Hai Số Phận

Chương 2: 1923 – 1928



Tháng chín 1923, William trở lại học năm cuối cùng ở trường St. Paul và được bầu làm chủ tịch lớp lớn, đúng ba mươi ba năm sau khi bố anh cũng đã giữ chức đó. Nhưng William không phải được bầu lên theo cách thông thường hoặc do là một lực sĩ hay do được coi là học sinh nổi tiếng nhất trong trường. Nếu theo những tiêu chuẩn ấy thì Matthequ Lester, bạn thân nhất của anh, sẽ đánh bạt anh trong bất cứ cuộc thi nào. Nhưng William lại là một anh chàng gây nhiều ấn tượng nhất trong trường và về mặt này thì Matthequ Lester không thể đua với anh được. William mang tên của trường St. Paul để thi lấy học bổng Hamilton về môn toán ở trường đại học Harvard, và trong học kỳ cuối này anh quyết tâm đạt mục tiêu ấy.

Thời gian về nhà nghỉ nhân dịp lễ Giáng Sinh, anh giành tất cả tâm trí vào việc nắm vững những nguyên lý về toán. Tuy nhiên điều đó cũng khó thực hiện vì người ta mời anh đến dự đủ thứ chiêu đãi và vũ hội.

Anh khéo léo từ chối được một số cuộc, nhưng riêng có một cuộc anh không trốn nổi, đó là vũ hội do các cụ bà chủ trương làm ở ngôi nhà đỏ trên giảng đường Loquisburg. William nghĩ. không biết đến tuổi nào anh mới có quyền quyết định được, không để cho các cụ dùng ngôi nhà này vào những việc như thế. Anh biết là bây giờ chưa đến lúc, vả lại có như vậy thì những người làm trong nhà mới có việc làm. Anh chỉ có rất ít bạn thân ở Boston, và điều đó không ngăn nổi các cụ bầy ra một danh sách dài dằng dặc những khách mời.

Để kỷ niệm dịp này, các cụ tặng William một bộ áo lễ phục kiểu mới có hai lần ngực. Anh nhận tặng phẩm ấy với một vẻ không nồng nhiệt lắm, nhưng rồi cũng về phòng ngỉl đóng bộ đó lên người và đi lại nhìn ngắm trong gương.

Hôm sau anh gọi điện thoại đường dài đi New York mời Matthequ Lester về dự.

Cô em Matthequ cũng muốn đi theo nhưng mẹ cô bảo là không tiện, nên lại thôi.

William ra ga đón bạn.

– Này, cậu thử nghĩ xem, – Matthequ ngồi trên xe về Đồi Beacon nói với William, – Chẳng phải là đã đến lúc cậu phải có quan hệ trai gái rồi hay sao? Có lẽ ở Boston không có cô nào ra hồn ư ?- Sao, cậu đã có cô nào rồi đấy, Matthequ?

Rồi chứ, từ mùa đông năm ngoái ở New York cơ.

Lúc đó mình làm gì nhỉ?

Có lẽ cậu đang mơ làm Bertrand Russell. Thế mà cậu chả bảo gì cho mình biết.
Có gì đâu mà nói. Thực ra, hình như cậu nghĩ nhiều đến ngân hàng của ông bố mình hơn là chuyện tình của mình. Chuyện xảy ra tại một cuộc chiêu đãi của bố mình kỷ niệm ngày sinh Washington. Hôm đó có thể nói mình bị một trong những thư ký giám đốc đè ra hiếp. Đó là một bà rất to lớn có tên là Cynthia, có bộ ngực đồ sộ núng nính đến mức….

Cậu có thích không chứ?

Có, nhưng mình không tin rằng bà ta cũng thích. bà ta quá say rượu nên không biết có mình ở đó. Vả lại mình nghĩ rồi cũng phải bắt đầu ở chỗ nào đó, trong khi ấy thì bà ta tự nguyện giúp cho con ông chủ được biết mùi đời kia mà.

Trong óc Wilham chợt hiện lên hình ảnh bà thư ký trung niên đứng đắn của Alan Lloyd anh gặp hôm trước.

Mình không nghĩ là sẽ có cái may mắn được bà thư ký của Chủ tịch dạy cho những bài học đầu tiên ấy anh nói.

Matthequ ra điều hiểu biết:

Rồi cậu sẽ ngạc nhiên thấy rằng chính những người đàn bà có vẻ đứng đắn nghiêm túc lại là những người dễ dàng lăn vào vòng tay mình hơn cả. Bây giờ thì mình sẵn sàng nhận mọi lời mời, dù là chính thức hay không chính thức, mà cũng chả cần phải ăn mặc chỉnh tề nữa.

Cất xe vào rồi, hai người bước lên ngôi nhà bây giờ là của Wilham.

Cậu đã thay đổi nhiều rồi đấy nhỉ, – Matthequ nhìn bộ bàn ghế mới bằng song mây và giấy hoa mới dán trên tường. Chỉ có chiếc ghế da màu đỏ sẫm vẫn đâu ở nguyên đấy.

Chỗ này cũng cần sáng sủa lên một chút, – William nói. – Trước đây cứ như sống trong thời kỳ đồ đá Vả lại mình không muốn để gợi lại những….

Nhưng thôi, bây giờ không phải lúc nói về trang trí nội thất.

Bao giờ thì mọi người sẽ đến dự cuộc chiêu đãi – Vũ hội đấy, Matthequ. Các cụ cứ nhất định phải gọi đây là vũ hội.

Trong những dịp này chỉ có một thứ có thể gọi là vũ hội được thôị.

Matthequ, cậu chỉ mới biết đến một thư ký của giám đốc thôi mà đã tưởng mình có quyền lên lớp thiên hạ về tình dục sao?

Ôi cậu ghen đấy à? Thôi đi bạn ơi – Matthequ thở dài chế nhạo.

Trong vài giờ nữa, người khách đầu tiên sẽ tới. Bây giờ cậu hãy đi tắm rửa thay quần áo đã. Cậu có nhớ mang theo bộ lễ phục đấy không?
Có, nhưng nếu không thì mình mặc bộ quần áo ngủ cũng được chứ sao. Mình thường hay quên thứ này hoặc thứ kia, nhưng cả hai thứ thì không bao giờ, dù muốn quên cũng không được. Thực ra, nếu mình mặc quần áo ngủ ra dự vũ hội thì có thể sẽ làm mọi người buồn cười lắm nhỉ.

– Các cụ nhà mình chả thích đùa thế đâu, – William nói.

Sáu giờ những người phục vụ chiêu đãi lục tục đến. Họ có tất cả hai mươi ba người. Bây giờ, các cụ đến, trịnh trọng trong bộ đồ bằng ren đen kéo dài chám đất. Vài phút trước ‘tám giờ, William và Matthequ đến với các cụ Ở phòng tiền sảnh. William định nhặt một quả anh đào trên chiếc bánh ga-tô lớn rất đẹp ở giữa bàn thì có tiếng bà nội Kane ở sau lưng.

Cháu đừng đụng vào đấy, William, không phải dành .cho cháu đâu. Anh quay ngoắt người lại.

Vậy thì dành cho ai? – Anh hỏi và hôn ìên má bà nộl.

Đừng lôi thôi, William. Đừng tưởng lớn thế rồi mà bà không cho mấy cái phát vào đít được đâu.

Bà nội ơi, cháu giới thiệu với bà đây là Matthequ Lester, bạn thân nhất của cháu. Bà nội Kane giương mục kỉnh lên ngắm nhìn anh ta một lát rồi nói:

Chào cháu.

Cháu vinh. dự được gặp bà, bà Kane. Cháu tin là bà có biết ông cháu.

Biết ông cháu ư? Calebongquorth Lester ư Trước đây hơn năm mươi năm, ông ấy đã từng hỏi lấy bà nhưng bà từ chối. Bà bảo là ông ấy uống rượu quá nhiều và như thế thì sẽ chết sớm đấy. Wả đúng như bà nói. Vậy hai cháu đừng có uống rượu nhé. Nhớ đấy, rượu làm cho người ta ngu muội đi.

Chúng cháu. chẳng dám phạm luật ‘ đâu- Matthequ ra vẻ ngây thơ nói.

Nhưng rồi chẳng bao lâu nữa, luật sẽ mất giá trị, – Bà Kane nói. – Tổng thống Coolidge đã quên mất những ngày thơ ấu của ông ta rồi. Nếu như cái ông ngốc Harding ấy không chết một cách dại dột thì ông Coolidge này cũng chẳng bao giờ làm Tổng thống được.

William cười.

Ôi bà nhớ giỏi thật đấy. Trong cả thời gian cảnh sát đình công, có ai nói gì đến ông ta đâu.

Bà Kane không bắt chuyện nữa.

Khách mời đã đến dần. Rất nhiều trong số họ hoàn toàn xa lạ với chủ nhà. Mấy bà cháu vui mừng thấy Alan Lloyd đến sớm.

Trông anh khá lắm, William, – Alan lần đầu tiên ngắm kỹ anh và nói.

Ông cũng thế. Ông đến thật là quý hóa.

Wý hóa ư? Anh quên rằng giấy mời là của cả hai cụ à? Nếu là một cụ thôi thì tôi có thể lấy hết can đảm từ chối, nhưng cả hai cụ thì….

Ông cũng thế à? – William cươi. – Tôi muốn nói riêng với ông một câu được

không? – Anh kéo ông khách ra một góc. – Tôi muốn có chút thay đổi trong kế hoạch đầu tư, bắt đầu mua chứng khoán của ngân hàng Lester khi nào nó được tung ra thị trường. Tôi muốn là đến khi nào đầy hai mươi mốt tuổi thì đã có năm phần trăm cổ phiếu trong ngân hàng của họ rồi.

Không dễ thế đâu, – Alan nói. – Chứng khoán Lester không mấy khi xuất hiện trên thị trường, vì nó đều nằm trong tay tư nhân cả. Nhưng để tôi xem có thể làm gì được không. Tại sao anh lại nghĩ thế, Wllliam?

Mục đích thật sự của tôi là….

William, – Bà ngoại Cabot bỗng đến bên cạnh. – Cháu âm mưu cái gì với ông Lloyd ở đây nhé? Bà chưa thấy cháu ra nhảy với một cô nào cả. Vậy cháu tưởng bà tổ chức ra cái vũ hội này để làm gì?

Bà nói đúng đấy, – Alan Lloyd nói và đứng dậy. – Mời bà ngồi xuống đây với tôi, bà Cabot, để tôi tống cái cậu này ra ngoài kia. Chúng ta ngồi đây nghỉ, xem cậu ta nhảy, và nghe nhạc vậy.

Nhạc? Đây không phải là nhạc, Alan. Chỉ toàn những tiếng loảng xoảng inh tai mà không có chút giai điệu nào hết.

Ôi, bà ngoại yêu quý ơi, – William nói, – Đây là bài hát nổi tiếng mới nhất, bài “Chúng ta không có chuối” đấy Bà ngoại Cabot nhăn nhó:

Nếu vậy thì đã đến lúc bà từ giã cõi đời này rồi. – Không bao giờ đâu, thưa bà, – Alan Lloyd đỡ lời.

William ra nhảy với vài cô gái mà anh nhớ mang máng là đã gặp ở đâu và không nhớ tên. Trông thấy Matthequ ngồi ở góc phòng, anh tìm cớ thoát khỏi sàn nhảy và ra đó. Đến tận nơi anh mới để ý thấy bên cạnh Matthequ có một cô gái. Thấy cô ta ngẩng lên nhìn mình, William tưởng như mình đến rủn cả người.

Cậu biết Abby Blount chứ – Matthequ chợt hỏi.

Không, – William đáp, tay chỉnh lại chiếc ca-vát cho ngay ngắn.

Đây là chủ nhà của em, ông William Loquell Kane. William ngồi xuống ghế bên cạnh cô gái. Cô ta nhìn theo anh ngồi xuống, vẻ mặt nghiêm nghị. Matthequ đã chú ý đến cái nhìn của William đối với Abby. Anh ta bỏ ra chỗ khác tìm nước quả uống.
Suốt đời tôi ở Boston mà sao chưa gặp cô bao giờ nhỉ?

Chúng ta đã gặp nhau một lần rồi. Cái hồi anh đẩy tôi xuống ao ở gần Nhà thị chính ấy. Lúc đó chúng tôi có ba đứa mà. Phải mất mười bốn năm tôi mới hoàn hồn đấy.

Tôi xin lỗi, – William lặng người đi một lúc rồi mới nói lên được. Anh không nghĩ ra câu gì để đáp lại cô ta.

Anh có ngôi nhà đẹp lắm, William.

Cảm ơn.

Anh lại ngồi im rồi khẽ đáp. Anh liếc nhìn sang Abby, làm ra vẻ như mình không để ý lắm. Cô ta mảnh dẻ, có đôi mắt nâu và to, lông mi dài cong, có nét nhìn nghiêng rất hấp dẫn đối với William. Abby buông thõng mớ tóc hung xuống theo một kiểu mà xưa nay William vốn không thích.

