nghỉ. Mỗi khi chị hỏi Henry xem làm ăn thế nào, anh ta đều có sẵn những câu trả lời có lý để làm chị yên tâm mọi thứ đâu vào đấy, nhưng không cho chị biết bất cứ một chi tiết cụ thể nào.

Rồi đến một buổi sáng lại có những bức thư nặc danh gửi đến. Lần này, thư viết rõ ràng tên tuổi những người đàn bà và cả những chỗ mà họ đi với Henry. Anne đốt ngay những thư đó mà không cần nhớ những chỗ nào. Chị không muốn tin là chồng chị lại có thể không trung thành trong lúc chị mang thai như vậy. Hẳn là có ai ghen ghét gì đó đối với Henry nên họ phải bịa ra thế thôi.

Những thư nặc danh ấy vẫn tiếp tục gửi đến, đôi khi có những tên mới được nêu lên. Aune vẫn cứ hủy đi nhưng bây giờ nó bắt đầu khiến chị phải bận tâm. Chị muốn đem chuyện đó tâm sự nhưng không nghĩ ra được có thể nói với ai. Các cụ bà mà nghe thấy chuyện này hẳn sẽ hoảng loạn cả lên, mà vốn các cụ đă có sẵn thành kiến với Henry rồi. Alan Lloyd ở ngân hàng thì không thể hiểu được chuyện này vì ông ta chả lấy vợ bao giờ, còn William thì lại quá trẻ.

Không có ai thích hợp để nói chuyện. Anne nghĩ đến việc đi hỏi một bác sĩ khoa tâm thần sau khi nghe một bài giảng của Siglnund Phreud, nhưng rồi chị lại nghĩ một người của dòng họ Cabot không bao giờ có thể đem chuyện riêng gia đình ra nói với người hoàn toàn xa lạ được.

Vấn đề cuối cùng đã đi đến một tình hình mà Anne không tính trước được. Trong một buổi sáng thứ hai, chị nhận được ba lá thư. Một lá như mọi khi Wilìiam gửi về đề cho bà Richard Kane và hỏi xem anh có thể đi nghỉ hè với anh bạn Matthequ Lester được nữa không. Một thư nặc danh nữa nói Henry đang có chuyện dan díu vớị… Milly Preston. Còn lá thư thứ ba là của Alan Lloyd, chủ tịch ngân hàng, viết nhắn chị gọi điện thoại và hẹn ngày cho ông ta gặp có chút việc Anne mệt mỏi ngồi xuống đọc lại một lần nữa cả ba bức thư. Thư của William tỏ ra xa cách khỉến chị nhói đau. Chị lấy làm buồn thấy con muốn đi nghỉ hè với Matthequ Lester hơn. Từ khi chị tái giá lấy Henry, hai mẹ con mỗi ngày một cách biệt. Bức thư nặc danh nói Henry đang dan díu với người? bạn thân nhất của chị là điều chị khó có thể không biết đến. Anne không thể không nhớ rằng chính Milly là người đã giới thiệu chị với Henry, và cũng là mẹ đỡ đầu của William. Bức thư thứ ba của Alan Lloyd hiện nay đã là chủ tịch của ngân hàng Kane và Cabot sau khi Richard qua đời, khiến chị rất phân vân. Bức thư duy nhất chị nhận được của Alan trước đây là thư chia buồn vể cái chết của Richard. Chị ngờ rằng thư này chỉ có thể là tin buồn hơn nữa mà thôi.

Chị gọi điện thoại cho ngân hàng. Tổng đài chuyển ngay cho chị.

Alan, ông muốn gặp tôi phải không?

Vâng, chị ạ. Tôi muốn trao đồi một tí. Chị thấy lúc nào tiện Có phải tin dữ không đấy? – Anne hỏi.

Không hẳn đâu, nhưng tôi không muốn nói trên điện thoại. Không có điều gì khiến chị phải lo đâu.

Chị có thể ăn trưa với tôi được không – Được chứ, Alan.

Vậy ta sẽ gặp ở nhà hàng Ritz vào một giờ. Chốc nữa gặp lại chị nhé.

Một giờ. Từ đây đến lúc đó chỉ còn ba tiếng. Óc chị nghĩ luẩn quẩn từ Alan đến William đến Henry nhưng rồi dừng lại ở Milly Preston. Có thể là thật chăng? Anne quyết định tắm nước nóng ấm một lúc lâu rồi mặc bộ áo mới vào người. Nhưng không thay đổi gì được Chị cảm thấy mình đã bắt đầu bệu lên.

Da dẻ, tay chân, trước đây thon thả lịch sự là thế, bây gỉờ đã trở nên phục phịch và có nhữag nốt tím đỏ. Chị lo sợ không biết trước khi đẻ thì người chị sẽ ra thế nào nữa. Chị nhìn mình trong gương thở dài và cố sửa sang lại bề ngoài cho dễ trông hơn một chút.

Trông chị xôm lắm đấy, Anne. Giá như tôi không phải một anh già độc thân thì tôi sẽ tán tỉnh chị ngay mà không hề xấu hổ chút nào, nhà ngân hàng có bộ tóc trắng nói và hôn vào hai bên má chị, làm như một ông tướng người Pháp. Ông ta đưa chị vào ngồi ở bàn mình.

Chiếc bàn trong góc phòng ấy là chỗ chuyên dành cho ông chủ tịch ngân hàng Kane và Cabot khi nào ông không ăn trưa ở ngay cơ quan. Trước kia Richard đã làm như vậy và bây giờ đến lượt Alan Lloyd. Đây là lần đầu Anna ngồi ăn ở bàn đó với

một người khác.

Những người phục vụ nháo nhác chạy ra chạy vào nhưng không làm gì ảnh hưởng đến hai người nói chuyện.

Còn bao lâu nữa chị đẻ, Anne?

Ồ phải còn ba tháng nữa.

Tôi hy vọng là không rắc rối gì. Tôi nhớ là…. Bác sĩ vẫn gặp tôi mỗi tuần một lần và cứ nhăn nhó về chuyện áp huyết, nhưng tôi thì không lo quá đáng như thế.

À thế thì tôi mừng cho chị – Ông ta nói và sờ vào tay chị như một bậc cha chú. – Nhưng tôi thấy chị có vẻ mệt mỏi đấy, chị đừng có làm cái gì quá nhiều.

Alan Lloyd khẽ giơ tay ra hiệu. Một người hầu bàn đến ngay bên cạnh và hai người gọi món ăn.

Anne này, tôi muốn chị cho một vài lời khuyên Anne rất biết Alan Lloyd là người có tài ngoại giao. Chẳng phải ông ta ngồi ăn trưa với chị để mà nghe chị khuyên đâu. Hẳn là ông ta đến để khuyên chị điều gì đó thì đúng hơn.

Chị có rõ những chương trình nhà đất của Henry tiến hành như thế nào không” – Không, tôi không biết, – Anne đáp. – Tôi chả bao giờ muốn dính đến những công việc làm ăn của Henry cả ông cũng nhớ đấy, tôi không dính gì đến những hoạt động của Richard. Nhưng sao? Có chuyện gì đáng phải lo ngại không?

Không, không, chúng tôi ở ngân hàng thì không biết là có chuyện gì đáng lo cả. Trái lại chúng tôi biết là Henry đang có yêu cầu ký kết một hơp đồng lớn với thành phố để xây dựng một tổ hơp bệnh viện mới. Tôi hỏi chị thế là vì anh ấy có đến ngân hàng vay một khoản năm trăm nghìn đô-la.

Anne choáng người.

Tôi biết là chuyện đó làm chị ngạc nhiên, – Ông ta nói. – Chúng tôi biết là trong tài khoản dự trữ của chị còn khoảng dưới hai chục nghìn, thế mà số tiền rút ra theo tên chị thì đã quá mười bảy nghìn rồi.

Anne bỏ thìa súp đang ăn xuống, hoảng hốt. Chị không ngờ là tình hình đến mức như vậy. Alan có thể thấy rõ là chị đang hoang mang, thất vọng.

Nhưng bữa ăn này không phải là để nói chuyện đó Anne, – Ông ta vội tiếp ngay.

Ngân hàng sẵn sàng chịu hụt tiền với chị cho đến hết đời. Tiền ủy thác của William mỗi năm đã có lãi suất đến hơn một triệu đôla, vì vậy tiền rút quá mức của chị sẽ chẳng có nghĩa gì, ngay cả đến năm trăm nghìn đôla mà Henry yêu cầu cũng không quan trọng nếu như được chị đồng ý, vì chị là người quản lý hợp pháp tài sản của Wilham.

Tôi không biết là mình còn có quyền gì đối với tài sản ủy thác của William cả, – Anne nói.

Với tổng số tài sản gốc thì không, nhưng về mặt pháp lý mà nói thì lãi suất của nó có thể đầu tư vào bất cứ công trình nào để làm lợi cho William, và cái đó thì thuộc

quyền quản lý của chị, của tôi và của Milly Preston với tư cách là cha mẹ đỡ đầu cho đến khi nào William hai mươi mốt tuổi. Bây giờ, với danh nghĩa chủ tịch tài sản ủy thác của William, tôi đề nghị chị chuẩn y cho khoản tiền năm trăm nghìn ấy.

Milli đã báo cho tôi biết là chị ấy rất tán thành, như vậy là hai người có hai phiếu thì ý kiến của tôi sẽ không có giá trị nữa.

Milly Preston đã tán thành rồi ư – Rồi. Thế chị ấy chưa nói cho chị biết à? Anne không trả lời ngay.

vậy ý kiến của- Riêng ông thế nào? – Anne nghĩ một lúc rồi hỏi.

Tôi thì tôi chưa biết những tài khoản của Henry thế nào, vì anh ta chỉ mới bắt đầu

làm việc được mười tám tháng thôi, và anh ta cũng không giao dịch gì với ngân hàng chúng tôi cả. Vì vậy tôi không thể biết được thu chi của anh ta trong năm nay thế nào, và cũng không biết anh ta dự kiến trong năm 1923 sẽ thu về được bao nhiêu. Tôi chỉ biết anh ta xin làm hợp [1ồng xây dựng bệnh viện mới, và dư luận đồn là anh ta làm thật.

Ông quỹ trưởng của tôi bao giờ cũnn cho tôi biết ngay mỗi khi có chuyện rút những món tiền lớn ở bất cứ tài khoản nào. Tôi không biết chị lấy tiền đó ra làm gì, vả lại đó không phải việc của tói. Đó là tiền Richard để lại cho chị nên muốn tiêu như thế nào là tuỳ chị.

Còn chuyện lãi suất của tài sản ủy thác thì lại là (:huyện khác. Nếu chị quyết định rút ra năm trăm nghìn để đầu tư vào cho công ty của Henry thì ngân Hàng lúc đó sẽ có bổn phận phải kiểm soát sổ sách của Henry, vì đồng tiền lúc đó được coi như tiền đầu tư trong khuôn khổ tài sản William. Richard không cho những người được ủy thác cái quyền cho vay, mà chỉ được đầu tư nhân danh William thôi. Tôi đã giải thích tình hình đó cho Henry biết. Nếu anh ta chịu đầu tư theo kiểu như vậy, thì những người được ủy thác sẽ quyết định về tỷ lệ lãi suất thích hợp cho công ty của Henry đối với khoản năm trăm nghìn. Cố nhiên William cũng phải được biết về chuyện chúng ta làm gì với những tiền đó, và cứ mỗi quý cũng phải được báo cáo của ngân hàng như mọi người được ủy thác.

Riêng tôi thì tôi chắc chắn rằng sau khi nhận được báo cáo hàng quý sắp tới, William cũng sẽ có ý kiến riêng của cậu ta về vấn đề này.

Có lẽ chị cũng thấy lý thú nếu biết rằng kể từ khi cậu ta mười sáu tuổi, William thường vẫn gửi về ngân hàng cho chúng tôi những ý kiến về mỗi khoản đầu tư mà chúng tôi làm. Lúc đầu, tôi chỉ xem thoáng qua những ý kiến ấy thôi, nhưng gần đây tôi nghiên cứu kỹ thì thấy đó là những ý kiến cần được tôn trọng. Tôi nghĩ là sau này khi William có chân trong ban lãnh đạo thì cái ngân hàng Kane và Cabot này đối với cậu ta có thể quá nhỏ.

Trước nay tôi chưa từng được ai hỏi ý kiến về tài sản ủy thác của William là sao nhỉ, – Anne buồn bã nói.

Ôi chị vẫn đọc những báo cáo của ngân hàng gửi đến vào ngày đầu của mỗi quý đấy chứ, và bao giờ chị cũng có quyền của người được ủy thác để chất vấn về tất cả những khoản đầu tư nào nhân danh William kia mà.

Alan Lloyd rút trong túi ra một mảnh giấy nhưng không nói gì, chờ cho người hầu bàn rót rượu vang “Những đêm St. Georges” vào cốc xong đã. Anh ta bước ra khỏi một quãng rồi Alan nói tiếp.

William có khoảng trên hai mươi mốt triệu được ngân hàng đem đầu tư với lãi suất

4,5 phần trăm cho đến khi cậu ta đầy hai mươi mốt tuổi. Cứ mỗi quý chúng tôi lại đem lãi suất tái đầu tư vào chứng khoán và cổ phiếu. Trước nay chúng tôi chưa hề đầu tư vào các công ty tư nhân. Anne, chị sẽ ngạc nhiên nghe nói là bây giờ chúng tôi thực hiện tái đầu tư trên cơ sở mỗi bên quyết định một nửa, tức là năm mươi phần trăm theo ý kiến của ngân hàng và năm mươi phần trăm theo ý kiến do William đưa ra. Hiện nay, chúng tôi phát triển hơn William một chút. Tony Simmons, giám đốc phụ trách đầu tư của ngân hàng, đang rất lấy làm khoái vì William hứa là cứ năm nào nếu anh ta vượt lên trên được cậu ta mười phần trăm là cậu ta sẽ mất cho một chiếc xe Rolls-Royce.

Nhưng nếu như William thua cuộc thì thử hỏi cậu ta lấy đâu ra mười nghìn đôla trả cho chiếc xe Rolls-Royce ấy, vì cậu ta không được phép đụng đến tiền ủy thác nếu chưa đến hai mươi mốt tuổi?

Tôi chịu không biết trả lời cho câu hỏi đó như thế nào, Anne. Tôi chỉ biết cậu ta rất hănh diện đến thẳng chỗ chúng tôi rồi, và nếu như không thực hiện được thì cậu ta đã chẳng dám đánh cuộc như vậy. Chị đã có dịp nào được xem cuốn sổ cái của cậu ta bao giờ chưa?

Cuốn sổ do các cụ tặng nó ấy Alan Uoyd gật đầu.

Không, từ khi nó đi học xa tôi không xem đến nữa. Mà tôi cũng không biết có còn không.

Còn đấy, – Ông Lloyd nói, – Tôi sẵn sàng mất một tháng lương nếu biết được hiện nay cậu ta gửi ngân hàng được bao nhiêu. Tôi chắc chị cũng biết hiện nay cậu ta gửi tiền vào ngân hàng Lester ở New York chứ không gửi chúng tôi nữa. Tôi cũng tin chắc rằng ở đó họ không có ngoại lệ gì cho cậu ta, dù biết đó là con của Richard Kane.
Con của Richard Kane, – Anne nói. Xin lỗi. Tôi không có ý muốn tỏ ra vô lễ đâu, Anne.

Không, không, rõ ràng nó là con của Richard Kane rồi. Ông biết không, ngay từ khi nó mười hai tuổi nó đã không thèm hỏi tôi lấy một xu. – Chị ngừng lại. – Tôi nghĩ có lẽ tôi phải báo trước để ông biết rằng nếu nó nghe nói phải đầu tư năm trăm nghìn đôla ủy thác của nó vào công ty của Henry thì nó sẽ không sẵn sàng chấp nhận đâu.

Sao, hai người không hợp nhau à? Alan nhíu lông mày hỏi.- Có lẽ không, – Anne đáp.

