Hai Số Phận

Chương 3: 1928 – 1932



Tháng chín năm 1928, Wilham về làm việc với tư cách một giám đốc thứ hai trong ngân hàng Kane và Cabot, và lần đầu tiên trong đời anh cảm thấy làm một công việc thật sự hơp với mong muốn của mình. Anh bắt đầu sự nghiệp trong một phòng nhỏ bên cạnh văn phòng của Tony Sinlmons, giám đốc của Ngân hàng phụ trách về đầu tư Ngay từ tuần đầu đến làm việc, William đã có thể biết, mặc dầu chưa ai nói ra, rằng Tony Simmons hy vọng sẽ được lên kế chân Alan Lloyd làm chủ tịch ngân hàng.

Toàn bộ chương trình đầu tư của ngân hàng là thuộc trách nhiệm của Simmons. Ông ta đã nhanh chóng chuyển cho William một phần công việc, nhất là những thứ như đầu tư của tư nhân vào kinh doanh quy mô nhỏ, đất đai và những hoạt động thầu khoán bên ngoài mà ngân hàng có dính líu vào đó. Trong số những nhiệm vụ chính thức của William có báo cáo hàng tháng về đầu tư mà anh muốn kiến nghị tại cuộc họp toàn thể ban lãnh đạo. Tất cả mười bảy thành viên ban lãnh đạo mỗi tháng họp một lần trong căn phòng lớn chung quanh ốp gỗ sồi và hai đầu phòng có treo chân dung, một của bố William, một của ông nội anh. William chưa bao giờ biết ông nội của mình thế nào, nhưng anh vẫn thường nghĩ hẳn ông phải ghê gớm lắm thì mới lấy một bà như bà nội Kane được, Phòng còn khối chỗ trên tường để sau này treo chân dung của anh.

Trong những ngày đầu ở ngân hàng, William có thái độ cư xử rất thận trọng và những thành viên khác trong ban lãnh đạo đã biết tôn trọng những ý kiến anh đề nghị mà rất ít có trường hợp bác bỏ.

Nhưng rồi sự thật cho thấy những ý kiến- Họ bác bỏ lại chính là những lời khuyên tốt nhất của William.

Trong một dịp có ông Mayer nào đó định vay của ngân hàng một số tiền để đầu tư vào phim có tiếng nói, nhưng ban lãnh đạo từ chối không cho rằng điều đó có tương lai gì đáng kể. Một dịp khác, có một ông là Paley đến tìm William với một kế hoạch đầy tham vọng cho mạng lưới phát thanh Unite. Alan Llyod vốn chỉ biết tôn trọng điện báo với thần giao cách cảm thôi nên không thích cái kế hoạch này. Ban lãnh đạo ủng hộ ý kiến của Alan.

Sau đó, chính cái ông Louis B. Mayer kia là chủ hãng MGM, còn ông William Paley thì công ty của ông ta trở thành hãng CBS. Willam tin ở những xét đoán của chính mình và anh đã ủng hộ cả hai người đó, lấy tiền ở quỹ ủy thác của mình cho họ vay. Anh cũng ìàm như bố anh trước đây, tức là không cho họ biết đã vay tiền của ai Một trong những hiện tượng không thú vị gì lắm trong công việc hàng ngày của William là phải giải quyết những vụ đóng cửa và phá sản của những khách hàng đã vay rất nhiều tiền của ngân hàng nhưng cuối cùng ở vào cái thế không sao trả nợ được.

William về bản chất không phải một người mềm mỏng gì Henry osborne đã từng

phải trả cái giá đó rồi, nhưng anh vẫn đòi những khách hàng lâu năm và đáng kính ấy phải tìm cách thanh toán cho xong thậm chí bán cả nhà cửa đi để trả nợ, kẻo sẽ không ngủ yên với anh được. Wilham biết những khách hàng này có hai loại, một là những người coi phá sản như chuyện cơm bữa, và một loại rất sợ phá sản, suốt đời chỉ tìm cách làm sao trả được nợ cho xong. Với loại trên, William tỏ ra cứng rắn và anh nghĩ điều đó là tự nhiên, còn loại thứ hai anh rộng lượng hơn nhiều, mặc dầu Tony Simmons không tán thành lắm.

Chính trong trường hơp như trên đây mà Wilham đã phá bỏ một trong những nguyên tắc của ngân hàng và đích thân dính líu vào với một người khách. Đó là cô Katherine Brookes với chồng cô là Max Brookes, người đã vay của ngân hàng Kane và Cabot hơn một triệu đô la để đầu tư vào chuyện phát triển nhà đất ở Phlorida năm 1925, một chuyện đầu tư mà nếu như anh về ngân hàng từ trước đây thì anh đã không bao giờ cho vay. Nhưng Max Brookes hồi đó đã được coi như một anh hùng ở Massachusetts vì anh ta là một người rất dũng cảm thí nghiệm khinh khí cầu với máy bay, và là một bạn thân của Charles Linderg, trong vụ vay tiền này. Cái chết thảm thương của Brookes xảy ra trong khi anh lái chiếc máy bay nhỏ chỉ mới cất cánh khỏi mặt đất được mấy thước đã lao vào một cái cây cách đầu đường bay hơn trăm thước. Báo chí khắp nước Mỹ coi đó là một tổn thất cho cả quốc gia.

William đã nhân danh ngân hàng lấy lại toàn bộ tài sản của Brookes bán đi để thu tiền lại cho ngân hàng, chỉ còn để lại hai sào đất trên đó có ngôi nhà của gia đình Brookes. Như vậy, ngân hàng vẫn còn bị mất trên 30 không.000 đô la nữa. Một số giám đốc phê phán William là đã vội vã quyết định bán chỗ đất ấy đi và cả đến Tony Simmons cũng không đồng ý.

William cho ghi ý kiến bất đồng của Tony Simmons vào biên bản, và mấy tháng sau anh chứng minh cho ngân hàng thấy rằng nếu còn bám giữ lấy chỗ đất ấy thì có lẽ đã mất đi hơn một triệu đô la chứ không phải chỉ có thế. Điều chứng minh cái khả năng thấy trước được của anh như vậy khiến cho Tony Simmons không bằng lòng, mặc dầu tất cả những người còn lại trong ban lãnh đạo ai cũng thấy William có cái nhìn rất sắc sảo hiếm có.

Sau khi đã thanh toán mọi thứ liên quan đến tên tuổi của Max Brookes, William quay sang hỏi đến cô vợ của Brookes hiện đang là người có trách nhiệm trả nốt những khoản nợ của chồng. Mặc dầu William luôn luôn cố đảm bảo cho các khoản vay của ngân hàng có thể đòi được về anh cũng không tin lắm ở khả năng ấy và người đứng ra bảo lĩnh thường là thất bại.

William viết một bức thư chính thức cho cô vợ của Brookes, hẹn gặp để bàn giải quyết nốt nợ nần. Anh đã chú ý nghiên cứu kỹ về hồ sơ Brookes và biết rằng cô vợ chỉ mới hai mươi hai tuổi, con gái của Andrequ Higginson, thành viên của một gia đình quý tộc lâu đời ở Boston, và cũng là cháu gái của Henry Lee Higginson, người

sáng lập ra dàn nhạc giao hưởng Boston. Anh cũng ghi nhận là cô ta có nhiều tài sản giá trị riêng nữa. Anh không thích gì cái chuyện yêu cầu cô ta phải đem nộp cả cho ngân hàng nhưng giữa anh với Tony Simmons lại có chuyện nhất trí với nhau về chủ trương đối với cô ta, nên anh đành chuẩn bị cho một cuộc tiếp xúc với cô ta mà anh biết là không vui vẻ gì lắm.

Nhưng Wilham không ngờ rằng trong chuyện này còn có cả bản thân cô Katherine Brookes nữa. Mãi về sau anh sẽ còn nhớ mãi những chi tiết của sự việc đã diễn ra sáng hôm đó. Anh vừa có một cuộc tranh cãi gay gắt với Tony Simmons về một khoản đầu tư lớn vào kim loại đồng và thiếc, anh đã có kiến nghị với ban lãnh đạo. Yêu cầu của nền công nghiệp đối với hai thứ kim loại này đang mỗi lúc một lên rất cao, mà William thì tin chắc rằng thế giới sẽ ngày càng khan hiếm những thứ đó. Tony Simmons thì không đồng ý với anh, lại cho rằng đầu tư tiền mặt nhiều hơn nữa vào thị trường chứng khoán kia. Trong đầu William đang còn nghĩ luẩn quẩn về chuyện đó thì cô thư ký đã dẫn cô vợ Brooker vào phòng làm việc của anh. Chỉ một nụ cươi của cô ta thôi là đủ xua tan hết trong đầu anh những chuyện đồng, thiếc, với mọi thứ khan hiếm khác trên thế giới. Cô ta chưa kịp ngồi xuống thì anh đã vội vòng quanh bàn giấy ra mời cô ngồi vào một chiếc ghế, chỉ sợ chưa xong thì cô ta biến đâu mất.

Wiìliam chưa hề bao giờ gặp một người đàn bà nào dễ thương dù chỉ bằng nửa cô athenne Brookes này thôi. Cô ta có mớ tóc vàng và quăn buông thõng xuống hai bờ vai, xoè ra dưới mũ và chung quanh thái dương. Mặc dầu đang để trở, khuôn mặt nhỏ nhắn của cô vẫn đẹp lạ thường, và cái dáng đó của cô cho anh thấy là một con người như thế thì ở tuổi nào cũng vẫn đẹp Đôi mắt nâu của cô thật to. Cô ta có vẻ đang lo ngại về những gì anh sắp nói.

William cố tỏ ra nghiêm túc.

Thưa bà Brookes, tôi rất lấy làm tiếc nghe tin chồng bà qua đời, và tôi cũng rất ân hận buộc lòng phải mời bà đến đây hôm nay.

Giá như năm phút trước đó anh nói thế thì đúng. Anh chờ cô ta đáp lại.

Xin cảm ơn ông, ông Kane. – Giọng cô ta thật êm dịu. – Tôi rất tiếc bổn phận của tôi đối với ngân hàng, và xin đảm bảo với ông rằng tôi sẽ làm hết sức mình để làm tròn bổn phận đó.

William không nói gì, hy vọng cô ta sẽ nói tiếp.

Nhưng cô ta không nói. Anh lược kê ra một loạt những tài sản của Max Brookes. Cô ta vẫn yên lặng, cúi nhìn xuống.

Bây giờ, thưa bà Brookes, bà hiện là người bảo lãnh cho những khoản vay của chồng bà, do đó vấn đề lại có liên quan đến những tài sản riêng của bà. – Anh nhìn vào hồ sơ. – Bà có khoảng tám chục nghìn đô la đầu tư, tôi đoán đó là tiền của gia đình, với một vạn bảy nghìn bốn trăm sáu mươi đô la trong tài khoản riêng của bà.

Cô ta nhìn lên.

Như thế là ông biết rất rõ tình hình tài chính của tôi đấy thưa ông Kane. Tuy nhiên, ông cũng cần thêm vào đó Buckhurst Park là căn nhà của chúng tôi ở Phlorida hiện còn mang tên của Max với một số đồ tư trang có giá trị của tôi nữa. Tôi ước lượng tất cả những cái đó cộng với nhau cũng tương đương với ba trăm ngàn đô la còn thiếu lại ngân hàng. Tôi đang thu xếp để trang trải càng sớm càng tốt.

Trong giọng nói của cô ta chỉ hơi có một chút xúc động. William nhìn cô ta rất khâm phục.

Thưa bà Brookes, ngân hàng chúng tôi hoàn toàn không có ý muốn tước đoạt tất cả những gì bà còn lại.

Nếu bà đồng ý, chúng tôi sẽ bán chứng khoán và cổ phiếu của bà, còn tất cả những gì bà vừa nói, kể cả ngôi nhà, chúng tôi tin rằng đó vẫn là của bà.

Cô ta ngập ngừng.

Tôi cảm ơn sự rộng lượng của ông, thưa ông Kane. Nhưng tôi không muốn nợ lại ngân hàng một tí gì hoặc để cho cái tên của chồng tôi còn vương víu.

Cô ta lại hơi xúc động, nhưng nén lại được. – Dù sao, tôi cũng đã quyết định bán ngôi nhà ở Phlorida và trở về nhà với bố mẹ tôi càng sớm càng tốt.

Nghe nói cô ta sẽ trở về Boston, tim William bỗng rộn lên.

Nếu vậy thì có lẽ chúng ta có thể đồng ý với nhau về phương thức bán ra sao chứ, – Anh nói.

Chúng ta có thể làm việc đó ngay bây giờ, – Cô ta thản nhiên đáp. – Ông sẽ có toàn bộ khoản tiền.

William tính trong bụng là phải gặp lại cô ta nữa. Chúng ta không nên vội vã quyết định ở đây. Tôi nghĩ có lẽ để tôi bàn thêm với các bạn đồng sự rồi sẽ thảo luận với bà được không ạ?

Cô ta khẽ nhún vai.

Tùy ông thôi. Tôi thực sự không quan tâm lắm đến chuyện tiền nong, muốn giải quyết cách nào cũng được, và tôi cũng không muốn để ông phải phiền thêm làm gì.

William chớp mắt.

Thưa bà Brookes, tôi phải thú thật là tôi rất ngạc nhiên trước cử chỉ cao thượng của bà. ít nhất, bà cũng cho tôi được cái hân hạnh mời bà đi ăn trưa chứ.

Lần đầu tiên cô ta cười, để lộ lúm đồng tiền ở má bên phải. Wilìiam ngắm nhìn và trong suốt bữa ăn trưa ở nhà hàng Ritz anh làm hết cách để được thấy cô ta cười cho lộ rõ chỗ lúm đồng tiền đó nữa. Lúc anh trở lại làm việc ở cơ quan thì đã quá ba giờ chiều.

ăn lâu đấy nhỉ William, – Tony Simmons bình luận.

Vâng, vấn đề với nhà Brookes hóa ra phức tạp hơn tôi tưởng rất nhiều.

Tôi nghĩ là giấy tờ đã rõ ràng cả rồi chứ, – Simmons nói. – Cô ta không phàn nàn về đề nghị của chúng ta, phải thế không? Tôi nghĩ trong trường hợp này, như thế nào

chúng ta đã rộng rãi lắm đấy.

Vâng, cô ta cũng thấy như vậy. Tôi tính còn phải thuyết phục để cô ta trả cho đến đồng đô la cuối cùng vào quỹ dự trữ của ta.

Tony Simmons ngạc nhiên nhìn anh.

Cái cách nói đó nghe không phải như của William Kane mà chúng tôi từng biết và từng yêu quý. Với lại, chưa bao giờ lại gặp lúc thuận tiện cho ngân hàng của ta có thể tỏ ra cao thượng hơn bây giờ đâu.

William nhăn nhó. Từ khi anh về đây, anh với Tony Simmons vẫn luôn luôn không nhất trí với nhau về chuyện thị trường chứng khoán sẽ đi đến đâu. Kể từ khi Herbert Hoover được bầu vào Nhà Trắng tháng 11 năm 1928 đến giờ, thị trường vẫn liên tiếp đi lên.

Thực ra, chỉ mười ngày sau đó chứng khoán New York đã đạt được một kỷ lục trên sáu triệu cồ phiếu trong một ngày. Nhưng William thì tin rằng cái chiều hướng đi lên ấy chẳng qua chỉ do tiền của công nhiệp sản xuất ôtô đổ vào mà thôi, rồi kết quả sẽ là từ lạm phát giá cả đi đến mất ổn định. Tony Simmons, ngược lại, tin rằng cổ phiếu sẽ còn tăng vọt. Vì vậy, tại cuộc họp ban lãnh đạo, ý kiến của William kêu gọi phải cẩn thận vẫn bị át đi. Tuy nhiên, với tiền ủy thác riêng của anh, anh vẫn làm theo

kiến mình và đầu tư vào những thứ như đất đai, vàng, hàng tiêu dùng và cả vào một số những bức tranh ấn tượng được chọn lọc, chỉ để 50 phần trăm tài sản vào chứng khoán.

Khi Ngân hàng Dự trữ Liên bang của New York đưa ra một pháp lệnh tuyên bố sẽ không chiết khấu cho những ngân hàng nào bỏ tiền ra cho khách hàng đầu cơ nữa, William coi như chiếc đinh thứ nhất đã được đóng vào quan tài của những tay đầu cơ tích trữ.

Anh lập tức điểm lại chương tình cho vay của ngân hàng và ước lượng Kane và Cabot đã bỏ ra hơn 26 triệu cho những khoản vay đó. Anh yêu cầu Tony Simmons rút những khoản tiền ấy về vì anh chắc rằng với quy định của chính phủ như vậy thì về lâu dài giá cổ phiếu nhất định sẽ giảm xuống. Trong cuộc họp lãnh đạo hàng tháng, hai bên tranh cãi với nhau rất ghê và cuối cùng lúc bỏ phiếu Wilìiam chỉ được hai trên 12.

Ngày 21 tháng Ba năm 1921, Blair và Công ty tuyên bố nhập vào với Ngân hàng Mỹ Châu, tức là vụ sáp nhập ngân hàng thứ ba cho thấy tình hình sẽ có thể sáng sủa hơn. Ngày 25 tháng Ba, Tony có công văn báo cho Wiìliam biết thị trường đã lại đạt một kỷ lục mới và chủ trương ngân hàng đổ thêm tiền vào chứng khoán. Vào lúc này, William đã điều chỉnh lại vốn của anh, chỉ còn để 25 phần trăm vào thị trường chứng khoán và như thế anh cũng đã mất thêm hai triệu đô la nữa, bị Alan Lloyd trách cứ.

William, tôi hy vọng là anh biết mình đang làm gì chứ – Alan, tôi đã chơi với thị trường chứng khoán từ hồi mười bốn tuổi, và lần nào tôi cũng thắng vì nắm được

chiều hướng của nó.

Đến mùa hè năm 1929, thị trường vẫn cứ tiếp tục vọt lên. Lúc này William đã không còn bán cổ phiếu nữa, nhưng anh phân vân không biết nhận định của Tony Simmons có đúng hay không nữa.

Vào gần lúc Alan Lloyd về nghỉ hưu thì ý đồ của Tony Simmons muốn thế chân ông làm chủ tịch ngân hàng xem ra đã có vẻ như một việc đã rồi. Triển vọng ấy khiến William không yên tâm lắm, vì anh cho rằng lối suy nghĩ của Simmons là quá nệ vào những quy ước thông thường. Ông ta bao giờ cũng tụt hậu so với thị trường. Điều này vào những năm kinh tế phát triển và những khoản đầu tư còn được cạnh tranh với nhau chặt chẽ hơn thì sẽ rất nguy hiểm. Trong con mắt của William thì một nhà đầu tư khôn ngoan không bao giờ chạy theo đa số, trái lại bao giờ cũng nhìn thấy mọi người sẽ quay theo hướng nào. Trước sau, WiUiam vẫn cho rằng đầu tư vào thị trường chứng khoán là dễ thất vọng, trong khi đó Tony Simmons thì tin rằng nước Mỹ đang bước vào thời kỳ vàng son hơn bao giờ hết.

Một vấn đề khác nữa William là Tony Simmons chỉ mới ba mươi chín tuổi, như thế có nghĩa là Wilham khó có hy vọng làm chủ tịch Kane và Cabot ít nhất là trong hai mươi sáu năm nữa. Điều đó thật không hợp với cái trước kia ở Haquard vẫn được gọi là sự nghiệp của anh.

Trong khi đó, hình ảnh Katherine Brookes luôn hiện ìên rõ nét trong đầu Wilham. Anh vẫn luôn viết cho cô để báo tin về việc bán chứng khoán và cổ phiếu. Những bức thư đó được đánh máy đàng hoàng, và nếu có trả lời thì viết tay cũng được. Hẳn cô ta phải nghĩ rằng anh là một nhà ngân hâng có lương tâm nhất trên đời này. Rồi đến đầu mùa thu, cô ta viết cho anh báo tin là đã tìm được người mua nhà đất ở Phlorida. William viết thư yêu cầu cô cho anh được nhân danh ngân hàng thương lượng về giá cả, và cô đồng ý.

Đầu tháng chín 1929 anh xuống Phlorida. Cô vợ Brookes ra ga đón anh. Anh thấy cô ta đẹp hơn rất nhiều so với hình ảnh anh có trong đầu. Ngọn gió nhẹ thổi tấm áo đen bó sát vào người cô lúc đứng chờ trên sân ga, tạo nên một bóng dáng khiến bất cứ người đàn ông nào cũng không thể chỉ nhìn cô một lần. Mắt của William cứ như dán vào cô.

Vì cô còn đang để tang nên cử chỉ đối với anh rất dè dặt và nghiêm túc nên Wilham không dám biểu lộ gì khác Anh kéo dài cuộc thương lượng với người mua trang trại Buckhurt và thuyết phục Katherine Brookes nhận lấy một phần ba giá bán còn hai phần ba thuộc về ngân hàng. Cuối cùng, sau khi giấy tờ đã được ký kết, anh không còn lý do gì để mà không trở về Boston. Anh mời cô đến khách sạn ăn tối với anh, trong bụng quyết tâm sẽ cho cô biết những cảm tình của anh đối với cô như thế nào. Nhưng đây không phải lần đầu tiên cô làm anh ngạc nhiên, mà trước khi anh nói đến chuyện đó thì cô đã xoay xoay cốc rượu để tránh nhìn thẳng vào anh và gợi ý anh nên ở lại Buckhurt thêm ít ngày.

Coi như mấy ngày nghỉ của cả hai chúng ta. – Cô đỏ mặt. Wilham ngồi im lặng. Cuối cùng cô mạnh bạo nói tiếp.

Tôi biết rằng nói thế này là điên rồ, nhưng anh cũng cần hiểu là tôi ở đây rất cô

đơn. Hình như trong mấy ngày qua tôi cảm thấy vui hơn bao giờ hết. Cô lại đỏ mặt. – Tôi nói như vậy dở quá và anh sẽ nghĩ không hay về tôi.

Tim William đập rộn lên.

Kate, trong chín tháng qua, tôi cũng chỉ muốn mình nói được dở như thế thôi.

Vậy anh ở thêm ít ngày chứ, William?

Vâng, tôi sẽ ở lại, Kate.

Đêm đó, cô xếp cho anh ở phòng khách lớn trong ngôi nhà Buckhurt, Mấy ngày đó, William sau này sẽ nhớ mãi, coi đó như một đoạn đời sung sướng nhất của mình. Anh đua ngựa với Kate và cô vượt anh….

Anh đi bơi với cô, và cô cũng bỏ xa anh. Anh đi tản bộ với cô và bao giờ cũng quay về trước. Cuối cùng, anh xoay ra chơi đánh bài với cô, và trong ba tiếng rưỡi thắng 3,5 triệu đô la.

Trả anh bằng séc nhé? – Cô trịnh trọng nói.

Cô quên mất rằng tôi biết cô có bao nhiêu tiền ư?

Nhưng tôi sẽ làm như thế này nhé. Chúng ta cứ tiếp tục chơi cho đến khi nào cô giành lại được số tiền đó.

Như thế sẽ phải mấy năm, – Kate nói.

Tôi sẽ chờ, – William nói.

Rồi anh kể cho cô nghe nhưng chuyện trong quá khứ của mình, những chuyện mà ngay cả với Matthequ anh cũng không nói. Anh đã quý trọng bố anh như thế nào, yêu mẹ anh như thế nào, căm ghét Henry osborne ra sao, và những tham vọng của anh với Kane và Cabot. Còn cô thì kể cho anh nghe hồi bé đã sống ở Boston thế nào, đi học ở Virginia ra sao, và kể đến chuyện lấy chồng sớm với Max Brookes.

Bảy ngày sau, khi cô ra tiễn anh ở sân ga, anh đã hôn cô lần đầu.

Kate, anh muốn nói một điều này rất tự tin với em nhé. Anh hy vọng một ngày kia em sẽ dành cho anh những tình cảm hơn cả đối với Max nữa.

Em đã bắt đầu cảm thấy thế rồi, – Cô khẽ đáp.

Em đừng ở ngoài cuộc đời anh chín tháng nữa. – Em làm thế sao được anh đã bán nhà của em đi rồi mà.
Trên đường trở về Boston, cảm thấy sung sướng và yên tâm hơn bất cứ lúc nào kể từ khi bố anh qua đời, William thảo một báo cáo về việc bán trang trại Buckhurt. Anh luôn luôn nghĩ về Kate và năm ngày vừa qua. Ngay trước lúc tàu vào ga phía Nam, anh vội viết mấy chữ gửi cho cô:

Kate, Anh cảm thấy đã nhớ em rồi đấy. Thế mà chỉ mới qua mấy tiếng đồng hồ thôi. Xin em viết thư và báo cho anh biết bao giờ em sẽ về Boston. Trong khi chờ đợi, anh trở về với công việc của ngân hàng, và nghĩ rằng chỉ có thể không nhớ đến em nhiều lắm là năm phút mà thôi.

Yêu em, William Anh vừa bỏ thư vào hòm thư ở phố Charles thì nghe có tiếng rao của trẻ bán báo, và bao nhiêu ý nghĩ về Kate bỗng biến đi đâu hết.

Phố Wall đổ sụp đây! William vội mua một tờ và giở ngay đến chỗ có tin đó Chỉ qua một đêm thị trường đã tụt xuống ghê gớm. Một số nhà tài chính cho đó chỉ là chuyện điều chỉnh lại. Nhưng Wilham cho đó là bắt đầu của một quá trình xuống dốc mà anh đã dự kiến từ mấy tháng trước đây. Anh chạy vội về ngân hàng và đến thẳng văn phòng chủ tịch.

Tôi nghĩ về lâu về dài thị trường sẽ lại đứng lên được, – Alan Uoyd bình tĩnh nói.

Không bao giờ, – William đáp. – Thị trường đã quá tải Wá tải vì những nhà đầu tư nhỏ tưởng là họ sẽ nhanh chóng có được lợi nhuận mà họ liều mạng lao vào đó ông có trông thấy một quả bóng sắp nổ bao giờ chưa? Tôi sẽ bán hết. Đến cuối năm thì thl trường sẽ cạn không còn gì. Và điều này tôi đã báo trước cho ông biết từ tháng hai rồi, Alan.

Tôi vẫn chưa đồng ý với anh, William. Nhưng ngày mai tôi sẽ triệu tập toàn ban lãnh đạo, để có thể thảo luận chi tiết về những quan điểm của anh.

Cảm ơn ông, – William nói. Anh quay về chỗ làm việc và nhắc điện thoại nội bộ

lên.

Alan, tôi quên chưa nói với ông là tôi đã gặp cô gái tôi định lấy rồi. Cô ta biết chưa? – Alan hỏi.

Chưa, – William đáp.

ra thế, – Alan nói. – Vậy là đám cưới của anh cũng rất giống như sự nghiệp ngân hàng của anh đấy, William. Bất cử ai trực tiếp hên quan cũng chỉ được biết sau khi anh đã quyết định rồi.

Wilham cười, nhấc một máy điện thoại khác lên và báo việc anh đưa những tài sản của anh ra thị trường bán lấy tiền mặt. Tony Simmons lúc đó vừa bước vào ông ta đứng sững ở cửa nhìn William, tưởng như anh đã hoá điên.

– Trong tình hình hiện nay anh làm thế thì chỉ trong một đêm là sẽ mất đến cả chiếc sơ mi của anh nữa đấy.

– Nếu tôi còn cố giữ thì mất hơn thế nữa kia, – William đáp.

Tuần sau đó, anh chịu mất thêm hơn một triệu đô la nữa. Nếu là người không vững tin ở mình thì hẳn anh đã lao đao rồi.

Trong cuộc họp ban lãnh đạo vào hôm sau, anh lại bị tám phiếu chống sáu phiếu thuận về đề nghị của anh thanh toán các chứng khoán của ngân hàng. Tony Simmons đã thuyết phục được ban lãnh đạo rằng nếu không cầm cự thêm ít lâu nữa thì thật là vô trách nhiệm. William chỉ giành được một thành công nhỏ là thuyết phục các giám đốc ngân hàng đừng có mua vào nữa.

Hôm đó thị trường có lên được một chút, khiến William có dịp bán thêm được một số cổ phiếu riêng của mình. Đến cuối tuần, khi chỉ số liên tiếp tăng lên trong bốn

ngày liền, William bắt đầu tự hỏi không biết mình có làm quá đáng không, nhưng tất cả những gì anh đã học được là trực giác của anh cũng nhắc nhở cho anh biết rằng làm như thế là đúng.

Alan Lloyd không nói gì. Tiền mà William để mất đó không phải tiền của ông, vả lại ông đã đang chuần bị để lặng lẽ về hưu rồi.

Ngày 22 tháng Mười, thị trường lại tổn thất một phen nặng nề nữa và Wilham lại yêu cầu Alan Lloyd là lúc này còn cơ hội thì nên xuất đi thôi. Lần này Alan nghe anh và để cho William được quyền bán một số chứng khoán chủ yếu của ngân hàng. Ngày hôm sau thị trường lại tụt xuống một mức sâu hơn nữa.

Bây giờ ngân hàng muốn bán gì cũng không còn ai mua nữa. Chứng khoán bán hạ giá đến mức tất cả những nhà đầu tư nhỏ ở Mỹ ai cũng đua nhau tìm cách chạy vạy ngầm để khỏi thua thiệt. Những nhà buôn chỉ đến cuối ngày mới biết được mình đã thiệt mất bao nhiêu.

Alan Lloyd nói chuyện điện thoại với ngân hàng Morgan và đồng ý rằng Kane và Cabot sẽ cùng với một nhóm ngân hàng khác vực lại tình hình nguy ngập bằng những chứng khoán lớn nhất của mình William không phản đối chính sách này, vì anh nghĩ nếu là chủ trương của nhóm thì Kane và Cabot sẽ có tinh thần trách nhiệm hơn, vả lại nếu thành công thì các ngân hàng đều sẽ khá lên được, Richard Whitney, phó chủ tịch Thị trường chứng khoán New York cùng với đại diện của nhóm ngân hàng organ, hôm sau đã đến tận nơi làm cái việc đầu tư hẳn ba mươi triệu đô la vào đó. Thị trường bắt đầu chững lại. Trong ngày hôm đó, người ta bán được 12.894.650 cổ phiếu và hai hôm sau thị trường đứng vững. Mọi người, từ Tổng thống Hoover cho đến những người chạy hàng xách, đều tin rằng tình hình nguy ngập đã qua rồi. Willam đã bán hầu hết những cổ phiếu riêng của mình. Phần mất của cá nhân anh so với ngân hàng ít hơn nhiều. Trong bốn ngày, ngân hàng đã mất trên ba triệu đô la mặc dầu Tony Simmons đã chịu nghe những gì William gợi ý. Ngày 29 tháng Mười, ngày được gọi là thứ Ba Đen Tối, thị trường lại sụt xuống một lần nữa. Mười sáu triệu sáu trăm mười ba ngàn ba chục cổ phiếu phải đem bán. Các ngân hàng trên toàn quốc đều biết sự thật là bây giờ có bán cũng không ai mua nữa. Nếu như mỗi người khách hàng đòi phải có tiền mặt, hoặc giả không lưu hành những khoản tiền vay của họ nữa, thì toàn bộ hệ thống ngân hàng sẽ đổ sụp.

Cuộc họp ban lãnh đạo ngày chín tháng Mười một mở đầu bằng một phút tưởng niệm John J. Riordan, chủ tịch quỹ ủy thác của Wận và cũng là một trong những giám đốc Kane và Cabot, vì ông vừa tự sát ở nhà. Đó là vụ tự sát thứ mười một của các giới ngân hàng Boston trong vòng hai tuần. Người mới chết là bạn rất thân của Alan Lloyd. Ông Chủ tịch tuyên bố Kane và Cabot đã mất đi gần bốn triệu đô la, nhóm Morgan không thành công trong việc tập hợp các ngân hàng được, vì vậy bây giờ mỗi ngân hàng phải tự mình hành động sao cho có lợi nhất. Hầu hết các nhà đầu tư nhỏ đều

ngấm ngầm rút còn các nhà lớn hơn thì không sao có được tiền mặt. Đám đông quần chúng tức giận kéo đến trước các ngân hàng New York.

Người ta phải cho tăng cường thêm lính bảo vệ. Alan nói chỉ cần thêm một tuần như thế này nữa thôi là tất Cả chúng ta sẽ bị quét sạch. Ông xin từ chức, nhưng các giám đốc không chịu. Vị trí của ông bây giờ cũng chẳng khác gì bất cứ chủ tịch ngân hàng lớn nào ở Mỹ. Tony Simmons cũng xin từ chức nhưng các đồng sự giám đốc không ai tán thành. Xem ra ông ta cũng không còn hy vọng gì thay thế được Alan Doyd nữa, vì vậy William im lặng không hề nói gì.

Để thỏa hiệp trước tình hình, người ta phái Simmons đi London phụ trách chuyện đầu tư ở hải ngoại. Như vậy bây giờ William lên làm Giám đốc quản lý các khoản đầu tư của ngân hàng mà không còn vướng víu gì nữa. Anh lập tức mời Matthequ Lester về làm phó cho mình. Lần này, Alan Lloyd không ho he một lời nào.

Matthequ đồng ý với William vào đầu mùa xuân, vì chỉ đến lúc đó bố anh mới cho anh đi được. Bản thân Lester cũng không thiếu gì rắc rối. Do đó William phải một mình lo các chuyện của bộ phận đầu tư cho đến lúc Matthequ có thể về được. Mùa đông năm 1929 là một thời kỳ rất đáng thất vọng cho William vì các công ty lớn nhỏ do người Boston quản lý đều theo nhau thất bại. Đã có lúc anh tự hỏi không biết Kane và Cabot còn có thể sống sót được không.

Nghỉ lễ Giáng sinh, Wilham về Phorida sống một tuần sung sướng với Kate, giúp cô gói ghém đồ đạc để trở về Boston. Cô nói đùa là những thứ quà Giáng sinh của William cho cô cũng đủ chật một hòm rồi và Kate áy náy thấy anh đối với cô rộng rãi thế.

Một người đàn bà góa không còn một xu dính túi bây giờ biết tặng lại anh gì đây?

Cô nhạo anh Wilham trả lời bằng cách buộc cô vào một cái hòm còn lại và đề chữ vào đó “Tặng phẩm cho William”.

Anh trở về Boston trong lòng hết sữc phấn khởi. hy vọng lần này Kate sẽ cùng với anh báo hiệu cho một năm mới tốt lành hơn. Anh ngồi vào chỗ cũ của Tony Simmons đọc các thư từ gửi đến buổi sáng và biết rằng mình sẽ phải chủ toa. vài ba cuộc họp thanh toán dự kiến trong tuần đó. Anh hỏi cô thư ký xem mình sẽ phải gặp ai trước.
Có lẽ lại một vụ phá sản nữa, thưa ông Kanne – À phải, tôi nhớ ra rồi, – William nói. Cál tên đó đối với anh không có nghĩa gì. – Đêm qua tôi đã xem hồ sơ rồi. Vụ này thật là rất không may. Bao giờ ông ta đến?

Mười giờ, nhưng ông ta đã đang ngồi ngoài hành lang chờ ông rồi.