Matthequ bảo em là sang năm tới anh vào Harvard, – Cô ta gợi chuyện.

Đúng đấy. Cô muốn nhảy không?

Cảm ơn, – Cô ta nói.

Những bước chân của anh lúc nãy thoải mái mà bây giờ sao ngượng ngùng thế nào ấy. Anh giẵm cả lên chân cô ta và đưa cô ta đụng vào những người khác. Anh xin lỗi. Cô ta mỉm cười. Anh ôm cô ta lại sát người, rồi hai người lại tiếp tục nhảy.

Bà có biết cái cô gái kia suốt từ nãy chỉ có nhảy với William không? bà ngoại Cabot nghi ngờ hỏi.

Bà nội Kane giương mục kỉnh lên nhìn cô gái đang cùng với William lúc này đi ra ngoài bãi cỏ.

– Abby Blount, – Bà Kane nói.

Tức là cô cháu giá của Đô đốc Blount ấy ư? – Bà ngoại Cabot hỏi.

– Đúng thế.

Bà ngoại Cabot gật đầu có vẻ hài lòng.

Wilham đưa Abby Blount ra tận góc vườn, đứng lại dưới gốc một cây hạt giẻ to ngày xưa anh hay trèo lên đó.

Lần đầu gặp một cô gái nào anh cũng đính hôn cô ta hay sao? – Abby hỏi.

Nói thật tình là anh chưa bao giờ hôn một cô gái nào, – William đáp.

– Thế thì em hân hạnh quá. Abby cười.

Cô ta giơ một bên má hồng cho anh hôn, rồi đến đôi môi mọng đỏ. Liền sau đó đòi anh quay trở vào trong nhà. Hai cụ bà theo dõi thấy họ quay vào sớm mới yên tâm.

Tối hôm đó về phòng ngủ của William, hai anh chàng thanh niên ngồi bàn tán về chuyện vừa qua.

Cuộc chiêu đãi không đến nỗi nào. – Matthequ nói.- Cũng bõ công mình đi từ New York về cái tỉnh lẻ này, và mặc dầu cậu đã hớt tay trên cô gái của mình.

Thế cậu tưởng cô ta giúp cho mình mất trinh hay sao?

William hỏi lại, không để ý đến lời trách đùa của Matthequ.

Dù sao cậu cũng có ba tuần lễ để tìm hiểu, Nhưng mình e rằng cậu sẽ phát hiện ra cô ta cũng chưa mất trinh, – Matthequ nói. – Theo hiểu biết chuyên môn của mình là như thế. Mình đánh cuộc năm đô-la với cậu là cô ta không đổ trước những lời tán tỉnh của Wilham Loquell Kane.

William tính một kế hoạch cẩn thận. Anh nghĩ mất trinh là một chuyện, còn mất năm đô la với Matthequ lại là chuyện khác. Sau vũ hội, hầu như ngày nào anh cũng gặp Abby Blount, nhân tiện có ngôi nhà riêng của mình và có xe. Anh bắt đầu cảm

thấy giá như không có bố mẹ Abby theo dõi và kín đáo kiềm soát cô con gái thì hoạt động của anh đã khá hơn rồi. Cho đến ngày cuối cùng hết hạn nghỉ hè, anh cũng thấy mình chẳng đến gần được mục tiêu hơn chút nào.

Wyết tâm thắng cuộc và lấy năm đô la hôm đó William gửi đến cho Abby một bó hoa hồng từ sáng sớm, rồi đến tối rủ cô ta đi ăn ở nhà hàng Joseph và cuối cùng kéo được cô ta về phòng mình.

Anh làm sao lại có được chai quhisky như thế này? – Cấm rượu kia mà? – Abby hỏi.

Ồ, có khó gì lắm đâu, – William khoe.

Thực ra đó là anh đã giấu được một chai rượu buốc-bông của Henry osborne ngay sau khi anh ta rời ngôi nhà này ra đi, và William lấy làm may mà còn giữ đến hôm nay chứ không uống hết.

William rót rượu ra uống. Rượu làm anh suýt sặc và làm Abby chảy cả nước mắt.

Anh ngồi xuống bên cạnh cô ta, quàng tay qua vai. Cô ngả người theo.

Cô ta nhìn anh tha thiết, đôi mắt nâu mở to. Ôi, William, em nghĩ anh cũng hay lắm, – Cô ta vừa thở vừa nói.

Khuôn mặt như búp bê của cô khiến anh không cưỡng nổi. Cô ta để cho anh hôn. Rồi mạnh bạo hơn, William đưa bàn tay lần theo cổ tay của cô lên ngực và dừng lại ở đó như cảnh sát giao thông dừag một đoàn xe vậy. Bỗng cô ta đỏ mặt không bằng lòng và đẩy tay anh xuống, đề cho giao thông tiếp tục bình thường.

William, anh không nên làm thế.

Tại sao không? – Wilham nói, vẫn cứ cố ôm chặt lấy cô vì anh không thể biết được nó sẽ kết thúc như thế nào.

Anh có một ý kiến này hay lắm.

Nhưng trước khi anh nói được câu gì thì Abby đã đẩy lùi anh ra và vội đứng dậy vuốt lại áo.

Thôi, có lẽ em về nhà đây, William. – Em vừa mới đến mà. Mẹ em sẽ hỏi em làm gì ở đây.

Thì em bảo là không làm gì cả.

Đúng thế, tốt hơn là không làm gì cả, – Cô ta tiếp lời Nhưng ngày mai anh về rồi. – Anh tránh không nói là về trường.

– Vậy anh có thể viết thư cho em, William.

Không giống như Valentino William biết là khi nào mình thất bại. Anh đứng dậy, chỉnh lại ca-vát cầm tay Abby rồi lái xe đưa cô về nhà.

Hôm sau, trở ìa.i trường, Matthequ Lester nhận của Wladek tờ bạc năm đô la và ngạc nhiên nghe anh nói:

Cậu mà nói thêm câu gì nữa, Matthequ, là mình sẽ dùng cây gậy dã cầu đánh đuổi cậu chạy quanh trường cho mà coi.

Mình chả nghĩ ra câu gì mà nói được, trừ mỗi điều là tỏ ra thông cảm với cậu thôi.

Matthequ, cậu chết với mình nhé! Trong học kỳ cuối năm ở St.Paul, William bắt đầu để ý đến bà vợ Ông chủ nhà chỗ anh ở. Bà ta trông khá đẹp, chỉ có bụng và mông hơi xệ, nhưng bà ta giữ được bộ ngực tuyệt vời và bộ tóc đen sum suê trên đầu chỉ mới có vài sợi bạc. Một hôm vào thử bảy, nhân Wilham bị trẹo tay ở trận khúc côn cầu về, bà Raglan- Đó là tên bà ta- Lấy băng mát ra bó tay cho anh. Bà ta đứng gần hơn mức cần thiết, để tay William cọ vào ngực. Anh thấy cảm giác dễ chịu lắm. Rồi một dịp khác anh bị sốt phải nằm trong trạm xá mấy ngày, bà ta đích thân đem thức ăn đến cho anh. Bà ta ngồi ngay trên giường của anh, người bà cọ vào chân anh qua lần vải mỏng. Anh cũng lấy thế làm thích.

Người ta đồn bà ta là vợ thứ hai của ông Raglan. trong cả ngôi nhà ấy, không ai cho là ông Raglan có thể chịu nổi một vợ chứ đừng nói đến hai. Thỉnh thoảng bà Raglan bằng những cái thở dài và bằng im lặng của mình, cho thấy là số phận của bà chẳng sung sướng gì.

Với nhiệm vụ trưởng nhà, mỗi tối vào lúc mười rưỡi là William phải đến báo cáo cho ông Raglan biết anh đã tắt hết đèn và chuẩn bị đi ngủ. Tối hôm thứ hai, lúc gõ cửa buồng ông Raglan như mọi lần, anh ngạc nhiên nghe thấy chỉ có tiếng gõ cửa bà Raglan gọi anh vào Bà ta đang nằm trên chiếc ghế dài và mặc chiếc áo khoác ngoài bằng lụa giống như kiểu áo Nhật.

William nắm tay núm cửa nói:

Đèn tắt hết rồi, và tôi cũng đã khóa cửa ngoài. Bà Raglan, chúc bà ngủ ngon.

Bà ta thả hai chân xuống đất, thoáng để lộ đùi trần dưới làn áo lụa.

– Sao anh vội thế, Wilham. Lúc nào cũng vội vã khổ sở – Bà bước ra gần bàn nói, – Sao anh không nán lại một lúc, uống sôcôla nóng với tôi đi. Tôi thật dở quá, lại đi làm hai cốc, mà quên mất là ông Raglan phải đến thứ bảy mới về.

Bà ta nhấn mạnh vào chữ thứ bảy. Bà đem một cốc còn đang nóng bốc hơi đến và ngước nhìn lên xem câu nói của mình có tác động gì đến anh không. Bà ta đưa cốc cho anh với một vẻ thỏa mãn, để tay mình chạm vào tay anh. Anh lấy thìa ngoáy cốc sôcôla nóng.

Ông Gerald nhà tôi đi họp hội nghị – Bà ta giải thích. Lần đầu tiên anh nghe nói đến tên tục của ông Raglan. – Anh ra đóng cửa đi, William, rồi vào đây ngồi với tôi.

William ngập ngừng. Anh ra đóng cửa, nhưng không dám ngồi xuống chiếc ghế của ông Raglan, cũng không ngồi xuống bên bà ta. Sau anh quyết định dù sao ngồi ghế của ông Raglan cũng đỡ hơn. Anh bước ra phía đó.

Không, không, – Bà ta vừa nói vừa vỗ vào chỗ bên cạnh mình:

Wilham quay lại từ từ ngồi xuống đó, mắt nhìn vào cốc nước để xem đối phó thế nào. Anh uống ực một hơi, bỏng cả lưỡi. Thấy bà Raglan đứng dậy, anh nhẹ người. Bà

ta lại rót thêm vào cốc anh, mặc cho anh từ chối, rồi nhẹ nhàng ra góc phòng, lên dây cót chiếc máy hát và cho chạy đĩa hát. Lúc bà ta quay lại anh vẫn còn đang nhìn xuống đất.

Chẳng lẽ anh để cho phụ nữ nhảy một mình sao William? Anh nhìn lên. Bà Raglan lắc lư theo điệu nhạc.

William đứng dậy giơ tay ôm lấy bà Nhưng để khoảng cách thật xa. Giá có ông

Raglan ở đây mà đứng chen vào giữa cũng còn đủ chỗ. Sau vài nhịp thì bà ta nhích lại gần William hơn. Tay bà từ từ để tuột từ vai xuống lưng anh. Đĩa hát đứng lại, Wilham nghĩ bụng thế là mình thoát và quay lại với cốc sô-cô-la nóng.

Nhưng bà ta đã lộn mặt đĩa hát và trở về ngay trong vòng tay của anh.

Bà Raglan ạ, tôi nghĩ có lẽ là….

– Yên trí đi, Wilham.

Anh mạnh bạo nhìn thẳng vào mắt bà ta. Anh định nói với bà nữa nhưng không biết nói gì. Lúc này bà ta đã sờ lần khắp nơi trên lưng anh và anh cảm thấy đùi bà ta đã nhẹ nhàng cọ vào người mình. – Anh chợt quàng tay ôm chặt lấy bà.

– Đấy như thế tốt hơn, – Bà ta nói.

Họ từ từ đi những bước vòng quanh căn phòng, mỗi lúc ghì chặt lấy nhau hơn. Cứ thế từng bước một, từng bước một cho đến cuối đĩa hát. Lúc bà ta lui người để đi ra tắt đèn thì anh lại muốn bà ta quay lại ngay chỗ mình. Anh đứng trong chỗ tối, không cử động, lắng nghe tiếng lụa sột soạt và trông rõ thấy cả bóng người đang trút bỏ quần áo.

Đến lúc bà ta đến giúp William cởi quần áo của anh và đưa anh trở lại chiếc ghế dài thì bài hát cũng vừa hết, chỉ còn tiếng kim máy hát gại vào đĩa. Trong bóng tối, anh vụng về đưa tay ra sờ vào mấy chỗ trên cơ thể bà ta. Anh cảm thăy nó không đúng như anh đã tưởng tượng. Vừa sờ lên ngực bà ta, anh đã rụt tay lại Anh bắt đầu có những cảm giác tưởng như trước đây nằm mơ cũng không có. Anh muốn rên lên thật to nhưng cố nhịn, không dám thốt ra một lời nào, sợ tỏ ra ngớ ngẩn quá chăng. Hai tay bà ta vẫn vòng lấy lưng anh và nhẹ nhàng kéo anh nằm đè lên mình.

William loay hoay không biết làm thế nào vừa để thực hiện được điều mong muốn vừa không tỏ ra mình thiếu kinh nghiệm. Anh thấy nó không dễ dàng như anh nghĩ, và càng loay hoay càng như vụng thêm. Một lần nữa, bà ta lại đưa tay luồn xuống dưới bụng anh, hướng dẫn anh hành động một cách rất thông thạo.