Thế thì đáng tiếc. Nếu William thực sự phản đối thì việc chuyển khoản sẽ rất phức tạp. Mặc dầu cậu ta không có quyền đối với những người được ủy thác trước khi đầy hai mươi mốt tuổi, nhưng chúng tôi cũng đã có những nguồn tin cho biết William tìm đến một luật sư để hỏi xem tư thế hơp pháp của cậu ta thế nào.

Trời đất ơi, – Anne thốt lên, – Ông nói thật đấy chứ- Vâng, tôi nói nghiêm túc đấy. Nhưng chị không có gì phải lo ngại hết. Nói thật ra, chúng tôi ở ngân hàng nghe nói thế cũng rất lạ, nhưng sau khi hiểu ra nguồn gốc việc điều tra này, thì chúng tôi cũng đã đánh tin cho họ biết là chúng tôi sẽ giữ kín. Rõ ràng ìà vì một lý do riêng nào đó, cậu ta không mụốn trực tiếp hỏi chúng tôi.

Trời đất, – Anne lại nói, – Không biết nó ba mươi tuổi thì rồi sẽ thế nào nữa.

Điều đó còn tuỳ, – Alan nói, – Còn tuỳ ở chỗ cậu ta có may mắn để yêu được một người nào đáng yêu như chị hay không. Trước kia, sức mạnh của Richard cũng ở đó mà ra.

Alan, ông già mà khéo nịnh lắm nhé. Chúng ta có thể gác lại vấn đề năm trăm nghìn cho đến khi nào tôi nói chuyện với Henry được chăng?

Cố nhiên được chứ. Tôi đã bảo gặp chị là để xin mấy lời khuyên mà.

Chị nhớ là phải cẩn thận với sức khỏe của mình đấy nhé. Chị còn quan trọng hơn nhiều so với số phận của mấy nghìn đôla đấy.
Về đến nhà, Anne lập tức thấy lo ngại về hai bức thư chị nhận được lúc sáng. Sau khi đã nghe Alan Lloyd nói tất cả về đứa con mình, bây giờ chị thấy tốt hơn hết là đồng ý để cho Wiliiam cùng đi nghỉ hè sắp tới với Matthequ Lester.

Cái khả năng Henry và Milly dan díu với nhau thành một vấn đề mà chị thấy không dễ dàng tìm ra được giải pháp gì. Chị ngồi trong chiếc ghế da màu nâu, chiếc ghế mà xưa kia Richard rất thích, nhìn ra bên ngoài cửa sổ có một dải đất trồng những bông hồng trắng và đỏ, chỉ nghĩ ngợi mà như không nhìn thấy gì. Anne thường mất rất nhiều thời gian mới đi đến một quyết định gì, nhưng đã quyết định rồi thì chị không mấy khi đảo ngược lại nữa.

Henry về nhà sớm hơn mọi tối và chị không thể không tự hỏi tại sao? Nhưng rồi chị hiểu ra ngay.

Anh nghe nói hôm nay em ăn trưa với Alan Doyd phải không? – Anh ta vừa bước vào phòng đã hỏi ngay:

Ai bảo anh thế, Henry?

Anh có gián điệp khắp nơi, – Anh ta vừa nói vừa cười – Đúng đấy, Alan mời em ăn trưa. Ông ấy muốn biết em nghĩ thế nào về việc cho phép ngân hàng đầu tư số tiền ủy thác năm trăm nghìn đôla của William vào cho công ty của anh.

Vậy em nói thế nào? – Henry hỏi lại, cố làm như không lo lắng gì.

Em bảo ông ấy là để bàn với anh xem đã. Nhưng tại sao anh không hề nói cho

em biết là anh hỏi ngân hàng? Bây giờ mới nghe Alan nói mà ngớ cả người ra.

Anh tưởng là em không quan tâm gì đến chuyện kinh doanh, và anh ngẫu nhiên mà biết được rằng em, Alan Lloyd và Milly Preston đều là những người được ủy thác và mỗi người được một phiếu về quyết định đối với tiền đầu tư của William.

Làm sao anh biết được, – Anne hỏi, – Trong khi chính em không biết gì về chuyện đó?

Em yêu quý, em không đọc mấy bản tin nhỏ kia. Anh thì cũng mãi đến gần đây mới đọc. Và cũng ngẫu nhiên mà Milly Preston cho anh biết những chi tiết về chuyện ủy thác này. Không những cô ta là mẹ đỡ đầu của Wilham mà còn là một người được ủy thác nữa.

Cô ta cũng ngạc nhiên có người nói mới biết được. Bây giờ ta thử xem có thể chuyển tình thế sang chỗ có lợi cho mình được không. Milly nói nếu em đồng ý thì cô ta cũng ủng hộ anh.

Chỉ nhắc đến tên Milly thôi cũng đã làm Anne khó chịu. ‘ – Em không nghĩ là chúng ta phải đụng đến tiền của William, – Chị nói. – Em chưa bao giờ trông vào cái tài sản ủy thác ấy cả. Cứ để mặc nó đấy cho ngân hàng tiếp tục tái đầu tư tiền lãi như trước nay họ vẫn làm là yên chuyện.

Tại sao lại có thể thỏa mãn với chương tnnh đầu tư của ngân hàng trong khi anh đang có cơ hội làm ăn với thành phố về hợp đồng xây bệnh viện, William sẽ thu được khối tiền ở công ty của anh. Chắc là Alan cũng tán thành thế chứ – Em không biết chắc ông ta nghĩ thế nào. Ông ta vẫn kín đáo như mọi khi, mặc dầu ông ta cũng bảo hợp đồng này rất có lợi và anh có thể có cơ hội làm ăn được.

Đúng thế đấy.

Nhưng ông ấy nói là cần phải xem sổ sách của anh trước khi đi đến kết luận dứt khoát. Ông ấy còn hỏi cái khoản năm trăm nghìn của em bây giờ đi đâu rồi.

Khoản năm trăm nghìn của chúng ta, em yêu quý ạ tiến triển rất tất, và rồi em sẽ thấy. Sáng mai anh sẽ gửi sổ sách sang cho Alan để ông ta đích thân kiểm tra. Có thề đảm bảo với em rằng ông ta sẽ có ấn tượng rất tốt.

Em cũng hy vọng thế, Henry, vì lợi ích của cả hai chúng ta, Anne nói. – Hãy để xem ý kiến của ông ta thế nào đã. Anh biết là trước nay em vẫn rất tin ở Alan.

Nhưng không tin anh, – Henry nói.

Ồ, không, Henry, em không có ý….

Anh đùa thế thôi. Anh chắc là em phải tin chồng mình chứ.

Anne bỗng thấy trong người trào lên muốn khóc. Trước đây với Richrd thì chị nén được. Nhưng với Henry chị không cầm nữa.

Em hy vọng là có thể tin được. Trước nay em không bao giờ phải lo đến tiền bạc, thế mà bây giờ thì lại phải bận tâm quá sức. Bụng mang dạ chửa thế này, em càng thấy mệt và chán nản quá.

Thái độ của Henry nhanh chóng chuyển sang âu yếm.

Anh biết, em yêu quý. Và anh cũng không muốn em phải bận tâm gì về những chuyện kinh doanh làm ăn ấy. Anh thì bao giờ cũng có thể giải quyết được chuyện đó. Thôi, em nên đi nằm sớm đi, anh sẽ mang bữa tối lên cho em bằng một cái khay. Như vậy, anh có thể tranh thủ đến cơ quan chuẩn bị hồ sơ để sáng mai gửi sang cho Alan xem.

Anne nghe theo. Nhưng sau khi Henry đi rồi, chị dù mệt cũng chưa có ý muốn ngủ ngay. Chị còn ngồi trên giường đọc truyện của Sinclair Lequis. Chị biết là Henry sẽ mất mười lăm phút để đi đến cơ quan.

Chị chờ cho đủ hai mươi phút mới quay điện thoại gọi đến đó. Chuông điện thoại reo mãi đến gần một phút vẫn không có ai trả lời.

Hai mươi hút sau, Anne lại gợi lần nữa. Vẫn không có ai trả lời. Rồi hai mươi phút sau đó, chị lại gọi.

Hoàn toàn không có ai. Câu nói của Henry lúc trước về chuyện tin cứ văng vẳng trong đầu chị một cách cay đắng.

Mãi đến sau mười hai giờ đêm Henry mới về nhà. Anh ta giật mình thấy Anne vẫn còn ngồi trên giường và đang đọc Sinclair Lequis.

Em chả cần thức chờ anh làm gì. Anh ta hôn chị nồng nhiệt. Anne thấy như ngửi thấy mùi nước hoạ… hay chị quá nghi ngờ mà tưởng thế.

Anh phải ngồi lại lâu hơn dự kiến. Anh không thể tìm ra được hết những thứ giấy tờ Alan cần đến. Cái cô thư ký chết tiệt lại nhét giấy tờ vào hồ sơ mà bên ngoài viết chữ khác.

Ngồi một mình ở cơ quan vào giữa đêm như thế thì thật là buồn, Anne nói.

Ồ nếu có việc đáng làm thì cũng không đến nỗi nào, – Henry nói và trèo ngay lên giường nằm sát vào lưng Anne. – ít ra cũng có cái hay là làm được rất nhiều việc mà không bị điện thoại gọi đến liên tục khiến mình phải bỏ dở giữa chừng.

Mấy phút sau anh ta ngủ luôn. Còn Anne vẫn thức. Bây giờ chị quyết tâm thực hiện quyết định hồi chiều của chị.

***

Sáng hôm sau, ăn sáng xong rồi và Henry đã đi làm việc – Anne không còn biết chắc là Henry đi làm hay đi đâu nữa – Chị ngồi đọc tờ báo Toàn cầu của Boston và đề

tìm trong những chỗ quảng cáo nhỏ. Rồi chị nhấc điện thoại lên hẹn đến một nơi ở phía Nam Boston trước mười hai giờ trưa. Đến đây, Anne kinh ngạc thấy những nhà cửa ở nơi này rất bẩn. Chị chưa đặt chân đến khu miền Nam của thành phố này bao giờ. Nếu như bình thường không có chuyện gì thì có lẽ cả đời chị không biết là trong thành phố có những chỗ như thế này.

Wa chiếc cầu thang bằng gỗ vứt đầy những que diêm, đầu mẩu thuốc lá và những thứ rác rưởi khác, chị đến trước một cái cửa phía trên có biền đề một hàng chữ to:

GLEN RiCARDo, và dưới tên đó là THÁM TỬ TƯ (Có ĐĂNG KÝ TẠi ToÀ ÁN BANG MASSACHUSETTS). Anne khẽ gõ cửa. – Mời vào, cửa mở đấy – Một giọng nói ồm ồm ở bên trong vang ra.

Anne bước vào. Người đàn ông ngồi đằng sau bàn giấy hai chân gác lên mặt bàn, tay đang cầm xem một thứ gì đó như tạp chí dành cho con gái. Anh ta ngậm điếu xì gà
đầu môi như sắp rơi ra ngoài. Anh ta ngước lên nhìn thấy Anne. Lần đầu tiên anh ta thấy một người mặc áo lông sang trọng bước vào bàn giấy này.

Anh ta vội đứag dậy chào.

“Tên tôi là Glen Ricardo”. Anh ta nghiêng người ra phía trước bàn và giơ ra một bàn tay lông lá vàng khè vì thuốc lá. Anne bắt tay, bụng lấy làm may mình đeo găng. – Bà có hẹn đấy chứ ạ? – Ricardo hỏi theo thói quen và không cần biết là khách có hẹn hay không. Trông thấy chiếc áo lông sang trọng thế là anh ta thấy mình đã phải sẵn sàng tiếp rồi.

Tôi có hẹn.

A, vậy ra bà là bà osborne. Để tôi? cởi đỡ chiếc áo cho bà nhé?

Tôi vẫn khoác áo được chứ, – Anne nói, vì nghĩ có cởi ra thì không biết Ricardo treo nó vào đâu hay chỉ vứt trên sàn.

Dạ được, tất nhiên, tất nhiên.

Anne kín đáo nhìn Ricardo trong khi anh ta ngồi xuống châm một điếu xì gà khác. Chị không quan tâm đến bộ quần áo màu xanh sáng hoặc chiếc ca-vát sặc sỡ hoặc mớ tóc dầy bóng nhẫy của anh ta. Chị chỉ hơi ngại không biết mình có nên ngồi ở chỗ khác hơn là ở đây không.

Nào, bà có vấn đề gì? – Ricardo vừa nói vừa gọt chiếc bút chì đã ngắn ngủn bằng một lưỡi dao cùn.

Những mảnh gọt bắn vung vãi khắp nơi mà không vào sọt rác. – Bà mất chó, vàng hay bạc, hay chồng?

Trước hết, ông Ricardo, tôi muốn được ông đảm bảo là hoàn toàn giữ kín, – Anne nói.

Vâng, tất nhiên, tất nhiên, điều đó nhất định là như thế rồi, – Ricardo nói và vẫn gọt bút chì, không nhìn lên.

Dù sao tôi cũng phải nói trước như vậy.

Vâng, tất nhiên, tất nhiên.

Anne nghĩ bụng nếu anh ta còn nói “tất nhiên” nữa, chị sẽ phải kêu to lên cho anh ta thấy. Chị hít một hơi thở dàị.

Tôi nhận được một số thư nặc danh nói chồng tôi đang có chuyện dan díu với một người bạn thân của tôi Tôi muốn biết ai là người đã gửi những thư đó, và những lời buộc tội ấy có thật hay không.

Lần đầu tiên nói ra được những cảm giác lo sợ ấy, Anne thấy nhẹ người. Ricardo

nhìn chị một cách thản nhiên, coi như anh ta được nghe những chuyện này không phải một lần. Anh ta giơ tay lên vuốt mớ tóc đen và dài. Anne để ý thấy móng tay anh ta cũng dài không kém.

Rồi, – Anh ta nói. – Ông chồng thì dễ thôi. Nhưng ai gửi những bức thư đó mới là chuyện khó. Tất nhiên bà vẫn giữ nhữag bức thư đó chứ – Tôi chỉ giữ bức mới đây nhất, – Anne nói. Glen Ricardo buông một tiếng thở dài và chìa tay ra phía trước bàn. Anne ngần ngại lấy bức thư trong ví ra chưa đưa vội.

Tôi biết là bà đang nghĩ gì, thưa bà osbne. Nhưng tôi không thể làm việc này nếu có một tay bị trói ra phía sau.

Tất nhiên, ông Ricardo, xin lỗi ông.

Anne không ngờ là chính mình cũng nói “tất nhiên”.. Ricardo đọc đi đọc lại bức thư vài ba lần rồi nói:
Tất cả những thư kia đều đánh trên một loại giấy này và gử trong cùng một loại phong bì như thế này chứ?

Vâng, có lẽ thế, Anne nói. – Tôi nhớ là như thế.

Vậy nếu nhận được bức thư sau, xin bà….

Ông tin chắc là sẽ có thư nữa ư? – Anne ngắt lời.

Tất nhiên. Vậy xin bà cứ giữ cho. Bây giờ, xin bà cho biết những chi tiết về chồng bà. Bà có tấm ảnh đó không ạ?

Vâng, có, – Một lần nữa, chị lại ngập ngừng. Tôi chỉ muốn nhìn qua khuôn mặt. Để khỏi mất thì giờ chạy theo người khác, có phải thế không ạ? -Ricardo nói.

Anne lại mở ví lấy đưa anh ta xem một bức ảnh đã sờn cạnh chụp Henry trong bộ quân phục trung uý.

ông osborne trông đẹp trai đấy, – Nhà thám tử nói. – Tấm ảnh này chụp bao giờ ạ? Có lẽ cách đây chừng năm năm, – Anne nói. – Hồi ông ta ở trong quân đội thì tôi

chưa quen.

Ricardo hỏi Anne thêm vài phút nữa về những hoạt động đi lại hàng ngày của Henry. Chị ngạc nhiên, đến bây giờ mới nhận ra là mình hiểu biết rất ít về quá khứ và những gì là thói quen của Henry.