Thế ư? Wilham nói. – Xin cô cho ông ấy vào. Ta giải quyết cho xong việc này đi

đã.

quilliam lại mở hồ sơ để nhanh chóng nhớ lại những sự việc chính. Trong hồ sơ có một dòng gạch ngang tên khách hàng cũ là ông Davis Leroy nào đó.

Tên đó được thay thế bằng tên người khách đến sáng nay, Abel Rosnovski.

William nhớ lại rất rõ câu chuyện trước đây anh đã nói với ông Rosnovski và bây giờ anh lấy làm tiếc.

***

Phải mất đến ba tháng Abel mới thấy được hết các vấn đề nghiêm trọng của Richmond Continental và anh hiểu tại sao khách sạn lại mất đi lắm tiền thế. Sau mười hai tuần lễ mở to mắt ra mà nhìn nhưng đồng thời lại phải cố làm cho mọi người tưởng anh lơ mơ không thấy gì, anh đã đi đến kết luận đơn giản, đó là:

lợi nhuận của khách sạn đã bị đánh cắp. Tất cả bộ máy nhân viên Richmond đều ăn cánh với nhau để làm việc đó, với một quy mô mà Abel không thể ngờ tới. Và bộ máy đó không thèm đếm xỉa gì đến người phó quản lý mới, một con người đã từng biết ăn cắp bánh mì trong trại giam để mà sống sót được. Vấn đề đầu tiên đối với Abel bây giờ là làm thế nào đề không ai biết anh đã phát hiện ra chuyện đó. Anh còn tiếp tục quan sát vào từng bộ phận nhỏ trong khách sạn đã. Chẳng bao lâu, anh đà thấy rõ mỗi bộ phận đều hoàn thiện cách riêng của nó để ăn cắp tài sản cho trôi.

Trước hết là ở quầy tiếp tân. Ở đây nếu có mười khách thì họ chỉ ghi tên tám người, còn tiền của hai người kia bỏ túi. Cách họ làm rất đơn giản. Nếu là ở khách sạn Plaza New York thì chỉ trong vài phút người ta có thể phát hiện ra ngay và nhân viên làm việc đó bị đuổi tức thì. Anh phụ trách quầy tiếp tân thường chọn một đôi vợ chồng già nào đó từ một bang khác đến đặt phòng và chỉ ở lại một đêm. Anh ta sẽ bí mật tìm hiểu xem đôi vợ chồng ấy có việc gì liên quan đến người khác trong thành phố hay không, nẽu không thì họ chỉ việc coi như quên không ghi tên khách vào sổ. Sáng hôm sau nếu họ trả tiền mặt thì tiền đó được bỏ vào túi ngay, miễn là khách không ký vào sổ và như thế thì không có chứng cứ nào là khách đã từng ở khách sạn này. Từ lâu, Abel nghĩ rằng mọi khách sạn đều phải ghi tên từng người khách. Trước đây ở Plaza anh đã thấy họ làm thế rồi.

Trong nhà ăn, hệ thống ăn cắp rất tế nhị. Tất nhiên những khách nào không phải người trú trong khách sạn thì ăn trưa hay ăn tối đều trả tiền mặt.

tự nhiên, Abel dần dần phát hiện rằng giữa quầy tiếp tân với nhà ăn có liên lạc để báo cho nhau biết là với những khách nào không đăng ký trong sổ bên ngoài thì trong nhà ăn cũng không có hóa đơn. Ngoài ra thường luôn luôn có những chuyện bày ra để sửa chữa, thay thế những đồ hỏng vỡ mất mát, từ những đồ tiện nghi đến lương thực, khăn trải giường và thỉnh thoảng còn mất cả đệm nữa. Sau khi kiểm tra kỹ lưỡng từng bộ phận, Abel đi đến kết luận là quá nửa số nhân viên trong khách sạn Richmond đều có dính líu đến những vụ ăn cắp này. Không một bộ phận nào trong khách sạn có được bộ mặt hoàn toàn trong sạch.

Lúc mới đến Richmond, Abel lấy làm lạ tại sao Desmond Pacey, người quản lý, lại không thấy được những chuyện diễn ra trước mũi ông ta trong một thời gian dài như vậy. Anh đã cho rằng ông ta lười và không thích nhữag chuyện kêu ca phàn nàn, thế

thôi.

Ngay bản thân Abel cũng không thấy ngay được chính người quản lý lười ấy là kẻ chủ mưu đứng sau tất cả những vụ ăn cắp này, và vì nó hoạt động rất khéo nên anh không nhận ra ngay được. Pacey đã làm việc cho công ty Richmond này hơn ba chục năm rồi. Ông ta đã lần lượt ở cương vị quản lý của tất cả những khách sạn của công ty. Hơn thế nữa, Desmond Pacey còn là bạn riêng của Davis Leroy. Như vậy, khách sạn Richimond ở Chicago mỗi năm mất đi hơn ba không.000 đô la, một tình hình mà Abel tính rằng có thể giải quyết ngay được nếu đuổi một số đông nhân viên, và bắt đầu bằng việc đuồi chính Desmond Pacey. Chuyện này sẽ thành vấn đề ngay, vì trong ba chục năm nay Davis Leroy hầu như không đuổi một nhân viên nào.

ông ta rộng lượng, và hy vọng rằng đến một lúc nào đó chẳng phải sa thải họ cũng đi. Nhưng Abel thì cho rằng những người như thế sẽ chẳng bao giờ đi, trái lại họ còn tiếp tục ăn cắp cho đến lúc khách sạn Richmond không còn gì nữa.

Abel biết rằng cách duy nhất có thể cứu vãn được khách sạn là làm một cuộc thử thách cuối cùng nữa với Davis Leroy. Để thực hiện mục đích ấy, đầu năm 1928, anh đi chuyến tàu tốc hành từ ga ilhnois đến St Louis rồi từ đó chuyển sang tàu Missouri Paciphic về Dallas:

Anh mang theo một bản báo cáo 200 trang mà anh đã bỏ sức tập hợp liền trong ba tháng ở căn phòng nhỏ trong khu phụ của khách sạn. Sau khi Davis Leroy đọc xong tất cả những chứng cớ anh thu thập được, ông ta ngồi nhìn Abel bằng con mắt ngạc nhiên và thất vọng.

ông ta gấp hồ sơ lại và nói:

Những người này đều là bạn của tôi cả. Một số trong những người đó đã làm việc với tôi ba chục năm nay rồi. Tất nhiên trong cái nghề này bao giờ cũng có chút lừa dối, nhưng tôi không ngờ họ lại cướp bóc của tôi đến mức này.

– Phải nói là một số những người đó đã ăn cắp của ông suốt từ ba chục năm nay. – Abel nói.

Bây giờ tôi biết làm thế nào đây? – Leroy nói.

Tôi có thể chấm dứt ngay được chuyện thối nát này nếu ông loại bỏ Desmond Pacey và cho tôi toàn bộ quyền sa thải ngay tất cả những ai có dính líu đến các vụ ăn cắp.

Này anh Abel, tôi nghĩ có lẽ vấn đề không đơn giản như vậy được đâu.

Vấn đề rất đơn giản, – Abel nói. – Nếu ông không cho tôi cái quyền đối xử với những thủ phạm ấy, thì tôi xin từ chức ngay từ phút này, vì tôi không có lợi ích gì trong việc làm một phần của cái khách sạn tham nhũng nhất ở nước Mỹ này.

Hay ta giáng chức Desmond Pacey xuống làm phó quản lý? Như vậy tôi sẽ đưa anh lên làm quản lý và anh sẽ có thể kiểm soát được tình hình?

Không được đâu, Abel đáp, – Pacey còn hai năm nữa mới phải đi, mà ông ta thì

nắm chắc tất cả nhân viên Richmond. Đến lúc tôi chấn chỉnh được ông ta lại rồi thì ông cũng không còn hoặc bị phá sản hoặc cả hai. Tôi ngờ rằng tất cả những khách sạn khác của ông đều đang được quản lý theo cách ăn cắp như thế.

Nếu ông muốn xoay chuyển lại tình hình ở Chicago thì ông phải có một quyết định cứng rắn về Pacey ngay từ bây giờ, không thì sẽ nguy cho ông lắm. Tùy ông thôi.
Những người Taxas chúng tôi nổi tiếng là hay nói thẳng những điều mình nghĩ, nhưng xem ra vẫn chưa bằng anh được, Abel. Thôi được, thôi được, tôi giao quyền cho anh ngay bây giờ. Chúc mừng anh. Anh là người quản lý mới của Richmond ở Chicago. Chúc mừng anh. Chờ để tôi báo cho Al Capone biết là anh về Chicago nhé. Ông ta sẽ về đây hưởng cái bình yên ở vùng Tây Nam này. – Leroy đứng dậy vỗ vai anh quản lý mới của mình và nói tiếp. – Abel này, anh đừnag tưởng tôi là người không biết ơn đâu. Anh đã làm được một công việc rất có giá trị Ở Chicago, và từ nay trở đi tôi sẽ coi anh như cánh tay phải của tôi.

Thực tình mà nói, Abel ạ, tôi làm ăn với Thị trường Chứng khoán cũng rất khá nên tôi không để ý được đến những chuyện mất mát như vậy. Cảm ơn Chúa tôi lại có được một người bạn trung thực đấy. Anh ở lại đêm và ăn với tôi một chút chứ.

Tôi sẽ rất sung sướng được cùng ăn với ông, ông Leroy, nhưng tôi muốn ở lại đêm tại khách sạn Richmond Dallas vì có vài lý do riêng.

Anh không để cho ai được thoát tội chứ, Abel?

Nếu tránh được thì tôi tránh.

Tối hôm đó, Davis Leroy mời Abel ăn một bữa thịnh soạn và cho anh uống hơi nhiều rượu quhisky ông ta bảo tục lệ Ở miền Nam này đãi khách là phải như vậy. Ông ta còn nói với Abel rằng ông ta đang tính xem có ai đó quản lý cho toàn bộ hệ thống khách sạn Richmond để ông còn rảnh tay làm việc khác.

Chắc là ông chả muốn đến cái thằng Ba Lan ngốc nghếch chứ? Abel nói, lúc này đã hơi líu lưỡi vì say.

Abel, chính tôi mới là ngốc ngếch. Nếu như anh không khui được ra những thằng ăn cắp thì có lẽ tôi đến hỏng bét cả. Bây giờ biết được sự thật như thế rồi, chúng ta sẽ cho tất cả bọn nó một trận, rồi tôi để cho anh có cơ hội khôi phục lại cả Công ty Richmon và làm cho trở lại nổi như trước.

Abel nâng cốc lên, tay run run.

Tôi xin uống chúc mừng cho điều đó, và chúc cho sự cộng tác của chúng ta được lâu dài, thắng lợi.

Làm tới đi, Abel.

Abel ngủ lại đêm ở khách sạn Richmond Dallas.

Anh cho họ một cái tên giả, và bảo với quầy tiếp tân là anh chỉ có ở một đêm. Buổi sáng, anh theo dõi thấy biên lai chỉ có một bản và sau khi anh trả tiền rồi thì họ vứt luôn nó vào sọt rác, do đó những nghi ngờ của anh về các khách sạn Richmond

khác càng được khẳng định Vấn đề không phải có ở Chicago. Anh quyết định sẽ thanh toán xong ở Chicago trước đã, rồi sẽ tính đến nhữag vụ ăn cắp của toàn công ty sau.

Anh gọi điện thoại cho Davis Leroy để báo cáo ông biết rằng anh đã phát hiện ra chuyện ăn cắp kia ở một khách sạn nữa của công ty.

Abel trở về Chicago cũng bằng con đường đã đi. Thung lũng Mississippi trải rộng ngoài tầm mắt từ cửa sổ xe lửa nhìn ra. Cảnh lụt lội từ năm ngoái vẫn còn dấu vết. Abel nghĩ bụng về đến Richmond Chicago anh sẽ cho họ một phen chẳng kém gì cảnh lụt lội này.

Đến nơi, anh không thấy có người phục vụ ban đêm ở khách sạn, tìm mãi chỉ thấy có một nhân viên trực.

Abel quyết định để cho tất cả đám họ ngủ một đêm ngon lành đã, rồi sáng mai sẽ mời họ chia tay. Một chú nhỏ sai vặt ra mở cửa trước cho anh về căn phòng ở nhà phụ.

Ông đi mạnh khỏe chứ ạ, ông Rosnovski, – Chú bé hỏi.

Tốt, cảm ơn chú. Ở nhà thế nào?

Ôi rất yên ổn.

Được rồi đến mai chú sẽ còn thấy yên ổn hơn nữa, Abel nghĩ bụng, nhất là nhân viên còn lại sẽ chỉ có mình chú.

Abel bỏ đồ xuống rồi gọi bộ phận phục vụ phòng cho anh ăn nhẹ. Phải hơn một giờ sau họ mới đem lên. Uống cà phê xong, Abel cởi quần áo vào tắm nước lạnh, đầu nghĩ đến một kế hoạch cho ngày hôm sau.

Anh đã chọn đúng lúc trong năm để phục vụ “thảm sát’, này. Bây giờ mới chỉ là đầu tháng hai và khách sạn chỉ có chừng 25 phần trăm khách. Abel tin rằng chỉ với một nửa số nhân viên hiện nay là đủ cho khách sạn Richmond hoạt động. Anh trèo lên giường, vứt bỏ gối xuống sàn, rồi lăn ra ngỉl say như chú bé nhân viên kia vậy.

Desmond Pacey, người mà ai ở Richmond cũng gọi ông ta là Pacey Lười, nay đã sáu mươi ba tuổi. Ông ta béo quá mức, chân ngắn và đi lại rất chậm chạp.

Desmond Pacey đã từng chứng kiến bảy người phó quản lý đến khách sạn này và ra đi. Một số thì quá tham và muốn nhận về phần mình nhiều hơn, số khác thì không hiểu được cái hệ thống ăn cắp kia làm ăn thế nào. Ông ta cho rằng anh chàng Ba Lan này cũng chẳng thông minh gì hơn những anh trước đây. Ông ta thủng thẳng đi đến văn phòng Abel để chuẩn bị họp vào mười giờ, miệng ti tỉ hát. Lúc này đã mười giờ mười bảy phút rồi.

Xin lỗi để anh phải chờ, – Ông quản lý nói nhưng không có vẻ xin lỗi gì hết. Abel không nói câu nào.

Tôi đang bận chút việc ở quầy tiếp tân, chắc anh biết là việc gì rồi.

Abel biết quá đi chứ. Anh từ từ mở ngăn kéo bàn, lấy ra để trước mặt ông ta bốn

chục tờ biên lai đã nhầu nát, có tờ bị xé làm bốn năm mảnh. Đó là những biên lai anh nhặt lại từ trong sọt rác hoặc những đĩa gạt tàn thuốc lá, những biên lai đã được khách trả tiền mặt nhưng không bao giờ được ghi vào sổ. Anh nhìn ông quản lý béo lùn cầm những mảnh giấy đó lên xem mà chưa biết là gì.

Desmond Pacey không thể hiểu được thật. Mà ông ta cũng không cần hiểu làm gì. Ông chẳng có chuyện gì đáng phải lo. Nếu như anh chàng ngốc Ba Lan này định chơi vào hệ thống ăn cắp của ông ta thì hoặc là ông cho anh hưởng một chút nào đó, hoặc là anh cuốn xéo đi chỗ khác, vậy thôi. Pacey nghĩ bụng không biết mình có thể cho anh ta được bao nhiêu phần trăm.

Có lẽ lúc này cho anh ta được ở trong một căn phòng tử tế thì bịt miệng được đấy.

Ông bị đuổi, thưa ông Pacey, và tôi yêu cầu ông đi khỏi nơi này trong vòng một

giờ.

Desmond Pacey hầu như không nghe anh nói những lời ấy vì ông ta không thể nào tin như vậy được – Anh vừa nói gì thế? Tôi không nghe rõ.

Ông nghe rõ rồi, – Abel nói. – Ông bị đuổi.

Anh không thể đuổi tôi được. Tôi là người quản lý và tôi đã làm việc với công ty Richmond trên ba mươi năm nay rồi. Nếu có chuyện phải đuổi ai thì tôi là người làm cái việc đó. Lạy Chúa, anh tưởng anh là ai thế?

Tôi là người quản lý mới.

Sao?

Người quản lý mới. – Abel nhắc lại. – Ông Leroy vừa chỉ định tôi hôm qua, và bây giờ tôi đuổi ông đó, ông Pacey.

Về tội gì?

Về tội ăn cắp có quy mô. – Abel giơ những tờ biên lai đó lên để ông ta nhìn rõ hơn bằng cặp kính của mình. – Mỗi một người khách này đều trả tiền cả, nhưng không có một xu nào của họ rơi vào quỹ của Richmond. Và hóa đơn nào cũng có chữ ký của ông trong đó.

Đến một trăm năm nữa anh cũng chả chứng minh được gì hết.

Phải, tôi biết, – Abel nói. – Ông tổ chức một bộ máy giỏi lắm. Nhưng ông có thể đem bộ máy ấy đi hoạt động ở chỗ khác, còn ở đây thì vận của ông đã hết rồi. Ông Pacey ạ, người Ba Lan có câu phương ngôn cổ như thế này:

Bình có quai thì mới xách được nước. Bây giờ quai đã gẫy rồi, và ông thì bị đuổi.

Anh không có quyền đuổi tôi. – Pacey nói. Mồ hôi toát ra ướt hết cả trán ông ta. – Davis Leroy là bạn thân của tôi. Chỉ ông ta mới có quyền đuồi tôi thôi.

Anh là người từ New York mới lên đây được ba tháng. Dù anh có nói với ông ta thì ông ta cũng chẳng nghe. Tôi chỉ cần gọi điện thoại một cái là có thề vứt anh ra khỏi khách sạn này.

ông gọi đi. – Abel nói. Anh nhắc điện thoại lên và bảo tổng đài cho nói chuyện với

Davis Leroy ở Dallas.

Hai người nhìn nhau và chờ. Bây giờ mồ hôi đã nhỏ giọt xuống đến đầu mũi Pacey. Abel chợt nghĩ trong bụng không biết ông chủ mình có còn kiên quyết nữa không.

Xin chào ông Leroy. Đây là Abel Rosnovski gọi từ Chicago. Tôi vửa đuổi Desmond Pacey và ông ta muốn nói chuyện với ông một câu.

Pacey run rẩy cầm lấy điện thoại. Ông ta chỉ nghe một lát.

Nhưng, Davis, tôị… tôi biết ìàm thế nào? Tôi thề với ông là không phải như vậỵ… Hẳn có sự nhầm lẫn gì đây Abel nghe thấy tiếng điện thoại ngắt.

Một giờ nữa, ông Pacoy, – Abel nói. – Nếu không tôi sẽ đưa những tờ biên lai này sang Cảnh sát Chicago.

Khoan đã, – Pacey nói. – Anh đừng vội thế. – Giọng nói và cử chỉ của ông ta đã thay đổi hẳn. – Chúng tôi có thể đưa anh nhập vào hệ thống hoạt động này. Nẽu chúng ta cùng quản lý khách sạn thì anh sẽ có thu nhập rất khá. Sẽ có nhiều tiền hơn lúc anh làm phó quản lý cơ. Mà chúng ta đều biết Davis sẽ có thể chấp nhận được những mất mát….

Tôi không còn là phó quản lý nữa, ông Pacey. Tôi là quản lý rồi. Vậy mời ông đi cho, đừng để tôi phải tống đi.

Thằng Ba Lan khốn nạn, – Ông ta nói, biết rằng mình đã chơi đến con bài cuối cùng rồi nhưng không được – Anh liệu mà mở to đôi mắt của anh ra nhé, anh Ba Lan ạ, rồi tôi sẽ cho anh biết tay.

ông ta nói rồi bỏ ra. Đến giờ ăn trưa thì một loạt những người khác cũng theo gót ông ta ra ngoài đường từ trưởng nhà bàn, nhà bếp, nhà phòng, đến trưởng quầy tiếp tân, trực cửa cùng với mười bẩy nhân viên khác của Richmond mà Abel cho rằng không thể nào tha thứ được. Đến chiều, anh triệu tập tất cả những người làm việc còn lại, giải thích cho họ nghe chỉ tiết những việc anh đã làm và tại sao phải làm để đảm bảo cho mọi người biết rằng công việc của họ không có gì đáng lo ngại nữa.

Nhưng Abel cũng nói:

-Nếu tôi còn tìm thấy một đô la nào, chỉ một đô la thôi, không được để vào đúng chỗ của nó thì người liên quan sẽ bị đuổi ngay tức thì, mà không cần phải lý giải gì nữa. Các anh nghe rõ cả rồi chứ?

Không ai nói gì.

Trong mấy tuần lễ sau đó, nhiều nhân viên khác của Richmond cũng bỏ đi sau khi họ thấy rằng Abel không có ý định làm như Desmond Pacey trước đây và cũng không kiếm lợi gì vào đó cho riêng mình. Nhưng họ bỏ đi thì có người khác vào thay ngay.

Vào cuối tháng ba, Abel mời bốn người của khách sạn Plaza về làm việc ở Richmond. Những người này có ba điều giống nhau:

trẻ, nhiều tham vọng và lương thiện. Trong sáu tháng liền, chỉ có 37 người so với

110 người trước kia còn làm việc trong khách sạn Richmond. Vào cuối năm đầu, Abel mở một chai sâm banh thật to để cùng với Davis Leroy chúc mừng Richmond Chicago đã làm ăn có lãi. Lợi nhuận được 3.468 đô la. Số tiền lãi tuy nhỏ, nhưng là khoản lãi đầu tiên của khách sạn kể từ khi nó ra đời đến nay ba chục năm. Abel dự kiến sang năm 1929 sẽ thu lợi nhuận trên 25.000 đô la.

Davis Leroy rất vui mừng. Mỗi tháng ông ta lên thăm Chicago một lần, và bắt đầu tin tưởng ở các ý kiến của Abel. Ông ta còn thừa nhận rằng cái gì đã đúng với Richmond Chicago cũng sẽ đúng với tất cả những khách sạn khác của công ty. Abel thì muốn để xem khách sạn ở Chicago hoạt động trôi chảy như một xí nghiệp làm ăn đứng đắn và có lãi đã rồi mới xét đến những nơi khác. Leroy đồng ý và hứa sẽ dành cho Abel cương vị cộng tác ở các nơi khác thuộc công ty như dã làm ở Chicago.

Mỗi lần Davis đến Chicago, họ cùng chơi dã cầu và đua ngựa với nhau. Một lần, Davis thua mất 700 đô la mà không giành được tí gì trong cả sáu cuộc đua ngựa, ông ta giơ hai tay lên trời than vãn:

– Ôi, tôi cần gì phải bận tâm đến chuyện ngựa nữa, Abel nhỉ? Cứ đua với anh là đủ

rồi.

Cô Melanie Leroy mỗi lần cũng đi theo bố về đây.

Cô xinh đẹp nhưng lạnh lùng, người nhỏ nhắn có đôi chân hấp dẫn và thu hút sự chú ý của mọi người trong khách sạn. Đối với Abel, cô có vẻ cao ngạo khiến anh muốn nói chuyện làm thân gì với cô cũng khó. Cô ta cũng không để cho anh được gọi bằng cái tên thân mật “Melanie” mà phải gọi bằng “Cô Leroy” hẳn hoi.

Mãi về sau cô ta mới biết rằng anh tốt nghiệp bằng kinh tế ở Đại học Columbia và còn hiểu biết về tiền nong hơn cô rất nhiều. Từ đó, cô ta nói năng có vẻ dịu dàng hơn và thỉnh thoảng còn đến ăn một mình trong khách sạn với Abel và nhờ anh giúp cho trước khi cô thi lấy bằng Nghệ thuật Tự do ở trường Đại học Chicago. Mỗi lúc một mạnh bạo hơn, thỉnh thoảng Abel cùng cô đi nghe hoà nhạc, xem hát, và đôi khi cũng cảm thấy hơi ghen mỗi khi cô đưa bạn trai đến ăn ở khách sạn mặc dầu mỗi lần đến cô đi với một bạn khác.

Dưới bàn tay quản lý vững chắc của Abel, nhà bếp trong khách sạn đã cải tiến được rất nhiều món ăn ngon, đến nỗi có những người đã ở Chicago ba chục năm nay nhưng chưa hề biết là có khách sạn này, bây giờ cũng gọi đến giữ chỗ ở nhà ăn vào mỗi tối thứ bảy.

Abel cho trang trí lại toàn bộ khách sạn – Đã hai chục năm nay bây giờ mới được trang trí – Và cho các nhân viên ăn mặc đồng phục bằng các màu xanh và vàng.

Có một người khác mỗi năm thường về ở Richmond, một tuần và cứ đều như thế một chục năm nay, vừa bước vào cửa khách sạn đã lại quay ra, tưởng mình vào nhằm khách sạn khác. Khi Al Capone đặc tiệc cho mười sáu người trong một phòng riêng của khách sạn để mừng ngày sinh nhật, lần thứ ba mươi của ông ta, Abel biết rằng như

thế là anh đã đạt tới đỉnh cao của con đường sự nghiệp.

Trong khi thị trường chứng khoán phát triển thì tài sản riêng của Abel cũng tăng thêm. Mười tám tháng trước kia anh rời khách sạn Plaza thì vốn liếng chỉ có 8.000 đô la, bây giờ tài khoản anh đã lên đến ba không.000 đô la. Anh tin rằng giá thị trường sẽ còn tăng lên nữa, vì vậy bao giờ anh cũng lấy tiền lợi nhuận ra tái đầu tư nữa. Những yêu cầu cá nhân của anh vẫn còn rất khiêm tốn. Anh đã sắm được hai bộ quần áo mới và một đôi giầy nâu mới. ăn ở do khách sạn cung cấp, và anh cũng không có gì phải chi tiêu ngoài.

Tương lai của anh xem ra là sáng sủa. Công ty Richmond vẫn có tài khoản trong ngân hàng Continental từ hơn ba chục năm nay, vì vậy khi mới đến Chicago anh đã cho chuyển tiền của mình về ngân hàng này. Hằng ngày ra ngân hàng gửi số tiền khách sạn thu được ngày hôm trước. Vào một buổi sáng thứ sáu, anh ngạc nhiên thấy có người nhắn là giám đốc ngân hàng muốn gặp anh nói chuyện. Anh biết rằng không thể có chuyện tài khoản riêng của mình bị rút ra quá mức bao giờ, vì vậy anh đoán chắc là cuộc gặp này có cái gì đó liên quan đến Richmond.

Chắc cũng không thể có chuyện tài khoản của khách sạn không đủ để trả nợ cho ngân hàng, nếu có thì ba chục năm nay bây giờ mới là lần đầu. Một nhân viên trẻ của ngân hàng dẫn Abel đi qua dãy hành lang đến trước một khung cửa gỗ rất lịch sự. Một tiếng gõ khẽ, rồi người ta đưa anh vào gặp giám đốc.

Tên tôi là Ctưtis Phenton, – Người đứng sau bàn giấy tự giới thiệu và đưa tay ra bắt tay Abel, mời anh ngồi xuống chiếc ghế da màu xanh lá cây. Trông người ông ta tròn trĩnh, gọn gàng đeo đôi mắt kính bán nguyệt, cổ sơ mi trắng bong với chiếc cavát đen đi với bộ đồ ba mảnh của ông chủ ngân hàng.

Cảm ơn ông, – Abel bứt rứt nói. Không khí lúc này khiến anh nhớ lại cuộc gặp gỡ trước đây nỗi lo ngại là không biết rồi cái gì sẽ xảy ra.

Lẽ ra tôi mời ông cùng ăn trưa để nói chuyện thì tốt hơn , thưa ông Rosnovskị.. , nhưng…

Abel sững người. Anh quá biết rằng những ông chủ ngân hàng này chẳng dễ gì mời ai ăn không mất tiền nếu như họ không có những điều phiền toái muốn nói cho anh nghe.

Nhưng có một vấn đề vừa xảy ra cần phải được giải quyết nên tôi muốn được cùng bàn với ông ngay.

Tôi xin đi thẳng vào vấn đề, thưa ông Rosnovski. Một trong những vị khách hàng đáng kính nhất của chúng tôi một bà có tuổi, bà Amy Leroỵ… Abel nghe nói đến tên đó ngồi thẳng ngay dậy,…. bà ta nắm trong tay hai mươi lăm phần trăm cổ phiếu của Công ty Richmond. Trước đây bà ta đã nhiều lần muốn chuyển những cổ phiếu đó sang tay ông em là Davis Leroy, nhưng ông ấy hoàn toàn không quan tâm gì đến việc mua lại nhữag cổ phiếu của bà Amy hết. Tôi có thể hiểu được những lý lẽ của ông

Leroy. Ông ấy vốn đã có bảy mươi lăm phần trăm cổ phiếu của công ty rồi, chả cần phải bận tâm gì đến chỗ hai mươi lăm phần trăm còn lại kia nữa. Tài sản này là do các cụ để lại cho hai người. Nhưng bà Amy thì cứ muốn ìà đem bán những cổ phiếu ấy đi vì cứ để như thế nó sẽ chẳng bao giờ sinh lãi được.

Abel nghe chuyện đó không lấy làm ngạc nhiên chút nào.

ông Leroy cho biết là ông không phản đối việc bà Amy muốn đem bán những cổ phiếu ấy. Bà ta thì nghĩ rằng ở cái tuổi già nua hiện nay, thà có ít tiền để chi trước mắt còn hơn là cứ ngồi đó chờ cho đến khi công ty làm ăn có lãi thì không biết bao giờ. Do đó, thưa ông Rosnovski, tôi sẽ rất hoan nghênh nếu như ông biết có người nào quan tâm đến việc mua bán khách sạn và từ đó quan tâm đến việc mua những cổ phiếu này chăng?

Bà Leroy định bán những cổ phiếu ấy với giá bao nhiêu? – Abel hỏi.

Ồ tôi nghĩ bà ấy chỉ cần bán lấy sáu mươi lăm ngàn đô la thôi.

Sáu mươi lăm ngàn thì hơi cao đối với loại chứng khoán không đem lại chút lời lãi nào, – Abel nói. Anh nói thêm, – Và trong những năm tời nó cũng chẳng có hy vọng gì hơn.

A, nhưng ông nên nhớ rằng người ta còn tính đến giá trị của cả mười một khách sạn kia nữa. – Crutis Phenton nói.

Nhưng việc kiểm soát công ty vẫn là ở trong tay ông Leroy, như vậy thì hai mươi lăm phần trăm cổ phiếu của bà Leroy kia chẳng qua chỉ là những mẩu giấy thôi, không có nghĩa gì.

Thôi thôi ông Rosnovski ơi, hai mươi lăm phần trăm của mười một khách sạn là cổ phần rất có giá trị, vậy mà chỉ có sáu mươi lăm ngàn đô la thôi đấy.

Không có giá trị gì chừng nào ông Davis ieroy vẫn nắm quyền kiểm soát toàn bộ. Ông nói với bà Leroy là chỉ nên bán lấy bốn chục nghìn đô la thôi, ông Phenton ạ, như thế thì may ra tôi kiếm được người nào đó quan tâm đến chuyện này cho ông.

Ông không thể nghĩ là người đó có khả năng trả được cao hơn một chút sao? – Ông Phenton nhướng đôi lông mày khi ông nói đến chữ cao hơn.

Hơn một xu nữa cũng chả có đâu, ông Phenton.

ông chủ ngân hàng chụm đầu ngón tay vào nhau, tỏ vẻ đánh giá Abel không phải vừa.

Vậy để tôi hỏi lại bà Amy xem ý kiến bà ấy thế nào. Tôi sẽ liên hệ và báo cho ông biết ngay nhé.

Rời văn phòng Curtis Phenton bước ra, tim Abel cũng đập rộn lên như lúc anh bước vào vậy. Anh vội quay về khách sạn kiểm tra vốn liếng của mình. Tài khoản của anh hiện nay đang là 33.112 đô la với tiền riêng ở ngoài là 3.008 đô la. Kiểm lại xong, Abel định tiếp tục làm việc như mọi ngày thường, nhưng đầu óc anh khó tập trung, không biết rằng cái bà Amy Leroy kia sẽ phản ứng với cái giá anh trả ra sao, anh nghĩ

bụng không biết nếu mình nắm trong tay 25 phần trăm lãi suất của công ty Richmond thì tình hình sẽ ra thế nào.

Anh ngập ngừng mãi rồi mới báo cho Davis Leroy biết chuyện này. vì anh sợ rằng ông bạn Texas rất khôn ngoan kia có lẽ cho những tham vọng của anh là một thứ đe dọa gì chăng. Sau vài ngày suy nghĩ kỹ, anh cho rằng cứ nên đàng hoàng gọi cho Davis và báo cho ông ta biết những ý muốn của anh.

Tôi muốn nói để ông biết tại sao tôi làm điều này, Davis. Tôi tin rằng công ty Richmond sẽ có một tương lai sáng sủa, và ông có thể tin chắc rằng do có tiền của tôi nằm trong đó thì tôi sẽ càng làm việc cật lực hơn. – Anh ngừng lại, rồi nói tiếp:

Nhưng nếu ông muốn nhận cả hai mươi lăm phần trăm đó về cho ông thì tôi cũng thông cảm.

Anh lấy làm ngạc nhiên thấy ông ta không hám. – Thế này nhé, Abel. Nếu anh tin tưởng ở công ty thì anh cứ việc mua chỗ cổ phiếu đó của Amy đi. Tôi sẽ lấy làm tự hào có anh làm người cùng chung vốn.

Thế là được rồi đấy. Nhân đây, tôi cũng báo cho anh biết là tuần sau tôi sẽ mua thêm nhà chơi của Hội Sư tử Đỏ Thế nhé.

Abel vui mừng hết sức.

Xin cảm ơn ông, Davis. Ông sẽ không bao giờ phải ân hận về quyết định này của

ông.

Tôi cũng tin như vậy, anh bạn chung vốn ạ. Một tuần sau, Abel trở lại ngân hàng. Lần này, chính anh là người xin gặp ông giám đốc. Lại một lần nữa, anh ngồi xuống chiếc ghế da màu xanh lá cây và chờ ông Phenton nói.

Tôi rất ngạc nhiên thấy rằng – Curtis Phenton bắt đầu nói nhưng không có vẻ gì ngạc nhiên. – Bà Leroy chấp nhận số tiền bốn chục ngàn đô la để bán hai mươi lăm phần trăm cồ phiếu của bà ta trong công ty Richmond. – Ông ta ngừng một lát rồi nhìn lên Abel.

Bây giờ đã được bà ta đồng ý như vậy rồi, tôi? xin hỏi ông có thể cho tôi biết ai là người mua những cổ phiếu ấy được không?

Vâng, Abel đáp một cách tin tưởng. – Tôi sẽ là người mua chính. – – À vâng, thưa ông, Rosnovski, – Giọng ông ta vẫn không tỏ ra ngạc nhiên.

Tôi xin phép hỏi ông làm thế nào có được bốn chục nghìn đô la?

Tôi sẽ thanh toán những cổ phiếu của tôi và rút tiền trong tài khoản riêng, tất cả cộng lại chỉ còn thiếu chừng bốn ngàn đô la nữa. Tôi hy vọng ông sẽ có thể cho tôi tạm vay số tiền đó vì ông cũng rất tin rằng những cổ phiếu của Công ty Richmond chưa được đánh giá hết mức của nó. Vả lại, số tiền bốn ngàn đô la ấy cũng chẳng qua chỉ bằng tiền hoa hồng của ngân hàng mà thôi.