Nhưng anh cũng lập tức rùng mình rồi rủn cả người.

Tôi xin lỗi, – William nói. Anh không biết làm gì tiếp theo, nhưng vẫn nằm yên trên bụng bà ta một lúc – Mai sẽ khá hơn, – Bà tá nói.

Anh lại nghe thấy tiếng kim máy hát gại vào đĩa. Suốt cả ngày hôm sau, lúc nào bà Raglan cũng hiện lên trong óc anh. Kết quả là đêm hôm đó bà ta đã thở dài khoan khoái. Sang đêm thứ tư, bà ta hổn hển. Đêm thứ năm, bà ta rên rỉ. Đêm thứ sáu, bà ta

hét lên sung sướng.

Đến thứ bảy, ông Raglan đi họp hội nghị về, thì lúc đó coi như William đã hoàn thành những bài học của anh về môn ấy. Đến cuối kỳ nghỉ lễ Phục sinh, vào ngày lễ thăng thiên, thì Abby Blount coi như đã bị William chinh phục. Thế là Matthequ mất năm đô la, còn Abby thì mất trinh. Theo bà Raglan nói thì đó chẳng qua là một hiện tượng không tránh khỏi. Trong suốt kỳ nghỉ chỉ có mỗi chuyện đó xảy ra thôi, vì Abby đã đi theo bố mẹ về nghỉ ở Palm Beach, còn Wilham thì đóng cửa chúi đầu vào sách vở, chỉ thỉnh thoảng mới gặp hai cụ bà và Alan Lioyd. Còn ít tuần nữa là đã thi tốt nghiệp. Ông Raglan không đi họp hội nghị Ở đâu nữa và William cũng không có hoạt động nào khác được.

Trong những ngày cuối học kỳ, anh với Matthequ ngồi yên trong phòng học hàng giờ, không ai nói với nhau trừ phi Matthequ có vài vấn đề về toán không giải được. Cuối cùng, kỳ thi mong đợi từ lâu đã đến.

Tất cả chỉ có một tuần lễ mà họ gọi là “tàn bạo”. Thi xong rồi, cả hai anh chàng sốt ruột chỉ muốn biết ngay kết quả. Nhưng rồi họ chờ hết ngày này sang ngày khác, mãi chẳng thấy gì, đâm ra không còn tin ở chính mình nữa. Học bổng Hamilton về toán để vào trường Harvard được cấp trên một cơ sở rất chặt chẽ, mà học sinh ở toàn nước Mỹ đều có quyền được nhận học bổng ấy. William không biết thế nào mà xét đoán được xem địch thủ của mình tài giỏi đến đâu. Thời gian tiếp tục trôi qua mà không nghe thấy nói gì, William bắt đầu nghĩ có lẽ mình thất bại.

Hôm đó William đang ở ngoài bãi chơi dã cầu với những học sinh lớp dưới, coi như giết nốt thì giờ của những ngày cuối cùng trước khi rời trường, thì có một bức điện gửi đến. Những ngày cuối cùng ở trường này thường có rất nhiều học sinh bị đuổi học hoặc vì say rượu, hoặc vì đập vỡ cửa kính, thậm chí vì tìm cách ngủ với con gái và vợ của các thầy giáo.

quilham đang khoe là anh sẽ thắng trong trận dã cầu này với mức chưa từng có từ trước đến nay và mọi người đang cười đùa trước lời tuyên bố quá đáng của anh thì người ta đưa vào tay cho anh bức điện ấy.

Anh quên hết ngay mọi thứ, vứt bỏ cây gậy dã cầu xuống, và đưa tay xé chiếc phòng bì nhỏ màu vàng.

Mọi người chung quanh hồi hộp chờ anh đọc bức điện. Matthequ bước đến nhìn nét mặt William xem đó là tin mừng hay tin buồn. Nét mặt vẫn bình thản, William đưa bức điện cho Matthequ xem. Vừa đọc xong, Matthequ đã nhảy cẫng lên, quẳng bức điện xuống đất rồi ôm lấy William chạy vòng quanh sân.

Một người khác bước đến nhặt bức điện lên xem rồi chuyền tay nhau cho đến người cuối cùng xem bức điện lại chính là người đã đem nó đến lúc nãy. Anh ta đã không được cảm ơn thì chớ, mà còn là người cuối cùng được biết nội dung bức điện.

Đó là điện gửi cho William Loquel Kane. Trong đó viết:

Chúc mừng anh được hưởng học bổng Hamilton về toán vào trường đại học Harvard. Chi tiết sẽ gửi sau.

Tu víện trưởng Laqurence Loqueìl, Chủ tịch.

Matthequ sung sướng nhìn người bạn thân nhất của mình nay đã thành công, nhưng anh cũng hơi buồn nghĩ đến bây giờ lại phải xa nhau. William cũng cảm thấy nhưng không nói gì. Hai người lại phải chờ chín ngày nữa mới được biết là Matthequ cũng trúng tuyển vào trương Harvard.

Liền đó có một bức điện khác gửi đến, lần này là của ông Charles Lester chúc mừng con trai và mời cả hai anh chàng về dự tiệc trà tại Khách sạn Plaza ở New York. Cả hai cụ bà cũng có điện chúc mừng William, tuy nhiên bà nội Kane cũng nói với Alan Lloyd rằng thằng bé đã làm được không ít hơn cái người ta mong muốn ở nó và không nhiều hơn cái mà bố nó đã làm được trước kia.

Vào ngày hẹn, hai chàng thanh niên tung tăng đi trên Đại lộ Năm, trong lòng hết sức tự hào. Các cô gái đi qua đường nhìn vào họ nhưng họ làm như không để ý Bước vào cửa khách sạn Plaza, họ đàng hoàng đi đến phòng lớn bên trong có mọi người trong gia đình đang chờ đón. Hai cụ nội ngoại Kane và Cabot ngồi ở mấy chiếc ghế bành giữa phòng. Bên cạnh đó có một bà già nữa William cho đó là bà nội của Lester, giống như bà nội Kane của mình. Rồi có ông bà Charles Lester, có cô con gái Susan (cô ta chẳng lúc nào rời mắt khỏi William) và có Alan Lloyd. Còn hai ghế trống để đó chờ William và Matthequ.

Bà nội Kane vẫy gọi một người hầu đứng gần đó nói:

Một ấm trà mới và đem thêm bánh đến nữa nhé. Người hầu chạy vội vào bếp đem trà và bánh ra ngay.
Cha cháu còn sống thì hôm nay sẽ rất tự hào về cháu đó, William, – Một người lớn tuổi nói.

Người hầu đứng đó không hiểu anh chàng thanh niên kia đã làm được cái gì mà người ta phải khen như vậy.

William thì không để ý gì lắm đến người hầu, trừ có chiếc vòng bạc anh ta đeo ở cổ tay. Anh đoán có lẽ chiếc vòng bạc ấy là từ nhà hàng Tiphphany mà ra, nhưng anh lấy làm lạ tại sao người hầu kia lại có được một thứ đồ trang sức giá trị như thế.

William, – Bà nội Kane nói. – ăn hai bánh là đủ rồi. Đây không phải là bữa ăn cuối cùng trước khi vào trường Harvard đâu.

Anh quay nhìn bà nội một cách âu yếm, nhưng rồi chợt quên đi chiếc vòng bạc kia.

***

Đêm đó Abel nằm trong căn phòng nhỏ của anh ở khách sạn Plaza không ngủ được. Anh nghĩ đến người con trai có tên là William mà người ta bảo là nếu cha còn sống thì sẽ tự hào về anh ta ấy. Tự nhiên anh cũng thấy đó chính là điều anh muốn

thực hiện. Anh muốn được người ta coi mình là ngang hàng với những người như William trên đời này.

Từ khi đến New York, Abel đă phải trải qua một cuộc vật lộn gay go. Anh về ở một căn phòng chỉ có hai giường, thế nhưng anh lại phải ở chung với George và hal người anh em họ khác nữa của George.

Kết quả là Abel chỉ có thể được ngỉ khi nào một trong hai chiếc giường ấy không có người. Ông chủ của George không sao có việc làm cho Abel được. Sau mấy tuần lễ rất lo lắng vì tiêu gần hết số tiền tiết kiệm mà chưa tìm được việc gì mặc dầu phải chạy đi chạy lại từ Brooklyn sang vùng Weens cuối cùng anh xin được một chỗ ở cửa hàng thịt. Họ trả cho anh chín đô la một tuần làm việc sáu ngày rưỡi và chỉ cho anh được nằm ngoài hiên. Cửa hàng đó nằm giữa một khu cộng đồng người Ba lan nhỏ bé và nghèo ở phía Đông thành phố. Abel bắt đầu lấy làm sốt ruột với tính cách sống biệt lập của đồng bào anh ở đây, trong số đó còn có rất nhiều người không chịu học tiếng Anh.

Abel vẫn thường thấy George cứ mỗi ngày cuối tuần lại đi với các bạn gái, hết cô này đến cô khác.

Riêng anh, hầu hết các tối trong tuần đều đi học trường đêm để nâng cao khả năng viết và đọc tiếng Anh. Anh không lấy làm xấu hổ về chuyện mình học chậm, vì từ hồi tám tuổi đến giờ anh có dịp nào được học nữa đâu. Trong hai năm, anh đã trở nên thông thạo với ngôn ngữ mới này, hầu như khi nói ra không còn ngượng ngịu mấy nữa. Anh cảm thấy mình đã sẵn sàng đi khỏi cửa hàng thịt này rồi. Nhưng đi đâu? Và đi cách nào? Bỗng một hôm trong khi đang chuẩn bị một cái chân cừu cho khách, anh thoáng nghe thấy một trong những khách hàng quen là người chuyên cung cấp lương thực cho khách sạn Plaza phàn nàn với chủ hàng là ông ta sẽ phải đuổi một người phục vụ trẻ vì anh ta ăn cắp vặt. Ông ta nói:

Gấp quá, tôi biết tìm đâu ra người thay bây giờ được? Chủ hàng không biết giúp ông ta giải quyết thế nào. Nhưng Abel thì biết ngay. Anh khoác bộ quần áo duy nhất của mình vào, đi bộ suốt bốn mươi bảy khối? phố và qua năm quãng đường nữa vào thành phố nhận công việc nói trên.

Một khi yên thân ở Plaza rồi, anh ghi tên vào một lớp học đêm Anh ngữ cấp cao ở trường Đại học Columbia. Đêm nào anh cũng học rất đều, một tay mở từ điển, một tay viết lia lịa. Mỗi buối sáng, giữa giờ phục vụ ăn sáng và bày bàn cho bữa trưa, anh tranh thủ chép những bài xã luận của Thời báo New York, mỗi khi gặp từ nào không chắc chắn thì lại giở cuốn từ điển Webster cũ ra xem.

Ba năm sau đó, Abel leo dần lên các cấp phục vụ trong khách sạn Plaza cho đến lúc anh được cử vào phục vụ trong phòng Gỗ Sồi, hưởng lươmg mỗi tuần hai mươi lăm đô la với những khoản khách cho thêm.

Trong cuộc sống riêng của mình, Abel không còn thiếu gì nữa.

ông thầy dạy Abel có ấn tượng tốt với những tiến bộ cúa anh, đã khuyên Abeln học thêm lớp ban đêm nữa để chuẩn bị thi lấy bằng Tú tài văn chương. Lúc rỗi rãi anh chuyển từ chỗ đọc những bài báo về ngôn ngữ sang đọc những bài về kinh tế, rồi bắt đầu chép riêng ra những bài trong Nhật báo phố Wall chứ không chép những bài trong Thời báo nữa. Cái thế giới mới này đối với anh hết sức hấp dẫn. Anh bị cuốn hút vào đó đến mức, ngoại trừ George, còn bao nhiêu những bạn Ba lan cũ trước đây anh không gặp họ được vào lúc nào nữa.

Trong khi phục vụ Ở khách sạn Plaza, anh vẫn luôn luôn nghiên cứu tìm hiểu về những người nổi tiếng như các gia đình Baker, Loeb, Whitney, Morgan và Phelp, và cố hình dung được tại sao người giàu lại khác với mọi người như vậy. Anh đọc H.L.

Mencken, đọc báo Mercury Mỹ, đọc Scott Phitzgerald, Sinclair Lequis, và Theodore Dreiser để có thêm kiến thức càng nhiều càng tốt. Anh đọc kỹ tờ Thời báo New York trong khi những người phục vụ khác chỉ liếc qua tờ Tấm gương. Anh đọc tờ Nhật báo phố Wall vào giờ nghỉ trong khi những người khác ngủ và ngủ gật. Anh không biết là những kiến thức mới này sẽ đưa anh đến đâu, nhưng anh không một lúc nào nghi ngờ câu châm ngôn của Nam tước đã nói với anh rằng không gì có thể thay thế được cho việc học hành tử tế.