Như thế thì không có gì nhiều lắm để giúp cho công việc của tôi được, thưa bà osbome, nhưng tôi sẽ cố gắng hết sức. Tiền chi phí cho việc này, chúng tôi tính mỗi ngày mười đôla cộng với những khoản phục vụ cho công việc. Chúng tôi sẽ có báo cáo viết gửi đến cho bà mỗi tuần một lần. Bà trả trước cho hai tuần. – Anh ta chìa tay ra phía trước bàn một cách rất tự nhiên.

Anne mở ví lấy ra hai tờ 100 đô la đưa cho Ricardo. Anh ta nhìn kỹ những tờ bạc như không biết là có nhân vật nào nổi danh của nước Mỹ được in trên đó. Benjamin Phranklin trừng trừng nhìn vào Ricardo, rõ ràng là đã lâu nay anh không được gặp con người vĩ đại ấy Ricardo trả lại cho Anne 60 bằng nhữag tờ bạc năm đôla nhầu

bẩn.

Thế là ông làm việc cả những ngày chủ nhật, phải không ạ, – Anne tính nhẩm trong đầu và hỏi anh ta thế.

Tất nhiên, – Anh ta đáp. – Cũng ngày này tuần sau tính từ thứ năm có được không, thưa bà osborne?

Tất nhiên, – Anne đáp và vội bỏ đi ngay để khỏi phải bắt tay người đàn ông ngồi sau bàn giấy đó.

Khi Wiììiam đọc báo cáo hàng quý của ngân hàng Kane và Cabot thấy nói Henry oborne (“Hừ – Henry osborne”…. Anh mở miệng nhắc to cái tên ấy để tự nhủ là mình có thề tin được chuyện đó) yêu cầu 50 không.000 đô-la để đầu tư riêng, anh bỗng thấy ngày hôm đó rất xúi quẩy. Lần đầu tiên sau bốn năm học ở St Pau, anh bị đứng thứ nhì về toán. Matthequ Lester là người thắng anh, đã hỏi xem có phải anh ốm không.

Tối hôm đó, William gọi điện thoại về nhà Alan Lloyd. Ông chủ tịch ngân hàng Kane và Cabot không lấy làm ngạc nhiên khi anh gọi đến, vì ông đã được nghe Anne nói về quan hệ không vui vẻ giữa con trai chị với Henry.

Chào cậu William, cậu khỏe không, tình hình ở St Paul thế nào?

Cảm ơn ông, mọi thứ ở đây đều tốt đẹp, nhưng tôi gọi điện là về chuyện khác. Cậu ta khôn khéo thật, Alan nghĩ bụng.

Ồ vậy à Tôi giúp cậu được việc gì đây? – Ông bình tĩnh nói.

Tôi muốn gặp ông vào chiều mai.-Vâng, chỉ có ngày đó tôi mới ra khỏi trường được.

tôi xin gặp ông bất cứ lúc nào và ở đâu cũng được. – Wilham nói như kiểu về phía anh có sự nhân nhượng.Đù thế nào xin ông cũng đừng cho mẹ tôi biết là tôi có gặp ông.

William, thế này nhé…. – Alan Lloyd bắt đầu.

Có lẽ tôi cũng không cần phải nhắc để ông nhớ rằng cái khoản đầu tư tiền ủy thác cho ông bố dượng của tôi ấy, tuy không hẳn là bất hợp pháp, nhưng rõ ràng có thể coi là vô lương tâm.

Alan Lloyd lặng yên một lát. Ông tự hỏi không biết có nên xoa dịu anh chàng này hay không. Trước đây, ông đã có lúc nghĩ phải quở trách cho anh ta một trận, nhưng bây giờ thì điều đó không còn thích hợp nữa.

Được thôi, William. Cậu có thể đến cùng ăn trưa với tôi ở Câu lạc bộ Hunt vào lúc một giờ được chứ – Vâng, tôi sẽ xin gặp ông ở đó. – Điện thoại đã bỏ xuống.

ít ra thì cuộc gặp đó cũng tiến hành trên đất nhà mình, Alan Uoyd nghĩ bụng và đặt ống nói xuống.

ông cũng rủa thầm hãng cúa ông Bell là đã chế tạo ra cái máy điện thoại chết tiệt này.

Alan đã chọn Câu lạc bộ Hunt vì ông cho rằng gặp ở đây không có vẻ riêng tư gì lắm. Điều đầu tiên William có thể yêu cầu khi đến đây là sau khi ăn trưa sẽ được chơi một chầu gôn.

– Thế thì tốt lắm, – Alan nói, và đặt cọc ngay chỗ chơi gôn vào lúc ba giờ.

ông ngạc nhiên thấy trong suốt cả bữa ăn William không hề đá động gì đến đề nghị của Henry osbórne.

Trái lại, anh toàn nói một cách rất khó hiểu biết về những quan điểm của Tổng thống Hanrding về cải cách giá cả, về sự bất lực của Charles G. Daques với tư cách là Giám đốc Ngân khố. Alan tự hỏi không biết có phải Wilham đã nghĩ lại và đã thay đổi

kỉến về việc Henry osborne vay tiền hay không Có phải cậu ta đã quyết định để cho xong cuộc gặp này đi mà không nhắc gì đến nữa chăng Alan nghĩ bụng, thôi được nếu cậu ta muốn thế thì ông cũng chả quan tâm. Ông muốn cho buổi chiều đánh gôn trôi đi vui vẻ, không có chuyện gì nữa. Sau bữa ăn thú vị và đã uống một chầu rượu vang – William chỉ xin uống một cốc thôi – Họ vào trong nhà câu lạc bộ thay quần áo rồi ra sân gôn.

Ông vẫn còn kiêng con số chín chứ ạ? – William hỏi.

Còn, nhưng sao?.

Mỗi lỗ gôn mười đôla, ông xem như thế có được không?

Alan Lloyd ngập ngừng, chợt nhớ ra gôn là một trong những môn William chơi rất giỏi?.

– Được đồng ý.

Trong khi chơi lỗ đầu, không ai nói gì. Alan cố đánh được bốn, William được năm. Alan thắng cả trận thứ hai và thứ ba. Ông cảm thấy yên tâm hơn. Đến trận thứ tư thì hai người đã cách xa nhà câu lạc bộ đến nửa dặm. William chờ Alan nâng cây gậy lên rồi anh mới nói.” – Trong bất cứ điều kiện nào ông cũng không được đem năm trăm nghìn đôla của quỹ ủy thác cho bất cứ công ty nào hay cá nhân nào liên quan đến Henry osborne vay mượn.

Alan đánh một nhát cho quả bóng gôn văng đi xa, cốt để ông tách khỏi William một quãng và suy nghĩ xem sẽ trả lời anh như thế nào. Sau ba lần đánh nữa, họ cùng trở về bãi cỏ xanh, và Alan đành chịu thua không đưa được bóng vào lỗ.

William, anh biết rằng tôi chỉ có một phiếu trong ba người được ủy thác, và anh cũng cần biết rằng anh không có quyền gì đối với những quyết định liên quan đến ủy thác vì anh chưa đến hai mươi mốt tuổi thì cũng chưa tự mình có quyền gì được đối với số tiền ấy.

Ngoài ra, anh cũng nên biết là chúng ta không thể thảo luận vấn đề này ở đây.

Tôi hoàn toàn hiểu rõ những ý nghĩa pháp lý của nó, thưa ông, nhưng vì cả hai người được ủy thác kia đều ngủ với Henry osborne thì….

Alan Lloyd tỏ ra sững sờ.

Chả có lý ông là người duy nhất ở Boston không biết rằng Milly Preston đang có chuyện dan díu với ông bố dượng của tôi?
Alan Lloyd không nói gì. quillam tiếp:

Tôi muốn được biết chắc rằng ông sẽ bỏ phiếu chống cũng như ông sẽ làm hết sức mình để khuyên mẹ tôi chống lại chuyện vay mượn này, dù cho ông có phải cắn răng mà nói cho mẹ tôi biết sự thật về chuyện Mill Preston.

Alan lại đánh một nhát gôn rất dở nữa. Wả bóng sau đó văng cả vào bụi cây. Ông tức mình chửi thề một câu thật to, có lẽ đó là câu đầu tiên ông nói từ bốn mươi ba năm nay.

Đòi hỏi như thế thì hơi quá nhiều đấy. – Alan nói khi họ đánh đến quả thứ năm.

Điều đó chẳng là gì đâu so với những gì tôi sẽ làm nếu như tôi không tin chắc được ở sự ủng hộ của ông, thưa ông.

William, trước đây cha anh không bao giờ tán thành những sự đe dọa như thế. – Alan nói và nhìn quả bóng của William chui xuống lỗ cách đó hơn chục thước.

Điều duy nhất mà cha tôi không tán thành có lẽ là osbome, William trả lời lại. Alan loạc choạc với quả bóng.

Dù sao, thưa ông, ông cũng rất biết rằng cha tôi đã có một điều khoản trong di chúc nói rằng tiền đầu tư của quỹ ủy thác sẽ là chuyện nội bộ gia đình mà người được hưởng nó không được quyền biết rằng tiền ấy có dính dáng đến gia đình Kane. Đây cũng là một nguyên tắc mà trong đời làm ngân hàng cha tôi không bao giờ vi phạm. Như vậy, cha tôi có thể luôn luôn yên tâm là không có xung đột giữa một bên là tiền đầu tư của ngân hàng với một bên là tiền ủy thác của gia đình.

Có lẽ mẹ anh cho là người trong gia đình thì có thể phá được nguyên tắc ấy chăng.

Henry osbome không phải là người trong gia đình tôi. Đến khi tôi làm chủ cái quỹ này, tôi cũng vẫn giữ nguyên tắc như cha tôi trước kia, không bao giờ phá bỏ.

William, rồi anh sẽ phải ân hận về chuyện cứng nhắc ấy – Không đâu, thưa ông.

Anh nên suy nghĩ thêm xem, nếu biết về chuyện Milly thì mẹ anh sẽ có thể phản ứng như thế nào, Alan nói thêm.

Mẹ tôi đã mất năm trăm ngàn đô-la tiền riêng của bà ấy rồi. Với một anh chồng, như thế chưa đủ sao? Chẳng lẽ còn để mất thêm năm trăm nghìn của tôi vào đó nữa ư?

Chả có lý nào mất được. Wilham. Đầu tư còn có thể đem lại khá nhiều lợi tức. Mà tôi cũng chưa có dịp nào xem kỹ sổ sách của Henry đấy. quilliam hơi khó chịu khi thấy Alan Lloyd nói đến tên của Henry một cách thân mật. – Tôi có thể cam đoan với ông rằng hầu như ông ta đã vét sạch đến từng đồng xu của mẹ tôi. Nói đúng ra, ông ta chỉ còn có ba mươi ba ngàn bốn trăm mười hai đôla thôi. Tôi đề nghị Ông xem rất kỹ những sổ sách của ông osbome cũng như thẩm tra một chút về quá khứ cùng những bạn bè và chuyện làm ăn của ông ta trước đây. Đó là chưa kể ông ta cờ bạc ghê gớm

nữa.

Từ quả gôn thứ tám, Alan đánh văng nó xuống hồ trước mặt. Đó là điều không thể có được, vì ngay đến phụ nữ mới tập chơi cũng không đánh như thế. Ông lại thua.

Anh làm sao có được những thông tin như vậy về Henry? Alan hỏi, và đoán rằng đó hẳn là văn phòng của Thomas Cohen cung cấp.

Tôi xin không nói ra, thưa ông.

Alan nghĩ bụng hãy cứ biết thế đã, ông tính điều này cũng có lợi cho ông ở chỗ ông sẽ biết cách sau này làm ăn với Wiìliam.

Nếu tất cả những điều anh nói là chính xác thì cố nhiên tôi sẽ phải khuyên mẹ anh chớ có đầu tư gì vào cho Henry, và riêng tôi cũng phải có bổn phận nói công khai những điều đó ra với Henry chứ.

– Vâng, xin ông cứ thế cho.

Alan đánh một nhát nữa khá hơn, nhưng ông cảm thấy mình không thể thắng được.

Wỉlliam tiếp tục.

Chắc ông cũng muốn bỉết thêm rằng osbome cần số tiền năm trăm nghìn đôla ở quỹ ủy thác của tôi đó không phải là để ký hợp đồng xây dựng bệnh viện đâu, mà là để thanh toán món nợ đã mắc từ lâu ở Chicago. Tôi đoán chắc là ông chưa được biết điều này, thưa ông Alan không nói gì. Đúng là ông không biết đến chuyện ấy. Ván này William lại thắng.

Đánh đến ván cuối, Alan hỏi:

Anh không để cho tôi được quả nào nữa hay sao?- Ông cười, rồi đứng tì tay lên cây gậy.

Osborne sẽ không có được hơp đồng xây bệnh viện đâu thưa ông. Nghe nói ông ta hối lộ những quan chức cấp dưới trong tòa thị chính. Người ta sẽ không công khai đưa chuyện này ra, nhưng để tránh những phức tạp về sau, người ta đã xóa bỏ công ty của ông ta trong danh sách cuối cùng rồi. Hợp đồng ấy sẽ do công ty Kirkbride và Carter nhận. Tin này, thưa ông, là rất mật đấy. Ngay cả đến công ty Kirkbride và Carter cũng chưa được biết tin này mà phải một tuần sau thứ năm tới cơ, vì vậy mong ông giữ kín cho chuyện đó.

Alan lại đánh chệch. William đưa quả bóng của mình vào lỗ rồi bước đến bắt tay ông chủ tịch một cách nồng nhiệt.

Xin cảm ơn ông đã cùng chơi. Như vậy là ông mất chín chục đôla rồi đấy.

William, tôi nghĩ có lẽ đã đến lúc anh đừng “thưa ông” với tôi nữa. Tên tôi là Alan, anh cứ thế mà gọi.
Cảm ơn Alan, – Wilìiam đưa lại cho ông ta mười đô-la.

Sáng hôm thứ hai, Alan Lloyd đến ngân hàng và thấy mình có nhiều việc phải làm

hơn là trước khi gặp William. Ông lập tức cho năm bộ phận của ngân hàng tiến hành ngay những cuộc điều tra xem những lời William nói chính xác đến mức nào. Ông sợ rằng những cuộc điều tra kia sẽ gây ảnh hưởng không tốt đến nội bộ nên dặn mỗi bộ phận chỉ được biết đến phần mình thôi, và bắt họ phải báo cáo trực tiếp cho chủ tịch, ngoài ra không ai được biết đến.

Đến sáng thứ tư, trên bàn giấy của ông đã năm bản báo cáo sơ bộ. Hình như tất cả đều khớp với những điều William nói, mặc dầu mỗi người đều xin có thời gian thêm để kiểm tra lại chi tiết. Alan quyết định nếu chưa có thêm chứng cớ cụ thể thì chưa nói gì cho Anne biết. Trong khi chờ đợi, ông tính chỉ nên tranh thủ đến dự bữa tiệc đứng do vợ chồng osbome mời và ông sẽ khuyên Anne nên từ từ, chưa quyết định ngay về chuyện cho vay kia.

Lúc đến dự bữa tối hôm đó, Alan lấy làm lo ngại thấy Anne rất bải hoải mệt mỏi, và lại phân vân, không biết sẽ nói thế nào. Ông chờ mãi mới có một vài phút đứng riêng với chị. Ông nghĩ bụng giá bây giờ Anne không có mang thì tốt bao nhiêu.

Anne quay lại nhìn ông mỉm cười – Ông bận việc ở ngân hàng thế mà cũng cố đến được, thật là quý hóa quá.

Tôi không thề vắng mặt ở bất cứ cuộc chiêu đãi nào của chị. Nó vẫn còn những hương vị Boston.

Ông nói quá đấy. – Chị cười.

Anne này, nhân đây tôi hỏi chị đã có lúc nào nghĩ thêm về chuyện cho vay tiền kia chưa?

Không, tôi chưa nghĩ gì được. Tôi còn đang bù đầu về những chuyện khác. À thế ông xem sổ sách của Henry thế nào?