Curtis Phenton chớp mắt và nhăn mặt. Những người lịch sự có nói trắng trợn như vậy trong ngân hàng của ông bao giờ đâu. Điều làm cho ông bực hơn nữa là Abel lại

chỉ có đúng bấy nhiêu tiền thôi.

Xin ông cho tôi chút thời gian để suy nghĩ về đề nghị của ông nhé, ông Rosnovski. Rồi tôi sẽ báo lại để ông biết?

Nếu để chờ lâu nữa thì tôi sẽ không cần phải vay tiền, – Abel nói. – Với tình hình thị trường xoay chuyển như bây giờ thì các khoản đầu tư khách của tôi cũng sẽ đạt tới đủ bốn chục nghìn.

Abel phải chờ thêm một tuần nữa thì được ngân hàng Continental báo cho anh biết họ sẵn sàng ủng hộ anh. Anh lập tức thanh toán các tài khoản và vay thêm gần 4.000 đô la nữa để bù vào cho đủ bốn chục ngàn.

Trong sáu tháng, Abel đã trả được món nợ 4.000 đô la bằng cách mua vào bán ra cổ phiếu từ tháng ba đến tháng tám năm 1929, đó là những ngày làm ăn tốt nhất của thị trường chứng khoán.

Đến tháng chín, các tài khoản chung và riêng của anh đều có nhích lên hơn. Anh có thêm khá tiền để mua cho mình chiếc xe Buick mới và lúc này coi như anh đã làm chủ 25 phần trăm hệ thống khách sạn của Công ty Richmond. Abel lấy làm sung sướng đã bám được rất chắc vào giang sơn của Davis Leroy. Bây giờ thì anh càng tin tưởng có thể theo đuổi cô con gái của ông ta và theo đuổi cả 75 phần trăm tài sản còn lại kia nữa.

Đầu tháng Mười, anh mời Melanie đi nghe chương trình nhạc Mozart biểu diễn tại nhà giao hưởng Chicago. Diện bộ quần áo đẹp nhất vào người để tỏ ra anh đã béo tốt hơn trước, đeo chiếc cavát lụa đầu tiên và ngắm nhìn trong gương, anh tin rằng buổi tối nay anh sẽ thành công với người đẹp. Nghe hoà nhạc xong, Abel tránh không về Richmond mặc dầu thức ăn ở đó nay đã rất ngon, anh đưa Melanie đến ăn nhà hàng Loop. Anh cẩn thận, chỉ nói đến những chuyện kinh tế, chính trị, hai chủ đề mà cô ta biết là anh thông thạo. Cuối cùng, anh mời cô về phòng mình uống rượu. Cũng là lần đầu tiên cô ta được thấy những phòng trang trí rất đẹp như thế.

Abel rót Coca-Cola theo yêu cầu của cô, bỏ vào cốc vài viên đá nhỏ, đưa cốc cho cô và trong lòng càng tin tưởng thấy cô nhìn anh mỉm cười. Anh không khỏi liếc mắt nhìn vào đôi chân thon của cô bắt tréo lại với nhau. Anh tự rót cho mình một cốc buốc-bông.

Cảm ơn anh, Abel, về buổi tối rất thú vị.

Anh ngồi xuống bên cạnh cô, xoay xoay cốc rượu trong tay nghĩ ngợi.

Trong rất nhiều năm tôi không được nghe âm nhạc Đến lúc nghe thì thấy nhạc của Mozart đi sâu vào tâm hồn mình hơn bất cứ nhà soạn nhạc nào khác Đôi khi trông anh rất là Trung – âu, Abel ạ. – Cô kéo tà áo lụa bị Abel ngồi phải. – Ai mà ngờ được rằng ông quản lý khách sạn lại thèm chú ý đến Mozart như vậy chứ Một trong những ông cha tôi, vị Nam tước Rosnovski đầu tiên, – Abel nói, đã có một lần được gặp nhà thiên tài đó và ông ta trở thành bạn thân của gia đình, do đó tôi vẫn thường

nghĩ rằng Mozart là một phần của đời tôi.

Nụ cười của Melanie rất khó khăn, không biết cô thật sự nghĩ gì. Abel nghiêng đầu hôn vào má cô ở trên tai một chút, nơi có mấy sợi tóc vàng lòa xòa xuống mặt. Cô ta vẫn tiếp tục nói chuyện như không để ý gì đến hành động này của anh.

Phrederick Stock biểu diễn chương ba hết sức sinh động, anh có thấy thế không? Abel lại định hôn nữa. Lần này cô xoay mặt về phía anh để cho anh được hôn lên

môi. Rồi cô lùi lại.

Có lẽ tôi phải về trường đây.

Nhưng cô vừa mới đến mà, -Abel vội vã nói. Vâng, tôi biết thế, nhưng sáng mai tôi phải dậy sớm. Chương trình ngày mai nặng lắm.

Abel lại hôn cô nữa. Cô ngả người ra ghế và Abel dần dần đưa tay lên ngực cô. Cô bỗng vùng đẩy anh ra.

Tôi phải đi đây, Abel, – Cô nói.

Thôi đừng, cô đừng đi vội, – Anh nói rồi lại định hôn cô nữa.

Abel, anh làm gì thế? Anh tưởng mời tôi đi dự hoà nhạc và cho tôi ăn một bữa là có quyền mó vào người tôi đấy sao?
Nhưng chúng ta đã đi với nhau như thế hàng tháng nay rồi, – Abel nói. – Tôi nghĩ là cô không lấy thế làm phiền chứ.

Có phải chúng ta đi với nhau hàng tháng đâu, Abel. Chỉ thỉnh thoảng tôi ăn với anh trong phòng ăn của cha tôi, anh tưởng như vậy có nghĩa là chúng ta đã đi với nhau hàng tháng sao?

Tôi xin lỗi, – Abel nói. – Tôi không hề có ý muốn làm gì cô, chỉ là muốn sờ vào nglrời cô thế thôi.

Tôi không bao giờ cho phép người đàn ông nào sờ vào người tôi, cô nói. – Trừ phi tôi sẽ lấy người đó.

Nhưng tôi muốn lấy cô, – Abel chậm rãi nói. Melanie phá lên cười.

Có gì lạ đâu mà cười? – Abel đỏ mặt lên hỏi.

Anh đừng ngớ ngẩn, Abel, tôi không bao giờ có thể lấy anh được.

Tại sao không? – Abel hỏi, rất lạ với cái giọng kiên quyết đó của cô ta.

Sẽ chẳng bao giờ có thể có chuyện một người đàn bà dòng dõi ở miền Nam mà đi lấy một người Ba Lan mới nhập cư đâu, – Cô ta đáp và ngồi thẳng dậy vuốt lại tà áo
Nhưng tôi là một Nam tước, – Abel nói với giọng kiêu hãnh.

Chắc anh không nghĩ là có người tin điều đó chứ, Abel? Anh không thấy là mỗi khi anh nhắc đến cái danh tước ấy thì cả đám nhân viên khách sạn đều cười vào lưng anh đó sao?

Anh chững người, cảm thấy quái lạ, mặt lúc đỏ lúc tái – Họ cười sau lưng tôi à?, – Anh dằn giọng hỏi.

Phải, – Cô đáp. – Hẳn anh biết rằng trong khách sạn người ta đã đặt cho anh cái tên là Nam tước Chicago chứ Abel lặng người không nói được.

Thôi anh đừng có ngốc nghếch và bận tâm về chuyện đó làm gì nữa. Tôi nghĩ anh đã làm được một việc rất tốt cho bố tôi và bố tôi rất khâm phục anh đấy, nhưng tôi thì chả bao giờ có thể lấy anh được.

Abel ngồi yên lặng, lẩm bẩm nhắc lại câu cô ta vừa nói.

Tất nhiên thế rồi. Bố tôi rất quý anh, nhưng ông sẽ chẳng bao giờ đồng ý cho anh làm con rể ông ấy được đâu – Tôi xin lỗi đã xúc phạm đến cô, – Abel nói.

Không đâu, Abel. Trái lại tôi cho như thế là mình được quý chuộng. Thôi, chúng ta hãy quên đi đừag nói đến chuyện ấy nữa. Có lẽ anh vẫn đồng ý đưa tôi về nhà chứ?
Cô đứng dậy đi ra cửa trong khi Abel vẫn còn ngồi sững người. Anh chậm chạp đứng dậy và khoác áo ngoài vào cho Melanie. Đi trong hành lang, anh chợt nhớ ra mình hơi bị thọt chân. Họ cùng vào thang máy, rồi anh gọi xe đưa cô về. Trong khi xe tắc xi đợi ở ngoài, anh tiễn cô vào đến tận cổng ký túc xá của nhà trường. Anh hôn tay cô.

Tôi mong rằng điều này không có nghĩa là chúng ta không còn là bạn của nhau nữa, – Melame nói.

Tất nhiên rồi, – Anh cố đáp.

Cảm ơn anh mời tôi dự buổi hòa nhạc, Abel. Tôi tin chắc anh muốn tìm một cô gái Ba Lan đẹp để lấy cô ta sẽ chẳng khó khăn gì đâu. Chúc anh ngủ ngon nhé.

– Chào cô, – Abel nói.

Abel nghĩ là sẽ không có khó khăn gì lắm với thị trường chứng khoán New York, nhưng một hôm có người khách hỏi anh xem có thể thanh toán tiền khách sạn bằng cổ phiếu được không, anh mới ngớ ra.

Bản thân Abel chỉ giữ một số ít cổ phiếu vì bây giờ hầu hết tiền nong của anh đã gắn với Công ty Richmond rồi. Tuy nhiên anh cũng nghe lời khuyên của đại lý và bán hết những cổ phiếu còn lại của anh dù chịu thiệt một ít nhưng tài sản còn lại vững vàng hơn. Giá như vốn liếng của anh vẫn còn ngoài thị trường thì có lẽ anh đã không để ý đến những hoạt động lên xuống hàng ngày của chỉ số Doqu Jones.

Wãng nửa năm đầu, khách sạn làm ăn khá. Abel tính với đà này anh sẽ thực hiện được lợi nhuận như dự kiến là 25.000 đô la cho năm 1929, và anh thường xuyên báo cho Davis Leroy về nhữnb tiến bộ đã đạt được Nhưng đến tháng mười thì diễn ra vụ suy thoái và khách sạn chỉ còn nửa số khách đến thuê. Vào ngày Thứ ba Đen tối, Abel gọi điện xuống cho Davis Leroy.

ông chủ người Texas thường vẫn rất vui tính này bây giờ có vẻ chán chường, lo nghĩ, và không muốn dính đến những chuyện sa thải người làm việc của khách sạn

nữa, điều mà Abel thấy đang rất cấp bách.

Cứ chờ đấy đã, Abel, – Ông chủ nói. – Tuần sau tôi sẽ lên rồi ta cùng giải quyết, hoặc là tìm cách giải quyết Abel nghe ông ta nói câu sau mà chột dạ.

Có vấn đề gì đấy Davis? Có gì ông cần đến tôi không?

Lúc này thì chưa.

Tại sao ông không giao quyền cho tôi giải quyết ngay bây giờ rồi tuần sau ông lên đây tôi sẽ báo cáo lại có được không?
Không dễ dàng thế đâu, Abel. Tôi không muốn bàn nhữag vấn đề này trên điện thoại, nhưng ngân hàng họ đang gây rắc rối với tôi về chuyện thua thiệt, trên thị trường chứng khoán, họ dọa nếu tôi không thu đủ tiền trả nợ thì sẽ buộc tôi phải bán hết khách sạn đi.

Abel lạnh người.

Nhưng anh không có gì phải lo đâu, – Davis nói tiếp một cách yếu ớt. – Tuần sau lên Chicago tôi sẽ nói chi tiết cho anh biết. Từ nay đến đó, tôi tin rằng sẽ thu xếp được ổn thỏa thôi.

Điện thoại ngắt. Anh toát mồ hôi đầy người. Điều đầu tiên anh nghĩ là phải làm thế nào để giúp được cho Davis. Anh gọi sang cho Curtis Phenton để hỏi tên người chủ ngân hàng kiểm soát Công ty Richmond là ai. Anh cảm thấy nếu mình gặp được người đó thì có thể đỡ được cho Davis lắm.

Mấy ngày sau đó Abel liên tục gọi cho Davis nhiều lần để nói với ông ta rằng tình hình đang mỗi lúc một tồi tệ hơn, vì vậy phải có quyết định gấp. Nhưng Davis lại càng tỏ ra lúng túng chưa biết phải quyết định như thế nào. Đến lúc tình hình không còn kiểm soát được nữa, Abel tự mình quyết định. Anh bảo cô thư ký gọi điện thoại đề anh nói chuyện với chủ ngân hàng nắm Công ty Richmond trong tay.

Thưa ông gọi ai, ông Rosnovski? – Tiếng một người đàn bà trịnh trọng hỏi.

Abel nhìn xuống tên viết trên mảnh giấy để trước mặt và cũng trả lời lại bằng một giọng trịnh trọng.

– Tôi xin chuyển cho ông.

Kính chào, – Một giọng oai vệ Ở đầu dây đằng kia nói. – Tôi giúp gì được ông đây?

– Tôi hy vọng như vậy, thưa ông. Tên tôi là Abel Rosnovski, – Abel hồi hộp nói. – Tôi là người quản lý khách sạn Richmond Chicago, và tôi muốn được gặp ông để bàn về tương lai của Công ty Richmond.

Tôi không có quyền bàn bạc với ai trừ ông Davis Leroy, – Giọng dứt khoát trên dây đáp.

Nhưng tôi là chủ của 25 phần trăm tài sản Công ty Richmond kia mà, – Abel nói.

Như vậy cần có người giải thích cho ông biết rằng trừ phi ông làm chủ 51 phần

trăm tài sản, không thì ông không có cương vị gì bàn bạc với ngân hàng được, hoặc trừ phi ông được ông Davis Leroy ủy quyền.

Nhưng ông ấy là bạn thân của tôị…

Hẳn là như thế rồi, thưa ông Rosnovski.

Và tôi muốn giúp -ông Leroy có giao cho ông quyền đại diện không? Không, nhưng….

Vậy thì rất tiếc. Về mặt nghề nghiệp, tôi sẽ không thể tiếp tục câu chuyện này với ông được.

Sao ông nhẫn tâm vậy? – Abel nói nhưng liền đó lấy làm ân hận ngay.

Đó là ông nghĩ vậy thôi, ông Rosnovski. Xin chào ông.

ôi đồ chết tiệt, Abel nghĩ bụng và dập máy xuống. Anh lo rằng mình làm như vậy còn có hại hơn là giúp ích cho Davis. Bây giờ anh không còn biết làm gì nữa.

Nhưng anh không phải chờ lâu.

Tối hôm sau Abel thoáng thấy Melanie ở nhà ăn trong khách sạn. Cô ta không còn có vẻ tươi tỉnh và tự tin như mọi khi, mà có dáng mệt mỏi, lo âu.

Anh đã định đến hỏi cô ta xem có chuyện gì không, nhưng rồi lại thôi. Anh trở về phòng làm việc và chợt thấy Davis Leroy đang đứng một mình trước nhà sảnh. Ông ta mặc chiếc áo kẻ sọc đúng như ngày đầu ông đã gặp nói chuyện với Abel ở khách sạn Plaza.

Có Melame trong phòng ăn không – Có cô ấy đang ở đó, – Abel nói. – Tôi không biết hôm nay ông lên đây. Để tôi báo thu xếp phòng đặc biệt cho ông ngay.

Chỉ một đêm thôi, Abel, rồi chốc nữa tôi gặp riêng anh một tí.

Vâng được.

Abel không thích nghe nói đến “gặp riêng”. Hay là Melanie đã mách bố về chuyện hôm trước? Có phải vì thế mà mấy hôm vừa rồi anh không sao yêu cầu Davis quyết định được gì hết?

Davis Leroy đi vội vào phòng ăn trong khi Abel ra quầy tiếp tân kiểm tra lại xem phòng đặc biệt trên tầng mười bảy có khách nào ở không. Đến nửa số phòng khách sạn không có khách, vì vậy phòng đặc biệt không có ai ở cũng là tự nhiên. Abel ghi tên cho ông chủ vào phòng đó rồi anh đứng ở quầy tiếp tân chờ đến hơn một tiếng đồng hồ. Anh trông thấy Melanie bỏ ra, mặt mũi sưng sỉa như cô ta vừa mới khóc vậy. Vài phút sau, bố cô theo ra.

Anh kiếm lấy chai buốc-bông, Abel-chắc là khách sạn phải có – Rồi lên phòng tôi nhé.

Abel lấy hai chai buốc-bông ở tủ riêng của anh rồi lên tầng mười bẩy và đến phòng ông, trong bụng vẫn lo nghĩ không biết Melanie có nói gì với bố không.

Anh mở chai, và tự rót cho anh một cốc lớn đi, Abel, – Davis Leroy nói.

Một lần nữa, Abel cảm thấy sợ chưa biết là sẽ có chuyện gì. Lòng bàn tay anh bắt

đầu toát mồ hôi. Chả có lý vì anh muốn lấy con gái ông chủ mà bị đuổi?

Leroy với anh đã là bạn gần gũi với nhau từ hơn một năm nay rồi. Chuyện gì rồi anh cũng sẽ biết ngay đây thôi.

Uống cạn cốc rượu của anh đi.

Abel nốc một hơi hết cốc rượu. Davis Leroy cũng vậy – Abel, tôi hoàn toàn sập tiệm rồi. – Leroy ngừng lại một chút và lại rót rượu cho cả hai người. – Một nửa nước Mỹ cũng sập tiệm rồi, anh thử nghĩ coi.

Abel không nói gì, phần vì anh không nghĩ ra điều gì để nói. Hai người ngồi nhìn nhau rồi lại uống tiếp một cốc nữa. Abel cố thốt lên:

Nhưng ông vẫn còn làm chủ mười một khách sạn.

Đó là trước đây – Davis Leroy nói. – Phải nói đó là quá khứ Abel ạ. Tôi không còn làm chủ một khách sạn nào nữa. Ngân hàng đã thu về cho họ từ thứ năm trước rồi.

Nhưng nó thuộc về ông kia mà. Nó thuộc về gia đình ông từ hai đời nay rồi kia mà, – Abel nói.

Trước kia thì thế, bây giờ thôi rồi. Bây giờ nó thuộc về ngân hàng. Không có lý gì anh không biết tất cả sự thật đó, Abel. Hầu như mọi người ở Mỹ lúc này đều gặp tình trạng ấy, anh to anh bé cũng vậy.

Khoảng mười năm trước đây, tôi vay hai triệu đô la và lấy những kháeh sạn đó ra ký quỹ. Tôi đem tiền đó ra kinh doanh cổ phiếu, gửi nó vào những công ty rất vững chắc. Tôi đã xây dựng vốn lên đến gần năm tnệu, và cũng vì thế tôi không quan tâm gì đến những khách sạn nữa, vả lại nó vẫn luôn luôn được giảm thuế tính vào lợi nhuận tôi kiếm được trên thị trường.

Đến bây giờ thì những cổ phiếu khách sạn ấy không còn giá trị gì nữa, chỉ có đem làm giấy vệ sinh mà thôi. Trong ba tuần qua tôi cố sức bán đi nhưng không có ai mua.
Thế là thứ năm vừa rồi ngân hàng đã khóa sổ đối với tôi rồi. – Abel nhớ là anh nói chuyện này với chủ ngân hàng đúng vào hôm thứ năm. – Hầu hết những người nào là nạn nhân của cuộc phá sản lần này chỉ còn có mấy mẩu giấy để đảm bảo cho nhữag khoản vay của họ, nhưng với trường hợp của tôi thì ngân hàng họ đã có giấy tờ đem ký quỹ khách sạn từ trước rồi nên chả làm thế nào được. Vì thế đến khi tôi sập tiệm thì họ đã lập tức chiếm hữu các khách sạn. Bọn họ có cho tôi biết là sẽ bán công ty này đi, càng nhanh càng tốt.

Thế là điên rồ. Họ sẽ chả thu về được gì vào lúc này, còn nếu họ ủng hộ chúng ta qua được cơn khó khăn này,. chúng ta sẽ cho họ thấy đầu tư có lãi cho mà coi.

Tôi biết anh làm được, Abel. Nhưng họ đã có kinh nghiệm với tôi trong quá khứ rồi nên không chịu. Tôi đã đến gặp họ giới thiệu về anh, và còn bảo họ tôi sẽ tập trung sức vào công ty này nếu được họ ủng hộ.

Nhưng họ không thèm quan tâm nữa. Họ chỉ còn coi tôi như một lìoại ngớ ngẩn

mới vào nghề chẳng biết làm ăn gì nữa và cũng không còn vốn liếng gì. Trời ơi, tôi mà có cơ hội quay lại được, tôi sẽ cho cái thằng chủ ngân hàng ranh con ấy một trận rồi chiếm luôn cả ngân hàng của nó nữa. Bây giờ đây, điều tốt nhất chúng ta có thể làm được là uống cho say đi. Vì tôi hết rồi, không còn xu nào nữa, phá sản rồi.

Thế là tôi cũng hết, – Abel chậm rãi nói.

Không, anh bạn ơi, anh còn cả một tương lai trước mặt. Bất cứ ai tiếp quản công ty này cũng không thể làm gì được nếu không có anh.

Ông quên rằng tôi có 25 phần trăm tài sản công ty Davis Leroy trừng trừng nhìn anh. Rõ ràng là ông ta đã quên đi điều đó.

Ôi Lạy Chúa! Tôi có biết đâu anh đã bỏ hết tiền vào cơ nghiệp của tôi như thế, Abel? – Giọng ông ta cảm động.

Bỏ hết, không còn giữ xu nào, – Abel nói. – Nhưng tôi không tiếc đâu, Davis. Thà mất cho một người khôn ngoan còn hơn được với một anh ngốc – Anh lại rót rượu buốc-bông vào cốc mình.

Davis Leroy long lanh nước mắt.

Anh biết không, Abel, anh là người bạn tốt nhất người ta có thể có được trên đời này. Anh chấn chỉnh lại khách sạn này, anh lại bỏ tiền của anh vào đó. Bây giờ tôi làm cho anh sạt nghiệp mà anh không hề phàn nàn một lời nào. Rồi lại còn con gái tôi nó không chịu lấy anh nữa chứ.

Ông không lấy làm phiền lòng việc tôi hỏi cô ấy sao? – Abel nói. Mặc dầu đã có rượu vào người rồi, anh vẫn cứ không tỉn rằng ông ta không trách anh về chuyện đó.

Cái con bé ngul ngốc ấy nó chả biết phân biệt tốt xấu thế nào. Nó muốn lấy một anh chàng chủ ngựa nào đó ở niền Nam mà trong gia phả đã có ba đời làm tướng cơ. Còn nếu lấy một anh nào ở miền Bắc thì cụ kỵ anh ta đã từng phải là người đầu tiên đến đất này bằng chiếc thuyền MaynoWer mới được. Nếu có anh nào khoe rằng mình có bà con họ hàng đã từng đi trên chiếc thuyền ấy, thì loại thuyền như vậy cũng đã chìm đến một nghìn lần trước khi sang đến đất này rồi. Rất tiếc tôi không có đứa con gái nào khác để gả cho anh. Abel. Chưa từng có ai phục vụ tôi trung thành hơn anh được. Có anh là một thành viên trong gia đình thì tôi cũng tự hào. Anh với tôi cùng cộng tác với nhau thì thành một cánh rất mạnh đấy, tuy nhiên tôi nghĩ một mình anh cũng đủ đánh bại cả đám họ rồi. Anh còn trẻ, phía trước anh còn đủ mọi thứ.

Mới hai mươi ba tuổi mà Abel bỗng cảm thấy mình rất già.

Cám ơn ông đã tin cậy tôi và tâm sự như thế, Davis – Anh đáp. Vả lại, ai cần quái gì đến cái thị trường chứng khoán ấy? ông biết không, ông là người bạn tốt nhất tôi chưa từng có đấy. – Rượu đã bắt đầu nói.

Abel rót cho mình một cốc buốc-bông nữa và nốc cạn. Đến gần sáng thì hai người đã làm hết cả hai chai rượu. Lúc Davis ngủ thiếp đi ở ghế thì Abel cố gượng dậy đi xuống tầng mười, cởi quần áo rồi lăn ra giường Anh đang ngủ say thì có tiếng đập cửa

thình thình. Đầu anh quay cuồng nhưng tiếng đập cửa vẫn tiếp tục mỗi lúc một to hơn. Anh lật đật đứng dậy được và lê bước ra cửa. Đó là chú nhỏ sai vặt của khách sạn.

Mau lên, ông Abel, ông xuống mau lên, – Chú bé vừa nói vừa chạy xuống hành

lang.

Abel khoác vội chiếc áo ngủ lên người, xỏ chân vào đôi đép rồi lảo đảo chạy theo, chú bé đang giữ cửa thang máy cho anh bước vào.

Mau lên, ông Abel,- Chú bé lại nói.

Đi đâu vội thế- Abel hỏi. Đầu óc anh vẫn còn quay cuồng. Thang máy từ từ xuống nhà. Anh chợt nhớ ra cuộc nói chuyện hồi đêm. Có lẽ bây giờ ngân hàng đến tịch thu khách sạn đây.

Có một người nhảy ra ngoài cửa sổ.

Khách à? Abel tỉnh ngay người.

Vâng, có lẽ thế, – Chú bé nói. – Nhưng tôi không chắc lắm.

Thang máy xuống đến tầng cuối. Abel vội đẩy cửa sắt và chạy ra đường. Cảnh sát đang có mặt ở đây.

Giá không trông thấy chiếc áo kẻ sọc sặc sỡ kia thì anh không nhận ra người đó là ai. Một viên cảnh sát đang lấy những chi tiết cua vụ tai nạn. Một người mặc thường phục bước đến chỗ Abel.

ông là quản lý?

– Vâng, chính tôi.

ông có thể biết được người này là ai không?

– Tôi biết, – Abel đáp, lưỡi hơi líu.- Tên ông ta là Davis Leroy.

ông có biết ông ta ở đâu đến và chúng tôi làm thế nào liên lạc với người thân của ông ta được?

Abel ngoảnh đi không dám nhìn vào thân thể ông ta đã bị dập nát hết. Anh ta trả lời như chiếc máy.

ông ta ở Dallas, có cô Melanie Leroy là con gái ông ta. Cô ấy là sinh viên đang sống trong khu học xá của Đại học Chicago.

Được Chúng tôi sẽ cho người đến gặp cô ta ngay.

Không, ông đứng làm thế. Để tôi đích thân đi gặp cô ấy Abel nói.

Cảm ơn ông. Không phải do người lạ báo tin thì như vậy tốt hơn.

Thật là một điều khủng khiếp, mà không cần thiết phải làm thế này,- Abel nói và liếc nhìn lại thân thể người bạn.

Ngày hôm nay, đây là vụ thứ bảy ở Chicago đấy,- Viên sĩ quan nói và gập cuốn sổ nhỏ lại. – Chúng tôi sẽ còn cần phải kiểm tra lại phòng ông ta nữa. Ông đừng cho ai thuê căn phòng ấy nếu chúng tôi chưa có lệnh nhé.

Vâng, tùy ông.

Viên cảnh sát bước ra chiếc xe cứu thương.

Abel nhìn mấy người khiêng cáng nhặt cái xác của Davis Leroy ở vỉa hè lên. Anh thấy lạnh run người, khuỵu đầu gối xuống và trong bụng đau dội lên. Lại một lần nữa anh mất đi một người bạn gần gũi nhất.

Có lẽ, nếu mình uống ít đi và suy nghĩ thêm một chút thì đã cứu sống được ông ấy rồi. Anh gượng đứng dậy trở về phòng, tắm nước lạnh thật lâu rồi lóng ngóng mặc quần áo vào. Anh gọi mang đến cốc cà phê đen.

Uống xong, anh miễn cưỡng bước lên phòng đặc biệt rồi mở cửa. Ngoài hai chai rượu buốc-bông đã uống cạn, trong phòng không có một tí đấu hiệu gì nói lên cái thảm cảnh đã diễn ra trước đây ít phút. Rồi anh thấy trên chỉếc bàn ở đầu giường có mấy bức thư.

Giường vẫn còn để nguyên, chưa ai nằm. Một bức thư gửi cho Melame. Bức thư thứ hai gửi cho một luật sư ở Dallas. Và một bức thứ ba gửi Abel. Anh xé thư ra xem, nhưng hầu như không dám đọc những lời nói cuối cùng của Davis Leroy. Thư viết:

,,Abel thân mến, Sau khi ngân hàng quyết định như vậy, tôi chỉ còn một cách này thôi. Tôi không còn gì để sống. Làm lại từ đầu thì tôi đã già quá rồi. Tôi muốn anh biết là tôi tin rằng anh là người duy nhất có thể làm được điều gì đó thoát khỏi tình trạng rắc rối ghế gớm này.

Tôi đã viết lại một chúc thư trong đó để lại cho anh cả 75 phần trăm chứng khoán của công ty Richmond.

Tôi biết cái đó bây giờ vô dụng, nhưng nó sẽ đảm bảo cho anh với cương vị là người chủ hợp pháp của công ty. Anh đã có can đảm mua 25 phần trăm cổ phần bằng tiền của anh, thì anh có quyền xem xét sẽ mặc cả với ngân hàng như thế nào. Tôi để tất cả những gì còn lại cho Melanie, kể cả ngôi nhà. Chỉ có anh là người báo tin cho nó biết thôi. Đừng để cảnh sát nói.

Tôi sẽ rất tự hào nếu có anh là con rể đấy Bạn anh, Davis” Abel đọc đi đọc lại bức thư rồi gấp lại cẩn thận cất vào ví.

Vào cuối buổi sáng hôm đó anh đến học xá và tìm cách báo tin một cách nhẹ nhàng cho Melame biết.

Anh ngồi trên ghế mà lúng túng mãi không biết nói gì thêm sau khi báo tin ấy. Nhưng cô nghe tin ấy với vẻ rất bình tĩnh, dường như cô đã biết trước chuyện sẽ xảy ra mặc dầu cô không che giấu được nỗi xúc động. Cô không khóc trước mặt Abel, có lẽ để anh về rồi cô sẽ khóc.

Lần đầu tiên trong đời, anh cảm thấy thương xót cho cô.

Abel trở về khách sạn. Anh quyết định không ăn bữa trưa và bảo người phục vụ chỉ đem lên cho anh một cốc nước cà chua trong khi anh mở xem các thư từ gửi đến. Có một lá thư của Curtis Phenton thuộc ngân hàng Continental. Anh chắc ngày hôm nay sẽ có nhiều thư lắm. Phenton có nhận được lời khuyên của một ngân hàng Boston

tên là Kane và Cabot, và họ sẵn sàng nhận trách nhiệm về tài chính đối với Công ty Richmond. Lúc này, công việc kinh doanh vẫn cứ nên tiếp tục như thường, chờ đến khi nào có thể họp với ông Davis Leroy để bàn về số nhận các khách sạn trong công ty đã. Abel ngồi nhìn những chữ trong lá thư ấy, rồi sau khi uống hết cốc nước cà chua nữa, anh thảo một bức thư cho chủ tịch ngân hàng Kane và Cabot, một ông Alan Lloyd nào đó. Năm ngày sau, anh nhận được thư trả lời yêu cầu anh đến dự một cuộc họp ở Boston vào ngày bốn tháng giêng để thảo luận việc thanh toán công ty với một ông giám đốc chuyên lo về những vụ phá sản. Trong khi chờ đợi, ngân hàng sẽ có thể tìm hiểu thêm được về cái chết bất ngờ và bi thảm của ông Leroy.

Cái chết bất ngờ và bi thảm ư? Vậy ai gây ra cái chết ấy? Abel bỗng thốt lên rất to.

Anh nhớ lại câu nói của Davis Leroy lúc trước:

“Tôi mà có cơ hội quay lại được tôi sẽ cho cái thằng chủ ngân hàng ranh con ấy một trận rồi chiếm luôn cả ngân hàng của nó cho mà coi – Ông đừng lo Davis. Tôi sẽ làm việc đó cho ông, – Abel nói.

Trong những tuần cuối năm đó, Abel điều khiển các hoạt động của khách sạn công ty Richmond Continental một cách rất chặt chẽ, từ nhân viên đến giá cả và cố làm sao cho không bị chìm thêm nữa.

Anh không thể không nghĩ đến mười khách sạn kia trong công ty bây giờ tình hình ra sao. Nhưng dù nghĩ đến anh cũng không có thì giờ tìm hiểu. Vả lại cũng không phải là trách nhiệm của anh nữa.

***

Ngày bốn tháng Giêng năm 1939, Abel Rosnovski đến Boston,anh đi từ ga xe lửa đến ngân hàng Kane và Cahot bằng xe tắc xi và đến trước giờ hẹn ít phút. Anh ngồi ở phòng tiếp khách, phòng này rộng hơn và trang hoàng đẹp hơn bất cứ phòng ngủ nào

khách sạn Richrllol Chicago. Anh ngồi đọc tờ Nhật báo phố Wall. Tờ báo toàn nói cái điệu như năm một ngàn chín trăm ba mươi sẽ là năm làm ăn khấm khá hơn. Anh không tin. Một người đàn bà cỡ trung niên có vẻ nghiêm nghị bước vào phòng.

Ông Kane sẽ gặp ông bây giờ, thưa ông Rosnovski.

Abel đứng dậy theo bà qua dẫy hành lang dài vào một căn phòng nhỏ lát gỗ sồi có chiếc bàn lớn bọc da.

Ngồi đằng sau bà là một người đàn ông to lớn, đẹp trai mà Abel đoán cũng chạc tuổi mình. Mắt anh ta cũng ánh như mắt Abel. Trên tường phía sau anh ta là một bức tranh chân dung của một người lớn tuổi hơn, nét mặt giống với người trẻ tuổi ngồi dưới. Đó hẳn là bố anh ta, Abel nghĩ bụng. Nhìn anh ta, Abel đã nghĩ ngay là với vụ suy thoái này, anh ta vẫn sẽ sống sót được. Ngân hàng thì muốn thế nào họ cũng vẫn có lợi.

Tên tôi ìà Wilham Kane, – Người trẻ tuổi ngồi sau bàn đứng dậy chìa tay ra. – Xin mời ông ngồi, ông Rosnovski.

Cảm ơn ông, – Abel đáp.

Wilìiam nhìn kỹ con người nhỏ bé trong bộ quần áo không vừa với anh ta lắm nhưng có đôi mắt rất cương nghị.

Có lẽ ông cho phép tôi nói ngay đến tình hình gần đây nhất theo chỗ chúng tôi hiểu – Nhà ngân hàng mắt xanh nói.

Vâng, tất nhiên.

Cái chết bi thảm và quá sớm của ông Leroỵ…- William nói với một vẻ không tự nhiên lắm.

Phải, do sự bất nhã của các ông đấy, Abel nghĩ bụng.

Hình như đã đặt ông vào tình thế phải quản công ty Richmond này cho đến khi nào ngân hàng chúng tôi tìm được người mua những khách sạn ấy.