Vào một ngày thứ năm của tháng Tám năm 1926 – Anh nhớ rất kỹ ngày này vì hôm đó Rudolph Valention qua đời và rất nhiều bà đi mua sắm trên Đại lộ Năm đều mặc đồ đen để tang anh ta- Abel đang phục vụ như mọi ngày thường ở một chiếc bàn góc phòng. Những bàn ở góc phòng bao giờ cũng dành cho các nhà kinh doanh lớn họ thường ngồi ăn một cách kín đáo và nói chuyện riêng không ai nghe thấy được Anh thích phục vụ Ở cái bàn đặc biệt này, vì đây là khu vực người ta bàn chuyện mở rộng kinh doanh và qua những mẩu chuyện anh thoáng nghe được của họ thường có những thông tin rất quý. Sau khi họ ăn xong, nếu khách là người của một ngân hàng hay một công ty cổ phần lớn, Abel sẽ tìm cách kiểm tra giá cổ phiếu của những công ty ấy. Nếu giọng điệu của những ông khách này trong khi nói chuyện có vẻ lạc quan, thì anh sẽ đầu tư một trăm đô la vào công ty nào nhỏ hơn với hy vọng sẽ được công ty to hơn vực lên. Nếu vào cuối bữa ăn mà ông khách gọi mang xì gà đến, Abel sẽ tăng tiền đầu tiên lên hai trăm đô la.

Cứ mười lần thì có đến bảy lần giá cổ phiếu anh chọn theo kiểu đó chỉ trong sáu tháng đã tăng lên gấp đôi, cũng tức là thời gian Abel bám lấy chứng khoán.

Trong bốn năm làm việc ở khách sạn Plaza và làm theo cách đó, anh chỉ mất tiền có ba lần thôi.

Trong việc phục vụ hôm nay, anh thấy có một điều rất không bình thường ở cái bàn góc phòng này là khách đã gọi xì gà ngay từ trước bữa ăn. Abel nhìn vào sổ ghi khách đặt bàn trước thấy có tên là Woolquorth. Abel đã thấy trong những chương mục về tài chính trên báo chí gần đây có nói đến tên ông ta nhưng anh không xác định

ngay được. Còn ông khách cùng ngồi kia là Charles Lester, khách thường xuyên của Plaza và là một nhà ngân hàng có cỡ ở New York.

Trong khi phục vụ bữa ăn, anh cố nghe xem họ nói chuyện gì. Khách thì hoàn toàn không quan tâm gì đến người phục vụ mặc dầu anh ta tỏ ra chú ý nghe họ bàn bạc. Abel không thể phát hiện được chi tiết gì quan trọng, nhưng anh biết được loáng thoáng là sáng hôm đó kết thúc một vụ làm ăn và đến cuối ngày người ta sẽ công bố. Anh chợt nhớ ra. Anh đã đọc thấy tên ông này trên tờ Nhật báo phố Wall. Woolquorth chính là con người có ông bố đã từng lập ra cửa hàng đầu tiên nổi tiếng là chỉ bán những thứ từ năm đến mười xu. Ra bây giờ người con định đi quyên vốn để mở rộng hệ thống cửa hàng ấy. Khi khách đang ăn tráng miệng – Phần lớn khách đều chọn thứ bánh dâu phó mát (do Able gợi ý) – Anh tranh thủ ra ngoài phòng ăn một lúc để gọi điện cho đại lý của anh trên phố Wall.

ông Woolquorth đang buôn bán gì ấy nhỉ? – Anh hỏi Đầu dây đằng kia im lặng một chút rồi nói:

– Cổ phiếu thôi. Gần đây hoạt động lắm, không rõ tại sao.

vào cuối ngày hôm nay nếu nghe thấy công ty thông báo thì anh lấy tài khoản của tôi ra mua nhé.

Họ sẽ thông báo gì?- Anh đại lý không hiểu hỏi lại.

Lúc này chưa tiết lộ được, – Abel đáp.

Anh đại lý chột dạ. Xưa nay anh ta vẫn biết là chớ hỏi kỹ về những nguồn tin của khách hàng. Able vội trở về Phòng Gỗ Sồi, vừa kịp để đem cà phê lên cho khách. Họ còn ngồi nán lại một lúc và chỉ đến lúc họ chuẩn bị ra về thì Abel mới quay lại bàn đó. Ông cầm biên lai cảm ơn Abel về việc anh phục vụ chu đáo.

ông ta quay sang ông bạn rồi hỏi anh, – Này, cậu em có muốn tiền thưởng không nào?

Dạ, cảm ơn ông, – Abel nói.

Vậy thì cậu em nên mua cổ phiếu Wooquorth. Hai người khách phá lên cười. Abel cũng cười, cầm lấy năm đô la ông khách chìa ra cho và cảm ơn ông ta.

Trong sáu tuần sau đó, anh kiếm được 2.412 đô la lợi nhuận từ cổ phiếu Woolquorth mà ra.

Mấy ngày sau sinh nhật thứ hai mươi mốt của anh, Abel được chấp nhận vào quốc tịch Mỹ và anh quyết định nhân dịp này phải tổ chức liên hoan chiêu đãi.

Anh mời George với Momka đến dự. Momka là người tình mới nhất của George. Ngoài ra còn có một cô gái tên là Clara, người tình cũ của George. Anh rủ họ đi xem John Barrymore trong phim Don Juan, sau đó đến nhà hàng Bingo ăn tối. Hồi này, George vẫn chỉ là thợ tập việc trong lò bánh của ông chú anh ta với lương tám đô la một tuần. Mặc dầu vẫn coi George là bạn thân nhất, nhưng Abel hiểu là giữa hai người đã có sự khác biệt vì George là một anh rỗng túi còn Abel thì đã có trên tám nghìn đô

la gửi ngân hàng và bây giờ đang là học sinh năm cuối của trường Đại học Columbia chuẩn bị thi tú tài về kinh tế. Abel biết là mình đang đi đến đâu, còn George thì bây giờ không dám mở miệng nói với ai rằng mình sẽ là thị trưởng New York nữa.

Bốn người có một tối liên hoan rất vui, nhất là do Abel biết ăn ở chỗ nào ngon. Ba người bạn kia được một phen chén thỏa thích. Khi nhà hàng đưa biên lai ra, George hoảng sợ thấy số tiền của bữa đó nhiều hơn lương tháng của anh ta. Abel trả tiền một cách thản nhiên, coi như số tiền đó chả nghĩa lý gì. Vả lại, nếu đã không chịu được thế thì vào nhà hàng làm gì.

Coi như không, đừng nói gì hoặc đừng tỏ ra ngạc nhiên, đó là điều những người giàu có đã dạy cho anh biết như thế.

Đến tận hai giờ sáng cuộc liên hoan mới kết thúc. George và Monika trở về phía Đông cuối thành phố, còn Abel thì thấy mình được hưởng cô Clara. Anh đưa cô ta vào phía cửa sau khách sạn Plaza qua thang máy chuyên chở đồ giặt rồi đưa về phòng anh trong đó Cô ta không chờ phải giục giã mới trèo lên giường và Abel cũng vội vã vào nằm ngay với cô ta để còn ngủ một chút sáng mai dậy sớm làm việc. Anh lấy làm hài lòng đã hoàn thành nhiệm vụ với cô ta vào lúc hai giờ rưỡi sáng. Anh nằm lăn ra ngủ một mạch cho đến sáu giờ thì chuông đồng hồ gọi dậy. Lúc đó anh vẫn còn đủ thì giờ hành động với Clara một lần nữa trước khi đứng dậy mặc quần áo.

Clara ngồi trên giường phụng phịu nhìn Abel thắt ca vát rồi hôn cô một cái tạm biệt.

Em nhớ lúc ra về cũng bằng lối cửa lúc vào đấy nhé, kẻo lôi thôi cho anh lắm đấy, – Abel nói. – Bao giờ thì gặp lại em?

Anh không gặp lại đâu, – Clara lạnh lùng đáp.

Không, chính là cái anh không làm ấy chứ. – Cô ta nhảy xuống giường và vội vã mặc áo vào.
Cái gì anh không làm?- Abel hỏi. – Em muốn đi ngủ với anh kia mà, không phải thế à?

Cô ta quay lại. nhìn thẳng vào anh.

Đúng là em muốn thế, nhưng về sau mới biết là anh với Valentino cũng chả khác gì nhau, nghĩa là cả hai cùng chết rồi. Anh có thể là của quý của khách sạn Plaza vào những lúc người ta đói ăn, nhưng ở trên giường thì anh chẳng là cái gì hết. – Mặc xong quần áo, cô ra cửa còn nắm lấy tay vịn và ngoái lại nói:

Có lẽ anh chưa thuyết phục được cô nào đi nằm với anh phải không?

Rồi đóng sầm cửa lại. Abel đứng ngớ người. Suốt ngày hôm đó, anh băn khoăn về câu nói của Clara.

Anh không thể tìm được một ai để bàn vấn đề này. Có nói với George chỉ tổ cho anh ta cười thêm. Còn nhân viên khách sạn Plaza thì ai cũng tưởng anh biết đủ mọi

thứ. Anh hiểu rằng vấn đề này, cũng như các vấn đề khác anh đã gặp trên đường đời, đều có thể vượt qua được miễn là mình hiểu biết và có kinh nghiệm.

Sau bữa trưa được nghỉ nửa ngày, anh tìm đến hiệu sách Scribner ở Đại lộ Năm. Trước đây cửa hàng này đã giúp anh giải quyết được nhiều vấn đề về kinh tế và ngôn ngữ, nhưng anh không tìm ra được cái gì có vẻ như giúp anh giải quyết được những vấn đề về tình dục. Các nhãn sách đều chẳng nói được gì, vài cuốn gọi là Khó xử về tinh thần thì hoàn toàn không thích hợp.

Abel bỏ hiệu sách đi ra, không mua gì, và cả buổi chiều la cà trong một nhà hát bẩn thỉu ở đường Broadquay, không xem chiếu bóng mà chỉ lẩn quẩn suy nghĩ về điều Clara nói lúc sáng. Cuốn phim đang chiếu là một chuyện tình có Greta Garbo đóng, mãi đến cuối phim mới có cảnh hôn hít, thành ra cũng chẳng giúp đỡ gì hơn được cho anh so với hiệu sách Scribner.

rạp chiếu bóng ra thì trời đã tối. Ngoài đường đang có gió lạnh. Abel lấy làm lạ thấy về đêm đường phố này cũng ồn ào và nhiều đèn sáng như ban ngày vậy Anh bắt đầu đi bộ lên đường 59, hy vọng gió mát sẽ làm cho đầu óc mình tỉnh táo hơn chút ít. Anh dừng lại ở góc đường 52 để mua tờ báo buổi chiều.

– Tìm gái hả? – Một giọng nói ở góc đường bên quầy bán báo lên tiếng.

Abel ngẩng lên nhìn. Bà ta chừng ba mươi lăm tuổi mặt bự phấn sáp, môi bôi một thứ son kiểu mới.

Chiếc áo lụa trắng có một khuy đã cởi sẵn. Bà ta mặc váy đen, giầy và tất cũng đen.

-Chỉ năm đô la thôi, mất xu nào đáng xu ấy, bà ta nói và vẹo mông sang một bên để hở một đường bên váy lên đến tận bẹn.

– Ở đâu? – Abel hỏi.

– Có nhà riêng ở gần đây.

Bà ta hất đầu chỉ cho Abel biết là hướng nào. Lần đầu tiên, Abel trông thấy rõ mặt bà ta dưới ánh đèn đường Bà ta cũng không phải không hấp dẫn. Abel gật đầu đồng ý. Bà ta cầm lấy tay anh ta rồi hai người cùng đi.

– Nếu bị cảnh sát giữ thì anh bảo là bạn cũ và tên tôi là Joyce nhé, – Bà ta nói.

Họ đi đến đầu phố rồi vào một ngôi nhà nhỏ bẩn thỉu có nhiều buồng cho thuê. Abel kinh sợ thấy phòng bà ta nhếch nhác quá. Tất cả bên trong chỉ có một bóng đèn trần, một chiếc ghế, một chậu rửa mặt với một chiếc giường đôi ọp ẹp mà hình như trong ngày hôm đó đã được dùng đến nhiều lần.

– Chị Ở đây à? – Anh ngần ngại hỏi.

– Trời ơi, không đâu. Chỗ này chỉ để làm ăn thôi.

– Tại sao chị làm chuyện này? – Abel hỏi, trong bụng nghĩ không biết mình có nên tiếp tục kế hoạch này không.

– Tôi phải nuôi hai đứa con, mà chồng thì không có.

Anh bảo còn cách nào khác nữa? Nào, anh có muốn hay không đây?

Có nhưng không phải như chị nghĩ, – Abel nói. Bà ta nhìn anh chột dạ.

Anh không phải cái đám chuyên hành hạ người ta như Hầu tước de Sade đấy chứ Chắc chắn là không rồi, – Abel nói.

Anh không châm thuốc lá vào người tôi chứ?