Chỉ mới có số liệu của một năm thôi, vì vậy tôi phải cho kế toán kiểm tra thêm. Theo lệ thường thì phải xem các hoạt động trong ba năm liền mới được.

Tôi chắc Henry cũng hiểu và đồng ý với chúng tôi như vậy – Anne, bữa ăn thật tuyệt, – Một giọng nói khá to bỗng vang lên phía sau Alan. Ông không nhận ra đó là ai, có lẽ là một bạn chính khách nào đó của Henry.

Thế nào, bà mẹ tương lai nhỏ bé, có khỏe không?- Giọng nói hỏi tiếp.

Alan lách ra chỗ khác. Như thế là ông cũng đã tranh thủ nói được một đôi câu cho ngân hàng rồi. Ở cuộc chiêu đãi này có khá nhiều chính khách, cả của tòa thị chính cũng như có một đôi vợ chồng đại biểu quốc hội. Alan chợt nghĩ có lẽ William nói sai về chuyện hơp đồng kia chăng. Nhưng ngân hàng chả phải điều tra về chuyện này làm gì nữa, vì tuần sau Tòa thị chính sẽ chính thức công bố. Ông từ biệt vợ chồng nhà chủ và ra về.

– Ngày này tuần sau nhé, – Ông nói to, rồi đi bộ dọc phố Chesnut về nhà.

Trong buổi chiêu đãi, Anne để ý nhìn Henry mỗi khi anh ta đến gần Milly Preston. Chị thấy rõ ràng là giữa hai người không có dấu hiệu gì cả. Thật ra, phần lớn thời gian

chỉ thấy Henry đứng với John Preston thôi. Anne bắt đầu tự hỏi hay là mình đã nghĩ sai về chồng mình. Chị tính có lẽ phải hủy bỏ cuộc hẹn giờ với Glen Ricardo vào hôm sau. Buổi chiêu đãi kéo dài đã hơn hai tiếng ngoài dự tính. Chị đoán tất cả các khách mời đều hài lòng với bữa tiệc hôm nay.

Chiêu đãi tốt lắm, Anne. Cảm ơn chị đã mời chúng tôi. – Cái giọng to lúc nãy lại lên tiếng, và là người cuối cùng ra về. Anne không nhớ được tên ông ta, chỉ biết là người của Tòa thị chính. Ông ta đi khuất sau đường xe.

Anne loạng choạng đi lên gác. Chị cởi áo trước khi về đến phòng, trong bụng nghĩ từ nay đến ngày đẻ còn mười tuần nữa thôi và chị sẽ không tổ chức chiêu đãi gì nữa hết.

Henry cũng đã cởi quần áo rồi.

Em có nói được gì với Alan không, em yêu quý? – Có có nói, – Anne đáp, – Ông ta bảo sổ sách không có vấn đề gì nhưng vì chỉ có số liệu một năm thôi nên ông ta phải cho kế toán đi kiểm tra lại một lần nữa.

Đó là chính sách bình thường của ngân hàng thôi. – Chính sách bình thường cái chết tiệt gì đâu. Em không thấy là đằng sau chuyện đó Wilham ư? Nó đang tìm cách chặn đứag vụ cho vay này đấy, Anne.

Sao anh lại nói thế. Alan có nhắc gì đến William đâu – Ông ta không nói ư? – Henry cao giọng. – Ông ta cũng không thèm nhắc đến chuyện William cùng ăn trưa với ông ta hôm chủ nhật ở Câu lạc bộ đánh gôn, còn chúng ta thì ngồi không ở nhà này.

Sao? – Anne nói. – Không thể có chuyện ấy.

Wilham không bao giờ về Boston mà lại không về nhà gặp em. Chắc anh lầm thế nào đó. Henry.

Em ơi, có đến nửa thành phố này đến đó, và anh cũng không thể tưởng tượng William có thể đi năm chục dặm chỉ để đến đây đánh gôn với Alan Uoyd mà thôi. Anne, em nghe đây, anh cần có món tiền vay ấy, nếu không anh không thể giành được hơp đồng ký với thành phố. Đến một lúc nào đó, thậm chí ngay bây giờ em phải quyết định xem em tin ở William hay ở anh. Tính từ ngày mai thì một tuần nữa là anh phải có món tiền ấy. Chỉ còn tám ngày nữa thôi, nếu anh không chứng minh cho Tòa thị chính thấy là anh có khoản tiền ấy thì họ không coi là anh có giá trị gì nữa. Mà như vậy chỉ vì William không tán thành việc em muốn lấy anh, Anne ngày mai ẹm gọi cho Alan bảo ông ta chuyển tiền cho anh được không?

Giọng hằn học của anh ta như đập vào đầu Anne khiến chị cảm thấy choáng váng.

Không, Henry ngày mai chưa được đâu. Để đến thứ sáu được không? Ngày mai em còn bận.

Henry bình tĩnh lại rồi bước đến bên chị lúc đó đã cởi quần áo và đang đứng trước gương. Anh ta đưa tay xoa bụng vợ và nói.

Anh muốn cho đứa eon này cũng có được cái may mắn như William vậy.

Hôm sau Anne tự nhủ đến hàng trăm lần là sẽ không đi gặp Gien Ricardo nữa, nhưng đến gần mười hai giờ chị lại nhẩy .lên một chiếc tắcxi để đi đến đó.

Chị bước lên cầu thang gỗ cọt kẹt, trong bụng ngần ngại không muốn biết đến những gì mình sắp được nghe. Bây giờ quay ra cũng còn kịp. Chị ngập ngừng, rồi đưa tay lên gõ cửa.

Mời vào. Chị mở cửa.

A, bà osborue, rất mừng gặp lại bà. Mời bà ngồi. -Anne ngồi xuống và hai người nhìn nhau.

Có lẽ tin tức cho bà không hay lắm, – Glen Ricardo nói, đưa ngón tay lên vuốt mớ tóc đen dài.

Anne sững người. Chị cảm thấy như muốn ốm.

Trong bảy ngày qua không thấy ông osbome đi với bà Preston hay bất cứ người đàn bà nào khác.

Nhưng ông bảo tin tức không hay kia mà, – Anne nói.

Tất nhiên, thưa bà osborne, tôi cứ nghĩ rằng bà tìm cớ để ly dị. Những bà vợ giận chồng thì đâu có tìm đến tôi để tôi chứng minh cho họ thấy là chồng họ vô tội.

Ồ, không, không, – Anne nói, cảm thấy nhẹ người- Đã nhiều tuần nay bây giờ mới lại có tin hay thế.

À thế thì tốt, – Ông Ricardo nói và hơi lấy làm ngạc nhiên.

Vậy ta hy vọng tuần thứ hai cũng không thấy được gì hơn.

Ô ông có thể chấm dứt cuộc điều tra đi được rồi, ông Ricaraó Tôi ChắC là tuần sau nữa ông cũng chẳng tìm thấy gì khác.

Như vậy không phải là khôn ngoan lắm, thưa bà osbome. Chỉ một tuần quan sát thôi mà dám kết luận dứt khoát như thế thì tôi e rằng hơi quá sớm.

Thôi được, nếu ông tin là như vậy thì cứ làm tiếp, nhưng tôi thì cho rằng cả tuần sau nữa ông cũng sẽ không tìm ra được gì hơn đâu.

Dù sao thì bà cũng đã trả tiền cho hai tuần rồi, – Glen Ricardo nói tiếp và lại hút điếu xì-gà của anh ta, trông có vẻ to hơn và dễ ngửi hơn thứ xì-gà anh ta hút tuần trước.

Còn về những bức thư thì thế nào? – Anne chợt nhớ ra và hỏi. – Tôi đoán đó là của một người nào nghen ghét gì với những thành tích của ông chồng tôi chăng.

Như tôi đã nói với bà tuần trước, thưa bà osborne, tìm ra tác giả những bức thư nặc danh thì không phải là chuyện dễ. Tuy nhiên, chúng tôi cũng đã biết được cửa hàng họ mua thứ giấy viết thư và phong bì này. Loại giấy này đặc biệt, không như mọi thứ thường dùng, tuy vậy bây giờ tôi chưa thể nói gì thêm về chuyện đó. Có thể ngày này tuần sau tôi sẽ biết được rõ hơn. Mấy ngày vừa qua bà có nhận được thêm lá thư nào nữa không?

Không, tôi không nhận được.

Tốt. Thế thì mọi thứ có vẻ đã sắp rõ ràng rồi. Chúng ta hy vọng vào thứ năm tuần sau gặp lại sẽ là lần cuối.

Vâng, Anne vui vẻ đáp. – Tôi cũng hy vọng thế. Để tuần sau tôi thanh toán nốt cho ông các khoản chi khác, được không?

Tất nhiên, tất nhiên.

Anne gần như đã quên đi cái câu đó, nhưng lần này chị chỉ cười. Trên đường ngồi xe về nhà, chị quyết định là Henry phải có số tiền 500 ngàn đô-la ấy, và phải cho William cũng như Alan thấy là họ nhầm. Chị vẫn còn đang băn khoăn với việc William về qua Boston mà không báo cho chị biết. Có lẽ điều Henry nói Wiliam đang ngấm ngầm hoạt động gì đó là đúng chăng.

Henry rất sung sướng thấy Anne đêm đó nói là chị đã quyết định về chuyện cho anh ta vay số tiền kia, và bảo anh ta chuẩn bị giấy tờ để sáng hôm sau chị ký vào đó. Lúc ký vào giấy tờ, chị không thể không nghĩ ngợi vì thấy nó đã được chuẩn bị từ lâu và đã có sẵn chữ ký của Milly Preston trên đó rồi. Nhưng chị lại tự nhủ có lẽ mình quá nghi ngờ chăng? Chị vội xua đuổi ý nghĩ ấy đi và hạ bút ký.

Sáng thứ hai sau đó, khi Alan Lloyd gọi điện thoại đến thì chị đã chuẩn bị tư tưởng đầy đủ rồi.

Anne, chị hãy khoan cho đến thứ năm đã. Đến hôm đó chúng ta sẽ biết ai là người được ký hơp đồng xây bệnh viện.

Không, Alan, tôi đã quyết định rồi. Henry cần có tiền ngay bây giờ. Anh ấy phải chứng minh cho Tòa thị chính biết là tài chính anh ấy đủ điều kiện để thực hiện hợp đồng, vả lại bây giờ đã có hai chữ ký của những người được ủy thác nên ông không còn phải lo trách nhiệm nữa.

Ngân hàng vẫn có thể đảm bảo cho Henry được mà không cần phải chuyển tiền. Tôi chắc Tòa thị chính sẽ có thể chấp nhận điều đó. Dù sao thì tôi cũng chưa có thì giờ kiểm tra lại tài khoản công ty của anh ta – Nhưng ông lại có thì giờ đi ăn trưa với William hôm chủ nhật trước đây một tuần mà cũng không báo cho tôi biết nữa.

Đầu dây đằng kia im lặng một lát.

Anne tôị…

Ông đừng bảo là không có dịp báo. Ông đến dự chiêu đãi tối hôm thứ tư và đáng lẽ ông đã phải báo cho biết rồi. Nhưng ông cố tình không nhắc đến, và bây giờ ông lại có thì giờ khuyên tôi nên hoãn quyết định cho Henry vay tiền.

Anne, tôi rất tiếc. Tôi hiểu được là chuyện đó có thể rắc rối như thế nào và tại sao chị thất vọng, nhưng nó thực sự có một lý do đấy, chị hãy tin như vậy. Tôi đến gặp chị và giải thích tất cả cho chị nghe được không?

Không. Alan, không được đâu. Các người xúm lại chống chồng tôi. Không ai trong các người cho anh ấy được có cơ hội chứng minh bản thân mình. Vậy thì để tôi

cho anh ấy có cơ hội chứ.

Anne bỏ máy xuống, trong bụng hài lòng với mình, cảm thấy như thế là mình đã trung thành với Henry và chuộc cái lỗi trước đây đã nghi ngờ chồng.

Alan Uoyd gọi lại, nhưng Anne dặn cô hầu trả lời là chị đi vắng suốt ngày. Đêm đó Henry về nhà rất phấn khởi được nghe Anne kể lại đã nói với Alan như thế nào.

Như thế thì mọi thứ sẽ cực kỳ hay, em yêu ạ. Rồi em xem. Sáng thử năm anh sẽ được người ta cho ký hợp đồng. Lúc đó em có thể hôn và hòa giải với Alan.

Nhưng từ nay đến hôm đó thì em hãy cứ tránh đừng gặp Thực ra, nếu em muốn thì hôm thứ năm chúng ta có thể liên hoan bữa ăn trưa ở nhà hàng Ritz và mời ông ta đến cùng ăn được chứ. Anne cười đồng ý.

Chị cũng không quên rằng chị sẽ còn phải gặp Ricardo một lần cuối nữa vào trưa hôm đó. Gặp xong rồi, quay về nhà hàng Ritz cũng hãy còn sớm chưa đến một giờ.

Như vậy chị sẽ được dịp ăn mừng cả hai thắng lợi một lúc. Alan cố gọi đến nhiều lần để gặp Anne nhưng đều nghe cô hầu trả lời là đi vắng. Vì giấy tờ đã được hai người ủy thác ký vào đó rồi, ông không có quyền ách lại việc chi tiền quá hai mươi tiếng. Các từ ngữ dùng trong giấy tờ đó là do Richard Kane đã thảo ra trước đây, điển hình về mặt pháp lý chặt chẽ, không có chỗ nào sơ hở mà lách qua được nữa. Sau khi tờ séc 500 nghìn đô la được trao đi chiều ngày thứ ba, Alan viết một bức thư dài gửi cho William, kể lại đầu đuôi các sự kiện đã dẫn đến việc chuyển tiền, chỉ không nói gì đến những chi tiết sự việc do ngân hàng của ông điều tra được. Ông cũng gửi cho mỗi giám đốc trong ngân hàng một bản sao bức thư đó, tin rằng mặc dầu ông đã làm rất cần thận như thế nhưng người ta vẫn có thể buộc tội cho ông là che giấu.

Sáng hôm thứ năm, trong khi đang ăn sáng với Mathequ thì William nhận được bức thư của Alan loyd gửi đến St. Paui.

Còn ở Đồi Beacon thì bữa ăn sáng bình thường như mọi ngày, trứng, thịt rán, bánh mì nướng, cháo ngô và cà phê nóng, Henry tỏ ra lúc buồn lúc vui, anh ta làm duyên với cô hầu, nói đùa với một nhân viên Tòa thị chính gọi đến báo cho biết tên công ty được ký hơp đồng xây bệnh viện sẽ được dán lên bảng yết thị trước cửa Tòa thị chính vào lúc mười giờ. Anne thì chờ đến lúc đi gặp Glen Ricardo một lần cuối nữa. Chị ngồi giở mấy trang tạp chí Vogue, cố không để ý đến bàn tay Henry đang run run cầm tờ báo Globe của Boston.

Sáng nay em định làm gì? – Henry hỏi, như muốn nói chuyện bình thường.

Ồ, không có gì nhiều lắm trước khi chúng ta ăn mừng trưa nay. Anh có định đặt tên Richard cho khoa nhi trong bệnh viện để tưởng nhớ đến anh ấy không?

Không phải tưởng nhớ đến Richard đâu, em yêu quý ơi Đây là thành tích của anh, vì vậy phải giành vinh dự đó cho em. Sẽ gọi đó là khoa nhi do bà Henry osborne tặng, – Anh ta huênh hoang nói.

Ý kiến đó hay lắm, – Anne bỏ tờ báo xuống và nhìn anh ta cười – Anh không

được để em uống quá nhiều sâm-banh vào bữa trưa nay nhé, vì chiều em còn phải đến cho bác sĩ Mackanzie khám toàn bộ, nếu ông ta biết em say rượu vào quãng này, tức chỉ chín tuần trước khi đẻ, thì ông ta sẽ không bằng lòng đâu. Đến bao giờ thì anh biết chắc là hợp đồng sẽ giao cho anh?