Mặc dầu bây giờ cả trăm phần trăm cổ phần của công ty đều đã mang tên ông nhưng toàn bộ tài sản đó, dưới dạng mười một khách sạn, đều đã được ông Leroy trước đây thế chấp để vay của ngân hàng hai triệu đô la, do đó về mặt pháp lý đã là tài sản của chúng tôi. Như vậy ông không còn trách nhiệm gì với những khách sạn ấy nữa. Nếu như bây giờ ông muốn hoàn toàn tách mình ra khỏi những hoạt động này, thì tất nhiên chúng tôi cũng rất thông cảm.

Một kiểu gợi ý rất xúc phạm đây, Wilham nghĩ bụng, nhưng đằng nào thì cũng phải nói ra.

Còn Abel thì nghĩ:

đây là kiểu mà bất cứ anh chủ ngân hàng hàng nào cũng làm, hễ có vấn đề khó khăn là rũ tuột ngay.

William Kane nói tiếp.

Trong khi chờ đợi thanh toán số tiền hai triệu đô la nợ ngân hàng, tôi e rằng chúng tôi phải xét đến những tài sản khác của ông Leroy coi như không đủ để trả nợ. Chúng tôi ở ngân hàng này rất hoan nghênh việc dính líu của riêng ông đến công ty, và chúng tôi chưa làm gì đụng đến các khách sạn ấy trước khi có dịp nói chuyện trực tiếp với ông. Chúng tôi nghĩ có lẽ ông có thể biết đến người nào đó có ý mua lại những tài sản này, như nhà cửa, đất đai, và bản thân công việc kinh doanh kia cũng là một tài sản có giá trị.

Nhưng không đủ giá trị để ông ủng hộ tôi chứ gì,- Abel nói.- Anh đưa tay lên vuốt mớ tóc đen rậm của mình. – Ông sẽ cho tôi một thời gian bao nhiêu lâu để tìm người mua?

William ngập ngừng một lúc vì anh trông thấy chiếc vòng bạc ở cổ tay Abel Rosnovski. Anh đã có trông thấy chiếc vòng bạc đó một lần rồi, nhưng không thể nhớ ra là đã thấy ở đâu.

Ba mươi ngày. Ông nên nhớ rằng hiện nay hàng ngày ngân hàng vẫn phải chịu đựng những mất mát của mười trong số mười một khách sạn ấy. Chỉ có Chicago

Richmond là có lãi chút ít thôi.

Nếu ông cho tôi thêm thời gian và ủng hộ tôi, ông Kane, tôi sẽ làm cho tất cả eác khách sạn đó kinh doanh có lãi. Tôi biết là tôi làm được, – Abel nói. – Chỉ cần ông cho tôi một cơ hội để tôi chứng minh điều đó.- Abel thấy mình như nghẹn họng, không nói được hết lời – Mùa thu năm ngoái khi ông Leroy đến gặp chúng tôi cũng đã đảm bảo với ngân hàng như vậỵ. – Wiìham nói.- Nhưng thời buổi bây giờ khó khăn lắm.

Không thể nói trước là kinh doanh khách sạn sẽ phất lên được, mà chúng tôi thì không phải những người chuyên việc khách sạn, thưa ông Rosnovski. Chúng tôi chỉ là những nhà ngân hàng.

Albel đã bắt đầu thấy bực mình với cái “thằng ranh con” ăn mãc lịch sự này. Davis nói đúng thật. – Cũng là khó khăn với các nhân viên khách sạn của tôi nữa đấy – Anh nói.- Ông tưởng tượng bây giờ bán những khách ấy đi thì họ còn sống nhờ vào đâu được?

Tôi e rằng đó không phải trách nhiệm của chúng tôi ông Rosnovski ạ. Tôi phải hành động cho lợi ích tốt nhất của ngân hàng vậy thôi.

Lợi ích tốt nhất của chính ông chứ, ông Kanẻ- Abel nói lại, giọng gay gắt. Anh chàng kia đỏ mặt.

Đó là một ý kiến không công bằng, ông Rosnovski ạ nếu như không thông cảm với những khó khăn của ông thì tôi sẽ rất lấy làm giận đấy.

Rất tiếc là ông không kịp thời thông cảm với ông Davis Leroy, – Abel nói. – Nếu được thông cảm thì đã không có chuyện. Ông Kane, chính ông đã giết chết ông ấy. chính ông đã đẩy ông ấy đến chỗ phải nhẩy ra ngoài cửa sổ, ông và những đồng nghiệp của ông chỉ việc ngồi yên phận ở đây trong khi chúng tôi phải lăn lưng ra mà làm để đảm bảo cho các ông có thể khi thuận tiện thì kiếm bở còn khi không thuận tiện thì đè đầu đè cổ người ta chứ gì?

William cũng đã nổi nóng. Tuy nhiên, anh không biểu lộ ra ngoài mặt như Abel Rosnovski.

Kiểu bàn bạc như thế này thì chẳng đưa chúng ta đến đâu được, ông Rosnovski. Tôi cần báo trước để ông biết nếu trong vòng ba mươi ngày ông không kiếm ra được người mua, thì buộc chúng tôi sẽ phải đưa các khách sạn ra công khai bán đấu giá.

Rồi sau đó ông sẽ khuyên tôi tìm vay tiền ở một ngân hàng khác chứ gì, – Abel mỉa mai. – Ông biết tôi là thế nào rồi mà ông vẫn không ủng hộ, vậy ông bảo tôi còn đi đâu nữa – Tôi e rằng tôi cũng không biết, – Wilham đáp. – Điều đó là hoàn toàn tùy ông. Lệnh của ban giám đốc chúng tôi là giải quyết tài sản này càng nhanh càng tốt và tôi cũng chỉ biết làm như vậy. Có lẽ xin ông tiếp xúc với tôi không chậm hơn ngày bốn tháng hai và cho tôi biết ông đã tìm được người mua chưa. Xin chào ông, ông Rosnovski.

William đứng dậy và lại chìa bàn tay. Lần này, Abel không thèm bắt tay nữa và anh

đi thẳng ra cửa.

Willam đứng đó nhăn mặt nhìn theo Abel đã đóng cửa lại. Anh vẫn còn băn khoăn về chiếc vòng bạc kia. Không biết anh đã nhìn thấy nó ở đâu một lần rồi.

Cô thư ký trở lại. Cô ta nói.

Con người nhỏ bé mà ghê gớm quá.

Không đâu, không hẳn như thế đâu, – William nói.- Ông ta nghĩ rằng chính chúng ta đã giết người bạn đồng sự của ông ta, và bây giờ thì cllúng ta đang giải tán công ty của ông ta mà không đếm xỉa gì đến những người làm ăn ở đó, chưa kể đến bản thân ông ta là một người tỏ ra rất có năng lực. Phải nói là ông Rosnovski đã rất có lễ độ mặc dầu ở trong hoàn cảnh như vậy, còn tôi thì phải thú thật là tôi rất lấy làm tiếc thấy ban giám đốc ngân hàng này đã không chịu ủng hộ Ông ta. – Anh nhìn lên cô thư ký.

Cho tôi nói chuyện điện thoại với ông Cohen.

***

Albel trở về Chicago vào sáng hôm sau, trong lòng vẫn còn bực bội về chuyện Wilham Kane đã đối xử với mình như vậy. Anh không nghe rõ chú bé bán báo rao những gì ở góc đường vì anh đang gọi chiếc xe tắc xi và trèo lên ngồi ở phía sau.

– Cho tôi về khách sạn Richmond.

ông có phải nhà báo không?- Người lái xe đánh lên phía phố State và hỏi anh.

Không. Sao ông hỏi thế?- Abel nói.

Không, vì ông hỏi về Richmond mà. Hôm nay các nhà báo đều đến đó cả.

Abel không thể nhớ ra khách sạn Richmond của mình có định làm gì để thu hút các nhà báo như vậy đâu nhỉ.

Người lái xe nói tiếp:

Nếu ông không phải nhà báo thì có lẽ tôi đưa ông đến một khách sạn khác chứ?

Tại sao thế? Abel hỏi lại, ngơ ngác.

Nếu ông về khách sạn đó thì chả ngủ ngon được đâu vì Richmond đă bị cháy trụi rồi còn đâu.

Chiếc xe vừa quay rẽ ở góc đường thì Abel đã thấy mình đối diện với cảnh khách sạn Chicago Richmond bị cháy trụi. Xe cảnh sát, xe cứu hỏa, gỗ ván bị cháy đen với nước tràn trề cả ngoài đường phố. Anh bước ra ngoài xe nhìn những gì còn lại của căn nhà đầu đàn của công ty Davis Leroy.

Người Ba Lan thường khôn ngoan tỉnh táo sau khi tai vạ đã xảy ra rồi, Abel nghĩ bụng và nắm chặt tay đấm mạnh vào bên chân thọt của anh. Anh không thấy đau, vì chẳng còn lại gì để mà thấy đau nữa.

Bọn khốn nạn?- Anh thét to lên. – Tao đã chịu đựng còn hơn thế này nữa cơ. Nhưng rồi tao sẽ diệt từng đứa chúng mày cho mà coi. Từng thằng Đức, thằng Nga, thằng Thổ Nhĩ Kỳ, thằng vô lại Kane, và bây giờ đến cả cái này nữa. Tao sẽ diệt hết.

Không ai giết được Abel Rosnovski đâu.

Người phó quản lý trông thấy Abel đang hoa chân múa tay bên chiếc xe tắc xi vội chạy đến. Abel cố tỏ ra bình tĩnh.

Mọi người chạy ra được an toàn chứ? – Anh hỏi.

Vâng, lạy Chúa. Khách sạn gần như không có khách, vì vậy chạy thoát ra được không có vấn đề gì lắm. Chỉ một vài người hơi bị xây xát và bị bỏng, đã được đưa đến bệnh viện. Nhưng ông không có gì đáng phải lo đâu.

Tốt. ít ra cũng yên tâm được về chuyện đó. Tạ Ơn Chúa, khách sạn đã được bảo hiểm cẩn thận, tôi nhớ hình như trên một triệu đô la. Chúng ta rất có thể biến cái tai vạ này thành ra có lợi được đấy.

Nếu đúng như báo chí sáng nay đã nói thì không được đâu – Anh nói vậy là sao?

Abel hỏi.

Có lẽ tự Ông nên đọc xem trong đó nói gì thì hơn, ông chủ ạ, – Người phó quản lý đáp.

Abel bước đến quầy bán báo gần đó, bỏ ra hai xu mua số báo mới nhất của tờ Diễn đàn Chicago. Dòng chữ lớn ở trang đầu đã đủ nói lên hết cả:

KHÁCH SẠN RiCHMoND BốC CHÁY – Có THỂ Do Cố Ý ĐốT PHÁ Abel lắc đầu tỏ ra không tin. Anh đọc đi đọc lại dòng chữ đó.

Còn có gì xảy ra hơn thế được?- Anh lẩm bẩm.

ông có chuyện gì không thế?- Chú bán báo hỏi.

Hơi một tí thôi,- Abel đáp và quay lại người phó quản lý.

Ai phụ trách điều tra của cảnh sát?

Viên sĩ quan đang đứng tựa vào xe cảnh sát kia kìa, – Người phó quản lý nói và chỉ tay ra phía một người cao gầy có cái đầu hói. – Tên ông ta là Trung úy o Malley.

Được rồi,- Abel nói.- Bây giờ ông cho tất cả nhân viên sang khu nhà phụ đi. Mười giờ sáng mai tôi sẽ đến gặp tất cả mọi người. Còn trước đó ai muốn tìm tôi thì đến nhà hàng Stenvens. Tôi sẽ ở đây cho đến khi nào điều tra ra vụ này.

Như thế cũng được.

Abel bước ra chỗ Trung úy óMalley tự giới thiệu.

Viên cảnh sát cao gầy hơi cúi xuống bắt tay Abel. A, ông cựu quản lý biến đi đâu mất bây giờ mới về nhìn cảnh tan hoang đây.

Ông sĩ quan, tôi không thấy đó là chuyện đáng đùa,- Abel nói.

Xin lỗi, – Ông ta nói.- Đúng là không có gì đáng đùa. Khiếp, mất cả một đêm dài. Ta đi uống cái gì chứ.

Viên cảnh sát cầm lấy khuỷu tay Abel và đưa anh qua Đại lộ Michigan đến một hiệu ăn ở góc đường.

Trung úy óMalley gọi hai cốc sữa trứng. Abel cười khi anh thấy người ta để trước mặt cốc sữa đã đánh lên thành bọt trắng xoá. Từ bé đến giờ, đây là lần đầu tiên anh ăn

sữa trứng đánh thành bọt.

Tôi biết thế này là ngộ lắm. Mọi người trong thành phố đều phá luật và họ đều uống rượu buốc-bông với uống bia, – Viên cảnh sát nói,- Vì vậy phải có người uống cái khác chứ. Dù sao, luật cấm uống rượu cũng chẳng thể cấm mãi được. Rồi sau đây chắc tôi sẽ gặp nhiều khó khăn, vì bọn cướp sẽ phát hiện ra là tôi chỉ thích có sữa đánh trứng thôi.

Abel lại cười.

Bây giờ nói đến những vấn đề của ông, ông Rosnovski. Trước hết tôi phải nói ngay là ông sẽ chẳng có tí hy vọng gì giành được tiền bảo hiểm cho khách sạn đó đâu. Các nhà chuyên gia chữa cháy đã đi xem xét kỹ lưỡng tất cả những chỗ còn lại của toà nhà và họ phát hiện ra đâu đâu cũng sặc mùi dầu lửa.

Mà người ta cũng không thèm giấu nó nữa cơ. chỉ cần một que diêm đủ cho cả tòa nhà cháy bùng lên rồi.

Ông có nghĩ là ai gây ra chuyện này không? Abel hỏi.

Xin ông để tôi hỏi. Ông có nghĩ về chuyện ai có thù hằn gì với khách sạn hoặc với cá nhân ông không?

Abel ậm ừ nói.

Có đến năm chục người, ông ạ. Hồi mới đến đây, tôi đã thanh toán cả một bọn sâu mọt. Nếu ông cần, tôi có thể cho ông cả danh sách.

Có lẽ tôi sẽ cần đến, nhưng cứ theo như người ta nói ở quanh đó thì có thể tôi cũng không cần đến, – Viên trung úy nói.- Tuy nhiên, nếu ông có được một thông tin gì chắc chắn thì ông cứ cho tôi biết, ông Rosnovski. Ông cần cho tôi biết, vì tôi nói để ông liệu là ông có rất nhiều kẻ thù ở ngoài kia lắm đấy, ông ta vừa nói vừa chỉ tay ra ngoài phố.

Ông nói vậy là sao?- Abel hỏi.

Có người nói chính ông làm chuyện đó vì ông đã mất hết tiền vào vụ phá sản vừa rồi, và bây giờ ông cần đến tiền bảo hiểm.

Abel đang ngồi đứag vụt dậy.

Bình tĩnh, bình tĩnh. Tôi biết cả ngày hôm đó ông ở Boston, và điều quan trọng nữa là ở Chicago người ta biết ông xây dựng khách sạn thì có chứ đốt phá thì không. Nhưng chắc chắn là đã có người đốt khách sạn Richmond và thế nào tôi cũng tìm ra được tên đó. Bây giờ thì hãy cứ để đó đã.- Ông ta đứng dậy.- Để tôi trả tiền sữa trứng, ông Rosnovr’ki. Tương lai thế nào cũng có lúc tôi nhờ đến ông.

Hai người cùng đi ra cửa. Viên cảnh sát cười với cô gái ngồi ở quỹ thu tiền. Ông khen cô có – Đôi chân đẹp nhưng chỉ tiếc cho váy của cô theo mốt mới lại hơi quá dài. Ông ta đưa cho cô đồng năm mươi xu và nói.

Cô em glữ lấy tiền lẻ nhé.

Cảm ơn ông lắm, – Cô gái nói.

– Chả ai khen tôi được một câu,- Vlên trung úy nói.

Abel lại cười, lần này là lần thứ ba. Trước đây một tiếng đồng hồ, anh không nghĩ là mình còn có thể cười được nữa.

Lúc ra đến cửa, viên trung úy nói tiếp:

Nhân đây, xin nói để ông biết là công ty bảo hiểm đang cho người tìm ông. Tôi không nhớ tên hắn ta, nhưng tôi chắc thế nào hắn cũng sẽ tìm ông. Ông đừng vội thù ghét gì hắn nhé, vì nếu như hắn tưởng ông có dính líu đến vụ này thì ai mà trách hắn được?

ông cứ liên lạc với tôi nhé, ông Rosnovski, tôi sẽ còn cần nói chuyện với ông nữa đấy.

Abel nhìn viên trung úy đi lẫn vào đám đông đứng đó rồi anh. chậm chạp đi về phía khách sạn Stevells thuê phòng -ngủ lại đêm. Viên tiếp tân của khách sạn vốn đã ghi tên phần lớn những người ở Richmond chạy sang, không khỏi mỉm cười thấy cả đến quản lý của khách sạn ấy cũng phải chạy sang đây nữa.

Vào đến trong phòng, Abel ngồi xuống viết một bức thư chính thức gửi cho William Kane, kể lại tất cả những chi tiết nào đó anh có thể biết được về vụ cháy. Trong thư anh cũng nói muốn nhân lúc được. tự do một cách không ngờ này đi một tua thăm .các khách sạn khác của công ty. Abel thấy mình chả nên nán lại Chiacago làm gì với đống tro tàn Richmond này và với hy vọng có ai đến cứu cho anh thoát được cái xui xẻo ở đây Sáng hôm sau , sau một bữa ăn sáng thịnh soạn ở Stenvens, Abel bao giờ cũng thấy dễ chịu trong một khách sạn được quản lý tử tế, anh đi bộ đến ngân hàng Contineltal gặp Curtis Pheutơn đề nói lại cho ông ta nghe về thál độ của ngân hàng Kane và Cabot, nói cho đúng hơn là thái độ của William Kane. Mặc dầu Abel nghĩ yêu cầu này là vô lý nhưng anh vẫn nêu lên ý kiến là sẽ tìm người mua lại công ty Richmond với giá hai triệu đô la.

Vụ cháy đó chả giúp gì được cho chúng ta, nhưng tôi sẽ xem có thể làm gì được không, Phenton nói với vẻ tích cực hơn là Abel tưởng.- Hồi ông mua 24 phần trăm cổ phần của bà Leroy, tôi đã bảo những khách sạn đó là vốn hếng có giá trị và ông làm như vậy là đúng. Mặc dầu có chuyện phá sản vừa rồi, tôi vẫn không nghĩ khác đâu, ông Rosnovski. Tôi đã theo dõi việc ông quản lý khách sạn gần hai năm nay rồi, nếu là cá nhân tôi quyết định thì tôi sẽ ủng hộ Ông, nhưng tôi e rằng ngân hàng này sẽ không đồng ý cứu cho Công ty Richmond đâu. Chúng tôi biết tình hình tài chính của Công ty này từ lâu rồi, nên không tin tưởng lắm. Bây giờ lại thêm vụ cháy đó càng khó. Tuy nhiên, tôi vẫn còn có một số quan hệ với bên ngoài nên tôi sẽ xem họ có thể giúp được gì. Trong thành phố này có lẽ ông còn có nhiều người khâm phục ông hơn là ông tưởng, ông Rosnovski.

Sau khi nghe mấy lời bình luận của Trung úy o Melley, abel nghĩ bụng không biết mình còn có bạn nào ở Chicago nữa không. Anh cảm ơn Curtis Phenton, rồi trở ra

quầy rút 5.000 đô la trong tài khoản của khách sạn. Cả buổi sáng hôm đó, anh ở lại trong khu nhà phụ của Richmond. Anh trả cho mỗi nhân viên hai tuần lương và bảo họ có thể tiếp tục ở lại trong nhà này ít nhất một tháng hoặc cho đến khi nào kiếm được việc khác Rồi anh trở lại khách sạn Stenvens, gói ghém ít quần áo mới phải mua thêm vì số cũ đã bị cháy hết, và chuẩn bị đi một tua thăm các khách sạn khác của Công ty Richmond.

Anh đánh chiếc xe Buick vừa mua trước khi có vụ thị trường chứng khoán đổ sụp, đi về phía Nam và bắt đầu bằng khách sạn Richmond ở St. Louis. Chuyến đi quanh các khách sạn của công ty mất gần bốn tuần.

Mặc dầu nơi nào cũng yếu kém và làm ăn thua lỗ cả, nhưng trong cách nhìn của Abel thì không nơi nào đến nỗi tuyệt vọng. Ở đâu cũng đều có địa điềm rất tốt có nơi thậm chí khách sạn ở chỗ tốt nhất trong thành phố. Ông già Leroy ngày xưa rõ ràng là có con mắt tinh đời hơn ông con, Abel nghĩ bụng. Anh kiểm tra lại cẩn thận chính sách bảo hiểm của từng khách sạn, đều không thấy có vấn đề gì. Cuối cùng anh đến khách sạn Richmond ở Dallas và anh có thể tin chắc được một điều, đó là bất cứ ai mua được công ty này với giá hai tnệu đô la thì sẽ có lợi vô cùng. Anh ước gì mình có được cơ hội này, vì anh biết rõ cách làm thế nào cho công ty được phát đạt.

Về đến Chicago, anh lại đến khách sạn Stenvens. Ở đây có nhiều thư đang đợi anh. Trung úy óMaliey muốn được gặp anh. Cả William Kane, Curtis Phenton và cuối cùng là một ông Henry osborne nào đó.

Abel bắt đầu bằng luật pháp đã. Anh nói chuyện điện thoại với óMalley và hẹn gặp ông ta ở Đại lộ Michigan. Abel ngồi trên một chiếc ghế quay lưng vào quầy nhìn ra cái vỏ cháy đen của Khách sạn Richmond và chờ viên Trung úy. O Malley đến muộn vài phút nhưng không xin lỗi, ông ta ngồi luôn xuống ghế bên và xoay người sang nhìn Abel.

Tại sao ta phải gặp nhau thế này nữa?- Abel hỏi. Ông còn nợ tôi đấy, – Viên Trung úy nói. Ở Chicago này, ai còn nợ ÓMalley một cốc sữa trứng thì không chạy đi đâu được.

Abel gọi hai cốc, một cốc to và một cốc thường.

Ông tìm ra điều gì không? Abel hỏi và đưa ống hút sữa cho ông ta.

Bọn anh em bên cứu hỏa nói đúng đấy, đây là vụ cố ý đốt Chúng tôi đã bắt giam một gã tên là Desmond Pacey, sau mới biết hắn là người quản lý cũ của Richmond. Đó là vào hồi ông, phải thế không?

Có lẽ như vậy, – Abel nói.

Tại sao lại có lẽ?- Viên Trung úy hỏi.

Tôi cho đuổi Pacey về tội giả mạo hóa đơn khách sạn. lão ta dọa sẽ trả thù tôi. Tôi thì tôi không quan tâm, vì đời tôi đã có quá nhiều chuyện đe dọa như vậy rồi, cho nên những loại người như Pacey có dọa mấy tôi cũng không coi vào đâu.

ấy thế mà chúng tôi phải coi chừng lão ta đấy. Cả bên cơ quan bảo hiểm nữa. Tôi được nghe là họ sẽ không trả một xu nào nếu không chứng minh được rằng giữa Pacey với ông không có sự đồng lõa gì với nhau trong vụ đốt này.

Bây giờ tôi cũng chỉ cần có thế, – Abel nói.- Làm sao ông biết chắc rằng đó là Pacey?

Ngay trong ngày xảy ra vụ cháy, chúng tôi đã tìm ra lão ta ở khu thương tật trong bệnh viện thành phố.

Chúng tôi chỉ cần hỏi qua bệnh viện cho biết tên từng người đã vào bệnh viện hôm đó vì bị bỏng thôi. May làm sao – Trong nghề cảnh sát chúng tôi thường gặp may thế đấy vì chẳng phải tất cả chúng tôi đều là Sherlock Holmes cả đâu – Có bà vợ của một viên thượng sĩ nghe nói đến tên lão ta đã biết ngay đó là người quản lý cũ của khách sạn Richmond, vì bà ta đã từng làm ở đó rồi. Dù không biết chuyện đó thì tôi cũng vẫn có thể tìm ra được, vì nó đã rõ như hai với hai là bốn. Lão ta đã nhanh chóng khai ra ngay, hình như lão ta chẳng ngại gì chuyện bị giam cả, coi như trả thù được như thế là sướng rồi. Chỉ mới trước đây ít lúc thôi, tôi vẫn chưa xác định được ông ta trả thù như thế để làm gì, nhưng bây giờ thì tôi hiểu rồi, tuy tôi không lấy gì làm ngạc nhiên lắm. Vậy là coi như chuyện đó đến đây kết thúc, ông Rosnovski ạ.

Viên Trung úy lại ngậm vào ống hút cạn sữa trong cốc – Ông làm cốc nữa nhé, – Abel hỏi.

Thôi, tôi đủ rồi. Tôi còn nhiều việc trong ngày hôm nay lắm.- Ông ta đứng dậy.-Chúc ông may mắn, ông Rosnovski. Nếu ông có thể chứng minh với cơ quan bảo hiểm là ông không dính líu gì đến Pacey thì ông sẽ đòi được tiền đấy. Nếu vụ này đưa ra tòa thì tôi sẽ làm mọi cách để giúp ông nếu được. Ông cứ liên lạc với tôi nhé.

Abel nhìn ông ta đi khuất sau cửa. Anh cho cô phục vụ một đô la rồi bước ra ngoài hè và đứng nhìn vào khoảng không, khoảng không trước đây gần một tháng là Khách sạn Richmond. Rồi anh quay mình đi trở về khách sạn Stenvens.

Lại một bức thư nữa của Henry osbome, mà trong thư này anh vẫn chưa biết được người đó là ai. Chỉ còn một cách để tìm hiểu. Abel gọi thẳng cho osbome thì được biết ông ta là thanh tra của Công ty Bảo hiểm Great Western có liên quan đến khách sạn này.

Abel hẹn gặp osborne vào buổi trưa. Rồi sau đó anh gọi cho William Kane ở Boston thông báo lại về chuyến đi của anh thăm các khách sạn kia.

Tôi cũng muốn nói thêm rằng tôi có thể biến những thua lỗ của các khách sạn đó thành lợi nhuận nếu tôi được ông cho thêm thời gian và ủng hộ tôi.

Những gì tôi đã làm được ở Chicago, tôi sẽ có thể làm được với tất cả khách sạn khác của công ty.

ông có thể làm được đấy, ông Rosnovski, nhưng tôi e rằng sẽ không phải bằng tiền của ngân hàng Kane và Cabot. Tôi cũng xin nhắc để ông nhớ rằng ông chỉ còn ít ngày

để tìm người mua thôi đấy. Xin chào ông.

Thật là một bọn hãnh tiến, – Abel nói nhưng đầu dây đằng kia không còn ai nghe. – Tôi không đáng dùng tiền của các anh được hả? Được rồi, một ngày kia bọn vô lại các anh….

Tiết mục sau trên chương trình nghị sự của Abel là làm việc với người của công ty bảo hiểm Henry osbome hóa ra là một người cao lớn, bảnh trai, có đôi mắt đen và bộ tóc đen đã đốm bạc. Abel thấy ông ta thoải mái và hợp với tính mình. Ngoài câu chuyện của Trung úy óMalley, osborne không có ý trả một đồng nào trong khi cảnh sát đang đòi truy tố Desmond Pacey và trong khi chưa có gì chứng thực rằng Abel không dính líu đến vụ đốt phá này. Henry osborne xem ra có vẻ rất thông cảm với toàn bộ vấn đề.

Công ty Richmond có đủ tiền xây dựng lại khách sạn không? – Osborne hỏi.

Chẳng có xu nào, – Abel nói.- Cả công ty đã bị thế nợ, và bây giờ ngân hàng đang thúc tôi phải bán đi đây – Tại sao lại là ông? – Osborne hỏi.

Abel giải thích đầu đuôi chuyện anh đã mua cổ phần mà không thật sự làm chủ khách sạn như thế này. Henry osborne nghe có vẻ ngạc nhiên.

Cố nhiên tự ngân hàng họ có thể thấy rõ ông đã quản lý khách sạn tốt như thế nào chứ? Mọi nhà kinh doanh ở Chicago đều biết ông là người quản lý đầu tiên đem lại lợi nhuận cho Davis Leroy. Tôi biết là ngân hàng họ cũng gặp thời buổi khó khăn, nhưng dù như thế đi nữa họ cũng phải biết phân biệt ai là người có thể làm lợi cho mình chứ.

Không phải ngân hàng này.

Continental ử- Osborne nói. – Tôi vẫn thấy ông Curtis Phenton tuy có hơi cứng nhắc nhưng chịu nghe điều phải trái đấy chứ?

Không phải Continental. Khách sạn nằm trong tay một ngân hàng ở Boston có tên là Kane và Cabot.

Henry osborne bỗng tái người và ngồi bệt xuống ghế.

Ông sao thế? – Abel hỏi.

Không, tôi không sao.

Có lẽ ông cũng biết Kane và Cabot chứ?

Ông giữ kín được không’- Henry osborne hỏi- Được chứ.

Trong quá khứ, công ty chúng tôi đã có một lần làm ăn với họ rồi.- Ông ta ngập ngừng một lát. – Và cuối cùng chúng tôi phải đưa họ ra tòa.

Tại sao thế?

Tôi không thể tiết lộ cụ thể được. Một chuyện kinh doanh bẩn thỉu đó thôi. Phải nói là một trong những giám đốc ngân hàng ấy đã không hoàn toàn lương thiện và thẳng thắn đối với chúng tôi.

Người nào thế?- Abel hỏi.

Ông đã làm việc với người nào?- Osborne hỏi. Một người có tên là Wilham Kane.
osbome lại có vẻ ngập ngừng.

Ông phải cẩn thận đấy.- Ông ta nói.- Đó là một tên đểu giả hạng nhất. Tôi có thể cho ông biết kỹ về hắn ta nếu ông cần, nhưng điều này thì chỉ hoàn toàn có chúng ta biết với nhau thôi.

Tôi chả nhờ cậy gì ông ta đâu,- Abel nói. – Rồi tôi sẽ liên hệ với ông, ông osborne. Tôi cũng có việc phải thanh toán với ông Kane đó về chuyện ông ta đã đối xử với Davis Leroy.

Vậy thì ông có thể trông vào sự giúp đỡ của tôi nếu như đó là chuyện liên quan đến William Kane. – Henry osbome nói. Ông ta đứng dậy nói tiếp. – Nhưng điều này chỉ có hai chúng ta biết với nhau thôi nhé. Nếu như tòa án cho thấy rõ ràng chỉ có Desmond Pacey đốt khách sạn thôi và không có ai dính dáng vào đó nữa, thì ngay trong ngày hôm đó công ty sẽ trả tiền bảo hiểm cho ông. Rồi có lẽ chúng ta có thể cùng làm ăn với nhau về những khách sạn khác nữa.

Có thể lắm, – Abel đáp.

Anh sẽ về Stenvens, quyết định ngồi ăn trưa ở đó xem khách sạn này quản lý nhà ăn như thế nào. Có một lá thư đang chờ anh ở quầy tiếp tân. Một ông David Maxton nào đó muốn hỏi xem Abel có thể cùng ăn trưa với ông ta được không.

David Maxton, – Abel nói to lên. Nhân viên tiếp tân nhìn anh. – Tôi biết ông này là ai đâu?- Anh hỏi cô gái ở đó.

– Ông ấy là chủ khách sạn này, thưa ông Rosnovski.

thế. Xin cô nói giùm với Maxton là tôi sẽ rất lấy làm sung sướng được cùng ăn trưa với ông.- Abel nhìn đồng hồ.- Nhờ cô nói thêm với ông ấy rằng tôi xin đến muộn vài phút nhé.

– Tất nhiên, thưa ông,- Cô gái đáp.

Abel vội lên phòng mình thay chiếc áo sơ-mi trắng mới, trong bụng nghĩ không biết David Maxton muốn gì ở mình.

Lúc Abel đến thì phòng ăn đã chật người. Người trưởng nhóm phục vụ chỉ anh đến một chiếc bàn riêng để trong hốc và đã có ông chủ khách sạn Stenvens ngồi đó rồi. Ông ta đứng dậy chào Abel.

Tôi là Abel Rosnovski, thưa ông.

– Vâng, tôi biết,- Maxton nói đúng hơn, tôi được biết tiếng ông. Mời ông ngồi và chúng ta cùng gọi ăn trưa.

Abel phải khen ngợi Stenvens. Mọi thứ, từ ăn uống đến phục vụ đều tốt như ở khách sạn Plaza vậy. Nếu anh muốn có một khách sạn tốt nhất ở Chicago thì chắc chắn nó phải hơn khách sạn này mới được.

Người trưởng hầu bàn đem thực đơn đến. Abel xem kỹ bản thực đơn trong tay

mình, anh khiêm tốn bỏ qua món đầu khai vị, và chọn ngay món thịt bò, vì anh nghĩ đó là cách tốt nhất và nhanh nhất để xác định xem nhà ăn ở đây có quan hệ với một cửa hàng thịt tốt hay không. Dayid Maxton không nhìn vào thực đơn, chỉ gọi món cá hồi. Người phục vụ vội bước đi ngay.

Chắc ông còn chưn hiểu tại sao tôi mời ông đến ăn trưa, phải không ông Rosnovski?

Tôi đoán, – Abel cười nói,- Ông định yêu cầu tôi tiếp quản khách sạn Stenvens này cho ông.

Ông nói rất đúng, ông Rosnovski.

Abel sững người. Bây giờ lại đến lượt Maxton cười.

Mặc dầu người hầu bàn đã đẩy một chiếc xe nhỏ đưa món thịt bò ngon nhất đến bên bàn nhưng họ vẫn không để ý. Người phục vụ chờ. Maxton vắt chanh lên món cá và nói tiếp:

Trong vòng năm tháng nữa, người quản lý của tôi sẽ về nghỉ hưu sau hai mươi năm làm việc rất trung thành, rồi liền sau đó một ít là người phó quản lý cũng về nốt, vì vậy tôi phải tìm người thay thế.

Tôi thấy chỗ này đã quá tốt rồi, – Abel nói.

Nhưng tôi vẫn muốn cho tốt hơn nữa, ông Rosnovski. Tôi không bao giờ thỏa mãn với hiện trạng, – Maxton nói.- Tôi đã theo dõi rất kỹ những hoạt động của ông. Chỉ sau khi ông tiếp quản nhà Richmond vào tay mình thì nơi đó mới được liệt vào hàng khách sạn. Trước đó, nó chỉ là một cái nhà trọ.

Trong vài ba năm nữa, nếu như không có thằng điên nào đó đốt nó đi như vậy thì ông đã là một đối thủ cạnh tranh với Stenvens rồi.

Ông ăn khoai chứ ạ, thưa ông?

Abel nhìn lên một cô phục vụ trẻ rất xinh đẹp. Cô ta cười nụ với anh.

Không, cảm ơn cô, – Anh nói.- Vâng, thưa ông Maxton, tôi rất hân hạnh về lời nhận xét và cảm ơn về đề nghị vừa rồi của ông.

Tôi nghĩ làm ở đây ông sẽ rất hài lòng, ông Rosnovski. Stenvens là một khách sạn được quản lý khá tốt và tôi sẵn sàng trả ông ngay từ đầu mỗi tuần năm mươi đô la cộng với hai phần trăm lợi nhuận.