Không, không có chuyện đó đâu, – Abel giật mình đáp – Tôi muốn được chỉ bảo tử tế. Tôi muốn học.

Học? Anh nói đùa đấy à? Anh bạn thân mến, dễ anh tưởng đây là trường đêm chuyên dạy về ngủ với gái sao?

Đại khái như vậy, – Abel nói và ngồi xuống góc giường, nói lại cho bà ta nghe đêm trước Clara đã phản ứng với anh thế nào. Chị xem có thể giúp tôi được không?

Người đàn bà kia nhìn Abel một lúc lâu, tự hỏi không biết anh chàng này có định bịp mình không.

Được thôi, – Bà ta nói. – Nhưng cứ mỗi buổi ba mươi phút là anh sẽ mất năm đô la đấy.

Đắt hơn bằng tú tài Columbia, – Abel nói. – Tôi cần học mấy bài tất cả? Còn tùy ở chỗ anh học nhanh hay chậm chứ, – Bà ta nói.

Được, ta bắt đầu luôn đi, – Abel nói và rút trong túi ra năm đô la. Anh đưa tiền cho bà ta. Bà ta nhét tiền vào trong bít tất. Như vậy rõ ràng là bà ta sẽ không cởi cả tất ra nữa.

Cởi quần áo ra, anh bạn, – Bà ta nói. “Mặc cả quần áo thế này thì chẳng học được gì đâứ.

Anh cởi ra rồi, bà ta nhìn ngắm anh bằng con mắt thông thạo. “Anh không phải như Douglas Phairbanks phải không nào? Nhưng thôi, anh đừng lo. Tắt đèn đi rồi thì người anh thế nào cũng không quan trọng nữa. Cái quan trọng là anh có thể làm được gì cơ”.

Abel ngồi xuống cạnh giường. Bà ta bắt đầu giảng giải cho anh biết là phải làm những gì đối với người đàn bà. Bà ta lấy làm lạ không những Abel không tỏ ra thèm muốn gì mình, mà lại còn ngạc nhiên thấy hai tuần sau đó ngày nào anh cũng đến rất đều.

Bao giờ thì tôi biết mình học xong? Abel hỏi.

Rồi anh sẽ biết, – Joyce đáp. – Nếu anh làm cho tôi sướng được thì đến một cái xác ướp Ai cập anh cũng làm cho sướng được.

Bà ta dạy cho anh biết đâu là nhưng chỗ nhạy cảm trên cơ thể người đàn bà, và bảo anh phải biết kiên nhẫn trong khi làm tình. Những dấu hiệu như thế nào khiến anh có thể biết được là anh làm cho người ta thỏa mãn, vân vân. Abel nghe rất kỹ và làm theo từng cái bà ta dặn. Lúc đầu anh có hơi máy móc, nhưng bà ta đảm bảo rồi

anh sẽ thành công không thể tưởng tượng được. Wả nhiên, đến tuần thứ ba và sau khi đã mất đến 110 đô la, anh thấy chính mình đã có thể làm cho người đàn bà Joyce này trở nên sống động và háo hức trong vòng tay của mình. Lần đầu anh nghe thấy tiếng rên rỉ của Joyce và cảm thấy sung sướng môt cách lạ kỳ. Bà ta cứ bấu chặt lấy anh rên rỉ hoài, lúc to lúc nhỏ cho đến lúc bà ta phải hét lên rồi buông tay ra, rã rời.

Anh bạn ơi, thế là anh đô thủ khoa rồi đấy nhé.- Thở được rồi, bà ta nói. Nhưng chính Abel thì chưa thấy gì.

âbel tốt nghiệp cả hai bằng. Anh tự thưởng cho mình bằng cách rủ cả mấy người, George, Monika và Clara nữa, đi xem trận đấu quyền Anh hạng vô địch thế giới giữa Gene Amney với Jack Dempsey và mua vé hạng nhất. Đêm đó, sau khi xem trận đấu rồi, Clara miễn cưỡng làm cái bổn phận đi nằm với Abel vì anh đã chi cho cô khá nhiều tiền. Nhưng đến sáng hôm sau thì chính Clara lại cầu khẩn Abel là đừng có bỏ cô ta. – Mặc dầu vậy, Abel không bao giờ rủ cô ta đi nữa.

Tốt nghiệp đại học Columbia rồi, Abel cảm thấy không hài lòng với cuộc sống ở khách sạn Plaza. Tuy nhiên, anh chưa hình dung được mình sẽ tiến lên nữa như thế nào. Mặc dầu anh đã phục vụ một số trong những người giàu nhất và thành công nhất

Mỹ, nhưng anh chưa hề bao giờ dám nói chuyện trực tiếp với những người đó, vì anh sợ làm như thế có thể mất việc như chơi. Dù sao, anh nghĩ các vị khách đến ăn ở đây sẽ chẳng ai thực sự quan tâm đến nguyện vọng của một người hầu bàn. Abel quyết chí mình sẽ trở thành một người đứng đầu những tay phục vụ bàn.

Một hôm có ông bà Ellsquorth Statler đến ăn trưa ở Phòng Edquard trong khách sạn Plaza là nơi Abel đang làm thay người khác một tuần. Anh nghĩ bụng vận may của mình đã đến. Anh làm mọi cách để có thể gây ấn tượng cho nhà chủ và bữa ăn hôm đó thật là tuyệt Lúc ra về, ông Statler cảm ơn Abel một cách nồng nhiệt và cho anh mười đô la. Nhưng rồi chỉ thế là hết. Abel nhìn theo khách đi ra phía cửa ngoài khách sạn, không biết làm thế nào nữa.

Sammy, người đứng đầu những tay hầu bàn, vỗ vào vai anh hỏi:

Ông StaUer cho cậu gì đấy?

Ông ấy khống cho thưởng tiền ư – Sammy nghi ngờ hỏi.

Ồ có chứ, – Abel nói. – Mười đô la. – Anh đưa tiền cho Sammy.

Khá đấy nhỉ, – Sammy nói. – Tớ đã tưởng cậu định loè tớ, Abel. Mười đô la, với ông Statler như thế cũng là tất lắm đấy. Có lẽ cậu đã làm cho ông ta phải cảm động.

Không tôi có làm gì đâu.

Nhưng thôi, không quan trọng. – Abẹl đáp và định bỏ đi.

Khoan đã, Abel, có mẩu giấy này cho cậu đây.

ông khách ở bàn mười bảy, ông Leroy muốn nói chuyện riêng với cậu đấy. Về cái gì thế, Sammy?

Ai mà biết? Có lẽ ông ta thích đôi mắt xanh của cậu chăng..

Abel liếc nhìn ra bàn 17. Bàn đó chỉ dành cho những khách hiền lành không đòi hỏi gì và là khách vô danh nữa. Vị trí của chiếc bàn gần ngay cửa ra vào bếp. Abel thường tránh không phục vụ bất cứ bàn nào ở cuối phòng.

– Ông ta là ai thế Abel hỏi. – Ông ta muốn gì?

Tớ không biết, – Sammy nói và cũng không buồn ngẩng lên. – Tớ không quen tìm hiểu về lịch sử đời sống của khách như cậu. Cho họ ăn tử tế, yên trí có tiền thưởng càng nhiều càng tốt rồi mong họ trở lại nữa, thế thôi. Cậu có thể cho đó là triết lý đơn giản, nhưng với tớ thế là tốt lắm rồi. Có lẽ ở Columbia họ quên không dạy cho cậu những cái cơ bản. Thôi, cậu ra đó đi, Abel, và nếu được tiền thưởng thì mang ngay về đây Abel nhìn vào cái đầu hói của Sammy, cười rồi bước đến bàn 17. Có hai người đang ngồi ở đó. Một người mặc chiếc áo ngoài sặc sỡ mà Abel không thích lắm, người kia ìà một cô gái khá xinh đẹp có mớ tóc vàng xoăn mà anh đoán là bồ của ông khách và trong bụng nghĩ thế nào cũng được nghe khách phàn nàn về chuyện cái cửa ra vào gần bếp, đòi phải đưa bàn đi chỗ khác để làm oai với cô gái tóc vàng kia. Không ai thích ngửi cái mùi trong bếp xông ra và những người phục vụ đi ra đi vào khiến cánh cửa bật thình lình liên tiếp. Nhưng cũng không thể không dùng đến chiếc bàn đó, vì khách sạn thì rất đông người ở, mà những người New York vốn đã ăn quen ở đây rồi hễ thấy nglrời lạ không bằng lòng. Tại? sao Sammy lại để anh phải đối phó với những khách có vẻ khó chơi như thế này? Abel từ từ bước đến bên người khách mặc áo sặc sỡ – Thưa ông muốn nói với tôi ạ?

Đúng thế, – Ông ta đáp bằng một giọng miền Nam.- Tên tôi là Davis Loroy, còn đây là con gái tôi, Melame.

Abel quay sang nhìn đôi mắt xanh của cô ta, một đôi mắt anh chưa từng thấy bao giờ.

Trong năm ngày qua, Abel, tôi đã quan sát anh rất kỹ, – Ông Leroy nói tiếp với giọng miền Nam lê thê ấy.

Nếu ai hỏi vặn lại thì Abel sẽ phải thừa nhận rằng anh chưa bao giờ để ý đến ông Leroy mà chỉ cách đây năm phút mới biết.

Tôi rất có ấn tượng về những gì đã trông thấy, Abel, vì xem ra anh là người có hạng, có hạng thật sự, mà tôi thì vẫn chú ý đến những người như vậy.

Ellsoqurth Statler không chọn những người như anh thì thật là ngốc.

Abel bắt đầu nhìn anh Leroy kỹ hơn. Đôi má đỏ hồng và chiếc cằm bạnh của ông ta khiến Abel nghĩ ông ta không biết cấm rượu là gì. Những đĩa thức ăn trước mặt đã ăn sạch chứng tỏ ông ta ăn cũng rất khỏe. Nhưng cái tên đó của ông ta, bộ mặt của ông ta, như không có nghĩa gì với anh cả. Nếu là bữa ăn trưa bình thường, thì Abel đã có thể rất biết kỹ về lý lịch của bất cứ ai ngồi ở ba mươi bẩy trong số ba mươi chín chiếc bàn trong phòng Edquard rồi. Nhưng hôm đó bàn ông Leroy ngồi lại là một

trong hai bàn mà anh không biết.

Vẫn cái giọng miền Nam cất lên.

Tôi không phải là một trong những nhà đại triệu phú thường đến ngồi ở mấy chiếc bàn trong góc của anh mỗi khi họ đến Plaza đâu nhé.

Abel ngạc nhiên. Nếu là khách bình thường thì không ai có thể biết giá trị của những bàn khác nhau trong phòng ăn này.

Nhưng tôi làm ăn cũng không đến nỗi tồi đâu. Thực ra, một ngày kia khách sạn của tôi cũng sẽ có thể gây ấn tượng tốt được như khách sạn này, Abel.

Tôi tin chắc như vậy, thưa ông, – Abel nhẩn nha đáp.

Leroy, Leroy, Leroy. Cái tên này sao không nói lên điều gì nhỉ.

Để tôi nói thẳng cho anh biết nhé. Khách sạn đầu đàn trong số những khách sạn của tôi cần có một người phó quản lý mới phụ trách nhà ăn. Nếu anh quan tâm đến điều đó thì khi nào xong việc anh lên phòng gặp tôi.

ông ta đưa cho anh một tấm thiếp dầy.

Xin cảm ơn ông – Abel nói và nhìn vào thiếp:

Davis Leroy. Công ty khách sạn Richmond, Dallas. Ở dưới có khẩu hiệu:

Một ngày kia mỗi bang có một khách sạn. Abel vẫn chưa thấy cái tên này của ông ta có nghĩa gì đối với mình.

Tôi chờ gặp anh nhé, – Ông khách miền Texas có chiếc áo sặc sỡ thân mật nói.

Xin cảm ơn ông, – Abel lại nói. Anh mỉm cười với Melanie. Mắt cô ta vẫn xanh và lạnh lùng như từ nãy đến giờ. Anh quay trở lại chỗ Sammy, trong đầu nghĩ ngợi.

Anh có nghe thấy nói Công ty Khách sạn Richmond bao giờ không, Sammy?

Có chứ. Cậu em tớ đã hầu bàn ở đó một lần. Hình như họ có tám chín khách sạn

gì đó ở khắp miền Nam, do một anh chàng điên rồ người Texas quản lý nhưng mình không nhớ rõ tên. Sao cậu hỏi thế? – Sammy ngửng lên với vẻ ngờ vực.

Chả có lý do gì đặc biệt cả, – Abel nói.

Với cậu thì bao giờ cũng có lý do tất. Thế bàn 17 muốn gì? Sammy hỏi.

Họ phàn nàn về tiếng ồn trong bếp. Chả trách họ được – Vậy ông ta muốn thế nào? Cho ra ngồi ngoài hiên ư? ông ta tưởng mình là gì chứ, John D.Rockepheller chăng?