Anh biết rồi, – Henry nói. – Nhân viên tòa thị chính vừa nói chuyện với anh trên điện thoại bảo là chắc chắn trăm phần trăm rồi, nhưng đến mười giờ họ mới chính thức công bố.

Vậy thì việc đầu tiên là anh phải gọi. cho Alan và bảo với ông ta cái tin vui đó. Em bắt đầu thấy hơi hối hận về chuyện đã đối xử không hay với ông ấy tuần trước.

Em chả cần phải hối hận làm gì. Chính ông ta cũng không thèm báo cho em biết về những hành động của William kia mà.

Không, nhưng ông ấy vẫn cố tìm cách giải thích thêm, thế mà em thì lại không để cho ông ấy được nói.

Thôi được thôi được, tùy em. Vậy để cho em vui lòng, anh sẽ gọi điện thoại vào mười giờ năm phút báo cho ông ấy biết, còn em thì gọi cho William bảo nó rằng anh đã kiếm thêm cho nó một triệu đô-la nữa. – Anh ta nhìn đồng hồ. – Thôi bây giờ anh đi đây. Em chúc anh may mắn đi.

Em tưởng anh không cần may mắn gì kia mà. – Anne nói.

Anh không cần thật. Wen miệng nói thế thôi. hẹn gặp em vào một giờ ở nhà hàng Ritz nhé. – Anh ta hôn lên trán vợ – Đêm. nay em sẽ tha hồ mà cười về Alan, về Willam, về những chuyện hơp đồng, và coi tất cả những cái đó là quá khứ. Em cứ tin là như vậy Anh đi nhé, em yêu.

Em cũng hy vọng thế, Henry.

Bữa ăn sáng để trước mặt Alan Lloyd nhưng ông chưa đụng gì đến. Ông đang đọc mấy trang tài chính của tờ báo Gbole Boston, chú ý đến đến một đoạn nhỏ ở cột bên phải đưa tin mười giờ sáng hôm đó Tòa thị chính sẽ công bố ai được hưởng hợp đồng xây bệnh viện trị giá năm triệu đô-la.

Alan Lloyd đã tính nếu như Henry không được hợp đồng ấy và tất cả những gì William nói đều là chính xác thì ông sẽ làm thế nào. Ông sẽ làm như Richard trước kia đã làm trong trường hợp tương tự, tức là hành động như thế nào cho ngân hàng có lợi nhất.

Nhưng những báo cáo mới nhất ông nhận được về tình hình tài chính của Henry khiến ông rất lo ngại.

osborne đúng là một tên bạc bịp, và số tiền 500 nghìn đô la của quỹ ủy thác kia hoàn toàn không được chuyển đến công ty của anh ta. Alan Lloyd chỉ nhấp một ít nước cam, còn không đụng gì đến bữa ăn sáng.

ông xin lỗi người quản gia, rồi bước xuống đi bộ đến ngân hàng.

********* Thời tiết hôm đó dễ chịu.

– William, chiều nay có đánh quần vợt không?

Hai người đang ăn sáng. Matthequ Lester đứng nhìn William đang đọc đi đọc lại bức thư của Alan Liloyd.

Cậu bảo gì?

Cậu điếc hay bắt đầu lẫn cẫn rồi đấy? Cậu muốn chiều nay mình cho cậu thất điên bát đảo trong trận quần vợt không?

Không chiều nay mình không có đây đâu, Matthequ. Mình đang có nhiều chuyện quan trọng khác cần làm.

Cố nhiên rồi, anh bạn ơi. Mình quên rằng cậu đang chuẩn bị cho một trong những chuyến đi bí mật vào Nhà Trắng. Mình biết là Tổng thống Harding đang tìm một người làm cố vấn về tài chính cho ông ta, mà cậu đúng là người có thể ngồi vào chỗ của cái ông Charles. G.Daques dở hơi ấy. Cậu cứ bảo với ông tổng thống là cậu nhận lời đi, với điều kiện ông ấy cũng mời Matthequ Lester làm Bộ trưởng Tư pháp trong chính quyền tới.

William không trả lời.

Mình biết nói đùa như thế là hơi vô duyên, nhưng cậu cũng phải bình luận xem sao chứ, – Matthequ nói và ngồi xuống bên William nhìn kỹ anh bạn. – Tại món trứng phải không? Y như trứng vừa mới đem từ một trại tù binh ra chứ gì?

Mathequ, mình cần cậu giúp một tay, – William nói và bỏ bức thư của Alan vào phong bì.

Cậu vừa có thư của em gái mình rồi đó, nó nghĩ là cậu có thể thay thế cho Rudolph Valentino được đấy William đứng dậy.

Thôi, đừng đùa nữa, Matthequ. Nếu ngân hàng của bố cậu bị cướp, thì liệu cậu có ngồi đó mà nói đùa về chuyện ấy được không?

Mặt Wilham rất nghiêm nghị, khiến Matthequ phải dịu giọng xuống.

Không, ai mà đùa được.

Rồi, vậy cậu ra ngoài này mình sẽ nói tất cả cho mà nghe.

Sau mười giờ một lúc, Anne rời Đồi Beacon đi mua sắm vài thứ lặt vặt trước khi đến gặp Glen Ricardo một lần nữa. Chị vừa đi khuất ra đến phố Chestut thì có chuông điện thoại. Cô hầu ra nghe máy. Cô ta nhìn ra cửa sổ thấy bà chủ đã đi quá xa rồi không gọi được nữa. Giá như Anne quay trở lại nghe điện thoại được, thì chị đã biết về quyết định của thành phố đối với hợp đồng xây bệnh viện, nhưng chị lại đi mua thêm mấy đôi tất lụa và vài thứ nước hoa mới. Chị đến văn phòng Glen Ricardo khoảng sau mười hai giờ, trong bụng nghĩ thứ nước hoa mình mới mua sẽ có thể đánh bạt được mùi khói xì-gà của ông ta.

– Chắc tôi không đến muộn chứ, ông Ricardo, – Chị nói gọn.

Xin mời bà ngồi, bà osbornẹ- Trông Ricardo có vẻ không vui lắm, nhưng Anne nghĩ ông ta có bao giờ vui đâu Rồi chị lại để ý thấy ông ta không hút loại xì-gà như

mọi khi nữa.

Ricardo mở một hồ sơ màu nâu khá lịch sự, một thứ đồ mới duy nhất mà Anne có thể trông thấy ở văn phòng này, rồi lấy ra vài tờ giấy.

Chúng ta hãy bắt đầu bằng những bức thư nặc danh đã nhé, thưa bà osborne? Anne không thích cái giọng nói ấy.

Được thôi, – Chị đáp.

Những thứ này do một bà tên là Ruby Phloquers gửi đến.

Ai? Tại sao vậy? – Anne nói, vừa muốn vừa không muốn có câu trả lời.

Tôi ngờ rằng một trong những lý do là hiện nay bà Phloquers đang kiện chồng bà. à, thế thì rõ cả rồi, – Anne nói – Bà ta muốn trả thù Bà ta đòi Henry phải trả bao

nhiêu?

Bà ta không nói đến nợ, thưa bà osborne.

Vậy bà ta muốn gì?

Glen Ricardo tì tay vào ghế đứng dậy bằng một dáng mệt mỏi. Anh ta đi ra cửa sổ nhìn xuống bến Boston lúc đó đang đông người.

Bà ta kiện về chuyện không giữ lời hứa, thưa bà osborne.

Ôi không thể thế được, – Anne nói.

Hình như hai người đã đính hôn với nhau vào cái lúc ông osborne gặp bà, nhưng rồi vụ đính hôn đó bị hủy bỏ không biết vì lý do gì.

Bà ta đào mỏ đấy thôi. Chắc bà ta muốn tiền của Henry.

Không, có lẽ không phải thế. Bà biết không, bà Phloquers đã vào loại khá giả. Tuy không phải như bà đâu tất nhiên, nhưng cũng là khá. Chồng cũ của bà ta là chủ một công ty nước quả đóng chai và để lại cho bà ta khá nhiều tiền.

Chồng cũ ư? Thế bà ta bao nhiêu tuổi?

Nhà thám tử quay lại bên bàn giở vài trang hồ sơ.

Móng tay cáu đen của ông ta dừng lại một chỗ. – Sinh nhật tới của bà ta là thứ năm mươi ba.

Ôi lạy Chúa!- Anne nói. – Tội nghiệp bà ta. Chắc bà ta phải căm ghét tôi lắm.

Có thể như vậy, thưa bà osbome, nhưng điều đó chẳng giúp gì cho chúng ta cả. Bây giờ tôi xin chuyển sang nhữag hoạt động khác của chồng bà..

Ngón tay vàng khè những khói thuốc của anh ta giở thêm mấy trang nữa.

Anne cảm thấy nôn nao trong người. Tại sao chị đến đây làm gì? Tại sao chị không cắt đi từ tuần trước có được không? Chị cần gì phải biết? Chị không muốn biết kia mà? Tại sao chị không đứng dậy mà bỏ đi luôn? ôi, chị mong có Richard bên mình biết bao nhiêu. Còn anh thì anh sẽ rất biết phải đối phó với tình hình này như thế nào. Chị tưởng như mình không thể cựa quậy được nữa. Glen Ricardo và những điều trong hồ sơ mới của anh ta làm chị ngây đơ cả người.

Tuần vửa qua, ông osborne đã có hai lần ngồi riêng với bà Preston, trên ba tiếng

đồng hồ.

Nhưng điều đó chẳng chứng minh gì hết, – Anne chậm rãi nói. – Tôi biết là họ đang phải thảo luận với nhau một tài liệu rất quan trọng liên quan đến tiền nong.

Nhưng là ở một khách sạn nhỏ trên phố La Salle, thưa bà.

Anne không ngắt lời nhà thám tử nữa. Cả hai lần họ đều bước vào khách sạn, cầm tay nhau, thì thầm với nhau cười đùa. Tất nhiên chưa thể kết luận được là họ ìàm gì, nhưng chúng tôi có ảnh họ cùng bước vào khách sạn và cùng ở khách sạn ra.

Ông hủy những ảnh đó đi, – Anne khẽ nói. Glen Ricardo chớp mắt.

Tùy bà, thưa bà osborne. Nhưng còn những điều khác nữa. Những cuộc điều tra thêm cho thấy ông osborne chưa bao giờ học ở Harvard, cũng chưa bao giờ là sĩ quan trong quân đội Mỹ. Trường Harvard cũng có một Henry osborne nhưng nhỏ người hơn, tóc hung hung và quê ở Alabama. Ông này bị chết trận ở Maine năm 1917. Chúng tôi cũng biết là chồng bà còn ít tuổi hơn nhiều so với lời ông ta khai, và tên thật của ông ta là Vittorio Togna. Ông ta đã phục vụ….

Tôi không muốn nghe nữa, – Anne nói, nước mắt chảy tràn xuống hai bên má – Tôi không muốn nghe nữa.

Anne cố nén để giữ bình tĩnh.

Cảm ơn ông Ricardo, tôi hoan nghênh tất cả những gì ông đã làm. Tôi còn thiếu ông bao nhiêu?

Bà đã trả trước hai tuần rồi. Chúng tôi làm thêm hai ngày, cộng với những khoản chi khác là bảy mươi ba đô-la.

Alan đưa cho anh ta tờ một trăm đô la rồi đứng dậy.

Bà còn tiền thừa, thưa bà osborne.

Bà không hề gì chứ, bà osborue? Tôi thấy bà hơi tái đi đấy Tôi lấy cho bà cốc nước hoặc cái gì đó được không?
Tôi không sao, – Anne nói dối.

Có lẽ bà cho phép tôi đưa bà về nhà?

Không, cảm ơn ông Ricardo. Tôi tự về nhà được.- Chị quay nhìn anh ta mỉm cười. – Cảm ơn ông đã quan tâm.

Glen Ricardo nhẹ nhàng đóng cửa lại, từ từ bước ra cửa sổ, cắn đứt đầu mẩu xì-gà, nhổ toẹt một cái rồi rủa thầm cái nghề của anh.

Aune dừng lại ở chân cầu thang đầy rác rưởi, tay vịn vào lan can. Suýt nữa chị ngất. Đứa bé trong bụng đạp dội lên khiến chị cảm thấy buồn nôn. Chị lê ra đến cuối phố, tìm được chiếc xe tắc-xi rồi ngồi nép vào phía sau. Chị không nín được, khóc sụt sịt. Chị không biết rồi mình sẽ làm gì bây giờ đây. Về đến nhà, chị vào ngay trong phòng ngủ đề những người làm trong nhà khỏi trông thấy chị thất vọng. Vừa vào đến

bên trong phòng, chuông điện thoại đã reo lên. Chị nhắc máy lên nghe, vì thói quen hơn là vì muốn biết ai ở đầu dây đằng kia.

– Tôi muốn nói chuyện với bà Kane được không?

Chị nhận ra ngay cái giọng của Alan, một giọng mệt mỏi, không vui vẻ gì.

– Chào ông Alan. Anne đây.

Chị Anne thân mến, tôi rất tiếc khi được biết về tin sáng nay.

– Sao ông biết được, Alan? Làm sao ông biết được? Ai bảo cho ông biết?

Tòa thị chính gọi điện cho tôi và cho tôi biết tin chi tiết ngay sau lúc mười giờ. Tôi gọi ngay cho chị nhưng cô hầu trả lời chị đã ra phố mua sắm rồi.

Ôi lạy Chúa – Anne nói. – Tôi đã quên khuấy đi mất về chuyện hợp đồng. Chị ngồi phịch xuống ghế, cảm thấy khó thở.

Anne, chị có sao không thế – Không, tôi không sao, – Chị đáp, cố không tỏ ra nghẹn ngào trong điện thoại. – Tòa thị chính bảo sao?

Hợp đồng xây dựng bệnh viện được giao cho công ty có tên là Kirbrnde và Carter. Rõ ràng Henry không có trong số ba người đứng đầu danh sách. Cả buổi sáng tôi cố tìm anh ta, nhưag hình như anh ta đã đi đâu ngay từ sau lúc mười giờ, và từ đó chưa trở về.

Có lẽ chị cũng không biết anh ta đang ở đâu chứ, Anne?

Không, tôi không biết nữa.

Chị muốn tôi sang bên đó bây giờ không – Ông ta nói. – Tôi có thể sang với chị mấy phút.

Không, cảm ơn ông, Alan. – Anne dừng lại lấy hơi thở.- Xin ông tha lỗi cho tôi về thái độ đối với ông trong mấy ngày vừa qua. Nếu như Richard còn sống thì anh ấy sẽ chẳng bao giờ tha thứ cho tôi được.

Chị đừng lẩn thẩn, Anne. Chúng ta đã là bạn với nhau từ nhiều năm nay rồi, một chuyện nhỏ như vậy có nghĩa gì đâu.

Giọng nói thân mật của ông càng làm chị muốn khóc lên. Chị lảo đảo đứng dậy.

Tôi phải ra đây đã, hình như có nglrời gõ cửa ngoài, có thể là Henry về.

Chị cẩn thận đấy nhé. Anne. Đừng nghĩ ngợi gì nữa chuyện hôm nay. Chừng nào tôi còn là chủ tịch thì ngân hàng vẫn sẽ ủng hộ chị. Khi nào cần, chị cứ gọi cho tôi ngay nhé, đừng ngại.

Anne bỏ máy xuống. Trong tai chị vẫn ù ù. Chị cố thở mà không được. Chị gục xuống sàn nhà, cùng lúc đó cảm giác co bóp dội lên trong người chị.

Lát sau có tiếng gọi cửa nhè nhẹ của cô hầu. Phía sau cô hầu là bóng William. Từ khi chị lấy Henry osborne, anh không hề bước chân vào phòng ngủ của mẹ nữa. Hai người chạy vội đến chỗ Anne. Chị vẫn đang giẫy giụa, không biết có người vào. Phía trên mép có chút bọt sùi ra. Vài giây sau, chị không co quắp nữa mà nằm yên và khẽ rên.

Mẹ, – William lên tiếng, – Mẹ sao thế? Anne mở mắt nhìn con như ngây dại.