Tùy ông muốn bắt đầu làm lúc nào cũng được.

Tôi cần có ít ngày để suy nghĩ về đề nghị rất rộng rãi của ông, thưa ông Maxton, – Abel nói. Tôi phải thú thật với ông là đề nghị đó rất hấp dẫn, tuy nhiên tôi còn một số vấn đề với Richmond chưa giải quyết xong.

Ông dùng đậu đũa chứ ạ, thưa ông?- Vẫn cô phục vụ đó và vẫn nụ cười đó. Khuôn mặt trông thật quen thuộc. Abel tin chắc là mình đã trông thấy cô ta ở đâu

rồi. Có lẽ cô ta đã làm việc ở Richmond rồi chăng.

– Vâng, xin cô.

Anh nhìn theo cô ta bước đi. Cô ta có một cái gì đó là lạ – Sao ông không ở lại thêm mấy ngày, coi như khách của tôi.- Maxton nói. – Ông ở lại xem chúng tôi quản lý chỗ này thế nào, như vậy sẽ giúp cho ông quyết định được.

Điều đó không cần thiết lắm, thưa ông Maxton. Chỉ cần ở đây một ngày là tôi đã thấy khách sạn được quản lý tốt như thế nào rồi. Cái khó đối với tôi ở chỗ chính tôi là chủ công ty Richmond.

David Maxton ngạc nhiên.

Tôi lại không biết điều đó. – Ông ta nói. – Tôi cứ yên trí cô con gái của ông Davis Leroy hiện nay là chủ.

Câu chuyện dài lắm, – Abel nói. Rồi anh giải thích đầu đuôi cho Maxton nghe anh đã đi đến làm chủ những cổ phiếu của công ty như thế nào.

Vấn đề bây giờ cũng đơn giản thôi, thưa ông Maxton. Cái tôi thực sự muốn làm bây giờ là làm sao kiếm ra hai triêu đô la để xây dựng lại công ty đó cho xứng đáng, tạo ra một cái gì đó có ý nghĩa đối với đồng tiền bỏ ra.

À ra thế, – Maxton nói và nhìn vào đĩa mình đã ăn xong với một vẻ băn khoăn. Người phục vụ đến dọn đĩa đi.

Thưa ông dùng cà phê chứ ạ?- Vẫn cô phục vụ ấy. Vẫn nụ cười quen thuộc ấy. Abel bắt đầu cảm thấy lo ngại – Và ông nói là Curits Phenton của ngân hàng Continental đang tìm người mua cho ông?

Vâng. Ông ấy tìm đã gần một tháng nay, – Abel nói.- Thật ra, đến chiều hôm nay thì tôi sẽ biết được ông ta có thành công hay không, tuy nhiên tôi không lạc quan lắm.
Kể cũng lý thú đấy nhỉ. Tôi không hề biết là công ty Richmond đang tìm người mua. Được hay không ông cũng cho tôi biết nhé.

Vâng, thưa ông, – Abel đáp.

Ngân hàng hàng Boston còn cho ông bao nhiêu thời gian nữa để kiếm được hai triệu đô la ấy?

Chỉ còn mấy ngày nữa thôi, vì vậy cho đến khi tôi báo cho ông biết về quyết định của tôi thì chắc cũng sẽ không lâu đâu.

Cảm ơn ông, – Maxtin nói. – Tôi vui mừng được gặp ông, ông Rosnovski. Tôi tin chắc là làm việc với ông sẽ thích lắm. – Ông ta bắt tay Abel rất nồng nhiệt Trên đường đi ra khỏi phòng ăn, Abel lại thấy cô phục vụ nhìn mình cười. Ra đến chỗ người trưởng nhóm, anh đứng lại và hỏi tên cô ta là gì.

Thưa ông, rất tiếc là chúng tôi không được phép cho khách biết tên của bất cứ nhân viên nào làm việc ở đây, đó là chính sách của công ty chúng tôi phải triệt để tuân theo. Nếu ông có điều gì đáng phàn nàn, xin ông cứ việc cho tôi biết cũng được.

Không phàn nàn gì hết, – Abel nói.- Trái lại, đây là một bữa ăn tuyệt vời.

Vốn đã có sẵn một việc làm khác rồi, Abel đi gặp Curtis Phenton với một tâm lý tự tin hơn. Anh tin chắc là nhà ngân hàng kia chưa tìm được người mua, nhưng anh

vẫn vui vẻ đến Continental. Anh thấy thú vị với ý nghĩ được làm quản lý của một khách sạn tốt nhất Chicago. Có lẽ anh sẽ biến nó thành một khách sạn tốt nhất nước Mỹ. Anh vừa bước đến ngân hàng đã được người ta mời vào ngay phòng làm việc của Curtis Phenton. Nhà ngân hàng cao và gầy – Không biết ông ta ngày nào cũng mặc bộ quần áo ấy hay ông có ba bộ giống nhau? – Mời anh ngồi xuống ghế và nở một nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt bình thường là nghiêm nghị.

ông Rosnovski, rất mừng được gặp lại ông. Nếu ông đến từ sáng sớm nay thì tôi chả có tin tức gì báo Cho ông biết được. Nhưng vừa cách đây một lúc, tôi đã nhận được điện thoại của một nguời quan tâm đến nó.

Abel giật mìth vừa vì ngạc nhiên vừa vì vui mừng. Anh lặng người đi một lát rồi nói:

Ông có thể cho tôi biết đó là ai được không?

Có lẽ không. Người có liên quan ấy ra lệnh cho tôi là phải tuyệt đối giữ kín tên cho, vì việc mua bán này là một chuyện đầu tư riêng có phần nào mâu thuẫn với chính công việc kinh doanh của người đứng ra mua.

David Maxton rồi, – Abel lẩm bẩm trong miệng. – Chúa phù hộ cho ông ta. Curtis Phenton không trả lời và nói tiếp:

Như tôi đã nói đó, ông Rosnovski, tôi không có tư cách gì để….

Hoàn toàn có, hoàn toàn có, Abel nói.- Ông tưởng còn phải thế nào nữa thì ông mới có tư cách để cho tôi biết về quyết định của người đó, bằng cách này hay cách khác?

Lúc này đây thì tôi chưa chắc được, nhưng có thể đến thứ hai thì tôi sẽ có thêm tin tức cho ông. Nếu ông có dịp quạ…

Có dịp qua ư Abel ngắt lời. – Đây là chuyện của cả đời tôi kia mà.

vậy thì chúng ta hẹn gặp vào sáng thứ hai.

Abel đi bộ dọc theo Đại lộ Michigan trên đường trở về khách sạn Stenvens, miệng

ư? bài hát “Vì sao xa mờ”. Anh lên phòng và gọi điện thoại cho William Kane đề nghị cho kéo dài thời hạn đến thứ hai tuần tới Anh báo cho anh ta biết là có thể đã tìm được người mua rồi Kane tỏ ra hơi miễn cưỡng nhưng cuối cùng đã đồng ý.

Thằng vô lại, – Abel nhắc đi nhắc lại mấy lần chữ đó rồi bỏ máy xuống. – Hãy cho tao ít thời gian nữa thôi Kane ạ. Rồi mày sẽ sống để mà ân hận vì đã giết Davis Leroy.

Abel ngồi ở góc giường, gõ ngón tay lên thành giường trên đầu, bụng nghĩ không biết làm gì hết thì giờ cho đến thứ hai. Anh xuống nhà đi lang thang trong hành lang. Anh lại trông thấy cô ta, cô gái đã phục vụ anh bữa trưa và bây giờ đang phục vụ trà trong Vườn Nhiệt Đới. Tính tò mò nổi lên, Abel bèn bước vào trong đó, ngồi ở một chiếc ghế góc phòng. Cô ta bước tới.

Xin chào ông, – Cô ta nói. – Ông muốn dùng trà chứ ạ? – Lại vẫn nụ cười quen

thuộc ấy.

Chúng ta biết nhau chứ, phải thế không?- Abel nói.

– Chúng ta có biết nhau, Wladek.

Nghe đến cái tên đó, Abel giật nẩy mình, hơi đỏ mặt lên, và chợt nhớ lại ngay mớ tóc vàng ngắn này trước kia đã dài và mềm mại biết chừng nào, và đôi mắt mơ màng kia đã từng khêu gợi biết chừng nào.

Zaphia, chúng ta cùng đi một chuyến tàu sang Mỹ, tàu Mũi Tên Đen ấy. Đúng rồi, sau đó em đi Chicago. Em làm gì ở đây?

Em làm việc ở đây, anh thấy đó. Thưa ông, ông dùng trà chứ ạ? – Giọng nói Ba Lan của cô khiến Abel cảm thấy ấm lòng.

Tối nay em ăn với anh nhé- Abel nói.

Không được đâu, Wladek. Ở đây không được phép đi ăn với khách. Nếu làm thế là mất việc liền.

Anh không phải là khách, – Abel nói. – Anh là bạn cũ – Người bạn cũ đã từng hứa .là sau khi có chỗ ăn ở tử tế sẽ đến Chicago thăm em, – Zaphia nói, – Và khi anh ta đến đây rồi thì cũng không còn nhớ ra em ở đây nữa.

Anh biết, anh biết. Tha lỗi cho anh, Zaphia. Em hãy cùng ăn với anh tối nay đi. Chỉ một lần này thôi,- Abel nói.

Chỉ một lần này thôi,- Cô nhắc lại.

Em đến gặp anh ở nhà hàng Brundage vào bảy giờ tối nhé. Giờ đó có được không?

Zaphia nghe đến tên đó mà thấy ngượng. Đó có lẽ một nhà hàng sang trọng và đắt tiền nhất ở Chicago, cô chỉ muốn phục vụ Ở đó cũng được, chứ đừng nói là khách đến ăn nữa.

Không. đi nơi nào nhỏ hơn cơ, Wladek.

Ở đâu? – Abel hỏi.

Anh có biết nhà Sausage ở góc đường 43 không – Không, anh không biết, nhưng rồi sẽ tìm ra. Bảy giờ nhé.

Bảy giờ, Wladek. Thế thì tuyệt. Bây giờ anh có muốn uống trà không?

Không, có lẽ anh thôi,- Abel nói.

Cô mỉm cười và bước đi. Anh nhìn cô phục vụ trà một lúc. Trông cô xinh đẹp hơn nhiều so với hình ảnh anh nhớ lại được. Vậy là từ nay đến thứ hai, giết thì giờ cũng sẽ không có gì khó lắm.

Nhà hàng Sausage khiến Abel nhớ lại những ngày đầu gian khổ khi mới đặt chân lên đất Mỹ. Anh ngồi nhấp một cốc bia lạnh chờ Zaphia đến và nhìn những người phục vụ bê thức ăn đến các bàn chung quanh bằng con mắt nhà nghề, tỏ ra không bằng lòng. Anh cũng không biết ở đây cái gì dở hơn, thức ăn hay là cách phục vụ. Zaphia đến chậm gần hai mươi phút.

Cô xuất hiện ở cửa vào, mặc chiếc áo màu vàng trông rất bảnh với chiếc váy thả dài xuống một chút cho hợp với thời trang nhưng vẫn không giấu được vẻ thon thả rất hấp dẫn vốn có của cô. Đôi mắt màu xám của cô nhìn quanh tìm bàn của Wladek. Cô đỏ bừng mặt khi biết mọi người xung quanh đang ngắm nhìn mình.

– Chào anh, Wladek,- Cô nói bằng tiếng Ba Lan lúc đến gần bên Abel.

Abel đứng dậy nhường ghế cho cô ngồi ở gần lò sưởi – Anh rất mừng em đến được, – Anh nói bằng tiếng Anh. Cô phân vân một lát rồi cũng trả lời lại bằng tiếng Anh.

Em xin lỗi đến muộn.

Em uống gì đã chứ, Zaphia?

Không, cảm ơn anh.

Hai người ngồi im không nói gì, nhưng rồi cả hai người cùng nói.

Anh đã quên đi mất rằng em xinh đẹp biết chừng nàọ… – Abel nói.

Làm sao anh có thể…. Zaphia nói.

Cô cười và hơi thẹn khi Abel muốn chạm vào người cô Anh rất nhớ đến lần đầu cách đây hơn tám năm lúc vừa chạm vào người cô cũng có phản ứng như vậy.

George thế nào?- Cô hỏi.

Đã hơn hai năm nay anh không gặp cậu ta, – Abel đáp, trong lòng bỗng thấy ngượng.- Anh làm việc ở một khách sạn Chicago này, và….

Em biết, – Zaphia nói.- Người ta đốt nó rồi.

Tại sao em không đến chơi gặp anh?- Abel hỏi.

Em chắc anh không nhớ, Wladek. Và em nghĩ thế là đúng.

Vậy sao em nhận ra anh?- Abel nói. – Anh béo ra nhiều thế kia mà.

Đó là do chiếc vòng bạc của anh, – Cô nói. Abel nhìn xuống cổ tay và cười.

Anh phải cảm ơn chiếc vòng này rất nhiều, và bây giờ thì phải cảm ơn nó đã cho chúng ta gặp lại nhau.

Cô tránh không nhìn anh.

Bây giờ không còn khách sạn nữa thì anh làm gì?

Anh đang tìm việc, – Abel nói, không muốn làm cho cô lo ngại về chuyện người ta mới đề nghị anh về quản lý khách sạn Stenvens.

Sắp có việc quan trọng ở Stenvens đấy. Bạn trai em nói vậy.

Bạn trai em bảo thế à?- Abel hỏi lại, trong lòng không vui.

Vâng, – Cô đáp.- Khách sạn sắp tìm một người phó quản lý mới. Sao anh không xin luôn việc đó đi? Em chắc anh xin thì được đấy, Wladek. Em vẫn tin rằng anh sang đây sẽ thành công.

Có lẽ anh sẽ xin, – Abel nói.- Em nghĩ đến anh như thế là rất đáng qúy.

Nhưng tại sao bạn trai của em không xin việc ấy?

Ồ không, anh ta còn quá trẻ, người ta chả màng đến anh ta đâu. Anh ta chỉ là người phục vụ phòng ăn như em thôi.
Abel bỗng muốn đổi chỗ cho anh chàng kia.

Chúng ta ăn chứ?- Anh nói.

Em không quen đi ăn ngoài thế này, – Zaphia nói.

Cô nhìn vào thực đơn. Bỗng Abel chợt hiểu ra là cô chưa đọc được tiếng Anh, vì vậy anh gọi cho cả hai người.

Cô ăn một cách khoan khoái và cứ khen ngon mãi.

Abel thấy niền vui hồn nhiên của cô là một liều thuốc bổ sau khi đã tiếp xúc với cái vẻ hiện đại nhưng nhàm chán của Melanie. Họ nói chuyện với nhau về cuộc đời của mình từ khi sang Mỹ đến giờ. Zaphia bắt đầu bằng những việc hầu hạ trong nhà và dần dần trở thành cô chiêu đãi viên ở khách sạn Stenvens, cho đến nay đã được sáu năm. Abel kể rất nhiều về chuyện mình cho đến lúc cô liếc nhìn vào đồng hồ tay của anh.

Xem giờ nhé, Wladek,- Cô nói.- Đã hơn mười một giờ rồi, mà em thì sáng mai phải có mặt ở phòng ăn sáng từ sáu giờ đấy.

Abel không để ý đến thời gian trôi nhanh, thế mà đã bốn tiếng rồi. Anh muốn ngồi nói chuyện với Zaphia cho đến hết đêm. Cô thì nghe chuyện rất khâm phục anh và nghĩ gì nói thẳng ra ngay.

Anh còn gặp lại em được không, Zaphia? – Anh hỏi lúc hai người cùng khoác tay nhau đi bộ về Stenvens.

Tùy anh, Wladek.

Em vào bằng cửa này,- Cô nói. Còn nếu anh làm phó quản lý thì anh sẽ được vào bằng cửa trước.
Em gọi anh là Abel được không?- Anh hỏi cô.

Abel?- Cô hơi lạ hỏi lại trước kia anh tên là Wladek kia mà.

Trước kia thì thế, bây giờ thôi rồi. Tên anh là Abel Rosnovski.

Tên Abel nghe ngộ nghĩnh đấy, nhưng cũng hợp với anh, – Cô nói.- Cảm ơn anh về bữa ăn, Abel. Gặp lại anh em mừng lắm. Thôi, chúc anh ngủ ngon nhé.

Chúc em ngủ ngon, Zaphia,- Anh đáp, và cô quay người đi.

Anh nhìn cô đi khuất vào trong cửa rồi chầm chậm quay trở lại ra phía cửa trước khách sạn. Anh chợt cảm thấy mình cô đơn quá, và lần này không phải là lần đầu tiên trong đời.

Mấy ngày cuối tuần Abel chỉ toàn nghĩ đến Zaphia và những hình ảnh liên quan đến cô. Anh nghĩ đến mùi hôi thối trong hầm tầu đi di cư, nghĩ đến những đoàn người xếp hàng dài trên đảo Ellis, và nhất là lúc hai người yêu nhau say đắm trên con thuyền phao ở tàu Tất cả các bữa ăn anh đều xuống phòng ăn trong khách sạn để được gần

với cô và để xem người bạn trai nào đó của cô mà Abel đoán là anh ta thế nào cũng có mụn nhọt trên mặt. Wả nhiên là anh ta có thế thật, nhưng dù như vậy đi nữa anh ta vẫn là một chàng đẹp trai nhất trong tất cả những người phục vụ.

Hôm thứ bẩy, Abel muốn đưa Zaphia đi chơi, nhưng cô phải làm việc cả ngày. Tuy vậy, anh vẫn thu xếp để cùng đi nhà thờ với cô vào sáng Chủ nhật nghe linh mục người Ba Lan làm lễ khiến anh càng nhớ đến quê hương. Kể từ ngày ở trong lâu đài Ba Lan đến nay, bây giờ anh mới lại đi lễ nhà thờ. Hồi đó, anh không sao hình dung được tất cả những sự độc ác nó đã khiến anh không còn thể tin được ở lòng từ thiện của các thần thánh nữa. Đi lễ nhà thờ, anh coi như được có một phần thưởng vì Zaphia cho anh cầm tay cô và hai người cùng đi bộ về khách sạn.

Anh còn nghĩ về làm ở Stenvens nữa không?- Cô hỏi dò.

Đến sáng mai thì anh sẽ biết được họ quyết định thế nàọ.

Ồ thế thì em mừng cho anh lắm, Abel. Em tin rằng anh sẽ làm được một phó quản lý rất tốt.

Cảm ơn em,- Abel nói, trong bụng muốn cô chuyển sang chuyện khác.

Tối nay anh có muốn cùng đến ăn với bà con ở chỗ em ‘ không?- Zaphia hỏi. – Tối chủ nhật nào em cũng về đó.

Có anh rất muốn thế.

Mấy người chị họ của Zaphia ở gần _ nhà hàng Sausage giữa thành phố. Họ rất cảm động thấy zaphia cùng về với một người bạn Ba Lan mà lại lái chiếc xe Buick mới. Zaphia gọi đây là gia đình nhưng chỉ có hai người chị họ, Katya và Janina, với người chồng của Katya là Janek. Abel tặng các bà chị một bó hoa hồng rồi ngồi xuống nói chuyện bằng tiếng Ba Lan rất thạo. Anh trả lời mọi người các câu hỏi về tương lai và triển vọng làm ăn. Zaphia thì có vẻ lúng túng nhưng Abel biết rằng bất cứ người bạn trai nào đến một gia đình người Mỹ gốc Ba Lan cũng đều phải xử sự như anh. Thấy Janek nhìn mình bằng con mắt thèm muốn, anh phải cố tỏ ra khiêm tốn và kể lại những ngày đầu mình làm việc trong cửa hàng thịt.

Katya dọn một bữa ăn Ba Lan đơn giản mà nếu là mưởi lăm năm trước đây thì có lẽ Abel đã ăn rất ngon miệng. Anh nói chuyện với hai cô chị kia nhiều hơn là với Janek. Còn một thanh niên ít tuổi nữa cũng ngồi đấy nhưng Abel không biết anh ta có phải người Ba Lan không và cũng không hỏi tên.

Trên đường trở về Stenvens, Zaphia làm ra vẻ nũng nịu quay sang hỏi anh rằng một tay lái xe còn một tay nắm lấy tay phụ nữ ngồi cạnh như thế có an toàn không. Abel cười rụt tay về và cứ để nguyên trên tay lái cho đến lúc về tới khách sạn.

Ngày mai em có thì giờ gặp anh không anh hỏi.

Em hy vọng thế, Abel, – Cô nói. – Có lẽ lúc đó anh đã là ông chủ của em rồi. Dù sao cũng chúc anh may măn.

Anh mỉm cười với mình và nhìn cô đi khuất vào sau cửa, bụng nghĩ không biết cô

sẽ thấy thế nào nếu kết quả ngày mai không được như ý muốn. Anh ngồi im trên xe cho đến lúc cô đã bước hẳn vào trong cửa ra vào của nhân viên.

Phó quản lý thế đấy, – Anh nói và cười to lên rồi nằm vào giường. Anh không biết đến sáng mai tin tức của Curtis Phonton sẽ ra sao. Anh cố xua đuổi hình ảnh Zaphia ra khỏi đầu mình, vứt chiếc gối xuống sàn rồi lăn ra ngủ.

Hôm sau, anh tỉnh dậy tử trước năm giờ. Căn phòng còn tối om khi anh gọi lấy số báo Diễn đàn buổi sớm. Anh đọc qua những mục về tài chính, mặc quần áo vào và sẵn sàng đi ăn sáng lúc nhà ăn mở cửa vào bẩy giờ. Sáng hôm nay, Zaphia không phục vụ trong nhà ăn chính. Chỉ có anh chàng bạn trai của cô thôi, và Abel cho đó là điều xấu. Anh chỉnh lại chiếc cavát đeo trên cổ đến mấy chục lần và lại nhìn đồng hồ.

Anh ước tính nếu mình đi bộ thật chậm thì sẽ đến ngân hàng vào đúng giờ họ mở cửa. Thực ra, anh đến đó trước năm phút và anh phải đi vòng quanh khối phố đó một lượt, nhìn một cách vô định vào các cửa hàng, xem những đồ nữ trang đắt tiền, những chiếc đài và những bộ quần áo cắt may bằng tay rất công phu. Anh tự hỏi Không biết bao giờ mình mới có tiền mua nổi những bộ quần áo như thế Anh quay về ngân hàng lúc chín giờ bốn phút.

Ông Phenton hiện giờ đang bận. Ông muốn nửa giờ nữa quay lại hay muốn ở đây đợi? – Cô thư ký hỏi.

Tôi sẽ quay lại, – Abel đáp, không muốn tỏ ra lo lắng.

Đây là quãng thời gian ba mươi phút dài nhất kể từ khi anh đến Chicago. Anh nhìn kỹ từng cửa hàng trên phố La Salle, nhìn kỹ cả quần áo phụ nữ bày trong đó. Anh nghĩ đến Zaphia.

Way về ngân hàng Continental, cô thư ký báo ngay cho anh biết Phenton đã sẵn sàng gặp anh.

Hai bàn tay toát mồ hôi, Abel bước vào phòng làm việc của giám đốc ngân hàng.

– Chào ông Rosnovski. Mời ông ngồi.

Curtis Phenton rút trong ngăn ra một tập hồ sơ. Abel có thể trông thấy chữ “Mật” viết trên bìa.

Bây giờ nhé, – Ông ta nói. – Tôi hy vọng ông sẽ thấy cái tin này của tôi là hợp với

thích của ông đấy Người bỏ tiền ra có ý muốn mua những khách sạn này với những điều kiện mà tôi cho ra rất thuận lợi.

Lạy Chúa! Abel nói.

Curtis Phonton làm như không nghe thấy gì, nói Thực ra là cực kỳ thuận lợi cho ông. Ông ta sẽ có trách nhiệm bỏ ra toàn bộ hai triệu để thanh toán món nợ của ông Leroy, đồng thời lập ra một công ty mới với ông, trong đó cổ phần sẽ được chia ra sáu mươi phần trăm cho ông ta và bốn mươi phần trăm cho ông. Chỗ bốn mươi phần trăm của ông là tám trăm nghìn đô la, coi như được công ty mới cho ông vay trong thời hạn không quá mười năm, với lãi suất bốn phần trăm và có thể trả bằng lợi nhuận của

công ty cũng với tỷ lệ lãi suất ấy. Có nghĩa là nếu trong một năm công ty có lợi nhuận ấy trả cho khoản nợ tám trăm ngàn của ông cộng với bốn phần trăm lãi suất.

Nếu ông trả hết được số tiền vay tám trăm ngàn ấy trước hạn mười năm thì ông sẽ có quyền được mua sáu mươi phần trăm cổ phần còn lại của công ty với giá ba triệu đô la. Như thế này khách hàng của tôi sẽ được quyền ưu tiên đầu tư, còn ông thì có cơ hội làm chủ công ty Richmond.

Thế vào đó, ông sẽ có lương năm nghìn đô la một năm và với tư cách là chủ tịch công ty ông sẽ có quyền hoàn toàn kiểm soát các khách sạn. Ông sẽ chỉ có quan hệ với tôi trên những vấn đề thu chi mà thôi.

Tôi được ủy nhiệm báo cáo trực tiếp cho người đã bỏ tiền ra, và ông ta cũng yêu cầu tôi đại diên cho quyền lợi của ông ta trong ban giám đốc của công ty Richmond mới. Tôi đã vui vẻ nhận lời làm việc này. Khách hàng của tôi không muốn cá nhân mình dính líu đến đó.

Như tôi đã nói trước đây, có thể có chuyện mâu thuẫn về lợi ích nghề nghiệp của ông ta trong việc mua bán này, nhưng tôi chắc ông sẽ hiểu được. Ông ta cũng nhắc lại một lần nữa là ông chớ có bao giờ tìm hiểu xem ông ta là ai. Ông ta cho ông mười bốn ngày để suy nghĩ về những điều kiện trên đây, những điều klện mà ông ta cho rằng không còn gì đáng phải thương lượng nữa vì đã vô cùng thuận lợi rồi, và riêng tôi thì tôi cũng đồng ý như vậy.

Abel không thể nói được một lời nào. ông nói gì đi chứ, ông Rosnovski.
Tôi không cần đến mười bốn ngày để quyết định,- Abel nói. Tôi chấp nhận những điều kiện mà khách hàng của ông đã nêu ra. Xin ông cảm ơn ông ta giùm tôi và nói lại với ông ấy rằng tôi nhất định sẽ tôn trọng yêu cầu của ông ấy được giấu tên.
Thế thì rất tốt, – Curtis Phenton nói và toét miệng cười – Bây giờ còn một số điểm nhỏ nữa. Tài khoản của khách sạn trong công ty đều sẽ gửi ở ngân hàng Continental và các chi nhánh. Tài khoản chính sẽ nằm ở đây, do tôi trực tiếp kiểm soát. Về phần tôi, tôi sẽ được hưởng mỗi năm một ngàn đô la với danh nghĩa một trong những giám đốc của công ty mới.

Tôi mừng cho ông cũng có được phần mình trong cuộc này.

Ông nói sao cơ nhà ngân hàng hỏi.

Tôi nói là rất mừng được cùng làm việc với ông, ông Phenton.

Ông chủ tài khoản cũng đã bỏ ra hai trăm năm mươi ngàn đô la gửi vào ngân hàng để dùng vào những chi phí hàng ngày cho các khách sạn trong mấy tháng tới. Khoản này cũng coi như một khoản vay với lãi suất bốn phần trăm.

Nếu như số tiền này không đủ cho những nhu cầu của ông thì ông phải cho tôi biết ngay. Tôi cho rằng nếu như ông coi số tiền hai trăm năm chục ngàn đô la đó là đủ rồi thì ông khách hàng của tôi quả là đã đánh giá đúng về ông đó.

Tôi sẽ suy nghĩ thêm về điều đó, – Abel nói, bắt chước giọng của nhà ngân hàng. Custis Phenton mở ngăn kéo rút ra một điều xì gà Cu Ba.
ông có hút không?

Có – Abel nói, thực ra cả đời anh chưa hề hút điếu xì gà nào bao giờ.

Anh ho suốt dọc đường qua phố La Salle về đến khách sạn Stenvens. Về đến nơi, anh thấy David Maxton đang đứng giữa nhà sảnh. Abel dụi tắt điếu xì gà mới hút được một nửa, coi như thoát nợ, và bước vội đến chỗ ông ta.

Õng Rosnovski, trông ông sáng nay có vẻ vui lắm.

Vâng, tôi rất vui, thưa ông, và tôi chỉ tiếc là không được làm việc cho ông với tư cách quản lý khách sạn này.

Tôi cũng tiếc, ông Rosnovski ạ. Thật tình tôi cũng không ngạc nhiên lắm về tin

đó.

Xin cảm ơn ông về mọi thứ, – Abel nói, dồn hết tình cảm của mình vào trong câu nói ngắn ngủi ấy và trong cái nhìn của anh.

Anh chào David Maxton rồi bước vào phòng ăn tìm Zaphia, nhưng cô đã nghỉ. Abel đi thang máy về phòng châm lại điếu xì gà, hút một cách nhè nhẹ hơn, rồi anh gọi cho ngân hàng Kane và Cahot. Cô thư ký chuyển cho anh nói thẳng với William Kane.

Ông Kane, tôi đã kiếm được đủ tiền để lấy lại quyền làm chủ công ty Richmond. Một ông tên là Curtis Phenton của ngân hàng Continental sẽ liên hệ với ông trong ngày hôm nay để cung cấp các chi tiết. Như vậy là không cần phải đem các khách sạn ra bán trên thị trường công khai nữa.

Yên lặng một lát. Abel mừng thầm cái tin của mình hẳn làm cho William Kane phải khó chịu lắm.

Cảm ơn ông đã báo cho tôi biết, ông Rosnovski. Tôi rất mừng ông đã tìm được người ủng hộ. Chúc ông mọi thành công trong tương lai.

Tôi cũng mong được chúc ông như vậy, ông Kane. Anh bỏ máy xuống, nằm ra giường và suy nghĩ về tương lai.

Một ngày kia, – Anh nhìn lên trần nhà nói, – Tao sẽ mua luôn cả cái ngân hàng chết tiệt của mày và làm cho mày phải nhẩy từ phòng ngủ trên tầng mười bẩy xuống cho mà xem.

Anh lại nhấc điện thoại lên yêu cầu cô gái ở tổng đài cho anh nói chuyện với ông Henry osborne ở Công ty Bảo hiểm Great Westem.

***

Willam đặt máy xuống, trong bụng nghĩ thấy buồn cười hơn là khó chịu về thái độ hung hăng của Abel Rosnovski. Anh lấy làm tiếc đã không thể thuyết phục ngân hàng ủng hộ anh chàng bé nhỏ người Ba Lan này, một con người rất tin ở khả năng có thể cứu vãn được công ty Richmond qua lúc khó khăn. Anh làm hết phận sự còn lại của

mình là thông báo cho ủy ban tài chính biết Abel Rosnovski đã được người ủng hộ, chuẩn bị các tài liệu chính thức để giao lại khách sạn rồi đóng luôn hồ sơ của ngân hàng về công ty Richmond.

Mấy ngày sau William vui mừng thấy Matthequ đến Boston nhận làm giám đốc bộ phận đầu tư của ngân hàng. Charles Lester không giấu giếm chuyện ông cho rằng nếu Matthequ có thêm được kinh nghiệm nhà nghề nào ở một ngân hàng đối thủ với mình đều là một sự chuẩn bị tốt cho anh làm chủ tịch ngân hàng Lester trong tương lai. Công việc của William bỗng được vãn ngay đi một nửa, nhưng thời gian của anh hình như lại bận hơn trước. Anh tranh thủ bất cứ lúc nào rỗi rãi là đi đánh quần vợt hoặc đi bơi, chỉ có mỗi chuyện Matthequ rủ đi trượt tuyết ở Vermont là William dứt khoát không đi. Những hoạt động trên đây tuy nhiên, cũng khiến cho anh cảm thấy mình bớt cô đơn và đỡ nhớ nhung đối với Kate. Matthequ không tin là William có thể nhớ cô ta đến mức như vậy.

Tớ phải gặp cái người đàn bà đó để hiểu tại sao cô ta cô thể làm cho William Kane phải mất hồn trong khi họp ban giám đốc để bàn việc ngân hàng có nên mua thêm vàng vào hay không mới được.

Rồi cậu gặp sẽ thấy, Matthequ. Tớ nghĩ là cậu sẽ đồng ý rằng cô ta còn quý hơn cả vàng đầu tư nữa kia.

Mình tin ở cậu. Chỉ có điều mình không muốn nói cho Susan biết. Nó vẫn nghĩ rằng trên đời này chỉ có cậu là người đàn ông duy nhất cho nó thôi đấy.

William cười. Anh chưa hề có lúc nào -nghĩ đến Susan cả ***** Đống thư của Kate gửi đến vẫn nằm trong ngăn kéo bàn cua William được khóa tử tế. Anh đọc đi đọc lại đống thư đó nhiều lần đến gần như thuộc lòng.

Cuối cùng, một bức thư anh vẫn chờ đợi hơn cả đã đến, có ngày giờ rõ ràng. Buckhurst Park Ngày 14 tháng 2-1930 Anh William rất yêu quý, Cuối cùng em đã

đóng gói xong tất cả mọi thứ, thanh toán xong các việc và em sẽ trở về Boston vào ngày 19. Nghĩ đến chuyện gặp lại anh mà em hồi hộp quá Nếu như tất cả câu chuyện diệu kỳ này bỗng nổ tan như bong bóng trong gió lạnh của Biển Đông thì sao nhỉ? ôi, lạy Chúa, em không mong thế. Em không thể biết những tháng dài cô đơn này mà không có anh thì làm sao đây.

Yêu anh, Kate Cái đêm trước khi Kate về đến đây, William tự hứa với mình sẽ không làm gì quá vội vã để cho hai người sau này phải hối tiếc. Anh nói với Matthequ rằng anh không sao đo hết được những cảm nghĩ của cô trong trạng thái chuyển từ cái chết của chồng cô sang tâm lý hiện nay như thế nào.

Cậu đừng có làm ra vẻ tâm lí thế, – Matthequ nói.- Cậu yêu thì phải thấy cái thực tế đó chứ.

Vừa trông thấy Kate ở ngoài ga, William đã không còn giữ được thái độ thận trọng của mình nữa. Anh chỉ còn thấy vui sướng khi nhìn nụ cười rạng rỡ trên mặt cô. Anh

chen qua đám hành khách chạy vội ra ôm chặt lấy cô đến mức cô không thở được nữa.

-Chúc mừng em đã trở về nhà, Kate. – Wilham đang sắp sửa hôn thì cô lùi lại. Anh hơi ngạc nhiên.

William, có lẽ anh chưa gặp cha mẹ em.

Tối hôm đó William cùng ăn với gia đình Kate. Ngày ngày, hễ cứ lúc nào rảnh, dù chỉ được vài tiếng nếu không bận với những công việc ngân hàng hoặc phải đánh quần vợt với Matthequ là anh chạy đến gặp cô ngay. Rồi đến Matthequ, anh chàng này vừa gặp Kate lần đầu tiên đã mê đến nỗi sẵn sàng đem tất cả cổ phần vàng bạc của mình chỉ để đổi lấy một mình cô Kate.