Abel để mặc cho Sammy đứng đó tính toán và càu nhàu, còn anh đi dọn mấy chiếc bàn của mình cho nhanh. Rồi anh trở về phòng bắt đầu tìm hiều về Công ty Richmond. Chỉ gọi điện thoại đi vài nơi là anh đủ biết được hết. Đây là một công ty tư nhân, có tất cả mười một khách sạn, cái lớn nhất là một tòa nhà có 342 phòng sang trọng ở Chicago, gọi là Richmond Continental. Abel quyết định đến thăm ông Leroy và Melanie mà sẽ chẳng mất gì. Anh hỏi số phòng của ông Leroy. Đó là phòng 85, nhỏ nhưng thuộc loại sang. Anh đến trước bốn giờ, hơi thất vọng vì cô Melanie không có đó:

Hoan nghênh anh đến, Abel. Mời anh ngồi.

Lần đầu tiên kề từ hơn bốn năm ìàm việc trong Plaza, bây giờ Abel mới được ngồi như một người khách.

Anh được trả lương bao nhiêu? – Ông Leroy nói. Câu hỏi bất ngờ làm Abel sửng sốt.

Tôi được khoảng hai mươi lăm đô la mỗi tuần kể cả tiền thưởng.

Tôi sẽ bắt đầu bằng trả anh ba mươi lăm mỗi tuần.

Ông muốn nói khách sạn nào kia ạ? – Abel hỏi:

Nếu tôi đoán đúng, Abel, thì anh xong việc lúc ba rưỡi, và trong khoảng nửa giờ sau đó là anh tìm hiểu về khách sạn, tôi nói vậy có đúng không ạ Abel đã bắt đầu ưa ngay ông khách này. Anh bạo dạn đoán ngay.

Khách sạn Richmond Continental ở Chicago, phải không ạ?

Tôi đoán đúng, và đúng cả về anh. – Davis Leroy cười Trên người phó quản lý thì có bao nhiêu người nữa – Abel nghĩ thật nhanh.

Chỉ có người quản lý với tôi. Người quản lý là một người chậm chạp, dễ thương và cũng gần về hưu. Tôi còn đến mười khách sạn nữa phải lo. Anh sẽ chẳng gặp khó khăn gì lắm đâu. Tuy nhiên tôi cũng phải thú thật Chicago là chỗ tôi thích nhất. Đó là khách sạn đầu tiên của tôi ở miền Bắc. Melame đi học ở đó nên tôi cũng mất nhiều thời gian ở thành phố này. Anh đừng có mắc sai lầm của nhiều người ở New York là đánh giá thấp Chicago. Họ thường nghĩ Chicago chỉ là một chiếc tem nhỏ trên phong bì rất to, mà tự coi họ là chiếc phong bì.

Abel mỉm cười.

Lúc này khách sạn hơi xuống cấp một chút, – Ông Leroy nói tiếp. – Tự nhiên anh chàng phó quản lý của tôi bỏ đi, tôi cần có một người thay thế và hiểu biết công việc. Anh nghe đây, Abel, trong năm ngày qua tôi đã theo dõi anh cẩn thận, và tôi biết là anh có thể thay thế người đó. Anh có muốn đi Chicago không nào?

Bốn mươi đô la cộng với mười phần trăm lợi nhuận, tôi sẽ nhận việc ngay.

Sao? – Davis Leroy rất ngạc nhiên hỏi. – Không có một người quản lý nào của tôi ăn lương trên cơ sở lợi nhuận như thế cả. Những người khác mà biết được như thế thì lôi thôi ngay.

Tôi sẽ không nói cho ai biết nếu ông không nói, – Abel đáp.

Bây giờ thì tôi biết là mình đã chọn được đúng người, dù cho anh ta mặc cả còn giỏi hơn cả một người Bắc Mỹ có sáu cô con gái, – Ông ta vỗ tay vào thành ghế. – Tôi đồng ý với điều kiện của anh, Abel.

ông có cần tham khảo gì thêm nữa không, thưa ông Leroy?

Tham khảo ư? Tôi biết rõ về lý lịch của anh từ khi anh rời Châu âu sang đây, cho đến lúc anh đỗ bằng kinh tế ở Columbia. Thế anh tưởng mấy ngày vừa qua ở đây tôi làm gì? Nếu phải cần tham khảo nữa thì tôi đã không để anh làm người đứng thứ hai

trong một khách sạn tốt nhất của tôi như vậy.

Bao giờ anh bắt đầu làm việc được?

Một tháng nữa tính từ hôm nay.

Tốt. Tôi chờ đến lúc đó sẽ gặp anh, Abel.

Abel đứng dậy. Anh thấy mình đứng thế này dễ chịu hơn là ngồi ghế khách sạn. Anh bắt tay ông Davis Leroy, người khách ngồi ở bàn 17, chiếc bàn chỉ để cho những người không ai biết đến.

Rời thành phố New York và Khách sạn Plaza, ngôi nhà thật sự của anh kể từ sau khi rời lâu đài gần Slonim, Abel cảm thấy bứt rứt trong lòng. Anh không ngờ có lúc phải chia tay như thế. Từ biệt George, Monika và các bạn ở Columbia, anh thấy bịn rịn vô cùng. Sammy và những tay hầu bàn khác tổ chức chiêu đãi tiễn anh đi.

Rồi cậu còn lên nữa chứ không phải chỉ có thế đâu, Abel Rosnovski, – Sammy nói và mọi người cũng đồng ý như vậy.

Khách sạn Richmond Continental ở Chicago nằm giữa Đại lộ Michigan, trung tâm của một trong những thành phố phát triển nhanh nhất ở Mỹ. Điều đó khiến Abel rất hài lòng. Anh rất nhớ câu châm ngôn của Ellsoqurth Statler nói rằng có ba điều cực kỳ quan trọng đối với một khách sạn, đó là:

địa điểm, địa điểm và địa điểm. Nhưng Abel cũng phát hiện ra ngay rằng khách sạn Richmond này chỉ được có mỗi cái là địa điểm thôi. Davis Leroy có nói rằng khách sạn đang bị xuống cấp, nhưng như vậy là ông ta chưa nói đúng lắm. Desmond Pacey, người quản lý, không phải một người chậm chạp hiền lành như Davis iJeroy nói, mà ông ta còn là một anh chúa lười nữa.

ông ta còn tỏ ra không ưa Abel lắm. Ông ta để cho anh phó quản lý mới của mình

trong một căn phòng nhỏ tí dành cho nhân viên khách sạn ở bên kia đường, chứ không cho ở ngay trong khách sạn.

Mới xem qua những sổ sách của Richmond, anh đã biết ngay rằng số khách hàng ngày chỉ dưới 40 phần trăm phòng, còn nhà ăn thì không bao giờ có đến nửa số khách, mà nguyên nhân chính là thức ăn không ra gì. Nhân viên phục vụ thì nói đến ba bốn thứ tiếng gì với nhau nhưng hình như chẳng có ai trong số họ thông thạo tiếng Anh. Họ rõ ràng ràng không tỏ ra có chút gì hoan nghênh anh chàng Ba Lan ở New York này lên đây.

Anh không lấy làm lạ tại sao người phó quản lý trước đây đã vội vã bỏ đi như vậy. Nếu như Richmond là khách sạn mà Davis Leroy cho rằng ông ta ưa thích nhất, thì Abel cũng lấy làm lo ngại cả mười khách sạn còn lại kia lắm, dù cho ông chủ mới của anh có vẻ là người lắm tiền nhiều của ở Texas.

Nhưng trong những ngày đầu ở Chicago, cái tin hay nhất mà Abel biết được là: Melani Leroy là đứa con duy nhất của ông chủ.

***

Willam và Matthequ học năm đầu ở Harvard mùa thu năm 1924. Mặc dầu không được các cụ đồng ý, William vẫn nhận học bổng Hamilton về toán là 290 đô la, dùng tiền đó sắm chiếc Daisy – Kiểu xe mới nhất của hãng Phord và cũng là điều đầu tiên William yêu quý nhất đời mình. Anh đem xe đi sơn màu vàng nhạt. Tiền sơn bằng nửa tiền xe, nhưng số bạn gái của anh lại tăng gấp đôi. Lúc đó Calvin Coolidge(l) thắng lớn trong bầu cử để trở lại Nhà Trắng, và Thị trường chứng khoán New York đã đạt kỷ lục đầu tiên từ năm năm là có đến 2.336.160 cổ phiếu.

Cả hai chàng trẻ tuổi (Bà ngoại Cabot tuyên bố làkhông còn có thể coi họ như bé bỏng gì nữa) đều mong cho chóng đến ngày vào đại học. Sau một mùa hè hoạt động sôi nổi với quần vợt và đánh gôn, họ sẵn sàng đi vào những thứ gì người lớn hơn nữa. William bắt đầu ngay từ hôm về đến căn phòng mới của mình trên ‘!Bờ biển Vàng”, so với căn phòng nhỏ hồi còn ở trường St. Paul thì khá hơn nhiều lắm. Còn Matthequ thì đi tham gia vào câu lạc bộ bơi thuyền của trường. Matthequ được bầu làm đội trưởng của đội năm học thứ nhất.

Mỗi chiều chủ nhật, William lại bỏ sách vở để ra xem bạn chèo thuyền trên sông Charles. Anh mừng với mỗi thành công của Matthequ, nhưng cũng tỏ ra nghiêm khắc với bạn.

Cuộc đời không phải chỉ có tám người cắm đầu cắm cổ khua mái chèo dưới nước và nghe một anh chàng nhỏ bé hơn mình ngồi đầu thuyền mà hét đâu nhé Wilham nói.

Cậu đi mà nói cái đó cho bọn Yale nó nghe, – Matthequ đáp.

Trong khi đó William nhanh chóng chứng minh cho các giáo sư về toán thấy rằng anh không khác gì Matthequ trước đây, tức là bỏ xa các bài đang được học rất nhiều. Willim cũng được bầu làm chủ tịch Hội tranh ìuận của năm thứ nhất trong trường. Anh thuyết phục ông ngoại của mình là chủ tịch Loquell thực hiện kế hoạch bảo hiểm đầu tiên của trường bằng cách đảm bảo cho mỗi sinh viên tốt nghiệp Harvard được bảo hiểm sinh mạng suốt đời mà mỗi người chỉ phải đóng có 1.000 đô la, do nhà trường thu dần. William tính rằng như vậy mỗi sinh viên tham gia bảo hiểm chỉ phải đóng mỗi tuần không đến một đô la và nếu có cả 40 phần trăm sinh viên cũ của trường cũng tham gia vào đó nữa thì từ năm 1950 trở đi trường Harvard đã có thể có được thu nhập mỗi năm chừng ba triệu đô la. Ông chủ tịch nghe anh trình bày kế hoạch đó ìiền ủng hộ ngay và một năm sau mời William tham gia vào bộ phận lãnh đạo của Uỷ ban quyên góp trong trường. William rất tự hào nhận chức vụ đó mà không biết là anh sẽ phải làm chuyện ấy suất đời Chủ tịch Loquell báo cho là bà nội Kane của anh biết là ông đã có được một trong những bộ Óc tài chính giỏi nhất của thế hệ này mà chẳng mất đồng nào. Bà nội Kane trả lời ông em họ của bà rằng:

mọi thứ đều có mục đích của nó cả, và như vậy William càng có thêm nhiều kinh nghiệm xử thế sau này.

Năm thử hai vừa bắt đầu là đã đến lúc phải chọn dần một trong số những Câu lạc bộ Chung kết, tức là những tổ chức trong trường có liên quan đến những cơ sở xã hội của từng người, nhất là những con nhà giàu, William được đưa vào câu lạc bộ Porcell là một hội lâu đời nhất, giàu nhất, độc đáo nhất nhưng cũng kín đáo nhất. Trong hội quán của nó ở Đại lộ Massachusetts đặt trong một tiệm cà phê rẻ tiền có tên là Hayes-Bickphord, anh có thể ngồi đàng hoàng trong một chiếc ghế bành, suy nghĩ về những chuyện đang xẩy ra ngoài đời, ngắm nhìn quang cảnh ngoài đường phố qua tấm gương đặt ở góc phòng và nghe chiếc đài lớn mới lắp.

Đến kỳ nghỉ Giáng sinh, William bị thuyết phục đi trượt tuyết với Matthequ ở Vermont và anh phải mất một tuần vất vả trèo núi đề theo kịp người bạn của mình.

Này, Matthequ này, tại sao lại phải mất một giờ trèo tên núi cao để rồi chỉ để trượt xuống trong có mấy giây đồng hồ mà lại nguy hiểm đến tính mạng hoặc bị ngã gẫy chân như vậy?

Matthequ càu nhàu.

Như thế chả hơn là ngồi với những lý thuyết về đồ thị hay sao? Này, Wilham, sao cậu không thừa nhận là leo lên hay trượt xuống cậu đều tồi cả?