Richard. Lạy Chúa anh đã về. Em đang cần đến anh.

Con William đây mà, mẹ.

Mắt chị vẫn lờ đờ.

Em kiệt sức rồi, Richard. Em phải trả giá cho lỗi lầm của mình. Anh tha thứ….

Giọng chị kéo dài thành một tiếng rên rồi người lại co quắp một lần nữa.

– Sao thế này? – William lúng túng nói.

Tôi nghĩ có lẽ bà trở dạ đấy, – Cô hầu nói. – Phải mấy tuần nữa mới đến ngày đẻ

cơ.

Cô ra điện thoại gọi ngay cho bác sĩ MacKenzie, – Wiìliam bảo cô hầu rồi chạy ra cửa phòng. Anh gọi tọ- Matthequ! Lên đây ngay, mau lên.

Matthequ chạy vội lên cầu thang cùng William vào phòng ngủ.

Cậu giúp đưa mẹ tớ xuống xe với. Matthequ qùy xuống. Hai chàng thanh niên bế Anne lên, nhẹ nhàng đưa xuống cầu thang và ra xe. Chị vừa thở dốc vừa rên rỉ tỏ ra đang rất đau đớn. William trở lại trong phòng cầm vội lấy ống nói trong tay cô hầu, trong khi Matthequ chờ ở dưới xe.

Bác sĩ MacKenzie.

Tên tôi là Wilham Kane, có lẽ ông không biết tôi đâu.

Không biết anh ư? Chính tôi đỡ khi đẻ anh ra đấy Có chuyện gì vậy?

Có lẽ mẹ tôi đang trở dạ. Bây giờ tôi đưa bà đến bệnh viện ngay đây. Mấy phút nữa tôi đến đó rồi.

Giọng bác sĩ MacKenzie đã đổi khác.

Thôi được, Wiììiam, anh đừng lo. Tôi sẽ ở đây chờ anh. Mọi thứ sẽ đâu vào đấy. Xin cảm ơn ông, – William nói, – Hình như mẹ tôi bị co giật, như vậy có bình

thường không ạ?

Câu nói của William khiến ông bác sĩ rùng mình. chính ông cũng ngần ngại không biết nói thế nào.

Không bình thường lắm đâu. Nhưng nếu đẻ được thì không sao. Anh mau đưa đến đây, càng nhanh càng tốt.

William bỏ máy xuống, chạy ra ngoài nhà và nhảy ngay vào chiếc Rolls-Royce. Matthequ lái xe rất cẩn thận, không dám sang số và cũng không dừng lại một chỗ

nào, cứ thế từ từ đi đến bệnh viện. Hai người cùng một cô y tá đặt Anne lên cáng đi vội đến khu hộ sinh. Bác sĩ MacKenzie đã đứng chờ sẵn ở cửa phòng mổ. Ông bảo hai người đứng ngoài.

William và Matthequ yên lặng ngồi trên chiếc ghế dài chờ đợi. Trong phòng đẻ vang ra những tiếng kêu hét ghê rợn họ chưa từng nghe thấy bao giờ. Rồi sau đó là im

lặng, và cái im lặng này còn ghê rợn hơn cả tiếng kêu hét. Lần đầu tiên trong đời mình, William thấy hoàn toàn bất lực. Hai chàng thanh niên ngồi trên ghế dài hơn một tiếng đồng hồ. Không một ai nói gì Lát sau, bác sĩ MacKenzie xuất hiện với dáng mỏi mệt. Hai chàng thanh niên cùng đứng dậy. Bác sĩ nhìn Matthequ Lester.

– Không, thưa ông, tôi là Matthequ Lester. Còn đây là William.

Bác sĩ quay lại đặt một tay lên vai William. William, tôi rất tiếc. Mẹ anh chết cách đây vài phút…. còn đứa bé, một cháu gái, cũng chết lúc mới đẻ.

William ngồi khụyu xuống ghế.

– Chúng tôi đã làm mọi cách để cứu sống cả hai mẹ con, nhưng muộn quá rồi. – Ông lắc đầu buồn bã. – Bà ấy không chịu nghe tôị… mà cứ đòi phải có con. Lẽ ra không có chuyện này.

quiuiam ngồi lặng người, sững sờ về câu nói vừa rồi của bác sĩ. Anh khẽ hỏi:

Làm sao mà chết được? Sao ông có thể để cho bà ấy chết được? Bác sĩ ngồi xuống ghế.

Bà ấy không chịu nghe tôi, – Ông từ từ nhắc lại. – Tôi đã nhiều lần nhắc bà ấy, sau cái vụ sẩy thai lần trước, rằng chớ có đẻ nữa. Nhưng sau khi bà ấy tái giá, bà ấy với ông bố dượng của anh không bao giờ coi trọng lời dặn của tôi hết. Lần có mang trước đây, huyết áp của bà ấy rất cao. Lần này tôi cũng lo ngại nhưng chưa có lúc nào đến mức nguy ngập. Hôm nay, lúc anh đưa bà ấy đến đây, tôi không. hiểu được tại sao lại bỗng có hiện tượng co giật như vậy.

Wilham nhìn ông không hiểu.

Phải, co giật. Đôi khi bệnh nhân có thể chịu đựng được nhiều lần như vậy. Nhưng cũng có trường hợp bệnh nhân tắt thở luôn.

William gục đầu xuống hai tay. Matthequ Lester đỡ anh dậy đi chầm chậm trong hành lang. Bác sĩ đi theo hai người. Ra đến thang máy, ông nhìn William nói:

Huyết áp của bà ấy tăng đột ngột. Điều này là rất là không bình thường, và hình như bà ấy không gượng lại như mọi khi, gần như bà ấy không cần gượng lại nữa. Tôi thấy rất lạ. Gần đây, có điều gì khiến bà ấy phiền lòng không?

quilliam ngước lên nhìn bác sĩ. Nước mắt anh tràn xuống đầy mặt.

Không phải là điều gì, – Giọng anh đầy căm giận,- Mà là người nào.

Khi hai người về đến nhà thì thấy Alan Uoyd đã ngồi ở một góc phòng khách. Ông đứng dậy.

Wilìiam, – Ông lên tiếng ngay. – Tôi tự trách mình đã để cho vay như vậy.

Wiliam nhìn ông ta như không nghe thấy ông ta nói gì. Matthequ Lester nói thay vào đó.

Có lẽ điều đó không còn quan trọng nữa, ông ạ. Mẹ của William vừa mất lúc đau đẻ rồi. – Anh nói nhỏ.

Alan Lloyd tái nhợt người, phải vịn tay vào bệ lò sưởi mới đứng được. Ông quay

mặt đi. Lần đầu tiên, cả William và Matthequ mới trông thấy người lớn khóc.

Đó là lỗi tại tôi – Ông chủ ngân hàng nói. – Tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho mình được. Tôi đã không nói cho chị ấy biết tất cả những gì tôi biết được. Tôi quý chị ấy quá nên không muốn thấy chị ấy thất vọng bao giờ. ‘ Nỗi đau của ông giúp Wiìliam bình tĩnh trở lại.

Không phải lỗi của ông đâu, Alan, – Anh dằn giọng nói. – Ông đã làm đủ mọi cách rồi. Tôi biết thế. Và bây giờ đến lượt tôi phải nhờ ông giúp đỡ đây.

Alan Lloyd đứng thẳng người dậy.

Osborne đã được báo tin về chuyện mẹ anh chết chưa?

Tôi không biết mà cũng không cần biết.

Suốt ngày hôm nay tôi gọi cho anh ta về chuyện đầu tư Nhưng anh ta bỏ đi từ lúc mười giờ sáng nay, và không ai biết anh ta ở đâu.

Sớm muộn rồi hắn cũng về đây thôi, – Wilham nghiêm mặt nói.

Sau khi Alan Lloyd ra về rồi, Willỉam và Matthequ ngồi lại trong phòng khách đó gần hết đêm, lúc ngủ thiếp đi, lúc tỉnh. Đến bốn giờ sáng, William chợt nghe tiếng chuông đồng hồ vang lên và cũng nghe thấy cả tiếng gì ở ngoài nhà. Matthequ nhìn qua cửa Hổ xuống đường. William cũng bước ra nhìn xuống. Họ thấy Henry osborne đang lảo đảo đi qua quảng trường Louisburg, trong tay cầm một chai rượu. Anh ta thò tay vào túi tìm chìa khóa một lúc rồi đứng giữa cửa nhìn hai chàng thanh niên, mắt nhấp nháy.

Tôi cần Anne chứ không cần anh. Tại sao anh không ở trường? Tôi không cần anh đâu, – Anh ta líu lưỡi và giơ tay định gạt William sang một bên. – Anne đâu?

Mẹ tôi chết rồi, – William khẽ nói.

Henry osborne ngơ ngác nhìn anh vài giây. Cái nhìn ngơ ngác ấy khiến William còn có thể tự chủ được Anh bỗng quát lên:

Ông đi đâu trong khi bà ấy cần đến chồng osborne vẫn còn đứng lảo đảo. Đứa bé thế nào?

Con gái, nhưng nó cũng chết rồi.

Henry osborne thụp ngồi xuống một chiếc ghế. Nước mắt bắt đầu chảy xuống mặt anh ta.

– Cô ấy làm mất con tôi rồi ư?

William không biết mình nên điên hay nên buồn. – Con ông? ông đừng có nghĩ về mình nữa được không? – Anh lại quát lên. – Ông biết là bác sĩ MacKenzie đã khuyên bà ấy không nên có mang nữa chứ?

Anh lại cũng giỏi cả môn ấy nữa kia à? Nếu anh biết lo chuyện của anh và đừng có can thiệp gì vào đây thì tôi đã có thể chăm lo đến vợ tôi rồi, phải thế không nào?

Và chăm lo cả tiền của bà ấy nữa chứ?

Tiền, hừ. Anh chỉ là một thằng keo kiệt. Tôi biết là mất tiền thì anh còn đau hơn

mất bất cứ gì khác.

– Đứng dậy! – William rít qua kẽ răng.

Henry osborue đứng dậy và đập vỡ chai rượu vào thành ghế. quhisky tung tóe ra thảm. Anh ta lắc lư bước đến chỗ William và giơ chai rượu vỡ ìên. William vẫn đứng nguyên đó trong khi Matthequ đứng chen ngay vào giữa và dễ dàng gỡ cái chai ra khỏi tay anh chàng say rượu.

William gạt bạn sang một bên và tiến đến sát mắt Henry osborne.

Bây giờ, ông hãy nghe đây, và nghe cho kỹ vào. Tôi yêu cầu ông phải ra khỏi nhà này trong vòng một giờ nữa. Tôi mà còn nghe thấy nói đến ông nữa, tôi sẽ lập tức cho điều tra ngay về tiền nửa triệu đôla của rnẹ tôi vào công ty của ông, tôi sẽ cho tiến hành ngay cả việc điều tra về quá khứ của ông ở Chicago và ông thật sự là ai. Còn nếu không nghe nói đến ông nữa, tôi sẽ coi như quên chuyện đó đi. Bây giờ, ông cút ngay đi, không tôi sẽ giết ông đấy.

Hai chàng thanh niên nhìn anh ta bước ra ngoài, vừa sụt sùi vừa hoang mang giận

dữ.

Sáng hôm sau William đến ngân hàng. Anh được mời vào ngay vào phòng làm việc của Chủ tịch. Alan đang xếp một số giấy tờ vào cặp. Ông nhìn lên và đưa một mẩu giấy cho Wilìiam mà không nói gì.

đó là một bức thư ngắn gửi tất cả các thành viên trong ban giám đốc cho ông được từ chức chủ tịch ngân hàng.

Ông cho gọi cô thư ký vào đây được không? William bình tĩnh nói.

Tùy anh.

Alan Lloyd bấm vào một nút bên cạnh bàn giấy. Một người đàn bà cỡ trung niên, ăn mặc kiểu cổ, từ một cửa bên bước vào.

Chào ông Kane, – Bà ta trông thấy William đã nói ngay. Tôi rất tiếc khi được tin về thân mẫu ông.

Cảm ơn bà, – William nói. – Đã có ai khác xem bức thư này chưa?

Thưa chưa, – Bà thư ký nói. – Tôi đang sắp đánh ra mười hai bản để ông Doyd

ký.

Thôi bà đừng đánh máy ra nữa, và xin bà cũng quên là có bản thảo này nhé. Bà cũng đừng nói cho bất cứ ai biết về chuyện này, bà hiểu chứ?

Bà ta nhìn vào đôi mắt xanh của anh chàng thanh niên mười sáu tuổi. Sao mà giống ông bố ngày xưa thế, bà nghĩ bụng.

Vâng, thưa ông Kane. – Bà lặng lẽ ra ngoài và đóng cửa lại. Alan Lloyd nhìn lên..

Lúc này, Kane và Cabot không cần đến một ông chủ tịch mới, ông Alan ạ, – William nói. – Trong trường hợp này, ông không hề làm cái gì mà bố tôi trước kia đã không làm.

Đâu có dễ dàng thế, – Alan nói.

Dễ chứ, – William nói. – Chúng ta sẽ lại bàn việc này khi nào tôi hai mươi mốt tuổi. Còn trước đó thì chưa bàn. Từ nay đến đó, tôi rất mong ông vẫn quản lý ngân hàng của tôi theo cái cách vừa rất ngoại giao vừa rất bảo thủ như từ trước đến nay. Tôi không muốn người ta bàn tán gì đến những chuyện vừa xẩy ra ở ngoài văn phòng này. Xin ông cho hủy tất cả những tài liệu gì ông có về Henry osbome, và coi như vấn đề này đã kết thúc.

William xé vụn bức thư xin từ chức và vứt từng mảnh vào lửa. Anh quàng tay vào vai Alan.

Bây giờ tôi không còn gia đình nữa, Alan chỉ còn có ông thôi. Lạy chúa, ông đừng bỏ tôi.

William trở về ngôi nhà trên đồi Beacon. Bà nội Kane và bà ngoại Cabot ngồi yên lặng trong phòng khách. Thấy anh bước vào, hai cụ đứng dậy. Lần đầu tiên Wilham nghĩ ra bây giờ anh đã là chủ của gia đình Kane.

Hai ngày sau, tang lễ được tiến hành một cách lặng lẽ ở nhà thờ lớn St. Paul. Chỉ có những người trong gia đình và bạn thân được mời đến. Riêng Henry osborne vắng mặt. Những người đến dự tang lễ chia buồn với Wilham. Hai cụ bà đứng phía sau anh như hai người hộ vệ, cảm thấy anh tỏ ra bình tĩnh, tỉnh táo Sau khi mọi người ra về rồi, William tiễn Alan Lloyd ra xe.

ông chủ tịch rất sung sướng nghe William yêu cầu mình giúp một việc.

Như ông đã biết đấy, Alan, mẹ tôi vẫn muốn xây cho bệnh viện một khu nhi để tưởng nhớ đến bố tôi. Vậy tôi muốn nhờ ông giúp cho nguyện vọng của bà được thực hiện.

***

Wladek ở lại tòa lãnh sự Ba-lan tại Constantinople đến một năm chứ không chỉ ít ngày như lúc đầu anh đã tưởng. Suốt ngày đêm, anh làm việc cho Paquel Zaleski, trở thành người trợ lực không thể thiếu và là bạn gần gũi của ông ta nữa. Đối với anh, hình như không có việc gì là khó khăn lắm. Zaleski nghĩ bụng không biết trước đây không có Wladek thì ông ta đã xoay sở như thế nào.