Tớ không bao giờ bán hạ giá đâu nhé, – William nói. – Và tớ cũng không như cậu đâu, Matthequ, tớ không bao giờ quan tâm đến lượng, chỉ quan tâm đến chất thôi.

Vậy tớ hỏi cậu, – Matthequ nói, – Còn kiếm đâu ra được một người có giá như Kate nữa?

Ở bộ phận thanh lý trong ngân hàng ấy chứ đâu? William nói.

Cậu liệu mà chiếm hữu cô ta nhanh đi, William, nếu không tớ sẽ chiếm mất đấy. Vụ thất thoát của ngân hàng Kane và Cabot trong cuộc phá sản năm 1929 lên đến

trên bảy triệu đô la. Với tầm cỡ của ngân hàng này, mất mát như thế là ở mức trung bình. Mấy ngân hàng khác cỡ nhỏ hơn một chút đều thất bại. William phải cố cầm cự cho đến hết năm 1939 và luôn luôn bị áp lực từ khắp phía.

Khi Phranklin D. Roosevelt được bầu làm Tổng thống Mỹ trong một liên danh hứa hẹn phục hồi và cải cách, William vẫn lo rằng chính sách Tân Kinh tế của chính quyền cũng sẽ chẳng đem lại gì nhiều cho ngân hàng Kane và Cabot cho lắm. Khắp nơi tình hình kinh doanh phát triển rất chậm chạp. William nuôi trong đầu một kế hoạch mở rộng ngân hàng.

Trong khi đó, Tony Simmons quản chi nhánh của ngân hàng ở London cũng đã mở rộng được phạm vi hoạt động và trong hai năm đầu đã đem lại được cho ngân hàng Kane và Cabot những khoản lợi nhuận đáng kể. Những thành tích của ông ta xem ra khá hơn nhiều so với William lúc này còn đang lúng túng chưa tìm ra lối thoát.

Cuối năm 1932, Alan Lloyd gọi Tony Simmons về Boston để báo cáo trước toàn thể ban giám đốc về những hoạt động ngân hàng của ông ta ở London.

Simmons vừa về đã tỏ ý muốn ứng cử vào cương vị chủ tịch ngân hàng khi Alan Lloyd sẽ về hưu trong vòng mười lăm tháng nữa. William hoàn toàn bị bất ngờ với chuyện đó, vì anh coi như Simmons đã mất hết cơ hội từ sau khi biến sang London rồi. Bây giờ William không thể ngờ Simmons vẫn còn tham vọng ấy được anh nghĩ điều đó có lẽ không phải do Simmons tinh tế nhìn thấy trước được sự việc mà do nền kinh tế ở Anh lúc này so với Mỹ có vẻ ít tê liệt hơn.

Tony Simmons trở về London lại được thêm một năm thành công nữa. Ông ta phát

biểu tại cuộc họp đầu tiên của ban giám đốc bằng một giọng đắc thắng, tuyên bố rằng chi nhánh ngân hàng ở London sẽ thu được khoản lợi nhuận trên một triệu đô la nữa và đó là một kỷ lục mới. Cũng trong khoảng thời gian này, William chỉ có thể báo cáo được phần lợi tức nhỏ hơn nhiều. Việc Tony Simmons đột ngột trở về với tình hình thuận lợi hơn ấy đặt William trước vấn đề là anh chỉ còn một năm nữa để tranh thủ sự ủng hộ của toàn thể ban giám đốc thôi, trong khi đó đối thủ của anh xem ra mỗi lúc một khá lên hơn.

Kate đã bỏ hàng giờ để nghe William kể lại những vấn đề của mình, thỉnh thoảng gật gủ tỏ ra thông cảm hoặc trách anh là hơi quá bi quan. Còn Matthequ làm tai mắt của William thì cho biết là khi bỏ phiều bầu sẽ rất có thể là 50-50, vì một nửa cho là William còn quá trẻ chưa thể giao cho cương vị có trách nhiệm lớn như chủ tịch ngân hàng được, còn một nửa thì vẫn còn cho rằng Tony Simmons là đáng trách về chuyện đã làm ngân hàng bị thua thiệt năm 1929. Hình như phần lớn những thành viên không có trong ban chấp hành và không trực tiếp làm việc với William đều nghiêng về phía phân biệt tuổi tác hơn là bị những gì khác ảnh hưởng đến. Matthequ thường được nghe người ta đồn rằng. Sẽ đến lúc William thắng cử. Đã có lúc Matthequ làm như mình là Thánh sống và khẳng định với William:

Với tất cả những cổ phần của cậu trong ngân hàng thì cậu có thể thay đổi toàn bộ ban giám đốc, đưa những người cậu tự chọn ra cho vào đó và bảo họ bầu cậu làm chủ tịch ìà xong thôi.

William quá biết con đường của anh đi lên cương đó nhưng anh nghĩ mình không cần phải dùng đến những sách lược như vậy làm gì. Anh muốn làm gì.

Anh muốn mình trở thành chủ tịch chỉ do những ưu điểm của mình thôi. Dù sao, ngày xưa bố anh đă từng đi con đường đó để đạt tới cương vị chủ tịch, mà Kate thì cũng muốn anh như vậy.

Ngày hai tháng Giêng 1934, Alan Lloyd thông báo cho tất cả các thành viên biết là cuộc họp ban giám đốc sẽ tiến hành vào đúng ngày sinh nhật thứ sáu mươi lăm của ông, và cuộc họp đó chỉ có mục đích duy nhất là bầu người kế vị. Gần đến ngày quyết định ấy, Matthequ chỉ còn một mình quản công việc của bộ phận đầu tư, còn Kate thì phải phục vụ ăn cho cả hai người vì họ bận đi vận động. Matthequ không phàn nàn điều gì về chuyện mình phải làm việc nhiều hơn vì William còn phải lo tính toán làm sao giành được cái ghế chủ tịch. William biết rằng mình có thành công thì Matthequ cùng chẳng được lợi gì vì dù sao một ngày kia anh ta cũng lên tiếp quản ngân hàng của bố ở New York, mà ngân hàng đó còn quan trọng hơn nhiều so với Kane và Cabot, nhưng anh nghĩ đến ngày đó anh cũng sẽ ủng hộ Matthequ một cách vô tư như Matthequ ủng hộ anh bây giờ. Cũng chẳng còn bao lâu nữa.

Hôm kỷ mệm sinh nhật thứ sáu mươi lăm của Alan Lloyd, tất cả mười bảy thành viên ban giám đốc đều có mặt. Cuộc họp được mở đầu bằng bài diễn văn từ biệt của

ông chủ tịch, dài mười bốn phút, mà William nghe thì thấy sao nó dài tưởng chừng như mãi không hết. Tony Simmons thì sốt ruột gõ gõ bút vào tập giấy trước mặt, thỉnh thoảng ngước lên nhìn William. Cả hai người, chẳng ai nghe Alan nói gì trong bài diễn văn. Cuối cùng Alan ngồi xuống, và mười sáu nhà ngân hàng Boston vỗ tay ran. Hết tiếng vỗ tay, Alan Lloyd, với tư cách chủ tịch ngân hàng Kane và Cabot, đứng lên một lần cuối.

-và Bây giờ, thưa qUý ngài, chúng ta phải bầu lên một người thay thế cho tôi. Ban giám đốc được gìới thiệu hai ứng cử viên nổi bật là ông Anthony Simmons, giám đốc chi nhánh ngân hàng hải ngoại, với ông William Kane, giám đốc ngân hàng đầu tư ở trong nước. Wý ngài đều biết rõ cả hai nglíời, và tôi cũng không cân phải nói thêm gì nhiều về những ưu điểm của hai vị đó. Ngược lại, tôi đã yêu cầu mỗi ứng cử viên trình bày cho ban giám đốc được biết về cái nhìn của mình đối với tương lai của ngân hàng Kane và Cabot như thế nào nếu như được bầu làm chủ tịch.

William đứng dậy trước, vì đã có tung đồng tiền để xem ai trước ai sau rồi. Anh trình bày trong hai mươi phút, nói chi tiết ý kiến của anh về ý đồ muốn đưa ngân hàng vào những lĩnh vực mà trước đây ngân hàng chưa dám mạo hiểm. Đặc biệt, anh muốn mở rộng cơ sở của ngân hàng để thoát ra khỏi tình trạng suy thoái hiện nay và hướng của anh là chuyển dần xuống trung tâm ở New York. Anh còn nêu ra ý kiến là có khả năng lập một công ty cổ phần chuyên về mặt thương mại (đến đây thì thấy một số thành viên cũ lắc đầu tỏ vẻ không tin). Anh muốn ngân hàng xét vấn đề mở rộng đề đối phó với thế hệ những nhà tài chính mới hiện nay đang cầm đầu ở nước Mỹ, muốn thấy Kane và Cabot bước vào nửa sau của thế kỷ hai mươi với tư cách là một trong những thể chế tài chính lớn nhất của Hoa Kỳ. Khi ngồi xuống, anh hài lòng nghe nhữag tiếng rì rầm tán thưởng. Bài diễn văn của anh nói chung được ban giám đốc hoan nghênh.

Tony Simmons đứng lên tiếp. Ông ta trình bày vấn đề với một quan điểm bảo thủ hơn nhiều. Ông ta nói ngân hàng phải củng cố địa vị cho mình trong những năm tới, phải thận trọng đi vào nhữag lĩnh vực đã chọn lựa và phải bám lấy cách làm ăn truyền thống đã giúp cho Kane và Cabot giữ được uy tín của mình.

ông ta đã rút ra được bài học của vụ phá sản trước đây và cho rằng điều quan tâm chủ yếu của mình – Ông ta nói thêm và mọi người cười – Là Kane và Cabot vẫn cứ bước vào nửa sau của thế kỷ hai mươi như thường. Tony nói bằng một giọng khôn khéo và có sức thuyết phục mà William biết rằng mình còn quá trẻ không thể đối phó với kiểu đó được. Lúc Tony ngồi xuống thì William không thể biết là ban giám đốc nghiêng về phía nào nữa, tuy anh vẫn tin rằng đa số sẽ tán thành mở rộng ngân hàng hơn là đứng yên một chỗ.

Alan Lloyd cho các giám đốc biết rằng bản thân ông ta và hai người ra tranh cử không bỏ phiếu. Còn lại mười bốn người nhận lá phiếu, viết vào đó rồi đưa lại cho

Alan. Ông nhìn những lá phiếu đó rồi từ từ đếm. William không dám nhìn lên, chỉ cắm đầu vào tập giấy trước mặt và hai bàn tay toát mồ hôi. Alan đếm xong thì cả phòng im lặng chờ.

ông tuyên bố sáu phiếu bầu cho Kane, sáu phiếu bầu cho Simmons, hai phiếu trắng. Có tiếng xôn xao trong số những người ngồi đó. Alan kêu gọi trật tự.

William hít một hơi thở dài. Alan ngừng lại rồi nói:

Tôi nghĩ rằng có lẽ trong hoàn cảnh như thế này, chúng ta phải bầu lại một lần thứ hai. Nếu như có thành viên nào trong lần bầu thứ nhất đã bỏ phiếu trắng và trong lần này bỏ cho một ứng cử viên nào đó thì mới có đa số phiếu được.

Những mẩu giấy trắng lại được phân phát. Lần này William không muốn nhìn vào đó nữa. Anh chỉ còn nghe tiếng sột soạt của ngòi bút cạo trên giấy.

Những lá phiếu lại được đưa về cho Alan Lloyd. Một lần nữa, ông chầm chậm mở từng lá phiếu và đọc to các tên viết trong đó lên.

William Kane.

Anthony Simmons, Anthony Simmons, Anthony Simmons. Ba một nghiêng về Tony Simmons.

William Kane, William Kane.

Anthony Simmons.’ – William Kane, William Kane, William Kane.

Sáu hai nghiêng về William.

Anthony Simmons, Anthony Sừnmons.

– William Kane.

Bẩy sáu nghiêng về William.

William nín thở, tưởng như không biết đến bao giờ Alan Lloyd mới mở đến lá phiếu cuối cùng.

– Anthony Simmons, – Ông nói. “Thế là bẩy đều, thưa quý ngài”.

William biết là bây giờ Alan Lloyd sẽ buộc phải bỏ lá phiếu quyết định cuối cùng. Mặc dầu ông chưa hề nói với ai là ông ủng hộ người nào lên làm chủ tịch, nhưng Wilham bao giờ cũng cho là nếu như cuộc bỏ phiếu đi đến bế tắc thì Alan sẽ ủng hộ anh hơn là Tony Simmons.

Hai lần bỏ phiếu đều đi đến kết luận là số phiếu ngang nhau. Tôi cho rằng không còn thành viên nào trong ban giám đốc sẽ thay đổi ý kiến nữa, vì vậy tôi buộc phải dành phiếu của mình cho ứng cử viên nào mà tôi cho là sẽ thay thế tôi làm chủ tịch Kane và Cabot. Tôi biết rằng trong các vị chẳng ai muốn ở vào cái địa vị của tôi làm gì, nhưng tôi không có cách nào khác hơn là phải tự mình xét và ủng hộ người mà tôi cho sẽ phải là chủ tịch kế tiếp của ngân hàng. Người đó là Tony Simmons.

William không tin ở tai mình đã nghe những lời nói vừa rồi, còn Tony Simmons thì trông như bị choáng váng. Ông ta đứng dậy đối diện với William trong tiếng vỗ tay râm ran, đến đổi chỗ cho Alan Lloyd ở đầu bàn và lần đầu tiên phát biểu với Kane và

Cabot với tư cách chủ tịch mới của ngân hàng. Ông ta cảm ơn ban giám đốc về sự ủng hộ và ca ngợi Wilham đã không bao giờ lợi dụng cái thế mạnh về tài chính và gia đình của mình để tác động đến việc bỏ phiếu. Ông ta mời William làm phó chủ tịch và đề nghị Matthequ Lester thay thế Alan Lloyd làm một giám đốc. Cả hai đề nghị đó của ông ta đều được mọi người nhất trí ủng hộ.

William ngồi đăm đăm nhìn vào bức tranh chân dung của bố anh, trong bụng nghĩ mình đã không làm được như bố.

***

Albel dụi điếu Corona một lần nữa và thề rằng nhất định sẽ không hút điếu xì gà nào trước khi thanh toán được món nợ hai triệu đô la và hoàn toàn kiểm soát được công ty Richmond.

Bây giờ không phải là lúc hút những điếu xì gà to như thế nhất là với chỉ số Doqu Jones xuống thấp nhất trong lịch sử và ở các thành phố lớn trên đất Mỹ còn những đoàn ngân hàng xếp hàng dài lĩnh súp phát chẩn như hiện nay. Anh ngước nhìn lên trần nhà suy nghĩ về những gì phải làm trước đã. Anh cần phải giữ cho được số nhân viên tốt nhất của khách sạn Richmond Chicago.

Anh ngồi dậy khoác áo vào và bước sang khu nhà phụ của khách sạn, nơi phần lớn những nhân viên chưa tìm được việc làm kể từ hôm xẩy ra vụ cháy, đến nay còn ở lại đó. Abel dùng lại tất cả những ai anh tin được, và cho những người nào muốn rời bỏ Chicago được tiếp tục làm việc ớ một trong mười lăm khách sạn còn lại. Anh nói rất rõ cho ho biết là trong tình hình thất nghiệp tràn lan như hiện nay, công việc của họ chỉ có thể đảm bảo được chừng nào các khách sạn đều làm ăn có lãi. Anh biết tất cả các khách sạn khác trong công ty đều được quản lý một cách bất lương như khách sạn Richmond Chicago trước đây, và anh muốn điều đó phải được thay đổi nhanh chóng. Anh cho ba người phó quản lý ở Chicago về ba nơi, trông coi những khách sạn Richmond ở Dallas, Cincinati và St Louis. Anh chỉ định các quản lý mới cho bẩy khách sạn còn lại ở Houston Mobile, Charleston, Allanta, Memphis, New orleans và Louivilìe. Các khách sạn Leroy cũ đều ở miền Nam và vùng Trung Tây. Chỉ có khách sạn ở Chicago là do Davis Leroy đích thân đứng ra xây dựng. Abel phải mất đến ba tuần mới bố trí được cho những nhân viên cũ ở Chicago về các khách sạn mới.

Abel quyết định đặt đại bản doanh của mình trong khu nhà phụ của Richmond ở Chicago và mở một nhà ăn nhỏ ở tầng dưới cùng. Anh tính như vậy sẽ ở gần với người ủng hộ mình và gần với nhà ngân hàng hơn là về ở trong một khách sạn ở miền Nam. Hơn nữa, Zaphia cũng ở Chicago, và Abel tin chắc rằng chỉ ít lâu nữa cô ta sẽ bỏ rơi anh chàng kia và yêu anh. Cô ta là người đàn bà duy nhất anh cảm thấy yên tâm trong quan hệ. Khi Abel chuẩn bị đi New York để tuyển thêm nhân viên chuyên môn, anh đã được cô hứa với anh là không đi lại với người bạn trai kia nữa.

Đêm trước khi Abel đi, anh với Zaphia nằm với nhau lần đầu tiên. Cô ta mềm mại,

mũm mĩm, vui tính và rất dễ thương.

Thái độ âu yếm và rất thành thạo của Abel khiến cho Zaphia phải ngạc nhiên.

Từ hồi sau chuyến tàu Mũi Tên Đen đến nay, anh đã nằm với bao nhiêu cô gái rồi?- Cô ta hỏi đùa.

Chẳng có ai anh thật sự quan tâm cả, – Anh đáp.

Phải, cũng đủ để quên được em rồi,- Cô nói.

Anh không bao giờ quên được em,- Anh nói dối, và cúi xuống hôn cô, vì chỉ có như vậy mới thôi không nói chuyện được.

Đến New York, việc đầu tiên của anh là đi tìm George và thấy anh ta đang thất nghiệp, sống trong một căn gác tồi tàn ở đường số ba phía Đông thành phố. Abel hầu như đã quên đi những ngôi nhà như thế này khi có tới hai chục gia đình cùng sống chung với nhau một chỗ. Phòng nào cũng sực mùi thức ăn để lâu mùi hố vệ sinh không có nước tháo và mùi giường có ba loại người khác nhau nằm ngủ trong một ngày một đêm. Hình như cái lò bánh đã đóng cửa và chính ông chú của George phải đi kiếm việc làm ở một nhà máy khác tận ngoại ô New York. Nhà máy đó không nhận George vào làm. Được về với Abel và công ty Richmond, dù là làm gì, GeDrge cũng rất lấy làm sung sướng.

Abel tuyển được ba nhân viên mới, một người làm bánh, một kế toán và một người phục vụ bàn. Rồi anh cùng với George lên đường trở về Chicago đặt căn cứ của mình trong khu nhà phụ Richmond. Abel hài lòng về kết quả chuyến đi ấy. Phần lớn các khách sạn ở bờ biển phía Đông đều giảm nhân viên của họ xuống mức tối thiểu, do đó anh dễ dàng chọn được những người có kinh nghiệm, trong số đó có cả một người của khách sạn Plaza nữa.

Đầu tháng ba, Abel và George lại đi một tua thăm các khách sạn còn lại trong công ty. Abel đề nghị Zaphia cùng đi, lại còn cho cô có quyền được chọn làm ở bất cứ khách sạn nào cô muốn, nhưng cô nhất định không rời khỏi Chicago là nơi duy nhất trên đất Mỹ cô đã sống quen rồi. Để cho anh yên tâm, cô bằng lòng về ở trong phòng của Abel ở khu nhà phụ Richmond trong khi anh đi vắng. George vốn từ sau khi vào quốc tịch Mỹ và học được cách sống của lớp người trung lưu ở Mỹ, lại có được nguồn gốc Ki-tô giáo nữa, khuyên Abel nên đi vào kiểu sống có vợ chồng hẳn hoi thì có lợi hơn. Abel đã sống đơn độc trong các phòng khách sạn nhiều rồi, thấy chẳng ra thế nào, sẵn sàng nghe lời George khuyên bảo.

Abel không lấy làm ngạc nhiên thấy tất cả các khách sạn khác mặc dầu vẫn được quản lý một cách luộm thuộm và phần lớn là bất lương nhưng do tình hình thất nghiệp đang phổ biến khắp nơi nên các nhân viên thấy anh đến thì hầu hết ai cũng mừng, cho anh là người cứu sống cho những gì còn lại của công ty, Abel thấy không cần phải sa thải ồ ạt nhân viên như anh đã làm khi mới đến Chicago. Phần lớn những ai biết tiếng của anh là ngại cách làm của anh thì đều đã bỏ đi cả rồi. Một số người

phải loại bỏ nhưng cũng vẫn không tránh được họ còn dính dáng đến số còn lại vì đã gắn bó với công ty Richmond từ lâu và đến bây giờ sau khi Davis Leroy đã chết rồi họ rất khó thay đổi được cách làm ăn cũ kỹ của họ. Abel thấy việc chuyển nhân viên từ một khách sạn này sang khách sạn khác đòi hỏi phải có một thái độ rất khác.

Vào cuối năm đầu của anh với tư cách chủ tịch của công ty Richmond anh chỉ dùng đến nửa số nhân viên so với trước kia, và tính toán các mặt thì số tiền thâm hụt chỉ trên 10 không.000 đô la một chút. Trong toàn bộ nhận viên, việc thay đổi người xẩy ra rất ít. Abel rất tin ở tương lai của công ty, và mọi người cũng chia sẻ với anh niềm tin đó.

Abel đặt ra cho mình mục tiêu đến năm 1932 là ổn định. Anh cảm thấy cách duy nhất có thể thực hiện được làm ăn có lãi nhanh chóng là để cho mỗi người quản lý khách sạn có toàn quyền trách nhiệm đối với chính khách sạn của mình và có phần lợi nhuận của họ trong đó, giống như Davis Leroy đã từng làm với anh khi anh mới đến Chiacago Richmond vậy.

Abel di chuyển từ khách sạn này đến khách sạn khác không nghỉ ngơi hoặc ở lại nơi nào quá ba tuần. Trừ George là người ìàm tai mắt cho anh ở Chicago và rất trung thành với anh, anh không bao giờ báo cho ai biết là lần sau anh sẽ đến khách sạn nào. Hàng mấy tháng một lần, anh chỉ phá vỡ quy luật ấy nếu thấy cần phải đi thăm Zaphia hoặc đi gặp Curtis Phenton mà thôi.

Sau khi đánh giá lại toàn bộ tình hình tài chính của công ty, Abel đã phải đi đến một số quyết định không lấy gì làm vui vẻ lắm. Wyết định mạnh nhất là tạm thời đóng cửa hai khách sạn, một ở Mobile một ở Charleston, vì đã làm ăn thua lỗ đến mức anh cảm thấy nếu để sẽ nguy hiểm đến tình hình tài chính của các khách sạn khác. Nhân viên ở các khách sạn khác thấy chiếc rìu sẽ bổ vào đầu mình, phải làm ăn tử tế hơn. Mỗi lần đi đâu về đến phòng làm việc nhỏ của mình trong khu nhà phụ của Richmond ở Chicago, anh đều thấy cả một loạt những giấy tờ gửi đến yêu cầu phải quan tâm ngay, nào là ống nước rò rỉ ở nhà tắm, nào là chuột gián ở nhà bếp, rồi nào là cãi cọ nhau ở nhà ăn, và có một õng khách không hài lòng đang dọa kiện v.v….

Henry oborne lại đến với cuộc đời của Abel với một khoản tiền 75 không.000 đô la do Công ty Bảo hiểm Great Western trả vì không tìm được chứng cớ gì để buộc tội Abel cố dính đến Desmond Pacey đốt khách sạn Richmond Chicago. Chứng cớ do Trung úy o Malley đưa ra về vụ này là rất xác đáng, vì vậy Abel nghĩ mình còn nợ Ông ta nhiều chứ không chỉ một cốc sữa trứng mà thôi đâu.

Abel lấy làm sung sướng đã giải quyết được việc này với Công ty Great Western và món tiền bồi thường như vậy là phải chăng. Osborne có gợi ý với anh là nên đòi một món tiền lớn hơn để anh ta được hưởng chênh lệch vào đó. Abel là người tuy có khuyết điểm này khác nhưng vốn rất ghét chuyện tham ô, đã nhìn ngay osborne bằng con mắt không thiện cảm.

Anh nghĩ nếu osbome có thể bất lương với công ty của chính ông ta như vậy thì mai kia nếu có dịp ông ta sẽ chẳng tha gì mà không hại Abel.

Mùa xuâu năm 1932 Abel ngạc nhiên nhận được một bức thư cua Melanie Leroy , những gì viết trong thư thân mật hơn nhiều so với lúc gặp trực tiếp. Anh lấy làm phấn khởi và hẹn cô đến gặp ăn tối ở nhà hàng Stenvens, một quyết định mà khi bước chân vào đến phòng ăn anh đã ân hận ngay vì Zaphia đang có đó, trông quê mùa và mỏi mệt. Melanie, trái lại, trông lộng lẫy trong chiếc áo màu xanh dài bó sát người nổi lên các đường nét. Đôi mắt của cô, có lẽ được chiếc áo phản ánh vào, lại càng xanh và hấp dẫn hơn trước.

Trông anh mạnh khỏe mà tôi rất mừng, Abel ạ, – Cô vừa nói vừa ngồi xuống ghế

bàn giữa phòng ăn.- Và cố nhiên ai cũng biết anh đang làm ăn rất giỏi với công ty Richmond.

Công ty Nam tước chứ, – Abel nói.

Tôi không biết là anh đã đổi tên công ty rồi.- Cô ta hơi đỏ mặt.

– Vâng, tôi đổi tên từ năm ngoái, – Abel nói dối.

Thực ra đến lúc này anh mới chợt nghĩ rằng mỗi khách sạn của công ty sẽ mang tên là khách sạn Nam tước Anh không hiểu sao trước nay mình lại không nghĩ ra điều đó.

– Tên hay đấy, – Melanie mỉm cười nói.

Abel biết rằng từ phía đầu phòng bên kia Zaphia đang dõi nhìn hai người, nhưng bây giờ đã quá muộn rồi, anh không làm thế nào khác được.

Cô chưa làm việc chứ ? – Abel hỏi, tay ghi mấy chữ “Công ty Nam tước!” vào phía sau tờ thực đơn.

Không bây giờ thì chưa, nhưng tình hình xem ra có vẻ khá hơn. Một người đàn bà tốt nghiệp về nghệ thuật tự do ở thành phố này bao giờ cũng phải ngồi đó chờ cho mọi người đàn ông có việc làm đã rồi mới đến lượt mình.

Nếu cô muốn làm việc cho Công ty Nam tước, – Abel nói và hơi nhấn mạnh vào cái tên đó, – Thì cô chỉ việc cho tôi biết.

Không, không, – Melanie đáp. – Tôi không có gì đáng lo cả.

Cô nhanh chóng chuyển câu chuyện sang vấn đề âm nhạc và sân khấu. Nói chuyện với cô ta vẫn là một thách thức mà Abel không quen nhưng thấy thú vị.

Cô ta vẫn trêu chọc anh nhưng trêu một cách thông minh, khiến anh cảm thấy ngồi với cô bây giờ yên tâm hơn trước nhiều. Bữa ăn kéo dài đến tận sau mười một giờ. Sau khi mọi người đã ra khỏi phòng ăn, kể cả Zaphia, anh mới đưa Melanie ra xe về nhà, mắt đỏ lòm một cách không bình thường. Lần này, cô ta mời anh lên nhà uống rượu. Anh ngồi trên chiếc ghế xô-pha trong khi cô rót mời anh uống một thứ rượu quhisky bị cấm và cho chạy đĩa hát.

Tôi không thể ngồi lâu được,- Abel nói. – Ngày mai có rất nhiều việc.

Câu đó phái để tôi nói? chứ, đã lâu quá rồi không gặp nhau. Tốl nay vui thế kia mà. Như hồl xưa vậy.
Cô ta ngồi xuống bên anh, áo kéo lên quá đầu gối Không phải như hồi xưa đâu, anh nghĩ bụng. Đôi chân thật đẹp. Khi cô nhích đến gần, anh không làm gì tỏ ra cưỡng lại. Lát sau, anh thấy mình hôn cô ta – Hay cô ta hôn mình? Anh cũng không biết nữa. Đôi tay của anh lần mò xuống đôi chân đó, rồi lần lên đến ngực và lần này xem ra cô ta sẵn sàng đáp ứng. Rồi chính cô ta đã cầm tay anh dắt vào phòng ngủ, gấp khăn trải giường lại cẩn thận, rồi quay lại bảo anh cởi áo cho cô. Abel nghe theo nhưng trong bụng vẫn không tin, và anh tắt đèn trước khi cởi quần áo. Sau đó anh dễ dàng đem những bài học mà Joyce đã dạy cho anh bây giờ áp dụng vào thực tế. Cố nhiên Melanie cũng không phải là người thiếu kinh nghiệm gì. Abel chưa bao giờ được thấy sung sướng như vậy trong cuộc làm tình. Anh lăn ra ngủ thiếp đi với một tâm lý rất hài lòng.

Đến sáng Melanie cho anh ăn điểm tâm và phục vụ đầy đủ cho đến lúc Abel phải ra về.

Tôi sẽ theo dõi Công ty Nam tước với một mối quan tâm mới, – Cô nói. – Tôi chắc không ai còn ngờ gì về thành công lớn của nó sau này.

Cảm ơn cô về bữa ăn sáng và một đêm đáng ghi nhớ, – Abel nói.

Tôi hy vọng chúng ta sẽ gặp lại nhau sớm, Melanie nói.

Tôi muốn thế lắm, – Abel đáp.

Cô hôn lên má anh, chẳng khác nào như người vợ hôn tiễn chồng đi làm.

Tôi không biết rồi anh sẽ lấy một người đàn bà như thế nào, – Cô hỏi một cách ngây thơ khi khoác áo ngoài lên người cho Abel.

Anh nhìn cô mỉm cười.

Khi nào tôi có quyết định ấy, Melanie ạ, thì cô hãy tin chắc rằng tôi sẽ bị ảnh hưởng rất nhiều về những quan điểm của cô đấy.

Anh nói vậy là sao? – Melanie lúng túng hỏi lại.

Là tôi sê phải quan tâm đến những lời khuyên của cô, – Abel nói lúc ra đến gần cửa.- Tức là phải cố tìm cho mình một cô gái Ba Lan tử tế.

Một tháng sau, Abel và Zaphia cưới nhau. Người anh họ của Zaphia là Janek đưa dâu và George làm phù rể. Cuộc chiêu đãi tổ chức ở nhà hàng Stenvens.

Mọi người ăn uống nhẩy nhót đến tận đêm khuya. Theo truyền thống, mỗi người trả một số tiền tượng trưng để ra nhẩy với Zaphia. George chạy quanh phòng và len lỏi chụp ảnh các khách đến dự mà toát Cả mồ hôl. Sau bữa súp vào nửa đêm với những món truyền thống của Ba Lan và rượu vang, brandy, voska, Abel và Zaphia được rút lui về phòng tân hôn.

Sáng hôm sau, Abel lấy làm ngạc nhiên một cách thú vị nghe thấy Curtis Phenton nói lại rằng toàn bộ chi phí cho cuộc chiêu đã của anh ở khách sạn Stenvens đã được

ông Maxton trả hết, coi đó như một món quà cưới của ông. Abel dùng số tiền anh đã dành dụm được cho cuộc chiêu đãi này làm một phần để trả cho ngôi nhà nhỏ anh mua được ở phố Rigg. Lần đầu tiên trong đời, anh có được ngôi nhà riêng của mình.

Chương 4

1938 – 1941

willam quyết định đi nghỉ một tháng ở Anh trước khi có quyết định dứt khoát gì về tương lai của mình. Anh cũng tính chuyện rút khỏi ban giám đốc ngân hàng Kanne và Cabot, nhưng Matthew thuyết phục anh đừng làm vậy vì đó không phải là hành động trước kia bố anh làm nếu ở vào trường hợp như thế. Matthew xem ra còn đau hơn trước cái thất bại của bạn mình. Trong tuần lễ liền sau đó, hai lần anh đến ngân hàng với nhau dấu hiệu rõ ràng là đã quá chén và bỏ dở nhiều việc quan trọng.

William cứ để cho những chuyện ấy qua đi, không bình luận một lời nào, mời Matthew đến nhà cùng ăn tối với anh và Katte. Matthew từ chối, bảo rằng còn rất nhiều thứ gửi đến chưa xem hết. Wiìliam không nghĩ ngợi gì thêm về chuyện Matthew từ chối, nhưng tối hôm đó Matthew lại đi ăn ở nhà hàng Ritz-carlton với một người đàn bà rất xinh đẹp, mà người này William biết chắc là vợ của một nhân viên quản lý bộ phận trong ngân hàng Kane và Cabot. Kate cũng không nói gì, chỉ bảo là Matthew có vẻ ốm yếu thế nào ấy.

William đang bận chuẩn bị đi Châu âu nên không chú ý gì lắm đến thái độ hơi khác lạ của bạn mình. Nếu là vào lúc khác thì anh đã rất quan tâm rồi. Đến phút cuối cùng, William thấy khó có thể sống được một mình ở Anh, vì vậy anh đề nghị Kate cùng đi với anh. Anh ngạc nhiên và sung sướng thấy cô đồng ý ngay.

William với Kate đáp tàu Mauretania đi sang Anh, mỗi người ở riêng một phòng. Về ở khách sạn Ritz, họ cũng mỗi người một phòng riêng, thậm chí còn ở tầng khác nhau nữa. William đến chi nhánh ngân hàng Kane và Cabot ở London, trên phố Lombard, và làm như mục đích chuyến đi sang Anh này là để kiểm tra những hoạt động của ngân hàng ở Châu âu vậy. Anh thấy tinh thần làm việc ở đây rất cao, rõ ràng là Toni Simmons đã quản lý rất giỏi, được mọi người quý mến, khiến William chỉ còn việc lẩm bẩm khen ngợi.

Anh và Kate ở London một tháng rồi sau đó đi thăm Hampshire và Lincolnshire, xem vài khoảng đất mà William đã mua được trước đây ít tháng, tất cả có tới trên mười hai nghìn mẫu. Lợi tức thu được từ đất trồng trọt không lấy gì làm cao lắm, nhưng William giải thích cho Kate rằng nếu như tình hình ở Mỹ trở nên khó khăn thì đất ở đây vẫn còn nguyên đó, không mất đi đâu cả.

ít ngày trước khi hai người sắp trở về Mỹ, Kate ngỏ ý muốn đi thăm oxford, và William đồng ý rằng sáng hôm sau đánh xe đưa cô về đó sớm. Anh thuê một chiếc Morris mới, loại xe anh chưa từng lái bao giờ. Ở thành phố của những trường đại học

này, hai người đi lang thang xem các nơi như Magdalen đồ sộ bên dòng sông Christ Church, một khu nhà thờ lớn mà không có tu viện, rồi đến Merton ngồi trên bãi cỏ và mơ mộng.

Không được ngồi trên cỏ, thưa ông, – Một người phục vụ trong trường lên tiếng. Hai người cười và dắt tay nhau đi trông như sinh viên chưa tốt nghiệp sóng vai bên
bờ sông Cherwell nhìn tám chàng trai đang mải miết chèo thuyền dưới nước, William cảm thấy cuộc đời mình dứt khoát phải luôn luôn có Kate ở bên cạnh.