Trong năm học thứ hai, họ bận nhiều việc khác nên bỏ qua một số môn học, tuy với mỗi người khái niệm về “bỏ qua” cũng rất khác nhau. Hai tháng đầu nghỉ hè, họ làm việc với tư cách trợ lý tập sự cho ngân hàng Charles Lester ở New York. Ông bố của Matthequ bây giờ đã thôi không giữ một khoảng cách đối với Willam nữa. Vào những ngày nóng ẩm của tháng tám, họ nhẩy lên chiếc Daisy về vùng nông thôn New York hoặc đi thuyền trên sông Charles với các cô gái, và hễ cứ đâu có chiêu đãi là họ tranh thủ để được mời và đến dự. Họ chả có lúc nào đóng vai những nhân vật quan trọng của trường. Trong xã hội Boston, ai cũng có thể biết rằng hễ cô gái nào lấy Wiìliam Kane hoặc Matthequ Lester thì đều không có gì phải lo cho tương lai của mình nữa. Tuy nhiên, cứ bà mẹ nào mang hy vọng đó và đem con gái mình đến gặp thì cáe cụ bà Kane hoặc Cabot đều từ chối thẳng thừng.

Ngày 18 tháng tư, 1927, William mừag ngày sinh nhật thứ hai mươi mốt của mình bằng một cuộc gặp cuối cùng với những nglíời được ủy thác trông coi tài sản của anh. Alan, Lloyd và Tony Simmons đã chuẩn bị các thứ giấy tờ cho anh ký.

Thôi nhé, Wilham thân mến, – Bà Milly Preston nói với một giọng như vừa được trút khỏi gánh nặng,- Tôi tin rằng anh sẽ có thể làm được từng việc cụ thể như chúng tôi đã làm.

Tôi hy vọng như vậy, thưa bà Preston, nhưng nếu như khi nào tôi cần mất nửa triệu trong một đêm, thì tôi sẽ biết phải gọi cho ai.

Milly Preston đỏ bừng mặt nhưng không dám trả lời Wỹ ủy thác bây giờ đã được trên 32 triệu đô la. William đã có kế hoạch trong đầu để nuôi số tiền ấy, nhưng anh cũng tự đặt cho mình nhiệm vụ là kiếm thêm một triệu đô la nữa trước khi rời trường

Harvard. So với tiền ủy thác thì nó không là bao nhiêu, nhưng tài sản thừa kế đối với anh không thể nào có ý nghĩa bằng tài khoản tự anh làm ra được và gửi ở ngân hàng Lester.

Mùa hè năm đó, các cụ bà nội ngoại rất lo sợ có các cô gái nhòm ngó tiền của các cháu mình, đã cho William và Matthequ đi chơi một tua ở Châu âu.

Chuyến đi này lại hóa ra thành công lớn cho cả hai người. Matthequ vượt qua mọi trở ngại về ngôn ngữ, hễ cứ đến một thủ đô nào của Châu âu là lại kiếm được một cô gái đẹp. Anh ta bảo với William rằng tình yêu là một thứ hàng tiêu dùng có tính quốc tế. Còn Wilham thì tự giới thiệu mình với mỗi giám đốc của các ngân hàng Châu âu. Anh bảo Yới Matthequ rằng tiền cũng là một thứ hàng tiêu dùng có tính quốc tế.

Từ London đến Berlin và Rome, hai anh chàng để lại sau lưng một loạt những trái tim tan vỡ và những nhà ngân hàng có khá nhiều ấn tượng. Về đến Harvard vào tháng chín, cả hai người đã sẵn sàng lao vào sách vở đề chuẩn bị cho năm cuối cùng ở trường.

vào mùa đông năm 1927 khá rét mướt, bà nội Kane qua đời, hưởng thọ 85 tuổi.

lần đầu tiên từ sau khi mẹ chết, bây giờ William mới lại khóc.

ít ngày sau khi cùng chia buồn với William về cái chết của bà cụ, Matthequ nói:

Thôi cậu, bà cụ đã sống một cuộc sống sung sướng, và cụ cũng đã chờ khá lâu để tìm hiểu xem Chúa là người thuộc họ Cabot hay Loquell rồi.

Wilham nhớ đến những lời bà nội trước đây thường nói, mặc dầu anh không thích lắm. Nhưng anh tổ chức một đám tang rất linh đình cho bà. Anh cho chở bà trên chiếc xe tang Packard đen đến nghĩa trang một cách rất oai vệ mà nếu bà còn sống chắc sẽ không bằng lòng. Cái chết của bà khiến cho William càng tập trung vào việc học hơn trong năm cuối ở Harvard.

Anh quyết tâm giành giải thưởng hàng đầu về toán của trường để kỷ niệm bà nội. Sáu tháng sau khi bà nội Kane mất thì bà ngoại Cabot cũng mất nốt.

Wilham nghĩ có lẽ vì bà buồn không còn ai nói chuyện với bà nữa.

Tháng hai năm 1928, đội trưởng đội tranh luận đến gặp Wilham. Họ báo là tháng sau đó sẽ có cuộc tranh luận và mọi người phải ăn mặc chỉnh tề để nói về Chủ nghĩa xã hội hay ch ủ nghĩa tư bản cho tương lai của nước Mỹ. Trong cuộc tranh luận này, cố nhiên William sẽ được yêu cầu đại diện cho chủ nghĩa tư bản.

Nếu như tôi bảo với anh rằng tôi chỉ muốn phát biểu nhân danh những quần chúng bị áp bức thì sao nhỉ? – William hỏi lại đội trưởng. Anh ta ngạc nhiên, vì xưa nay vẫn nghĩ rằng William vốn là dòng dõi con nhà giàu và lại là một nhà ngân hàng đang phát triển thì không thể có ý nghĩ quái gở ấy được.

Ồ Wilhm, chúng tôi vẫn tưởng anh sẽ chọn lựạ… Ợ…

Thôi được. Tôi nhận lời. Nhưng tôi được tự do chọn người đồng sự với tôi chứ? Tất nhiên.

Tốt. Thế thì tôi chọn Matthequ Lester. Tôi có được biết đối phương của chúng tôi là những ai không?

Một ngày trước khi tổ chức tranh luận anh mới biết được. Người ta sẽ yết thị trên sân trường ấy.

Cả một tháng sau đó Matthequ và William biến những cuộc phê phán báo chí tả hữu thường làm vào những bữa ăn buổi sáng và cả những cuộc thảo luận buồi tối về ý nghĩa của Cuộc sống thành những buổi họp có tính chất chiến lược, khiến cả trường đều gọi đó là Cuộc tranh luận vĩ đại. William để cho Matthequ dẫn đầu những buổi đó.

Gần đến ngày quyết định, người ta được biết tất cả những sinh viên có hiểu biết về chính trị, các giáo sư và cả một số chức sắc của Boston với Cambridge sẽ đến dự. Sáng hôm trước ngày đó, hai người lên văn phòng trường để xem đối phương của mình là những ai.

Leland Crosby và Thađeus Cohen. Cả hai cái tên này cậu có nghe nói bao giờ không, Wiìliam? Crosby có lẽ là một trong những Crosby của Philadelphia đấy chăng?
Đúng rồi đấy. Bà cô của anh ta đã có lần mô tả đó là Anh chàng đỏ điên rồ ờ Wảng trường Rittenhouse. Đúng rồi đấy. Anh ta là một người cách mạng say sưa nhất
khu học xá này, rất nhiều tiền và đem tiền tiêu hết cho những hoạt động bình dân cấp tiến gì đó. Mình đã có thể thấy được anh ta sẽ mở đầu như thế nào rồi.

Và William nhại cái giọng lanh canh của Crosby:

Tôi đã biết rất rõ cái tính tham tàn và hoàn toàn thiếu ý thức xã hội của giai cấp có tiền ở Mỹ. Nếu như mọi người trong cử tọa chưa từng nghe cái câu đó đến năm chục lần rồi, thì mình có thề cho anh ta sẽ là một đối thủ đáng gờm đấy.

Thế còn Thađeus Cohen – Chưa nghe nói đến anh chàng này bao giờ.

Tối hôm sau, trong bụng hồi hộp, hai nglrời khoác áo dầy lên mình đi qua gió tuyết ngoài sân trường, qua những dẫy cột nhẵn bóng của thư viện Widener lên Hội trường Boylston. William có cảm tưởng như cha mình trước đây đã bước xuống con tàu Titanic vậy.

Với thời tiết như thế này, giá chúng mình có thua thì cũng chẳng có mấy ai đi nói lại làm gì, – Matthequ nói.

Nhưng lúc hai người đi qua thư viện thì đã thấy rất đông người đang lục tục theo nhau lên cầu thang và kéo vào hội trường. Vào đến bên trong, họ chỉ cho hai người lên ngồi trên bục diễn đàn. William ngồi im lặng, nhưng mắt anh nhìn khắp mọi người trong cử tọa:

Chủ tịch Loquell ngồi kín đáo ở hàng ghế giữa, cựu giáo sư môn thực vật Newbury St. Hohn, vài bà phụ nữ trong giới văn học mà anh nhận ra được tại những cuộc chiêu đãi ở nhà mình. Phía bên phải hội trường có một nhóm thanh niên nam nữ trông như dân du mục và có một số cũng không chịu đeo ca vát nữa. Họ vỗ tay ran

khi thấy những người phát ngôn của mình – Crosby và Cohen – Bước lên diễn đàn. Trong hai người, Crosby có vẻ ra dáng hơn. Người anh ta cao gầy, gần như trong

một bức tranh biếm họa, mặc bộ đồ vải sọc với chiếc sơ-mi là rất thẳng, miệng ngậm một chiếc tẩu thuốc dính vào môi dưới không ăn nhập gì với kiểu người, Thađeus Cohen lùn bé hơn, đeo đôi mắt kính không có gọng, mặc bộ đồ len sẫm quá mức ngay ngắn.

Bốn diễn giả bắt tay nhau một cách thận trọng. Tiếng chuông nhà thờ cách học xá chừng mấy chục thước vẳng lên bẩy tiếng.

– Xin mời ông Leland Crosby, – Người đội trưởng nói.

Bài diễn văn của Crosby khiến William lấy làm yên lòng. Anh đã dự kiến được trước mọi thứ. Cái giọng oang oang và gay gắt của Crosby là biểu hiện anh ta rất nóng tính, dễ mất tỉnh táo. Anh ta dẫn chứnag không biết bao nhiêu những thí dụ của chủ nghĩa cấp tiến ở Mỹ. William nghĩ chẳng qua Crosby chỉ nhân dịp này mà quảng cáo cho cá nhân mình và nhiều lắm là được nhóm thanh niên ngồi phía bên phải kia vỗ tay mà thôi. Lúc Crosby nói xong và ngồi xuống rồi, rõ ràng anh ta không có thêm được người mới nào ủng hộ, mà có thể trong những người cũ lại mất đi một số. Việc anh ta dẫn chứng William với Matthequ là hai nglrời bạn giàu có với nhau không chịu hy sinh cho sự nghiệp công bằng xã hội ở đây quả là một điều dại dột.

Matthequ nói thẳng vào vấn đề, với một giọng ôn tồn. Anh tỏ ra mình là hiện thân của sự rộng lượng và tự do. Anh trở về chỗ, được vỗ tay nhiệt liệt.

William nắm chặt lấy tay bạn.

– Chỉ còn có tiếng hò hét thôi, – Anh nói khẽ.

Nhưng đến lượt Thađeus Cohen thì mọi người phải ngạc nhiên. Anh ta có kiểu nói nhỏ nhẹ dễ được cảm tình. Những thí dụ dẫn chứng của anh ta mang tính tôn giáo và sắc sảo. Anh ta làm cho toát ra một sự nghiêm túc về tinh thần, đồng thời cũng thừa nhận những thiếu sót và cả những cái? quá đáng của phía mình. Nói chung, anh ta làm cho người nghe thấy rằng mặc dầu có những nguy cơ này khác nhưng muốn cho loài người có thể tiến lên được thì không có con đường nào khác hơn là chủ nghĩa xã hội.

William thấy hơi bối rối. Anh nghĩ nếu trực tiếp đánh thẳng vào lập trường chính trị của đối phương thì sẽ là vô ích, nhất là sau khi Cohen đã trình bày một cách dễ nghe và có tính thuyết phục như vậy. Tuy nhiên, nếu muốn vượt lên trên anh ta để tỏ ra mình là người phát ngôn của hy vọng và niềm tin ở tinh thần nhân đạo của con người thì cũng không được.

William tập trung trước hết vào việc bác bỏ những lời buộc tội của Crosby, rồi sau đó anh trả lời cho những lý luận của Cohen bằng cách nói lên niềm tin của chính mình vào khả năng của xã hội Mỹ có thể đem lại những hiệu quả tốt nhất qua sự ganh đua với nhau về tinh thần và kinh tế. Anh cảm thấy mình bảo vệ cho luận điểm của mình thế là đủ, không cần gì nhiều hơn. Anh ngồi xuống với cảm tưởng như bị Cohen

đánh bại.