Mỗi tuần Wladek đến thăm sứ quán Anh một lần, vào trong bếp ngồi ăn với bà Hendersom, người Xcốt-len. Có một lần anh còn được ngồi ăn với cả ông phó lãnh sự của Nhà vua Anh nữa. Lúc này ở Thổ Nhĩ Kỳ lối sống cũ của Hồi giáo đang mất dần và đế chế ottoman đã bắt đầu rệu rã. Cái tên Mustapha Kemal được nhắc đến ở cửa miệng mỗi người. Không khí sắp diễn ra những thay đổi khiến Wladek sốt ruột. Anh luôn luôn nghĩ đến Nam tước và tất cả những ai anh yêu quý ở lâu đài. Hồi còn ở Nga, do phải làm sao để sống được từ ngày này sang ngày khác nên anh không có lúc nào nghĩ đến họ, nhưng sang đến đây rồi họ lại hiện lên trước mắt anh, lặng lẽ, chậm chạp. Đôi khi anh hình dung những con người đó khỏe mạnh vui tươi, anh thấy Leon

bơi lội trên sông, thấy Phiorentyna chơi trò lộn dây trong phòng ngủ, thấy khuôn mặt bệ vệ của Nam tước trong ánh đèn nến buổi tối. Nhưng bao giờ cũng vậy những khuôn mặt thân yêu mà anh rất nhớ ấy sẽ rung rinh trước mắt anh rồi biến thành những hình ảnh khủng khiếp, Leon nằm chết trên người anh, Phlorentyna trong cơn hấp hối người đầy máu me, và Nam tước gần như mù và kiệt quệ.

Wladek dần dần hiểu ra rằng anh sẽ chẳng bao giờ trở về được quê hương với những hồn ma như thế, mà anh phải làm một cái gì thật xứng đáng mới được:

Nghĩ thế, anh lại nhớ đến nhân vật Tadeusz Khôngsciuskhông mà trước đây Nam tước đã nhiều lần kể cho anh nghe, và anh nghĩ đến chuyện đi sang Mỹ.

Paquel Zaieski cũng đã mô tả cho anh nghe nơi đó được gọi là Thế giới mới.

Wladek càng hy vọng tương lai anh sẽ có cơ hội được trở về Ba lan một cách vẻ vang.

Chính Paquel Zaleski đã góp tiền để mua một tấm giấy nhập cư cho Wladek đi sang Mỹ. Kiếm được giấy đó không để vì bao giờ cũng phải đặt cọc trước một năm. Wladek tưởng như khắp cả các nước Đông âu ai ai cũng tìm cách trốn đi để làm lại cuộc sống ở Thế giới mới vậy.

Mùa xuân năm 1921, Wladek Khôngskiequicz rời Constantinople bước xuống con tàu Mũi tên đen đi đến đảo Rllis thuộc New York. Anh có chiếc va-li đựng tất cả những đồ đạc của mình trong đó với một mớ giấy tờ do Paquel Zaleski cấp.

ông lãnh sự Ba lan đưa anh ra bến tàu và ôm anh thân mật.

– Cậu đi theo Chúa nhé.

Wladek tự nhiên đáp lại bằng câu nói truyền thống của Ba lan anh đã thuộc từ bé:

– Xin ông ở lại với Chúa.

Bước chân lên cầu tàu, Wladek chợt nhớ lại chuyến đi khủng khiếp của anh từ odessa đến Constantinople.

lần này trên tàu không thấy có than, chỉ có người, đủ mọi thứ người, Ba lan, Li-tua-ni-a, E-xtô-nia, U cơ-rai-na và rất nhiều những người khác nữa mà Wladek không hiểu là thuộc dân tộc nào. Anh ôm chặt lấy chiếc va-li nhỏ và đứng vào hàng để chờ. Trước khi vào được đất Mỹ, anh còn phải trải qua nhiều lần chờ lâu như thế nữa.

Một sĩ quan trên tàu xem giấy tờ của anh rất cẩn thận, vì ngờ rằng Wladek trốn nghĩa vụ quân sự Ở Thồ Nhĩ Kỳ. Nhưng Paquel Zaleski đã chuẩn bị rất đầy đủ Lọt qua được cửa đó rồi, anh thầm cảm ơn người đồng bào của anh đã chu đáo được như vậy.

Nhiều người khác không có giấy tờ hợp lệ đã bị trả lại Sau đó là tiêm chủng và khám bệnh. Giá như không có một năm trời được ăn uống tử tế và lấy lại sức khỏe ở Constantinople thì có lẽ Wladek đã không qua được chỗ này. Cuối cùng, mọi thứ kiểm tra đã làm xong, anh được phép xuống khoang dưới, vào chỗ ăn ở rẻ tiền nhất của hành khách. Dưới đó có những ngăn riêng cho nam nữ và các đôi vợ chồng. Wladek nhanh chóng tìm đến khu nam giới và thấy nhóm người Ba lan đã chiếm một khu giường sắt hai tầng khá lớn. Trên mỗi chiếc giường có một đệm rơm mỏng, một chiếc chăn mỏng và không có gối. Wladek không lo chuyện không có gối, vì từ khi rời nước Nga đến nay anh chưa bao giờ ngủ có gối.

Wladek chọn một giường nằm phía dưới một anh chàng khác suýt soát tuổi anh, và tự giới thiệu.

– Tôi là Wladek Khôngskiequicz.

Tôi là Jerzy Noquak ở Warsaqu, – Anh kia đáp lại bằng tiếng Ba lan. – Tôi đi làm giàu ở Mỹ đây.

Anh ta đưa tay ra bắt. Trước khi con tàu khởi hành, Wilìiam và Jerzy ngồi nói chuyện với nhau về mình, cả hai đều lấy làm mừng có bạn để đỡ cô đơn trên tàu. Cả hai đều không muốn nói là mình hoàn toàn không biết gì về nước Mỹ. Hóa ra Jerzy đã mất cả bố mẹ trong chiến tranh và không còn trông cậy vào ai khác. Còn Wladek thì kể cho anh ta nghe về mình:

con của một Nam tước, lớn lên trong một căn lều của người thợ săn, bị người đức và người Nga bỏ tù, trốn khỏi Siberia, thoát khỏi tay một đao phủ Thổ Nhĩ Kỳ nhờ có chiếc vòng bạc đeo trên tay. Jerzy nhìn vào chiếc vòng rất chăm chú. Wladek kể lại tóm tắt mười lăm năm của mình mà Jerzy tưởng như phải cả một đời người mới trải qua hết được những thứ đó. Suốt đêm, Wladek chỉ nói về quá khứ. Jerzy nghe mà không muốn ngủ , cũng không dám nói ra là mình đang lo ngại về tương lai như thế nào Sáng hôm sau, con tàu Mũi tên đen rời bến. Wladek và Jerzy đứng trên boong tàu nhìn Constatinople lùi xa dần trong khoảng trời xanh. Sau vịnh Marmara phẳng lặng đến vùng có sóng của biển Aegean. Phần lớn các hành khách trong khoang rẻ tiền đều bị say sóng. Trong khu này chỉ có mấy phòng vệ sinh và vòi nước lạnh, không đủ cho họ rửa ráy.

Chỉ qua vài ngày là mùi hôi thối đã sực lên không chịu được.

Bữa ăn của họ được để trên những chiếc bàn dài trong một phòng ăn rộng nhưng bẩn thỉu nhếch nhác. Có súp nóng, khoai tây, cá, thịt bò hầm và bắp cải, bánh mì nâu hoặc đen. Trước khi rời nước Nga, Wladek đã được biết những thức ăn khổ hơn thế này nhiều, nhưng ngoài những thứ ở trên tàu này, anh còn có những cái bà Henderson đã gói cho anh như xúc xích, lạc và cả một ít rượu brandy nữa. Anh rủ Jerzy đem vào góc giường cùng ăn. Hai người thầm hiểu với nhau mọi thứ mà không cần nói ra lời. Họ cùng ăn, cùng đi xem các nơi trên tàu, và đêm đến lại trèo lên giường cùng ngủ.

Sang ngày thứ ba trên biển, Jerzy rủ một cô gái Ba lan cùng đến bàn ăn. Anh ta giới thiệu với Wladek đó là Zaphia. Lần đầu tiên trong đời, Wladek nhìn kỹ một cô gái. Anh không rời mắt khỏi Zaphia. Cô ta làm anh nhớ đến Phlorentyna. Cũng đôi mắt xanh đậm đà, mớ tóc vàng trễ xuống hai vai và giọng nói ấm áp.

Wladek cảm thấy như muốn sờ vào người cô ta. Thỉnh thoảng cô gái nhìn Wladek cười. Anh đau khổ thầm nghĩ rằng Jerzy còn đẹp trai hơn mình rất nhiều. Anh đi theo Jerzy đưa cô gái trở về khu phụ nữ.

Sau đó Jerzy quay lại nhìn anh với vẻ hơi khó chịu. – Cậu tìm một cô gái khác cho cậu chứ? Cô này là của tớ.

Wladek không sẵn sàng thừa nhận là anh chẳng hiểu kiếm riêng cho một một cô gái bằng cách nào. Anh ra điều coi khinh.

Ôi chao, sang đến Mỹ thì còn ối thì giờ đi tìm gái.

Tại sao phải chờ sang đến Mỹ? Ngay trên tàu này muốn bao nhiêu mà chả được?

Cậu làm thế nào? – Wladek hỏi, muốn biết Nhưng không dám nhận là mình dốt về môn này.

Chúng ta còn hơn mười hai ngày nữa trong cái hầm này, và mười hai ngày đó tớ sẽ có mười hai người đàn bà cho mà xem, – Jerzy khoe khoang.

Cậu có thể làm gì với mười hai người đàn bà? – Wladek hỏi.

Ngủ với họ, chứ còn làm gì nữa? – Wladek ngỡ ngàng không hiểu.

ôi lạy Chúa, – Jerzy thốt lên. – Chẳng lẽ một người như cậu đã sống được với bọn Đức, thoát khỏi tay bọn Nga, đã giết một người khi mình mới mười hai tuổi và suýt bị bọn Thổ Nhĩ Kỳ dã man đem chặt tay, thế mà lại chưa biết đàn bà là gì ư?

Anh ta cười to đến nỗi những người khác ở các giường chung quanh phải lên tiếng bảo im đi. Jerzy tiếp tục nói thầm với Wladek. – Đã đến lúc cậu phải học thêm cho biết. Ít ra tớ cũng có được một cái để dạy cho cậu. – Anh ta thò đầu xuống giường dưới nói, mặc dầu không nhìn thấy rõ mặt Wladek trong bóng tối – Zaphia là một cô gái dễ thông cảm đấy. Tớ có thể nói là sẽ thuyết phục cô ta mở rộng kiến thức thêm cho cậu. Để rồi tớ thu xếp.

Wladek không nói gì.

Cũng không ai nhắc đến chuyện ấy nữa, nhưng hôm sau thì Zaphia tỏ ra chú ý đến Wladek. Lúc ăn, cô ta đến ngồi bên cạnh Wladek và họ nói chuyện với nhau hàng giờ về cuộc sống và những hy vọng của mình. Cô ta là một cô gái mồ côi ở Poznan, bây giờ đi sang với bà con họ hàng ở Chicago. Wladek thì bảo Zaphia là anh sang New York và có lẽ sẽ cùng ở với Jerzy.

Tôi mong là New York rất gần Chicago, Zaphia nói.

Thế thì sẽ có thể đến thăm tôi khi nào tôi làm thị trưởng, – Jerzy huênh hoang

nói.

Cô ta cười khẩy.

Anh còn Ba Lan lắm, Jerzy ạ. Anh cũng không nói được tiếng Anh tử tế như Wladek.

Tôi sẽ học, – Jerzy nói với vẻ tin tưởng, – Và tôi sẽ bắt đầu bằng cách đặt tên Mỹ cho mình. Từ hôm nay trở đi tôi sẽ là George Navak. Thế là không có khó khăn gì nữa. Mọi người ở Hoa Kỳ sẽ nghĩ tôi là người Mỹ. Còn cậu, Wladek Khôngskiequicz, cậu thế nào? Cậu giữ cái tên đó thì chả làm gì được mấy đâu, phải không?
Wladek nhìn anh chàng mới có cái tên là George kia và thầm bực mình với tên của chính mình. Không thể lấy ngay được cái tên mà anh có quyền hưởng gia tài kia, anh nghĩ bụng cái tên Khôngskiequicz thật là rắc rối mà còn bất hợp pháp nữa.

Tớ sẽ tìm cách sau, – Anh đáp. – Nếu cậu muốn, tớ có thể giúp cậu học tiếng Anh được.

Còn tớ sẽ giúp cậu tìm ra một cô gái. – Zaphia cười khúc khích.- Anh chả cần đâu, anh ấy đã tìm được một cô rồi.

Jerzy bây giờ có tên là George và anh ta đòi họ phải gọi bằng tên đó, cứ mỗi tối sau khi ăn xong lại chui vào một chiếc xuồng phao có bạt che ở trên để hú hí với một cô gái. Wladek rất muốn biết anh ta làm gì trên đó, vì những người đàn bà mà George chọn và rủ lên đó không những bẩn thỉu mà còn xấu xí nữa.

Một tối sau bữa ăn, khi George đã biến đi rồi, Wladek với Zaphia ngồi trên boong tàu nói chuyện. Cô ta quàng tay ôm lấy anh và bảo anh hôn. Anh kề íniệng vào môi cô ta, nhưng người anh cứng quèo, lúng túng không biết làm thế nào. Anh ngạc nhiên thấy cô ta lùa đầu lưỡi vào miệng mình. Lát sau hết sửng sốt rồi, anh thấy miệng cô ta há ra một cách rất khêu gợi và anh thấy người rạo rực hẳn lên. Anh ngượng, muốn ngồi lui lại nhưng cô ta không hề chú ý trái lại cứ áp người vào sát anh đưa đẩy và cầm tay anh kéo xuống dưới. Cơ thể anh giần giật rất khó chịu. Cô ta ngừng hôn và thủ thỉ vào tai anh.

Anh muốn em cới quần áo không, Wladek? Anh không biết thế nào trả lời.

Thôi có lẽ để đến mai. – Cô ta nói và đứng dậy bỏ đi.

Anh lật đật đi về giường mình, trong bụng nghĩ đến hôm sau sẽ quyết tâm hoàn thành cái việc mà Zaphia đã bắt đầu. Anh vừa đặt lưng xuống và nghĩ xem sẽ thực hiện cái việc đó như thế nào thì bỗng có một bàn tay to túm lấy tóc anh kéo từ trên giường xuống sàn tàu. Trong khoảnh khắc, sự kích thích tình dục trong anh tan biến mất. Hai người đàn ông anh chưa thấy bao giờ đứng lù lù ở đó. Họ kéo anh vào một góc xa và bắt đứng dựa vào tường. Một bàn tay to bịt chặt lấy miệng anh trong khi một lưới dao kề vào cổ họng.

– Cấm không được kêu, – Tên cầm dao ấn lưỡi dao vào da thịt anh, nói khẽ. – Chúng tao chỉ cần cái vòng bạc ở cổ tay mày thôi.

Mất chiếc vòng bạc này sẽ chẳng khác gì như bị chặt bàn tay, Wladek nghĩ mà khiếp sợ. Anh chưa biết làm thế nào thì một trong hai tên đó đã kéo tuột được chiếc vòng ra khỏi cổ tay anh. Anh không rõ mặt chúng vì ở chỗ này tối quá. Anh đang lo như thế là vĩnh viễn mất chiếc vòng thì bỗng có một người nào đó nhảy lên lưng tên cầm dao. Wladek lợi dụng cơ hội đấm một nhát vào mặt tên đang ghì anh vào tường.

Những người ngủ quanh đó thức dậy xôn xao. Hai tên kia vội bỏ trốn nhưng George đã kịp đâm một nhát dao vào cạnh sườn một tên.

Cho chúng mày chết nhé, – Wladek hét lên và đứng lại.

Tớ đến vừa kịp, – George nói. – Chúng nó chưa quay lại ngay đâu. – Anh ta nhìn xuống chiếc vòng bạc nằm lăn lóc trên sàn đầy những mùn cưa. – Hay thật,- Anh ta trịnh trọng nói. – Sẽ còn có nhiều người muốn cướp cái của quí ấy của cậu đấy.

Wladek nhặt chiếc vòng lên đeo vào tay.