Vào giữa buổi chiều, họ trở về London. Lúc về qua Henley trên bờ sông Thames, họ dừng lại uống trà ở quán Bell nhìn xuống sông. ăn vài mẩu bánh ròn phết bơ và uống trà đặc (Kate chỉ thích uống với sữa còn William lại pha thêm nước cho loãng bớt), Kate giục anh về nhanh kẻo tối trời không nhìn thấy cảnh nông thôn được. Nhưng đến lúc William ra xe thì quay đến mấy, chiếc xe cũng không nổ được nữa. Hì hục mãi không xong, anh đành chịu. Trời đã gần tối, thế là hai người quyết định phải ở lại Henley một đêm.

Anh trở vào quán Bell đề nghị thuê hai phòng. Rất tiếc, thưa ông, tôi chỉ còn lại có một phòng đôi thôi, – Nhân viên tiếp tân nói.

Chúng tôi thuê vậy. – William ngần ngại một lúc rồi nói. Kate ngạc nhiên nhìn anh nhưng không nói gì.

Nhân viên tiếp tân nhìn cô với vẻ nghi hoặc.

Ông và bà… gì ạ?

Ông và bà William Kanne, – William đáp luôn. – Lát nữa chúng tôi quay lại.

Chúng tôi đưa hành lý lên phòng chứ, thưa ông- Nhân viên phục vụ hỏi.

Chúng tôi không có hành lý, – William cười đáp.

À vâng, thưa ông.

Kate ngơ ngác đi theo William lên phố trên cho đến lúc họ dừng lại trước một nhà thờ xứ.

Chúng ta làm gì thế này, Wiuiam? – Kate hỏi.

– Làm cái điều lẽ ,ra anh phải làm từ lâu rồi, em ạ.

Kate không nói gì nữa. Bước vào bên trong, William thấy có người đang đứng xếp một chồng sách thánh ca.

– Tôi xin hỏi cha xứ ở đâu ạ? – William nói.

Người gác nhà thờ đứng thẳng dậy nhìn William bằng con mắt như thương hại.

Ở nhà xứ chứ đâu.

Nhà xứ ở đâu ạ? – William lại hỏi – Ông là một người Mỹ, phải không thưa ông?

Vâng, phải, – William đã bắt đầu sốt ruột.

Nhà xứ ở cạnh nhà thờ xứ, phải thế không ạ? – Người gác nói.

Tôi cũng nghĩ thế, – William nói. – Ông có thể ở lại đây chừng mười phút nữa được không) – Tại sao tôi lại phải làm thế, thưa ông.

William rút ra một tờ bạn năm đồng bảng.

Cứ cho là mười lăm phút cho chắc, được không ông? Người gác nhà thờ nhìn kỹ tờ giấy bạc và nói:

Người Mỹ. à, vâng, được.

William để ông ta đứng đó với tờ bạc năm đồng bảng và kéo vội Kate ra bên ngoài nhà thờ. Ngoài hiên có tấm biển đề:

“Cha bề trên của Giáo xứ đây là Linh mục Simon frukesbury” và bên cạnh tấm biển đó là lời kêu gọi của nhà thờ quyên góp làm lại mái, gài một chiếc đinh.

Nhà thờ đang quyên góp từng xu đề có được 500 đồng bảng, William bước vội theo con đường nhỏ lên nhà xứ, Kate theo sau vài bước. Anh gõ cửa và một người đàn bà to béo có đôi má đỏ hồng tươi cười ra mở cửa.

Bà Tukesbury? – William hỏi.

Phải. – Bà ta lại cười. , – Tôi xin nói chuyện với chồng bà được không?

Lúc này ông ấy đang dùng trà. Có thể lát nữa ông quay lại được chăng Tôi e rằng chuyện này hơi gấp, – William nói.

Kate đã theo kịp lên với anh nhưng không nói gì.

– Vậy thì mời ông vào đi.

Nhà xứ này xây từ đầu thế kỷ mười sáu. Căn phòng lát đá ở phía ngoài có lò sưởi đang đốt lửa. Cha xứ là một người cao lớn, đang ăn bánh xốp với dưa chuột, đứng dậy chào hai người.

Xin chào, ông….? Kane, thưa ông, William Kane. Tôi có thể làm gì được cho ông đây, ông Kane?
Kate với tôi, – William nói, chúng tôi muốn cưới nhau.

Ôi vậy thì hay quá, – Bà Tukesbury nói.

Vâng, đúng thế đấy, – Cha xứ nói. – Ông có phải là người trong giáo xứ này không? Tôi không nhớ là…

Không, thưa ông. Tôi là người Mỹ. Tôi đi lễ nhà thờ Si. Paul ở Boston.

Thế là ở Massachusetts, không phải ở Lincolnshire, phải không ạ? – Linh mục Tukesbury nói.

Vâng, đúng thế, Wilham nói. Anh quên rằng ở Anh cũng có một nơi tên ỉa Boston.

Thế thì tốt, – Cha xứ nói và giơ hai tay lên trời như sắp làm lễ. – Vậy hai người định lúc nào thì kết hôn với nhau?

Ngay bây giờ, thưa ông.

Ngay bây giờ, thưa ông? – Cha xứ giật mình hỏi lại. Tôi không hiểu tục lệ Ở bên Mỹ chung quanh chuyện cưới xin long trọng và thiêng liêng như thế nào, thưa ông Kane, mặc dầu tôi cũng có được đọc và nghe nói đến những điều rất kỳ lạ với đồng bào của ông bên Califomia. Tuy nhiên, tôi coi như mình có bổn phận nói để ông biết

rằng những tục lệ như thế chưa được chấp nhận ở Henley trên bờ sông Thames này. Ở Anh, thưa ông, ông phải ở trong bất cứ giáo xứ nào cả một tháng rồi mới lấy nhau được, rồi tên của hai người phải được yết thị lên ba lần nếu như có trường hợp đặc biệt hay rắc rối gì cần cho mọi người được biết. Mà trong trường hợp đó tôi cũng phải được phép của ngài giám mục và phải sau ba ngày mới làm được – Cha Tukesbury nghiêm giọng nói.

Ông còn cần bao nhiêu tiền nữa để làm lại mái nhà thờ – Kate bây giờ mới lên tiếng.

A cái mái. Đây là câu chuyện đáng buồn, nhưng lúc này tôi chả nhắc đến lịch sử của nó làm gì… hồi đầu thế kỷ mười một ấy mà….

Ông cần bao nhiêu tiền? – Wilham lại nói, tay nắm chặt lấy tay Kate.

Chúng tôi hy vọng quyên được năm trăm đồng bảng. Cho đến nay chúng tôi đã làm được khá, chỉ trong bẩy tuần qua, chúng tôi đã đạt được hai mươi bẩy đồng bốn hào bốn xu rồi.

Không, không, ông ơi, – Bà Tukesbury nói. – Ông quên chưa tính khoản hơn một đồng nữa tôi bán hàng tuần trước ư – Đúng là tôi chưa tính vào đấy. Tôi thật dở quá, đã coi nhẹ phần đóng góp của bà. Như vậy, tất cả là – Linh mục Tukesbury tính nhẩm trong đầu và ngước mắt nhìn lên trần nhà như để tìm ra một nguồn cảm hứng nào.

William rút chiếc ví ở túi áo trong ra, viết một tờ séc năm trăm đồng bảng rồi lặng lẽ đưa cho linh mục Tukesbury.

Tôị…, tôi hiểu là có những trường hợp đặc biệt, thưa ông Kane, – Cha xứ ngạc nhiên nói. Giọng ông đã đổi hẳn. – Đã có người nào trong hai người trước kia kết hôn bao giờ chưa?

Có – Kate nói. – Chồng tôi bị chết trong tai nạn máy bay trước đây bốn năm.

ôi, thật là khủng khiếp, – Bà Tukesbury nói, – Tôi rất lấy làm tiếc. Tôi không dè….

Thôi, bà ơi, – Cha xứ nói. Ông quan tâm đến cái mái nhà thờ hơn là những tình cảm của bà vợ. – Còn ông, thưa ông?

Tôi chưa lấy vợ bao giờ, – William nói.

Tôi sẽ phải gọi điện thoại cho ngài. giám mục đã.- Nắm chắc tờ séc của William trong tay, ông cha xứ đi vào phòng bên trong.

Bà Tukesbury mời Kate và Wiììiam ngồi đợi và mời ăn, bà vẫn cứ nói chuyện trong khi William và Kate không nghe thấy gì hết và chỉ nhìn nhau.

Cha xứ bước ra.

Thật là rất không bình thường, rất không bình thường, nhưng ngài giám mục đã đồng ý, thưa ông Kane, với điều kiện sáng mai phải được xác định lại mọi thứ ở sứ quán Mỹ rồi sau đó xác đinh lại với ngài giám mục ở nhà thờ Si. Pauli tại Boston, Massachusetts, sau khi ông bà trở về nhà.

ông ta vẫn nắm chặt tờ Séc trong tay.

Tất cả những gì chúng ta cần lúc này là hai người làm chứng, – Cha xứ nói. – Vợ tôi có thể là một người làm chứng. Ngoài ra, tôi cũng hy vọng người quản lý vẫn còn đó, ông ta có thể là người làm chứng thứ hai được – Ông ta vẫn còn đó, tôi đảm bảo, – Wilham nói.

Làm sao ông biết chắc được? thưa ông Kane?

Tôi đã mất cho ông ấy một phần trăm.

Một phần trăm gì cơ? – Cha xứ ngỡ ngàng hỏi lại.

Một phần trăm của mái nhà thờ, – William đáp.

Cha xứ đưa Wilham, Kate và vợ Ông ta đi theo con đường nhỏ lên nhà thừ. Ông nháy mắt nhìn người quản lý đang đứng chờ.

Đúng là ông Sprogget vẫn đang còn đâỵ.. Ông ấy chẳng bao giờ làm như thế cho tôi cả, rõ ràng ông giỏi thật đấy, thưa ông Kane.

ông Simon Tukesbury khoác chiếc áo làm lễ vào người, còn ông quản lý thì nhìn ông bằng con mắt kinh ngạc.

William quay sang hôn Kate và hỏi.

Anh biết trong trường hợp này hỏi thế là dở hơi, nhưng em có đồng ý lấy anh không – Trời ơi, lạy Chúa! – Cha xứ Tukesbury thốt lên một câu mà cả đời ông chưa bao giờ nói như vậy. Nghĩa là ông chưa hề hỏi người đàn bà này điều đó ư?

Mười lăm phút sau, ông và bà William Kane rời nhà thờ xứ Henley trên sông Thames, oxfordshire. Đến phút cuối cùng, bà Tukesbury lấy một chiếc vòng dứt ở màn che cửa ra làm nhẫn, cũng may là nó rất vừa tay. Cha xứ Tukesbury có một cái mái mới cho nhà thờ, còn ông Sprogget thì có năm đồng bảng để được chi tiêu thả cửa dưới phố.

Ra đến ngoài nhà thờ, cha xứ đưa William một mảnh giấy – Hai hào sáu xu, thưa ông.

Để làm gì ạ? William hỏi.

Giấy chứng nhận kết hôn, thưa ông Kane.

Ông phải làm ngân hàng mới đúng, thưa ông. – William nói và đưa cho ông ukesbury nửa đồng bảng. Anh lặng lẽ cùng vợ mới cưới đi trở về nhà trọ Bell. Họ cùng ăn một bữa tối theo kiểu thế kỷ mười lăm trong căn phòng gỗ sồi ở nhà ăn, rồi khoảng ít phút sau chín giờ thì đi ngủ. Họ đi khuất sau chiếc cầu thang cổ bằng gỗ về phòng mình. Người phụ trách tiếp tân của nhà trọ nháy mắt với người phụ việc. – Nếu họ lấy nhau thì tôi cũng sướng bằng Vua nước Anh.

William thầm hát bài “Chúa phù hộ cho nhà Vua” Sáng hôm sau hai vợ chồng Kane ăn một bữa sáng thoải mái trong khi chờ chữa xe. Một người phục vụ trẻ rót cà phê cho họ.

Em muốn uống đen hay là anh cho sữa vào thêm?- William ngây thơ hỏi vợ. Một đôi vợ chồng già ngồi bàn bên nghe anh nói thế mỉm cười.

Em uống với sữa, anh ạ – Kate nói và tay đưa qua bàn sờ vào tay William. Anh mỉm cười nhìn lại, chợt thấy cả phòng ăn ai cũng quay sang nhìn anh.

Họ trở về London trong không khí đầu xuân mát mẻ, đi qua vùng Henley, qua

sông Thames, rồi qua vùng Berkshire với Miđlesex về London.

Em có để ý cái nhìn của người gác cửa sáng nay không – William nói. Có em nghĩ có lẽ mình đã phải đưa cho họ xem giấy chứng nhận kết hôn.
Không, không, làm như thế thì hỏng mất cả hình ảnh tự do của người đàn bà Mỹ. Tối nay về nhà, chắc anh ta cũng không dám nói rằng chúng ta đã lấy nhau thật sự.
Họ về đến khách sạn Ritz vừa lúc ăn trưa. Người quản lý quầy tiếp tân ngạc nhiên thấy William hủy bỏ căn phòng của Kate. Sau đó, anh được nghe họ bình luận rằng “cái ông Ka ne trẻ này rất lịch sự. Trước kia bố ông không hề làm như thế bao giờ.” William và Kate lại đi tàu Aquitania về New York.

Trước khi đi, hai người đến sứ quán Mỹ gặp viên lãnh sự để thông báo về tình trạng cưới xin của họ. Viên lãnh sự đưa cho họ một bản khai dài để họ điền vào, yêu cầu họ trả một đồng bảng tiền phí và bắt chờ đến hơn một tiếng đồng hồ. Hình như sứ quán Mỹ không có yêu cầu phải làm lại mái nhà, William muốn đi đến nhà hàng Cartier ở phố Bong để mua chiếc nhẫn cưới bằng vàng, nhưng Kate không nghe và không chịu bỏ chiếc vòng đồng rất quý đã dứt ở màn cửa ra.

William thấy khó có thể ở Boston và làm việc dưới quyền ông chủ tịch mới. Những quy tắc của chính sách Tân Kinh Tế đã nhanh chóng chuyển thành luật với một tốc độ không ngờ, do đó giữa William với Toni Simmons không sao nhất trí được với nhau về chuyện đầu tư là tốt hay không tơt. Ở Anh về nhà được ít lâu thì Kate báo tin chị đã có mang khiến bố mẹ và chồng hết sức vui mừng. William định đổi giờ làm việc của anh cho thích hợp với vai trò một người đã có vợ. Thường thường anh đến cơ quan làm việc suốt những đêm hè nóng nực. Kate đã bắt đầu khoác chiếc áo hoa thùng thình của đàn bà có chửa, chỉ quan tâm lo đến việc trang trí khu nhà trẻ của mình.

William cảm thấy muốn bỏ công việc bàn giấy và chỉ nhấp nhổm muốn về nhà. Nếu công việc còn dở dang, anh đem cả giấy tờ về nhà làm tiếp. Đó cũng là cách anh sẽ làm trong cả cuộc đời có vợ con của mình.

Trong khi Kate và đứa con sẽ ra đời vào khoảng thời gian lễ Giáng sinh đem lại cho Wilham rất nhiều hạnh phúc ở nhà, thì Matthew lại khiến cho anh ngày càng lo lắng hơn. Anh ta đã trở thành nghiện rượu và thường đến làm việc muộn mà không có giải thích lý do tại sao. Ngày tháng trôi qua, William cảm thấy anh không còn có thể tin ở những ý kiến của bạn mình nữa. Lúc đầu, anh không nói gì, chỉ mong đó là một vài biểu hiện bình thường thôi, nhưng lâu dần thấy nghiêm trọng hẳn lên. Vào một buổi sáng tháng mười một, Matthew đến làm việc chậm khoảng hai tiếng đồng hồ, trông rõ ràng là người bị nhức đầu mất ngủ. Anh ta đã làm một việc sai lầm không cần

thiết là bán đi một khoản đầu tư khiến cho một khách hàng lẽ ra thu được khoản lợi tức khá lớn thì lại bị thua thiệt. William biết là đã đến lúc phải có một cuộc chạm trán không lấy gì làm vui vẻ nhưng cần thiết. Matthew nhận là mình sai lầm và xin lỗi.

William lấy làm mừng đã giải quyết được một chuyện vướng mắc, đang định rủ bạn cùng đi ăn trưa thì bỗng cô thư ký ở đâu chạy vào.

Vợ Ông, thưa ông. Bà ấy đã được đưa đến bệnh viện.

Tại sao? – William ngơ ngác hỏi.

Đứa bé, – Cô thư ký nói.

Nhưng ít ra cũng còn sáu tuần nữa mới đẻ kia mà, – William nói với vẻ không

tin.

Vâng, thưa ông, nhưng bác sĩ Mac Kenzie có vẻ lo lắng và muốn ông đến bệnh viện càng nhanh càng tốt.

Matthew bỗng đang từ chỗ ỉu xìu nhanh nhẹn hẳn lên và đưa ngay William đến bệnh viện. Trong ký ức của cả hai người đều diễn lại cảnh mẹ William qua đời cùng với đứa bé gái không đẻ được.

Cầu Chúa, sao cho Kate không hề gì, – Matthew nói và đánh xe vào khu bên trong bệnh viện.

William không cần có người dẫn đến khu hộ sinh mang tên Richard Kanne, nơi Kate đã chính thức làm lễ khánh thành cách đây sáu tháng. Anh thấy một cô y tá đứng bên ngoài phòng đẻ. Cô ta cho anh biết bác sĩ Mac Kenzie đang ở trong đó với vợ anh và Kate đã mất rất nhiều máu. William đi đi lại lại trong hành lang không biết làm gì, chỉ lặng yên đợi y như anh đã từng làm trước đây ít năm. Chung quanh đây, cái gì đối với anh cũng quen thuộc cả. Làm chủ tịch ngân hàng thì có quan trọng gì đâu so với việc mất Kate.

Không biết lần gần đây nhất anh nói với Kate câu ,Anh yêu em” là vào hôm nào nhỉ? Matthew ngồi đó với William, đi đi lại lại với William, đứng với William, nhưng không nói gì. Chẳng có gì để mà nói.

Mỗi cần cô y tá chạy ra chạy vào phòng đẻ, William lại nhìn đồng hồ. Mỗi giây dài bằng một phút, mỗi phút dài bằng một giờ. Cuối cùng bác sĩ Mac Kenzie bước ra, trán đẫm mồ hôi, miệng và mũi ông còn đang bịt khẩu trang. William không thấy được biểu hiện gì trên mặt bác sĩ. Ông rút khẩu trang ra và cười toe toét Chúc mừng anh, William, anh có đứa con trai rồi, và Kate cũng bình thường.

Tạ Ơn Chúa, – William trút ra một hơi thở và ôm lấy Matthew.

Tôi cũng tạ Ơn Đáng Tối cao, – Bác sĩ Mac Kenzie nói. – Tôi đã cảm thấy là sẽ vất vả với vụ đẻ này.

Tôi vào thăm Kate được không? – Wilham cười.

Không, bây giở thì không được. Tôi đã cho cô ấy uống thuốc an thần và cô ấy ngủ rồi. Cô ấy mất hơi nhiều máu nhưng đến sáng sẽ bình thường. Có thể hơi yếu một

chút nhưng sẵn sàng gặp anh được. Tuy nhiên, anh có thể vào thăm con ngay bây giờ.

Anh cũng đừng lạ thấy nó nhỏ quá, vì nó ra đời hơi sớm mà.

Bác sĩ dẫn William và Matthew theo hành lang vào một phòng trong đó họ nhìn qua tấm kính thấy một dãy sáu đứa trẻ nhỏ quấn tã thò chiếc đầu đỏ hỏn.

Thằng nhỏ kia kia, – Bác sĩ Mac Kenzie nói và chỉ tay vào đứa nhỏ nằm ngoài cùng.

william nhìn vào khuôn mặt nhỏ bé xấu xí mà ngờ ngợ. Hình ảnh về một đứa con trai to lớn đẹp đẽ biến đâu mất.

Tôi phải nói một điều về cái thằng qủy này nhé,- Bác sĩ Mac Kenzie vui vẻ nói. – Nó còn đẹp hơn anh nhiều lúc mới ra đời, và anh thì lúc đẻ cũng không khó khăn gì lắm mà còn thế.

William cười yên tâm.

Anh sẽ đặt tên nó là gì?

Richard Higginson Kanne.

Bác sĩ thân mật vỗ lên vai người mới làm bố.

Tôi mong mình sẽ còn sống đủ lâu để đỡ cho đứa con đầu lòng của Richard.

William lập tức điện cho hiệu trưởng Si. Paul giữ chỗ cho con học vào năm 1943. Anh chàng mới làm bố và Matthew làm một bữa rượu say tuý luý và sáng hôm sau vào bệnh viện thăm Kate khá muộn. Wilham lại đưa Matthew đến xem thằng bé Richard một lần nữa.

Thằng nhóc trông xấu quá nhỉ, – Matthew nói. – Nó chẳng có một tí gì cái đẹp của mẹ nó cả.

Mình cũng nghĩ thế, – Wilham nói.

Nhưng nó rất giống cậu.

William trở về căn phòng Kate đang nằm, chung quanh chất đầy hoa.

– Anh có thích con trai không? – Kate hỏi chồng – Nó giống anh lắm nhé.

Còn ai nói nó giống anh nữa, anh sẽ đánh. – William nói. – Chưa từng thấy đứa nào xấu thế.

ồ không, – Kate không bằng lòng nói. – Nó đẹp chứ.

Một khuôn mặt mà chỉ có người mẹ yêu được, – William nói và ôm hôn vợ. Chị níu lấy anh, sung sướng.

Bà nội Kane nếu còn sống thì không biết sẽ nói thế nào về đứa con đầu lòng của

mình ra đời chỉ sau khi chưa đến tám tháng kể từ lúc cưới. – Anh không muốn tỏ ra thiếu nhân từ, nhưng đứa trẻ nào ra đời dưới mười lăm tháng đều phải coi như đáng ngờ về phần bố mẹ, còn dưới chín tháng thì dứt khoát là không chấp nhận được. – William bắt chước giọng bà nội nói câu đó. – A nhân đây, Kate, anh quên không nói một điều trước khi họ vội vã đưa em vào bệnh viện.

Điều gì thế – Nói là anh yêu em.

Kate và thằng bé Richard phải ở lại trong bệnh viện gần ba tuần. Phải đến sau lễ Giáng sinh thì Kate mới hoàn toàn khôi phục được sức khỏe. Ngược lại, Richard lớn nhanh như thổi, không cần biết mình có thuộc dòng họ Kane hay không, William là người đàn ông đầu tiên thay tã cho thằng bé và đẩy xe nôi đưa nó đi chơi. Kate rất lấy làm tự hào và ngạc nhiên về chồng mình. William khuyên Matthew là đã đến lúc anh phải kiếm lấy một người đàn bà ngoan ngoãn và thành lập gia đình đi thôi.

Matthew cười gượng nói :

Cậu có vẻ một người trung niên rồi đấy. Khuyên tớ câu nữa là cậu sẽ có tóc bạc. Nhưng trong cuộc chiến tranh để giành lấy quyền làm chủ tịch ngân hàng, anh đã

có vài ba sợi tóc bạc rồi. Matthew không để ý đến chuyện đó.

William không nhớ rõ là quan hệ giữa anh và Tony Simmons bắt đầu sút kém đi từ bao giờ. Tony liên tục phủ quyết những ý kiến của anh về chính sách ngân hàng, và thái độ tiêu cực của ông ta khiến William thực sự muốn từ chức. Matthew thì chẳng giúp gì được vào đây mà còn trở lại với chuyện nghiện rượu.

Thời kỳ sửa chữa chỉ kéo dài được vài tháng, bây giờ anh lại nghiện nặng hơn, sáng nào cũng đến làm việc chậm mấy phút, Wilìiam không biết mình nên giải quyết tình hình này thế nào, chỉ biết cứ phải làm thêm những việc của Matthew. Vào cuối mỗi ngày, william cứ phải kiểm tra lại thư từ gửi đến cho Matthew và trả lời điện thoại cho anh ta.

Sang mùa xuân 1936, những nhà đầu tư tin ở ngân hàng hơn và những người gửi tiền cũng trở lại, William cho rằng đã đến lúc quay về với thị trường chứng khoán. Nhưng Tony phủ quyết ý kiến đó trong một công văn nội bộ gửi thẳng cho ủy ban Tài chính, William xông thẳng vào phòng làm việc của Tony đề nghị cho anh được từ chức.

Tất nhiên anh không từ chức được, William. Tôi chỉ muốn anh thừa nhận cho một điều là chính sách của tôi cai quản ngân hàng này bao giờ cũng là bảo thủ, và tôi không muốn lại húc đầu vào thị trường bằng tiền của các nhà đầu tư.

Nhưng chúng ta mất đi lợi ích kinh doanh do các ngân hàng khác, và cứ ngồi đó mà nhìn họ thu lợi trong tình hình hiện nay sao được. Ngay cả những ngân hàng mười năm trước đây không được coi là đối thủ của ta bây giờ cũng sắp vượt ta rồi.

Vượt ta về cái gì, William? Hẳn là không thể vượt ta về tiếng tăm rồi. Vượt về kiếm lợi nhuận nhanh chóng đấy, nhưng tiếng tăm thì không đâu.

Nhưng tôi quan tâm đến lợi nhuận, – William đáp – Tôi coi bổn phận của ngân hàng là phải đem lại nhiều lợi tức cho những người đầu tư, chứ không phải ngồi ỳ ra đó mà giữ vẻ lịch sự.

Tôi thà ngồi yên đó còn hơn là để mất tiếng tăm đã được ông anh và bố anh xây dựng nên trong hơn nửa thế kỷ.

Phải, nhưng cả hai người đó đều tìm kiếm những cơ hội đề mở rộng hoạt động

của ngân hàng.

Trong những lúc thuận lợi, – Tony nói.

Và cả trong những lúc khó khăn nữa, – William nói.

Tại sao anh phải thất vọng thế, William? Anh vẫn còn có quyền tự do trong việc quản lý bộ phận của anh kia mà.

Tôi làm quái gì có tự do ấy. Ông đã chặn đứng tất cả những gì người ta đề nghị cho kinh doanh rồi.

Ta nên nói thẳng với nhau đi, William. Một trong những lý do tôi cần phải rất thận trọng trong thời gian gần đây, đó là những ý kiến của Matthew không còn có thể tin cậy được nữa.

Ông hãy bỏ Matthew sang một bên đi. Chính là ông chặn tôi, tôi là người trưởng bộ phận kia mà.

Tôi không thể bỏ Matthew sang một bên được. Tôi muốn bỏ lắm chứ. Trách nhiệm cuối cùng trước ban giám đốc về hành động của bất cứ ai là tôi phải chịu, và anh ta lại là người đứng hàng thứ hai trong một bộ phận quan trọng nhất của ngân hàng.

Phải, rồi đến trách nhiệm của tôi, vì tôi là người đứng đầu bộ phận ấy.

Không, William, nó không thể là trách nhiệm của riêng anh nếu Matthew đến làm việc mười một giờ sáng mà lại đang say rượu. Dù cho hai người các anh là bạn với nhau bao lâu và thân thiết đến thế nào thì cũng vậy thôi.

– Ông đừng nói quá.

Tôi không nói quá đâu, William. Đã hơn một năm nay ngân hàng phải chịu đựng với Matthew Lester, và điều duy nhất khiến tôi không nhắc đến chỉ vì anh có quan hệ chặt chẽ với anh ta. Tôi sẽ không lấy làm tiếc nếu anh ta nộp đơn từ chức. Nếu là một người khác thì đã làm như thế từ lâu và bạn anh ta cũng đã bảo anh ta từ lâu rồi.

Không bao giờ, – William nói, – Nếu anh ta đi, tôi cũng đi.

Tùy anh thôi, William, – Tony nói. – Trách nhiệm đầu tiên của tôi là đối với những nhà đầu tư, chứ không phải với những bạn học cũ của anh.

ông sẽ ân hận về lời tuyên bố đó, Tony, – William nói. Anh ta xăm xăm bước ra ngoài và trở về phòng mình trong cơn điên giận.

Ông Lester đâu? – William hỏi khi bước qua chỗ cô thư ký.

Ông’ ấy chưa đến, thưa ông.

William nhìn đồng hồ tay, bực bội. – Ông ấy đến bảo vào gặp tôi ngay.

– Thưa vâng.

Wilham đi đi lại lại trong phòng làm việc, chửi thầm. Mọi thứ Tony Simmons nói về Matthew đều đúng cả, quả nhiên là chỉ mỗi lúc một tồi tệ thêm.

Anh bắt đầu nghĩ lại xem tất cả những chuyện đó có từ bao giờ, tìm cách tự giải thích cho mình. Anh đang nghĩ ngợi thì cô thư ký vào báo.

– Ông Lester vừa đến, thưa ông.

Matthew bước vào với vẻ rón rén, trên mặt có đủ biểu hiện của một người nhức đầu mất ngủ vì uống rượu. Trong năm qua anh ta đã già đi nhanh chóng, da dẻ không còn cái bóng bẩy của một anh lực sĩ trước đây nữa. William hầu như không thể nhận ra đây là con người đã từng là bạn thân của anh gần hai mươi năm nay.

Matthew, cậu đi đâu thế – Mình ngủ quá giấc, – Matthew đáp, đưa tay lên gãi mặt.

Có lẽ đêm qua thức khuya quá.

Cậu muốn nói là uống nhiều quá chứ gì.

Không, mình có uống nhiều rượu đâu. Đó là một cô bạn gái mới cứ bắt mình thức suốt đêm. Cô ta không bao giờ thỏa mãn cả.

Matthew, bao giờ cậu mới chấm dứt chuyện đó? Cậu đã ngủ với hầu hết các cô gái chưa chồng ở Boston rồi.

Cậu đừng nói quá thế, William. Chắc là còn một vài cô mình chưa ngủ chứ. Rồi cậu còn quên không nói đến hàng ngàn cô đã có chồng nữa.

Không phải chuyện đùa đâu, Matthew.

Thôi đi cậu, Wilham. Để cho mình yên đi.

Để cho cậu yên à? Vì cậu mà mình vừa bị Tony Simmons sạc cho đấy. Hơn nữa, ông ta nói đúng. Cậu ngủ với tất cả những ai mặc váy, và tệ hơn nữa, cậu còn say rượu bí tỉ. Những ý kiến của cậu không còn được ai nghe nữa. Tại sao thế, Matthew? Tại sao, cậu nói cho mình biết đi. Hẳn phải có lý do gì chứ? Trước đây một năm cậu còn là người đáng tin cậy nhất trên đời này. Thế là thế nào, Matthew? Mình phải nói với Tony Simmons thế nào đây?

Cậu nói với Simmons bảo ông ta im đi cho người ta nhờ, và đừng có dính vào việc của người khác.

Matthew, cậu phải công bằng chứ, đây là việc của ông ấy. Chúng ta đang quản lý một ngân hàng, chứ không phải một cái nhà chứa, còn cậu đến đây làm giám đốc là do cá nhân mình đề nghị, – Wiìliam nói, không kìm được giận dữ trong giọng của anh.
Và bây giờ thì mình không đáp ứng được yêu cầu của cậu nữa chứ gì, phải cậu đinh nói thế không?

Không, không phải mình muốn nói như vậy.

Vậy cậu muốn nói cái gì chứ – Cậu hãy làm việc tử tế trong ít tuần đi. Rồi mọi người sẽ quên đi những chuyện đó.

Cậu chỉ muốn có thế thôi?

Phải, – William nói.

Tôi sẽ làm như ông yêu cầu, thưa ông chủ. – Matthew nói, rập gót giầy một cái rồi bước ra cửa.

Thật là khổ – William nói.

Chiều hôm đó, William muốn cùng với Matthew xét về một hồ sơ của khách hàng,

nhưng không ai biết được anh ta ở đâu mà tìm. Sau bữa ăn trưa, người ta không thấy anh ta trở về cơ quan, và suốt ngày hôm đó cũng không thấy nữa.

Buổi tối, cho thằng bé Richard đi ngủ mà William vẫn cứ lo lo về Matthew, Richard đã có thể nói bập bõm được một vài tiếng nhưng không phát âm được đúng con số “ba”.

Nếu con không phát âm được đúng con số như vậy thì sau này khó mà làm được ngân hàng, Richard ạ – William đang nói với con thì Kate bước vào.

Có lẽ nó sẽ làm cái gì đó có lợi hơn, – Kate nói.

Còn có gì lợi hơn ngân hàng được? – Willỉam hỏi.

Biết đâu đấy, nó có thể là một nhạc sĩ, hoặc một cầu thủ dã cầu, hoặc có thể là Tổng thống Hoa Kỳ cũng chưa biết chừng.

Trong ba thứ đó, anh muốn nó là cầu thủ thì hơn, vì chỉ có một thứ này có đồng lương tử tế thôi, – William vừa nói vừa bế Richard vào giường. Thằng bé cố nói lại con số nhưng vẫn không phát âm được đúng.

William đành thôi không dạy con nữa.

Trông anh mệt mỏi tắm đấy. Anh chưa quên là sau đây chúng ta còn phải đến nhà Andrew Mac Kenzie uống rượu nữa chứ.

Trời ơi, anh quên khuấy đi mất. Mấy giờ chúng mình phải đến đó?

Một giờ nữa.

Anh phải nhường cho phụ nữ tắm trước chứ? – Kate nói.

Tối nay anh cần thoải mái một chút. Cả ngày hôm nay bị điên đầu rồi.

Lại Tony làm phiền anh chứ gì.

Phải, nhưng có lẽ lần này ông ta đúng. Ông ta phàn nàn về chuyện Matthew say rượu. Cũng may mà ông ta không nhắc gì đến chuyện cậu ta lăng nhăng với đàn bà. Bày giờ khó mà đưa Matthew đến dự một cuộc chiêu đãi nào nếu như ở đó chủ nhà không đem con gái lớn của mình, thậm chí cả vợ mình, nhốt kỹ vào một chỗ nào đó. Em mở nước tắm cho anh được không?

William ngồi ngâm trong bồn tắm đến nửa giờ. Kate phải vào kéo anh ra không thì anh sẽ ngủ quên trong đó mất. Mặc dầu cô đã giục cuống, hai vợ chồng vẫn đến chỗ Mackenzie muộn tới hai mươi lăm phút.

Vậy mà đến đó đã thấy Matthew sắp say rượu và đang tán tỉnh bà vợ của một nghị sĩ quốc hội. William định bước đến can thiệp, nhưng Kate ngăn lại.

– Anh đừng nói gì hết, – Kate bảo anh.

Anh không thể đứng đây nhìn cậu ta xuống dốc như thế được, – William nói. “Cậu ta là bạn thân nhất của anh, anh phải làm gì chứ”.

Nói thế nhưng anh vẫn nghe Kate khuyên, và cả buổi tối nhìn Matthew mỗi lúc một say hơn. Ở đầu phòng bên kia, Tony Simmons vẫn liếc nhìn William, nhưng anh

yên tâm thấy Matthew bỏ về sớm, dù là cùng về với một người đàn bà không có ai kèm theo.

Matthew đi rồi, anh mới cảm thấy nhẹ người đôi chút.

Chú bé Richard thế nào? – Andrew Mac Kenzie hỏi.