Crosby lại lên nói tiếp. Anh ta hùng hổ làm như bây giờ sẽ đánh bại luôn cả Cohen cũng như William và Matthequ. Anh ta còn hỏi cử tọa xem có biết được đâu là kẻ thù của nhân dân trong số những người ngồi đây. Anh ta nhìn khắp hội trường một lúc lâu, chỉ thấy cử tọa ngồi yên lặng một cách khó chịu, còn đám thanh niên ủng hộ anh ta thì cúi nhìn xuống mũi giầy Rồi anh ta gào lên:

Anh ta đứng trước mặt mọi người đó. Anh ta vừa nói đó. Tên anh ta là William Loquell Kane. – Giơ tay chỉ vào William nhưng không nhìn vào anh, anh ta quát tháo:

Ngân hàng của anh ta làm chủ những hầm mỏ trong đó công nhân đang chết dần mòn để đem lại cho bọn chủ số tiền lãi hàng triệu đô la mỗi năm. Ngân hàng của anh ta trợ giúp cho bọn độc tài tham nhũng và khát máu ở Mỹ La Tinh. Thông qua ngân hàng của anh ta, Wốc hội Mỹ ăn hối lộ để diệt nông dân nghèo. Ngân hàng của anh tạ…

Anh ta cứ như thế nói thao thao một lúc nữa. William ngồi im lặng, chỉ thỉnh thoảng ghi vài chữ vào tập giấy trong tay mình. Một số người trong cử tọa bắt đầu lên tiếng bác bỏ. Những người ủng hộ Crosby quát lại. Các vị quan chức bắt đầu khó chịu.

Thời gian cho Crosby nói đã sắp hết. Anh ta giơ nắm đấm lên trời và nói:

Thưa các vị, tôi có thể nói rằng chỉ cách phòng này vài trăm bước là chúng ta sẽ tìm thấy câu trả lời cho cái tai họa của nước Mỹ. Đó là thư viện Widener, một thư viện tư lớn nhất thế giới hiện nay. Ở thư viện này, các nhà học giả nhập cư tội nghiệp cùng với những người có hiểu biết nhất ở Mỹ đến để làm cho thế giới này có thêm tri thức và thịnh vượng. Nhưng tại sao lại có thư viện ấy? Vì mười sáu năm trước đây do có một chàng thanh niên nhà giàu nhảy lên chiếc tàu Titanic để đi chơi rồi chẳng may gặp nạn. Thưa quý ông quý bà, tôi đề nghị rằng trong khi nhân dân Mỹ chưa cấp cho mỗi người của giai cấp cầm quyền một tấm vé để lên chiếc tàu Titanic của chủ nghĩa tư bản ấy, thì phải đem tất cả những của cải tàng trữ trên lục địa này mà giải phóng và phục vụ cho sự nghiệp của tự do, bình đẳng và tiến bộ.

Nghe cái cách ăn nói của Crosby như vậy, Matthequ đã thấy ngay anh ta làm một việc rất dại đột là đã nhắc đến vụ đắm tàu Titanic, và điều đó sẽ quật lại chính anh ta. Anh không biết,William sẽ trả lời đối với thái độ khiêu khích ấy như thế nào.

Trật tự và im lặng trở lại rồi, đội trưởng bước ra nói:

Xin mời ông William Loquell Kane.

quilliam bước lên bục diễn đàn nhìn khắp lượt cử tọa. Trong phòng im phăng phắc.

– Ý kiến của tôi là những quan điểm do ông Crosby vừa nói không đáng được trả

lời.

Rồi anh ngồi xuống. Cả phòng bỗng im lặng một cách lạ thường, rồi liền đó là

tiếng vỗ tay vang dậy.

Đội trưởng bước lên diễn đàn nhưng lúng túng chưa biết làm gì. Một tiếng nói phía sau lưng anh ta bỗng phá tan giây phút căng thẳng.

Ông chủ tịch. Xin cho phép hỏi ông Kane là tôi có thể dùng thời gian trả lời của ông ấy được không. – Đó là Thađeus Cohen.

William nhìn đội trưởng và gật đầu.

Cohen bước lên bục diễn đàn, chớp chớp mắt nhìn cử tọa rồi nói:

Từ lâu đã rõ ràng là trở ngại lớn nhất cho sự thành công của chủ nghĩa xã hội dân chủ ở Mỹ lại chính là chủ nghĩa quá khích trong một số đồng minh của nó. Không có gì chứng minh cho sự thật đáng buồn ấy hơn là bài nói của người đồng sự của tôi tối nay. Việc kêu gọi hủy diệt những người chống nó lại chính là làm hại đến sự nghiệp tiến bộ, và chúng ta có thể hiểu điều đó là tiêu biểu cho những cuộc đấu tranh xa lạ Ở đâu đâu chứ không phải của chính chúng ta. Ở Mỹ thì điều đó là đáng buồn và không thể biện minh được. Riêng về phần tôi, tôi thành thật xin lỗi ông Kane về chuyện này.

Lần này thì tiếng vỗ tay vang lên dồn dập. Hầu như cả hội trường đứng dậy vỗ tay liên tục.

Wilham bước đến bắt tay Thađeus Cohen. Họ không lấy làm lạ thấy khi bỏ phiếu Wiìliam và Matthequ đã được hơn 150 phiếu. Buổi tối tranh luận thế là kết thúc. Mọi người lần lượt bước ra ngoài, đi trên những lối nhỏ phủ đầy tuyết và kéo ra đường phố oang oang nói chuyện với nhau.

Wilham mời Thađeus Cohen cùng đến uống nước với anh và Matthequ. Họ cùng đi qua đại lộ Massachusetts, dầm trong tuyết đang rơi rồi cuối cùng đến trước một cánh cửa to đen sì gần như đối diện với Hội trường Boylston.

William lấy chìa khóa ra mở rồi cả ba người bước vào bên trong nhà sảnh. Trước khi cánh cửa khép lại, Thađeus Cohen bỗng nói :

Có lẽ tôi không được hoan nghênh ở đây đâu.

William ngạc nhiên một giây lát.

– Nói vớ vẩn. Anh đi với tôi kia mà.

Matthequ liếc nhìn bạn, biết là William đã có một ý định gì.

Họ bước lên cầu thang vào một căn phòng rộng lớn, có đầy đủ bàn ghế nhưng không sang trọng lắm.

Khoảng hơn chục người đứng ngồi rải rác. Thấy William xuất hiện ở cửa vào, họ reo mừng.

Cậu cừ ìắm, William. Đối xử với loại người ấy, phải như thế mới được.

Hoan nghênh hiệp sĩ trở về.

Thađeus Cohen chựng lại, còn đứng ở phía sau. nhưng William không quên anh

ta.

Các bạn, tôi xin giới thiệu đối thủ xứng đáng của tôi là ông Thađeus Cohen.

Cohen ngần ngại bước lên.

Trong phòng im lặng. Mấy cái đầu quay đi như đang nhìn lên cây thông ở sân trường, cành lá phủ đầy tuyết .Cuối cùng có tiếng lạo xạo trên sàn. Một người bước ra khỏi phòng bằng cửa bên. Lại một người nữa đi ra theo.

Lần lượt, cả đám người trong phòng bước ra hết. Người cuối cùng còn quay lại nhìn Wilham một cái rồi mới ra hẳn.

Matthequ nhìn bạn mà buồn thảm. Thađeus Cohen tím mặt, cúi nhìn xuống chân. Wilham cắn môi, mím miệng, trông giận dữ như khi Crosby nhắc đến chuyện con tàu Titanic.

Thôi, chúng mình đi đi. – Matthequ kéo tay bạn. Cả ba chậm chạp đi về phòng của William và lặng lẽ uống rượu brandy.

Sáng hôm sau ngủ dậy, William thấy dưới cửa có chiếc phong bì. Bên trong là mấy chữ của chủ tịch Câu lạc bộ Porcell viết cho anh, hy vọng là sẽ không bao giờ tái diễn việc đáng tiếc của tối hôm qua nữa. Đến trưa thì chủ tịch nhận được hai thư từ chức.
Sau mấy tháng miệt mài, William và Matthequ hầu như đã sẵn sàng lao vào những đợt thi cuối cùng. Trong sáu ngày liền, họ liên tục trả lời các câu hỏi, viết hết tờ nọ đến tờ kia, điền vào cuốn sổ màu xanh, rồi chờ đợi. Họ đã không uổng công, vì cả hai đều đã tốt nghiệp trường Harvard như đã dự kiến vào tháng sáu năm 1928.

Một tuần sau kỳ thi, người ta công bố William đã giành được giải thưởng về Toán của Tổng thống. Anh ước gì bố mình còn sống để chứng kiến lễ trao giải thưởng ngày tốt nghiệp. Matthequ cũng cố được cái giải ba. Anh thở dài yên tâm và những người khác cũng không lấy thế làm ngạc nhiên. Cả hai đều không muốn học hành gì nữa, vì bây giờ họ đã có quyền được đi vào đời sống thực tế càng sớm càng tốt.

Tài khoản trong ngân hàng New York của William trội lên một triệu đô la nữa tám ngày trước khi anh rời trường Harvard. Đến lúc đó anh mới bàn một cách chi tiết với Matthequ về kế hoạch lâu dài của anh là giành lấy sự kiểm soát Ngân hàng Lester bằng cách nhập nó vào với ngân hàng Kane và Cabot.

Matthequ thấy thế cũng bằng lòng và anh thú thật là sau khi ông già nhà mình mất đi rồi, có lẽ chỉ còn có cách đó thì mình mới kế nghiệp và tiến lên được mà thôi.

Hôm làm lễ tốt nghiệp, Alan Lloyd, bây giờ đã sáu mươi tuổi, cũng có đến trường Harvard. Sau buổi lễ, William mời ông ra uống trà trên quảng trường.

Alan nhìn người trẻ tuổi một cách âu yếm.

Bây giờ xong Harvard rồi, anh định làm gì?

Tôi sẽ về ngân hàng Charles Lester ở New York.

Tôi muốn có được ít kinh nghiệm trong mấy năm trước khi về Kane và Cabot.

Nhưng anh đã sống với ngân hàng Lester suốt từ hồi anh mười hai tuổi đến giờ kia mà, Wilham. Tại sao bây giờ anh không về thẳng chỗ chúng tôi đi?

Chúng tôi sẽ cử anh làm giám đốc ngay lập tức.

Alan Lloyd chờ anh trả lời, nhưng không thấy anh nói gì.

William, chẳng có gì khiến anh bị ngỡ ngàng đến mức không nói lên được như vậy. Rất không phải con người của anh là như thế.

Nhưng tôi không bao giờ có thể ngờ rằng ông sẵn sàng mời tôi tham gia ban lãnh đạo trước khi tôi hai mươi lăm tuổi. Hồi cha tôị…

Đúng là cha anh đến hai mươi lăm tuổi mới vào ban lãnh đạo. Tuy nhiên không có lý do gì ngăn trở anh tham gia ban lãnh đạo trước cái tuổi đó nếu như các giám đốc khác tán thành ý kiến này, mà tôi thì tôi biết là họ đều tán thành cả. Dù sao cũng còn có những lý do riêng mà tôi muốn thấy anh làm giám đốc càng sớm càng tốt. Trong năm năm nữa tôi rút khỏi ngân hàng, tôi muốn chắc chắn là người ta bầu lên được một chủ tịch xứng đáng. Nếu anh làm việc ở ngân hàng Kane và Cabot trong năm năm đó thì anh sẽ ở tư thế thuận lợi hơn để tác động đến việc bầu này, chả hơn là anh đi làm một viên chức cao cấp bên ngân hàng Lester hay sao? Nào, thế anh có đồng ý tham gia ban lãnh đạo không đây?

Đây là lần thứ hai trong ngày William ước gì cha anh còn sống để được thấy cảnh này.

Tôi sẽ rất sung sướng nhận lời, thưa ông. – Anh đáp. Alan nhìn William.

Đây cũng là lần thứ hai anh “thưa ông” với tôi kể từ bữa đánh gôn đấy nhé. Tôi phải coi chừng anh mới được William cười.

Tốt rồi, thế là giải quyết xong. – Alan Lloyd nói.

Anh sẽ là giám đốc thứ hai phụ trách về các khoản đầu tư trực tiếp làm việc dưới quyền Tony Sunmons.

Tôi có thể cử người phó cho riêng mình được không? – William hỏi. Alan Lloyd nhìn anh mỉm cười.

Chắc là Matthequ Lester?

Vâng, đúng thế.

Không, tôi không muốn anh ta làm ở ngân hàng chúng ta cái mà anh định làm ở ngân hàng bên đó.

Đáng lẽ Thomas Cohen đã phải dạy cho anh biết điều này rồi chứ. Wilham không nói gì nhưng từ đó không dám đánh giá thấp Alan nữạ.
Anh kể lại nguyên văn câu chuyện đó cho Charles Lester nghe và ông ta phá lên cười.

Rất tiếc là anh không về với ngân hàng chúng tôi, dù là về với tư cách một gián điệp, – Ông ta tươi cười nói. – Nhưng tôi chắc là một ngày nào đó anh cũng sẽ về đây với tư cách này hay tư cách khác.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.