Suýt nữa thì cậu mất hẳn cái vòng này đấy nhé.- George nói. – May cho cậu là tối nay tớ về hơi muộn.
Tại sao cậu về hơi muộn? Wladek hỏi. – George khoe khoang:

Tớ nổi tiếng rồi. Thực tình là tối nay tớ vớ được một thằng ngốc mò đến chiếc xuồng của tớ. Hắn đã tụt quần rồi. Tớ trông thấy thế bèn bảo hắn đừng có nằm với cô gái mà tuần trước tớ định nằm nhưng không dám vì cô ta có bệnh giang mai. Thế là hắn vội vã mặc quần vào bỏ đi ngay.

Cậu làm gì trong xuồng ấy? Wladek hỏi.

Thì ngủ với họ chứ làm gì nữa, sao cậu hỏi ngốc thế?

Nói rồi George lăn ra ngủ.

Wladek nằm nhìn lên trần, tay mân mê chiếc vòng bạc. Anh suy nghĩ về câu George vừa nói, và tự hỏi không biết mình sẽ ngủ với Zaphia như thế nào đây.

Sáng hôm sau tàu gặp một cơn bão. Tất cả các hành khách đều bị cấm không được lên trên boong.

Mùi hôi thối cộng thêm với hệ thống sưởi trong tàu càng nồng nặc lên như sói vào tận trong óc Wladek.

Thế là hỏng cả việc của tớ, không thực hiện được đủ một tá. George phàn nàn. Cơn bão tan đi, hầu hết các hành khách kéo lên khoang trên. Wladek và George

vội chen trong đám đông chui lên hít thở ít không khí trong lành. Nhiều cô gái nhìn George mỉm cười, nhưng Wladek thấy họ không để ý gì đến anh. Một cô gái tóc đen, má đỏ hồng lên vì gió biển, qua mặt George cười với anh ta. Anh ta quay sang Wladek.

Wladek nhìn cô ta xem cô ta chú ý đến George như thế nào.

Tối nay nhé, – George chờ cô ta bước đến gần mới nói cho cô ta đủ nghe. Cô ta làm như không nghe thấy gì vẫn bước đi nhanh hơn trước một chút.

Wladek, cậu ngoái lại xem cô ta có quay nhìn tớ không.

Wladek ngoái lại, và ngạc nhiên đáp.

Thế là tối nay cô ta thuộc về tớ. – George nói. – Cậu đã có được Zaphia chưa?

Chưa, – Wladek đáp. – Tối nay.

Đã đến lúc rồi há? Đến New York thì cậu sẽ không bao giờ còn được gặp lại cô ta nữa.

Đúng như George nói, bữa tối hôm đó anh ta đã kéo theo được một cô gái tóc đen. Wladek và Zaphia không nói gì, quàng tay vào người nhau và đi lên boong trên dạo bước quanh tàu. Wladek liếc nhìn sang thấy nét nghiêng của Zaphia rất xinh. Anh nghĩ bụng, và quyết định phải làm ngay chứ không để lúc khác nữa. Anh dẫn cô ta đến một góc tối và bắt đầu hôn cô ta như hôm qua cô ta đã hôn mình. Cô ta lui lại một chút và tựa vai vào lan can. Wladek tiến theo. Cô ta cầm tay anh kéo xuống ngực. Anh sờ vào

đó và không ngờ nó êm ái như vậy. Cô ta cởi vài khuy áo và đưa tay anh luồn vào bên trong. Anh thấy cảm giác đầu tiên sờ vào da thịt thật là ngon lành khó tả.

– Lạy Chúa Tay anh lạnh thế!- Zaphia nói.

Wladek ghì chặt cô ta vào người, thở dốc. Cô ta cùng đưa đẩy với anh một lúc rồi lui ra nói:

Ở đây không được, chúng mình phải đi tìm một cái xuồng. Họ ngó nhìn vào ba chiếc xuồng đầu đều có người bên trong. Cuối cùng thấy một chiếc xuồng không bèn chui ngay vào dưới mái vải bạt. Trong bóng tối của chiếc xuồng Zaphia làm gì đó một lát với đám quần áo của cô ta rồi kéo Wladek nằm đè lên người mình.

Wladek loay hoay không biết làm thế nào thì cô ta bỗng ngừng hôn và khẽ bảo anh.

Cởi quần ra chứ.

Anh cảm thấy mình như một thằng ngốc, vội làm theo, nhưng rồi chưa kịp hành động gì thì đã rùng mình rồi người anh nhủn ra. Anh chợt hiểu là khủyu tay và đầu gối của mình đang tì vào những đầu mẩu gỗ trong xuồng và rất đau.

Đây là lần đầu tiên anh làm tình với một cô gái phải không? – Zaphia hỏi và muốn anh lại nằm lên người cô ta nữa.

Không, tất nhiên không phải, – Wladek nói.

Anh có yêu em không, Wladek – Có anh có yêu, – Wladek nói. – Và khi có nơi ăn chốn ở New York rồi, anh sẽ đến tìm em ở Chicago.

Em muốn thế lắm, Wladek, – Cô ta nói và cài lại khuy áo.

Và em cũng yêu anh nữa.

Cậu có ngủ với cô ta không? – Wladek vừa về thì George đã hỏi ngay.

Có – Thích không?

Thích, – Wladek đáp bâng quơ rồi ngủ ngay. Đến sáng hôm sau, họ bỗng thức dậy nghe tiếng xôn xao trong hành khách. Ai cũng mừng đây là ngày cuối cùng trên con tàu Mũi tên đen. Một số người đã lên boong tàu từ trước lúc mặt trời mọc, hy vọng được nhìn thấy đất liền trước mọi người. Wladek gói ghém đồ đạc cho vào chiếc va-li mới, mặc bộ đồ duy nhất vào người, đội mũ vào, rồi lên đứng trên boong cùng với George và Zaphia. Ba người dõi nhìn vào đám sương mù trên mặt biển, im lặng chờ để được trông thấy đất Hoa Kỳ.

Kia kìa!- Một hành khách reo lên, tiếp theo đó là cả đám người trên boong vui mừng trông thấy dải đất màu xám của đảo Long island từ từ hiện ra trong buổi sáng mùa xuân.

Những chiếc tàu con tiến đến bên tàu Mũi tên đen dẫn nó đi vào giữa Brooklyn vào đảo Staten để vào bến New York. Pho tượng Thần Tự Do đứng sừng sững trên nền trời trước khu Manhattan và giơ ngọn đuốc lên cao khiến mọi người trên tàu nhìn bằng con mắt kinh ngạc.

Cuối cùng, tàu bỏ neo gần những ngôi nhà có tháp cao xây gạch đỏ trên đảo Ellis. những hành khách có phòng riêng trên tàu xuống trước. Mãi đến hôm nay Wladek mới trông thấy những người đó. Anh đoán có lẽ họ Ở một tầng riêng trên tàu và có những phòng ăn riêng. Hành lý của họ đã có người đến mang vác. Họ được những người đứng sẵn dưới bến đón mừug.

Wladek biết là mình sẽ chẳng có được cái cảnh ấy. Sau khi một số người có đặc quyền ấy đã xuống tàu rồi, thuyền trưởng nói trên loa rằng mọi hành khách khác chưa được rời tàu và phải chờ nhiều giờ nữa.

Tiếng phàn nàn thất vọng vang lên và Zaphia ngồi bệt xuống boong tàu khóc.

Wladek đến khuyên nhủ cô ta.

Lát sau có một viên chức mang cà-phê đến, một người nữa mang những biển số đến đeo vào cổ mỗi hành khách. Wladek mang số B.127. Anh nhớ trước đây đã có một lần phải đeo số rồi. Sao bây giờ cũng lại thế nữa? Mỹ cũng như các trại giam ở Nga chăng?

Cho đến tận giữa buổi chiều họ cũng chẳng được cho ăn uống gì, và cũng không ai nói cho biết là thế nào nữa. Họ được đưa xuống bến bên phía đảo Ellis.

Rồi đàn ông tách riêng khỏi đàn bà, được đưa vào những căn khác nhau. Wladek hôn Zaphia và cứ giữ cô ta đứng lại trong hàng. Một viên chức đi qua đó thấy thế tách họ ra.

Cứ đi đã ông ta nói. – Rồi sẽ cho hai người lấy nhau, chẳng bao lâu nữa đâu. Wladek thấy Zaphia đi mất hút, còn anh và George bị đẩy lên phía trước. Đêm đó

họ ngồi trong một căn nhà cũ ẩm ướt, không sao ngủ được trong khi những người phiên dịch đi đi lại lại giúp cho một số người nhập cư còn lớ ngớ chưa biết gì. Họ giúp qua loa thôi nhưng thái độ cũng nhã nhặn.

Đến sáng, họ được đưa đi khám sức khỏe. Chặng đầu là khó nhất. Người ta bắt Wladek phải leo lên một thang gác thật dốc. Ông bác sĩ mặc bộ đồng phục màu xanh bảo Wladek lên xuống hai lần và nhìn kỹ cách đi đứng của anh.

Wladek cố hết sức không tỏ ra mình hơi bị thọt.

Cuối cùng ông bác sĩ hài lòng. Sau đó người ta bảo anh cởi bỏ mũ, và cổ áo cứng, để xem kỹ mặt mũi tóc tai, tay và cổ. Người đến sau Wladek có môi trên bị sứt thế là bị Ông bác sĩ ách lại, đánh dấu phấn lên vai phải anh ta và chỉ ra đứng ở đầu nhà. Khám thân thể xong, Wladek cùng với George lại nối vào một đoàn người xếp hàng dài bên ngoài phòng gọi là kiểm tra công cộng. Mỗi người vào trong phòng đó chừng năm phút để họ phỏng vấn. Ba giờ đồng hồ sau đến lượt George được gọi vào. Wladek nghĩ bụng không biết người ta sẽ hỏi gì mình.

Lúc George bước ra, anh ta nhìn Wladek mỉm cười.

– Dễ thôi, cậu cứ đi thẳng vào đó, – Anh ta nói.

Wladek cảm thấy hai bàn tay mình ướt mồ hôi khi anh bước vào phòng.

Anh bước theo người viên chức vào một phòng nhỏ chung quanh không có gì trang trí. Có hai người xét hỏi ngồi sẵn đó và đang hí hoáy viết gì lên những tờ giấy có vẻ là giấy khai đặc biệt.

Anh nói được tiếng Anh không?- Người thứ nhất hỏi.

Thưa ông có, tôi nói được, – Wladek trả lời, nghĩ bụng dọc đường giá tập nói nhiều thì hơn.

Tên anh là gì?

Wladek Khôngskiequicz, thưa ông.

Họ đưa cho anh một cuốn sách to màu đen.

Anh có biết cái này là gì không.

Thưa có, đây là Kinh Thánh.

Anh có tin ở Chúa không Thưa có, tôi có tin.

Anh hãy để tay lên Kinh Khánh và thề sẽ trả lời thành thật những câu hỏi của chúng tôi.

quladek đưa tay trái cầm cuốn Kinh Thánh, đặt bàn tay phải lên đó và nói:

Tôi hứa sẽ nói sự thật.

Wốc tịch anh là gì?

Ba Lan.

Ai trả tiền cho anh đi qua đây?

Tôi tự trả bằng tiền tôi kiếm được trong Lãnh sự quán Ba Lan ở Constantinople. Một trong hai người nhìn vào giấy tờ của Wladek, gật đầu rồi hỏi tiếp.
Anh có đến một nhà nào không?

Thưa có. Tôi sẽ đến ở nhà ông Peter Novak. Ông ấy là chú của bạn tôi. Ông ấy ở New York.

Tốt. Anh có việc gì làm không?

Thưa có. Tôi về làm trong lò bánh mì của ông Novak.

Anh đã bị bắt bao giờ chưa?

Wladek chợt nghĩ đến Nga. Điều đó không tính. Thổ Nhĩ Kỳ…. Không, anh sẽ

không nhắc đến làm gì.

– Không, thưa ông, chưa bao giờ.

Anh có phải là người vô chính phủ không – Không, thưa ông. Tôi ghét họ lắm.

Anh có tuân theo luật pháp của Hoa Kỳ không – Có thưa ông. Anh có tiền gì không – Có thưa ông.

Cho chúng tôi xem nào?

Vâng, thưa ông. – Wladek để lên bàn mấy tờ giấy bạc và một ít tiền lẻ.

Cảm ơn, – Người xét hỏi nói. – Anh có thề cất tiền vào túi đi Người thứ hai nhìn Wladek.

Hai mươi mốt cộng với hai mươi bốn là bao nhiêu?

Bốn mươi lăm, – Wladek không ngập ngừng nói ngay. Con bò cái có mấy chân.
Wladek không tin ở tai mình.

Bốn, thưa ông, – Anh đáp và không biết có phải câu hỏi đó là cái bẫy không Con ngựa có mấy chân?

Bốn, thưa ông, – Wladek đáp, trong bụng vẫn ngờ ngợ.

Đang đi trên một chiếc thuyền con ngoài biển, nếu phải vứt đồ đi cho nhẹ thì anh sẽ vứt gì, bánh mì hay tiền bạc?

Vứt tiền, thưa ông, – Wladek đáp.

Tốt. – Người xét hỏi cầm lên một tấm thẻ có đề chữ “Chấp nhận” và đưa cho Wladek. – Sau khi anh đổi tiền rồi thì đưa tấm thể này trình cho viên Sĩ quan Nhập cư. Anh nói đầy đủ tên cho ông ta biết, và ông ta sẽ đưa cho anh thẻ đăng ký. Rồi họ sẽ cho anh giấy nhập cảnh. Nếu trong năm năm anh không phạm tội gì và qua được buổi? kiểm tra đọc và viết tiếng Anh, tán thành ủng hộ Hiến pháp, thì anh sẽ được phép xin nhập quốc tịch Hoa Kỳ. Chúc anh may mắn.

Wladek. – Xin cảm ơn ông.

Ra quầy đổi tiền, Wladek đưa cả số tiền mười tám tháng dành dụm ở Thổ Nhĩ Kỳ cùng với ba tờ bạc 50 rúp còn lại cho họ. Họ trao lại cho anh 47,20 đô la đổi tiền Thổ Nhĩ Kỳ sang, còn những tờ rúp thì họ bảo anh là không có giá trị. Anh nghĩ đến bác sĩ Dubien với mười lăm năm dành dụm của ông.

Bước cuối cùng là ra gặp Sĩ quan Nhập cư. Ông ta ngồi sau một chiếc bàn ngay bên cửa ra vào có thang chắn, dưới bức chân dung Tổng thống Harding.

Wladek và George cùng bước đến. Tên họ? – Ông sĩ quan hỏi George.
George Novak, – Anh ta trả lời gọn. Ông sĩ quan viết lên một tấm thẻ.

Địa chỉ? – Ông ta hỏi.

286, phố Broome, New York bang New York. viên sĩ quan đưa tấm thẻ cho George.

Đây là giấy chứng nhận nhập cư của anh, 21871, Geotge Novak. Hoan nghênh anh

đến Hoa Kỳ, George. Tôi cũng là người Ba Lan. Rồi anh ở đây sẽ thích.

Chúc mừng anh, và chúc anh may mắn.

George mỉm cười và bắt tay viên sĩ quan, rồi đứng sang một bên chờ Wladek. Viên sĩ quan nhìn Wladek.

Wladek đưa cho ông ta tấm thể có chữ “Chấp nhận”.

Tên họ? – Viên sĩ quan hỏi. Wladek ngập ngừng.

Tên anh ìà gì?- Ông ta nhắc lại to hơn, có vẻ hơi sốt ruột. Wladek không sao nói ra được. Anh ghét cái tên nông dân kia hết sức.

– Tôi hỏi lần nữa, tên anh là gì?

George nhìn Wladek. Những người khác xếp hàng phía sau cũng nhìn anh. Wladek vẫn. chưa nói. Viên sĩ quan bỗng nắm lấy cổ tay anh, nhìn kỹ vào dòng chữ trên chiếc vòng bạc, viết vào tấm thẻ rồi đưa lại cho Wladek.

21872, Nam tước Abel Rosnovsk Hoan nghênh đến Hoa Kỳ. Chúc mừng và chúc anh may mắn, Abel.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.