Nó không nói được con số “ba”, – William nói – Thế thì tốt, – Bác sĩ Mackenzie nói. Có thể sau này nó làm một cái gì đó hay hơn. Chưa biết chừng nó làm được cái gì văn minh hơn cơ đấy, – Ông nói thêm.

Tôi cũng bảo thế, – Kate nói. – A mà William này, hay nhất là nó có thể trở thành bác sĩ.

Thế là an toàn đấy, – Andrew nói. – Tôi biết có nhiều bác sĩ không thể đếm được đến quá hai.

Trừ phi họ gửi hóa đơn đòi tiền thì không kể, -William nói.

Cô uống gì nữa chứ, Kate? – Andrew cười Thôi, xin cảm ơn, Andrew. Bây giờ đến lúc về rồi.

Nếu chúng tôi ở đây lâu thì chỉ còn lại có Tony Simmons với William, mà cả hai người đều biết đếm đến quá hai thì chúng ta lại mất cả đêm ở đây mà nói chuyện về ngân hàng thôi.

Đồng ý, – William nói. – Cảm ơn ông về cuộc chiêu đãi thú vị, Andrew. Nhân đây, tôi xin lỗi về cử chỉ của Matthew.

Tại sao? – Bác sĩ Mackenzie hỏi.

Thôi đi ông biết rồi đấy, Andrew. Không những cậu ta say rượu, mà trong phòng này không có người đàn bà nào yên được với cậu ta.

Nếu ở vào tình trạng như cậu ta thì đến tôi cũng làm như vậy, – Andrew Mackenzie nói.

Sao ông nói vậy? – Wilham không hiểu. – Không thể vì cậu ta độc thân mà cho phép làm thế được.

Không, không phải thế, nhưng tôi đã cố tìm hiểu và thấy rằng nếu mình cũng gặp những vấn đề tương tự thì rất có thể sẽ vô trách nhiệm như thế thôi.

Ông nói vậy nghĩa là sao? – Kate hỏi.

Trời đất ơi? – Bác sĩ Mackenzie thốt lên. – Cậu ta là bạn thân nhất mà không nói cho anh biết sao?

Nói gì cơ ạ? – Hai người cùng hỏi lại.

Bác sĩ Mackenzie nhìn hai người một lúc, vẻ như không tin.

– Vậy thì vào thư viện của tôi.

William và Kate theo bác sĩ vào một căn phòng nhỏ chung quanh tường toàn những sách về y học chỉ còn để chừa vài chỗ nhỏ treo ảnh không có khung chụp hồi ông còn học ở Corneìl.

– Xin mời ngồi, – Ông nói. – William, tôi không cần phải xin lỗi về điều tôi sắp nói

đây, nhưng tôi vẫn cứ cho rằng anh biết là Matthew ốm nặng, thực ra là đang chết mòn về bệnh hoại huyết. Cậu ta đã biết về tình hình đó hơn một năm nay rồi.

William ngã người ra ghế, im lặng một lúc không nói được.

– Hoại huyết ư?

Phải, đó là một dạng các tế bào bị viêm và ăn vào máu, – Bác sĩ giải thích.

Sao cậu ấy không nói gì với tôi? – William lắc đầu không tin.

Các anh biết nhau từ hồi còn ở trường. Tôi đoán là cậu ta tự trọng không muốn phiền đến ai. Cậu ta nghĩ thà cứ thế mà chết còn hơn để cho ai biết mình có bệnh ấy. Từ sáu tháng nay tôi đã bảo cậu ta nên nói cho ông bố biết. Bây giờ tôi nói cho anh biết tức là tôi đã hủy cả lời hứa nghề nghiệp với cậu ta rồi đó, nhưng tôi không thể để cho anh trách cứ cậu ta mãi về điều mà chính anh ta không làm chủ được.

Cảm ơn ông, Andrew, – William nói. – Sao tôi có thể mù quáng và ngu ngốc thế được nhỉ.

Anh cũng đừng tự trách mình, – Bác sĩ Mac Kenzie nói. – Vì anh cũng chẳng làm sao mà biết được.

Thực sự là không hy vọng gì nữa sao? – William hỏi. – Không có bệnh viện hay chuyên gia nào chữa được ư? Tiền thì không thành vấn đề….

Tiền không thể mua được mọi thứ đâu, William. Tôi đã hỏi ba người giỏi nhất nước Mỹ với một người ở Thụy Sĩ. Tôi e rằng họ cũng đều nhất trí với chẩn đoán của tôi. Y học chưa tìm ra được phương thuốc chữa bệnh hoại huyết này.

Anh ấy còn sống được bao lâu nữa, – Kate khẽ hỏi.

Chậm là sáu tháng, nhanh là ba tháng.

Thế mà tôi cứ trách oan cậu ấy. – William nói. Anh nắm chặt lấy tay Kate như người bị nạn vớ được cái phao. – Thôi, chúng tôi đi đây, Andrew. Cảm ơn ông đã cho chúng tôi biết.

Anh có thể làm gì cho cậu ta được thi làm, – Bác sĩ nói. – Nhưng lạy Chúa, anh nên thông cảm. Cứ để cậu ta muốn làm gì thì làm. Đây là những tháng cuối cùng của Matthew, không phải của anh. Đừng cho cậu ta biết là tôi nói nhé.

William và Kate yên lặng ngồi xe về nhà. Về đến nơi, Wilham gọi ngay cho cô gái mà Matthew lúc trước cùng đi về.

Tôi có thể nói chuyện với Matthew Lester được không?

Anh ấy không có ở đây, – Một giọng hơi gắt gỏng đáp lại – Anh ấy kéo tôi đến Câu lạc bộ Revue, nhưng đến đó thì anh ấy đã say rồi và tôi từ chối không vào đó với anh ấy nữa. – Rồi cô ta bỏ máy.

Câu lạc bộ Revue. William nhớ mang máng là đã trông thấy cái biển đó ở đâu rồi nhưng không biết địa điểm cụ thể. Anh tìm trong cuốn danh bạ điện thoại, lên xe đi về phía Bắc Thành phố và sau khi hỏi một người đi đường, anh đã tìm ra chỗ đó. William gõ cửa.

Một lỗ cửa con được kéo xuống.

Ông có phải hội viên không?

Không, – William đáp và tuồn một tờ mười đô la qua cửa.

Lỗ cửa đóng xuống và cửa to mở ra. William đi giữa sàn nhảy, hơi ngượng với bộ quần áo chỉnh tề của mình. Những người nhảy đang quấn lấy nhau, không ai để ý đến anh. William liếc nhìn vào một phòng mù khói, nhưng Matthew không có đó. Cuối cùng, anh nhận ra một cô gái hình như đã có đi với Matthew một lần nào đó mà anh bắt gặp. Cô ta đang ngồi bắt tréo chân ở góc nhà với một thủy thủ.

William bước đến chỗ cô ta.

– Xin lỗi cô, – Anh nói.

Cô ta nhìn lên nhưng rõ ràng là không nhận ra William.

Cô này đi với tôi, mời anh đi cho, – Anh thủy thủ nói. Cô có trông thấy Mathew Lester không?

Matthew? – Cô gái hỏi lại. – Matthew nào?

Tôi bảo anh cút đi, – Tay thủy thủ đứng dậy nói.

Anh nói một câu nữa là tôi đập vỡ đầu anh ra bây giờ – William nói.

Tay thủy thủ đã từng trông thấy con mắt dữ tợn như thế một lần trong đời rồi, và anh ta đã suýt bị mất một con mắt về chuyện đó. Anh ta sợ hãi ngồi xuống.

Matthew ở đâu?

Tôi có biết Matthew nào đâu hở anh. – Cô gái cũng tỏ vẽ sợ hãi.

Người cao dong dỏng, tóc vàng, mặc quần áo như tôi và có lẽ say rượu.

anh muốn nói Martin ư Anh ta có tên là Martin ở đây, không phải là Matthew đâu. – Cô ta nhẹ người. – Để xem nào, tối nay anh ta đi với ai nhỉ? – Cô ta quay ra phía quầy rượu và hét to lên hỏi. – Này, Ten, Martin đi với ai nhỉ?

– Jeuny.

Người trông quầy rượu nhấc đầu mẩu thuốc lá ở mép ra đáp, rồi lại để thuốc lá về chỗ cũ.

– à, đúng rồi, Jenny, – Cô gái nói. – Khoan .để tôi xem đã nhé. Nó tiếp khách rất ngắn, chẳng bao giờ đi với ai quá nửa tiếng cả, rồi nó quay lại đây bây giờ:

Cảm ơn cô, – William nói.

Anh chờ đến hơn một giờ ở quầy rượu, uống Whisky với rất nhiều nước, cảm thấy rất lạc lõng ở chỗ này.

Cuối cùng, người trông quầy rượu, điếu thuốc lá chưa châm vẫn ngậm ở mép, đưa tay chỉ một cô gái vừa bước vào.

– Đó là Jenny, – Anh ta nói. Không thấy có Matthew cùng đi với cô ta.

Người trông quầy rượu gọi Jenny đến. Cô ta gầy nhỏ, tóc đen, trông cũng hấp dẫn. Cô ta nháy William và ưỡn ẹo đi tới.

– Tìm em hả, anh yêu? Em sẵn sàng đây, nhưng em lấy mười đô la nửa giờ nhé.

Không, tôi không cần cô, William nói.

Dễ thương chưa, – Jenny nói.

Tôi tìm người vừa đi với cô, Matthew…. tôi muốn nói là Martin ấỵ…

Martin ư, anh ta quá say đến mức có đem cần cẩu đến cũng không dựng được dậy, nhưng anh ta trả mười đô la rồi. Bao giờ anh ta cũng trả thế đấy, rất lịch sự.

Anh ta đang ở đâu? – William sốt ruột hỏi.

Tôi không biết. Anh ta bỏ không làm gì cả, rồi cứ thế đi bộ về nhà.

William chạy ra ngoài phố. Không khí lạnh ngoài trời làm anh tỉnh dần. Anh từ từ cho xe chạy từ câu lạc bộ theo con đường về nhà Matthew, nhìn kỹ từng người đi trên đường. Có người bắt gặp con mắt của anh thì sợ, vội bước đi. Có người thấy thế muốn hỏi chuyện. Lúc dừng lại trước đèn đỏ ở một nhà hàng ăn bán suốt đêm, anh nhìn qua cửa sổ mờ mờ thấy có bóng Matthew trong đó, tay cầm cốc đang đi qua dãy bàn. William đỗ xe, vào trong nhà hàng đến chỗ bên cạnh anh ta. Matthew đã gục xuống bàn. Cốc cà phê chưa uống bắn tung tóe. Anh ta say quá nên không nhận ra được William nữa.

Matthew, tớ đây mà, – William lên tiếng và nhìn anh chàng đang rũ xuống bàn. Nước mắt chảy trên má William.

Matthew ngửng lên, làm đổ thêm cà phê ra bàn.

Cậu khóc đấy ư? Mất người yêu rồi sao?

A thế thì khó đấy.

Mình biết, William nói.

Tớ có một người bạn rất tốt, – Matthew nói, lưỡi líu lại. – Cậu ta xưa nay vẫn ủng hộ tớ, thế mà hôm nay lần đầu tiên chúng tớ cãi nhau. Cũng là lỗi ở tớ thôi. Cậu thấy không, tớ đã làm cậu ta thất vọng.

Không đâu, – Wìlliam nói.

Cậu làm sao biết được, Matthew gắt. – Cậu không biết cậu ta là ai kia mà.

Chúng mình đi về nhà đi, Matthew.

Xin lỗi cậu, Martin, chúng ta đi về nhà đi.

Không, tớ muốn ở đây. Có một cô gái chốc nữa sẽ đến. Bây giờ tớ sẵn sàng đi với cô ta rồi.

Ở nhà mình có rượu Whisky ngon cho cậu, – William nói. – Vậy sao cậu không về nhà mình?

Ở chỗ cậu có đàn bà không?

Có, nhiều lắm.

– Thế thì được, tớ sẽ về.

William đỡ Matthew đứng dậy, quàng tay vào dưới vai rồi từ từ dìu anh ra cửa. Lần

đầu tiên anh mới thấy được rằng Matthew rất nặng cân. Ra đến ngoài, anh nghe thấy hai người cảnh sát ngồi ở góc quầy nói với nhau:

Nốc cho lắm vào Anh đưa Matthew ra đến xe rồi về nhà. Kate đang còn đợi.

Sao em không đi ngủ trước đi.

Có lẽ cậu ta vẫn còn đang hồ đồ lắm.

Có phải đây là cô gái cậu hứa với tớ không – Matthew nói.

Phải, cô ta sẽ săn sóc cậu, – William nói, rồi cùng Kate cùng dìu anh ta lên phòng khách, đặt nằm vào giường. Kate bắt đầu cởi bỏ áo ra cho anh ta.

Em cũng phải cởi áo em ra nữa cơ, – Anh ta nói.- Anh đã trả mười đô la rồi.

Tại sao trông em buồn thế, người đẹp của anh? -Matthew nói.

Vì em yêu anh, Kate nói và rưng rưng nước mắt.

Đừng khóc, – Mathew nói. – Không có gì đáng khóc. Rồi lần này anh sẽ cố làm được cho em xem.

Cởi áo cho Matthew rồi, William lấy chăn đắp lên người cho anh ta. Kate tắt đèn.

Em hứa sẽ lên giường với anh mà, – Matthew nói trong lúc mê sảng.

Kate khẽ đóng cửa lại.

William ngủ ngay trên chiếc ghế ở ngoài phòng Matthew vì sợ nửa đêm anh ta có thể thức dậy bỏ đi.

Đến sáng Kate đánh thức anh dậy rồi đem thức ăn sáng vào cho Matthew.

Tôi làm gì ở đây thế này, Kate? – Matthew vừa mở mắt đã hỏi ngay.

Đêm qua sau cuộc chiêu đãi où chỗ Mackenzie anh cùng về với chúng tôi mà, – Kate lúng túng trả lời Không, làm gì có chuyện ấy. Tôi đến Câu lạc bộ Revue với cô gái tên là Patricia hay gì đó mà cô ta không chịu cùng vào với tôi kia mà:

Lạy Chúa, sao tôi thấy người như ốm thế này nhỉ. Cho tôi cốc nước cà chua được không Tôi không muốn tỏ ra vô lễ, nhưng tôi chả muốn ăn sáng tí nào.

Được thôi, Matthew.

william ở ngoài vào, Matthew ngước nhìn lên. Hai người im lặng nhìn nhau.

Cậu biết cả rồi hả? – Cuối cùng Matthew nói.

Biết, – William nói. – Mình thật là ngu, và mình mong cậu tha lỗi.

Cậu đừng khóc, William, từ hồi cậu mười hai tuổi bị thằng Covington đánh cho và tớ phải kéo nó ra, thì từ đó đến nay tớ chưa hề thấy cậu khóc bao giờ. Cậu có nhớ không? Không biết thằng Covgington bây giờ thế nào rồi. Có lẽ nó đang làm chủ nhà chứa ở Tijuana, mà nó cũng chỉ làm được đến thế thôi. Cậu nên nhớ, nếu Covington là chủ cái nhà chứa đó thì rất tốt cậu nên đưa tớ đến đó. Đừng khóc, Wilham. Người lớn ai lại khóc. Chả làm thế nào được đâu. Tớ đã đi khám ở các chuyên gia, từ New York đến Los Angeles đến Zurich, và chẳng ai làm thế nào được.

Sáng nay mình không đến làm việc được không? Mình thấy trong người còn mệt ghê gớnl. Nếu mình nằm đây lâu quá thì gọi mình dậy, hoặc nếu mình làm phiền gì thì cứ bảo, và mình sẽ biết tìm đường về nhà.

Đây là nhà của cậu, – William nói. Vẻ mặt Matthew bỗng thay đổi.
Cậu có nói cho bố mình biết không William?

Mình không thể giáp mặt bố được. Cậu cũng là con một, nên cậu hiểu.

Mình sẽ nói, – William đáp. – Mai mình sẽ đi New York và nói cho bố cậu biết,

nhưng cậu phải hứa ở lại đây với Kate và mình. Nếu cậu muốn uống rượu thì mình sẽ không ngăn, hoặc nếu cậu muốn đi với bao nhiêu đàn bà cũng được, nhưng cậu phải

đây.

Bao nhiêu tuần nay, bây giờ mình mới được quan tâm đấy, William. Thôi bây giờ mình ngủ lại đã nhé. Mình mệt quá đi.

William nhìn Matthew ngủ lại và ngủ rất say. Anh nhấc cốc nước đã uống được một nửa trong tay Matthew ra. Nước cà chua loang ra một vệt trên chăn.

Cậu đừng chết, – Anh nói khẽ với mình. – Matthew ơi cậu đừng chết. Cậu đừng quên rằng cậu với mình sắp sửa làm chủ một ngân hàng lớn nhất ở Mỹ đấy nhé?

Sáng hôm sau Wilham đi New York để gặp Charles Lester. Ông cụ nghe cái tin Wiìliam nói lại mà bỗng như già đi trông thấy và người ông cũng như nhỏ bé lại trong chiếc ghế.

Cảm ơn cháu đã đến nói riêng với bác, William. Lâu nay hàng tháng không thấy Matthew về thăm nhà, bác đã cảm thấy như có chuyện gì không hay rồi.

Cứ cuối tuần bác sẽ lên đó vậy. Nó sẽ ở lại đó với cháu và Kate, và bác cũng sẽ tỏ ra không lấy gì làm buồn lắm khi được tin đó. Có Chúa mới biết được nó đã phạm tội gì để đến nỗi như vậy. Từ hồi mẹ Matthew mất đi, bác đã làm đủ thứ dành cho nó, thế mà bây giờ thì không còn ai để bác giành lại cho nữa.

Bác đến Boston bất cứ lúc nào cũng được, thưa bác. Chúng cháu rất mong chờ

bác.

Cảm ơn cháu, Wilham, cảm ơn tất cả những gì cháu đã làm cho con bác. – Ông cụ nhìn anh. – Bác ước gì bố cháu còn sống để thấy con trai mình đã xứng đáng với cái tên Kanne thế nào. Giá như bác có thể đổi cho Matthew, để cho nó sống… ‘ – Cháu phải vội về với cậu ấy đây, bác ạ.

Ừ cháu về đi. bảo với hò là bác yêu nó lắm, và bảo là bác đã dũng cảm nghe cái tin ấy nhé. Đừng nói gì khác với nó nhé.

Vâng, thưa bác.

William trở về Boston thấy tối hôm ấy Matthew ở nhà với Kate và đang ngồi ngoài hiên bắt đầu đọc cuốn tiểu thuyết đang được bán rất chạy ở Mỹ, đó là cuốn Cuốn theo chiều gió. Anh ta ngước nhìn lên thấy William bước vào bằng cửa bên..

Ông cụ nghe tin bảo sao?

Ông cụ khóc, – William nói – Ông chủ ngân hàng Lester mà khóc ư? – Matthew nói. – Cậu chớ cho các cổ đông biết chuyện đó nhé.

Matthew không uống rượu nữa và cố gắng làm việc cho đến tận những ngày cuối. Wilham phải lấy làm kinh ngạc về quyết tâm của anh ta và cứ khuyên anh ta hãy từ từ đã. Nhưng anh ta không những làm hết các việc của mình mà còn trêu chọc Wilham bằng cách đọc lấn sang những thư từ gửi đến cho William nữa.

Tối tối trước khi đi xem hát hoặc dự tiệc, Matthew còn đánh quần vợt với Wiìliam hoặc chèo thuyền và vượt William trên sông Charles. Anh ta nói nhạo:

Khi nào mình thua cậu thì mình biết là lúc đó chết rồi.

Matthew không hề vào bệnh viện bao giờ. Anh thích ở lại nhà vợ chồng William. Với William thì anh thấy các tuần lễ trôi qua vừa quá chậm lại vừa quá nhanh, cứ mỗi buổi sáng ngủ dậy không biết Matthew còn sống hay không.

Matthew chết vào ngày thứ năm, hãy còn bỏ dở bốn chục trang của Cuốn theo chiều gió chưa đọc hết.

Tang lễ được tiến hành ở New York. William và Kate ở lại với Charles Lester. Chỉ trong có sáu tháng mà ông cụ đã già hẳn đi. Ông đứng bên mộ vợ và mộ đứa con trai độc nhất của mình, bảo William rằng ông không còn thấy có mục đích gì để sống trên đời này nữa. William không nói gì. Chẳng có lời nói nào khiến cho ông cụ đỡ đau buồn được. Ngày hôm sau, William và Kate trở về Boston không có Matthew vắng hẳn đi một cách kỳ lạ. Mấy tháng qua vừa là những tháng sung sướng nhất vừa là những tháng đau khổ nhất trong đời William. Cái chết đã khiến anh gần lại với Matthew và với Kate. Nếu là cuộc sống bình thường thì anh không thể gần với bạn và vợ như vậy được.

Sau cái chết của Matthew, Willam trở lại ngân hàng làm việc nhưng anh thấy rất khó có thể làm bình thường như cũ. Nếu là trước đây thì anh đã đứng dậy, sang phòng làm việc của Matthew hoặc trao đổi hoặc cười nói với nhau, hoặc ít nhất thì cũng còn thấy Matthew ngồi đó. Nhưng nay Matthew không còn đó nữa. Phải mất đến mấy tuần William mới thôi không nghĩ đến không khí làm việc cũ nữa.

Tony Simmons tỏ ra rất thông cảm, nhưng điều đó chẳng giúp được gì, Wilham mất hết cả hứng thú làm ngân hàng. Ngay trong chính ngân hàng Kanne và Cabot, anh cũng rầu rĩ hết tháng này sang tháng khác về cái chết của Matthew. Xưa nay anh vẫn đinh ninh rằng anh và Matthew sẽ cùng lớn lên, cùng già và cùng chia sẻ chung một số phận. Không ai có ý kiến gì khi thấy công việc của Wilham không còn có chất lượng như trước nữa. Ngay cả đến Kate cũng lo buồn thấy William ngồi không một mình hàng giờ.

Một buổi sáng, cô tỉnh dậy thấy anh ngồi bên mép giường và nhìn mình. Cô chớp mắt hỏi anh:

Có chuyện gì không hay thế anh – Không, anh chỉ nhìn vào cái tài sản lớn nhất của mình, và tự hỏi xem có phải của mình thật không?
***

Vào cuối nam 1932, trong lúc cả nước Mỹ đang bị kẹt trong gọng kìm của nạn kinh tế đình đốn, Abel đã hơi lo sợ về tương lai của Công ty Nam tước. Hai năm qua đã có đến hai nghìn ngân hàng phải đóng cửa, và hiện nay hàng tuần vẫn có thêm nhiều ngân hàng khác tiếp tục đóng. Chín triệu người vẫn thất nghiệp. Các khách sạn của Abel phải cố gắng lắm mới duy trì được một số nhân viên có tay nghề cao. Mặc dầu vậy, năm 1932 công ty Nam Tước cũng bị lỗ 72.000 đô la, mà đây là năm anh dự kiến sẽ cân bằng được thu chi. Anh bắt đầu lấy làm ngại, không biết người ủng hộ anh còn đủ tiền và còn đủ kiên nhẫn để giúp anh xoay chuyển lại tình thế được không đây.

Trước đó, Abel đã bắt đầu tham gia tích cực vào hoạt động chính trị trong quá trình An ton Cermak vận động và trở thành thị trưởng Chicago. Cermak đã thuyết phục Abel gia nhập đảng Dân chủ lúc đó đang tiến hành một chiến dịch dữ đội đòi bỏ lệnh cấm rượu.

Abel ra sức ủng hộ Cermak vì lệnh cấm rượu rất tai hại đối với việc làm ăn của các khách sạn. Cermak vốn là một người Tiệp Khắc nhập cư nên giữa Abel với Cermak đã lập tức có ngay được mối quan hệ chặt chẽ. Abel cũng lấy làm sung sướng được cử ra làm đại biểu đi dự Đại hội toàn quốc đảng Dân chủ họp ở Chicago năm 1932. Ở đây, Cermak đã được cử tọa đứng dậy nhiệt hệt hoan hô với nhau lời anh ta nói:

Tôi không đến đây cùng với chuyến tàu Maynower nhưng tôi đã cố gắng đến được càng sớm càng tốt.

ở Đại hội, Cermak đã giới thiệu Abel với Fr. D. Roosevelt và cuộc gặp gỡ ấy làm Abel xúc động nhớ mãi. FDR cứ thế thắng cử Tổng thống một cách dễ dàng và các ứng cử viên Dân chủ theo nhau giành thắng lợi ở khắp nước. Một trong những người mới được bầu vào Hội đồng thành phố Chicago là Henry osborne. Rồi sau khi An ton Cermak bi giết vào đầu năm 1933 où Miami do một viên đạn nhằm ám sát FDR nhưng lại trúng vào anh, Abel quyết định đóng góp một phần lớn thời gian và tiền của vào sự nghiệp cua những ngươi Dân chủ gốc Ba Lan ở Chicago.

Trong năm 1933, công ty chỉ mất có 23.000 đô la nhưng một trong số những khách sạn, tức khách sạn Nam tước ở Si. Louis, lại làm ăn có lãi. Rồi khi Tổng thống Roosevelt phát biểu bài diễn văn đầu tiên của ông vào ngày 12 tháng ba kêu gọi mọi người “hãy một lần nữa tin ở nước MỸ thì Abel lại phấn khởi và anh quyết định cho mở lại hai khách sạn trước đây đã đóng cửa.

Zaphia ngày càng kêu ca phàn nàn về việc Abel ở quá lâu tại những nơi Charleston với Mobile để phục hồi lại khách sạn. Zaphia chỉ muốn Abel nhiều lắm là làm phó quản lý ở khách sạn Stevens thôi, vì như vậy khoảng cách giữa hai người không xa ìắm. Nhưng với tình hình này thì mỗi lúc Abel càng đi xa hơn mà Zaphia thì không

biết thế nào mà đuổi theo những tham vọng của Abel được. Cô sợ anh ta bắt đầu không quan tâng đến cô nữa.

Cô cũng cảm thấy lo lắng về chuyện mình không có con. Cô đi thăm bác sĩ thì họ đảm bảo với cô rằng chẳng có gì khiến cô không có chửa được. Một bác sĩ đề nghị phải khám cả Abel nữa, nhưng Zaphia phản đối, vì cô biết rằng nếu nêu chuyện ấy ra sẽ chẳng khác nào như bảo Abel là vô sinh. Cuối cùng, sau khi vấn đề đã trở nên nặng nề khó có thể đem ra bàn được thì may sao Zaphia lại tắt kinh.

Cô hy vọng chờ đợi thêm một tháng nữa mới nói cho Abel biết hoặc lại đi thăm bác sĩ nữa. Bác sĩ khẳng định rằng cuối cùng cô đã có mang. Vào đúng ngày đầu năm 1934, Zaphia đẻ cho Abel một đứa con gái. Abel rất vui mừng. Họ đặt tên nó là Florentyna, tức là tên của chị Abel trước đây. Trông thấy con bé là Abel đã quấn lấy nó ngay, khiến Zaphia nghĩ bụng từ nay trở đi cô không còn là người đầu tiên được hưởng tình yêu của Abel nữa. George và những bà chị họ của Zaphia đỡ đầu cho đứa bé. Abel tổ chức một bữa tiệc Ba lan mười món vào tối hôm làm lễ rửa tội cho đứa bé. Người ta gửi đến rất nhiều tặng phẩm trong đó có cả một cái nhẫn cổ rất đẹp của một người ủng hộ Abel nhưng giấu tên. Anh cũng có quà biếu tặng lại.

Công ty Nam Tước thu được món lãi 63.000 đô la vào cuối năm. Cả công ty, chỉ còn có khách sạn Nam Tước ở Mobile là thua lỗ.

Mấy tháng sau khi Florentyna ra đời, Abel nghĩ phần lớn thời gian của anh là ở Chicago nên quyết định đã đến lúc xây dựng một khách sạn Nam Tước mới ở đây. Trong thành phố, các khách sạn mọc lên như nấm do kết quả của Hội Chợ Thế Giới tổ chức ở đây Abel có ý định làm cho khách sạn của anh thành lá cờ đầu của công ty để tưởng nhớ đến Davis Leroy.

Công ty vẫn còn làm chủ miếng đất cũ của khách sạn Richmond trên đường Michigan. Đã có nhiều người muốn mua miếng đất ấy nhưng anh vẫn cố giữ, hy vọng một ngày kia có đủ tiền sẽ xây lại khách sạn ở đây Công trình đòi hỏi phải có vốn lớn, Abel quyết định dùng số tiền 750.000 đô la lấy về được của công ty bảo hiềm Great Westem tiến hành việc xây dựng này. Nghĩ xong đâu đấy, anh trình bày với Curtis Fenton ý kiến của mình, tuy nhiên anh vẫn còn đề phòng trường hợp là nếu David Maxton không muốn như vậy vì sợ sẽ có sự cạnh tranh với khách sạn Stevens, thì Abel sẽ sẵn sàng từ bỏ kế hoạch ấy. Dù sao anh vẫn cảm thấy mình có nợ với ông Matxton.

Mấy ngày sau, Curtis Fenton báo lại cho anh biết là người ủng hộ rất vui lòng thấy nói anh định xây lại khách sạn Nam Tước Chicago.

Abel mất mười hai tháng để xây khách sạn Nam Tước mới, với bàn tay giúp đỡ của ủy viên Hội đồng thành phố Henry osborne vì ông ta thu xếp để có các loại giấy phép của Tòa Thị chính một cách nhanh chóng. Tòa nhà được khánh thành năm 1936, do Thị trưởng thành phố là Edward J. Kelly đến khai mạc, và ông này sau cái chết của

An ton Cermark đã trở thành người cầm đầu bộ máy của đảng Dân chủ ở đây Để tưởng nhớ lại Davis Leroy, khách sạn không có tầng thứ mười bảy, và đây cũng là một truyền thống Abel thực hiện trong việc xây dựng bất cứ một khách sạn mới nào của Công ty Nam Tước.

Cả hai thượng nghị sĩ của bang Illinois cũng có mặt và phát biểu với hai ngàn khách đến dự hôm đó.

Khách sạn Nam tước Chicago đẹp cá về thiết kế và xây dựng. Abel đã phải chi đến hơn một triệu đô la cho khách sạn này, và có vẻ như mỗi đồng xu bỏ ra đều đã được tận dụng. Những phòng công cộng đều to rộng thoáng mát với trần nhà được trang trí lộng lẫy và thảm dưới chân đều rất dầy. Màu xanh lá cây có chữ nổi mang tên tắt của khách sạn được trang trí rất kín đáo tưởng như không thấy mà đâu cũng có, từ bộ quần áo của chú nhỏ chạy vặt trong khách sạn cho đến ngọn cờ bay phấp phới trên đỉnh ngôi nhà bốn mươi hai tầng.

Khách sạn này tự nó đã mang dấu hiệu của thành công rồi, – Ông Thượng nghị sĩ lâu năm của nijloi là J. Hamilton Lewis phát biểu, – Vì thưa các bạn, chính là do con người, chứ không phải khách sạn, đã được biết là “Nam Tước Chicago”.

Abel sung sướng ra mặt thấy cả hai ngàn khách mời đều oà lên tán thưởng. Anh phát biểu cảm ơn và mọi người đứng dậy vỗ tay. Anh bắt đầu cảm thấy mình đã quen thuộc với giới đại kinh doanh và những nhà chính trị đàn anh. Zaphia lởn vởn đi lại ở phía sau trong suốt buổi lễ, đối với cô sự việc này là quá long trọng. Cô không hiểu mà cũng chẳng nghĩ đến thành công của Abel ở mức độ như thế, mà dù có hiểu được và bây giờ cô có thừa tiền mua sắm những quần áo sang nhất, cô vẫn thấy mình cổ lỗ và lạc lõng thế nào ấy. Cô biết rằng sự xuất hiện của mình chỉ làm cho Abel thêm khó chịu. Trong khi Abel nói chuyện với Henry osborne, thì cô đứng cách đó một quãng.

Đây là cao điểm trong cuộc đời của anh đấy nhé,- Henry vỗ vào lưng Abel nói.

Cao điểm…. tôi cũng vừa đúng ba mươi tuổi, – Abel nói. Anh quàng tay qua vai Henry và máy ảnh chụp nhoáng một cái. Abel rạng rỡ, lần đầu tiên trong đời anh sung sướng được coi như một nhân vật được nhiều người biết đến. “Tôi sẽ xây khách sạn Nam Tước ở khắp các nước trên thế giới! – Anh nói đủ to cho nhà báo đứng gần đó nghe thấy. “Tôi muốn làm ở Mỹ như Cesar Ritz đã làm ở Châu âu. Ông cứ đi với tôi Henry, rồi ông sẽ hưởng hết niềm vui của chuyến đi này”.

***

Hôm sau, vào lúc ăn sáng, Kate chỉ cho William xem một mẩu tin đăng trên trang 17 của tờ báo Globe nói về chuyện khai mạc khách sạn Nam Tước ở Chicago.

William vừa xem bài báo vừa cười. Ngân hàng Kane và Cabot thật là dại dột đã không chịu nghe lời khuyên của anh ủng hộ cho công ty Richmond. Anh lấy làm hài lòng thấy nhận xét trước đây của mình về Rosnovski là đúng, mặc dầu ngân hàng đã bỏ qua một cơ hội như thế. Đọc đến chỗ Abel được mệnh danh là “Nam tước

Chicago” anh càng buồn cười. Nhưng đột nhiên anh cảm thấy khó chịu ngay. Anh xem kỹ tấm ảnh đăng kèm trong báo. Rõ ràng những dòng chữ chú thích dưới ảnh không còn có gì đáng ngờ nữa:

Abel Rossnovski, Chủ tịch Công ty Nam Tước, đang nói chuyện với Mieczyslaw Szymczak, Thống đốc Quỹ Dự trữ Liên bang, và ủy viên Hội đồng thành phố Henry osborne.

William để tờ báo xuống bàn và suy nghĩ một lúc. Vừa đến cơ quan làm việc, anh đã gọi điện ngày cho Thomas Cohen ở Công ty Luật gia Cohen và Yablons.

Đã lâu rồi đấy nhỉ, ông Kane, – Thomas Cohen nghe điện đã nói ngay. – Tôi rất tiếc nghe tin về cái chết của bạn ông, Matthew Lester. Còn vợ con ông, Richard, có phải tên cháu là thế không, vẫn khỏe chứ?

William vẫn luôn khâm phục Thomas Cohen về trí nhớ của ông ta đối với tên người và các mối quan hệ.

Vâng, cảm ơn ông Cohen, vợ và con tôi vẫn khỏe.

Lần này tôi làm gì được cho ông đây, ông Kanẻ- Thomas Cohen cũng vẫn nhớ rằng với Wiìliam thì chỉ hỏi thăm một câu thôi, rồi vào việc ngay.

– Tôi muốn nhờ ông cử người điều tra cho một việc.

Tôi không muốn người đi điều tra đó biết tôi là ai. Nhưng tôi cần có những thông tin mới nhất về Henry osbome. Tất cả những gì ông ta làm từ khi rời Boston ra đi, nhất là xem giữa ông ta với Abel Rosnovski của Công ty Nam tước có quan hệ gì không.

Đầu dây đằng kia, nhà luật gia im lặng một lát rồi đáp:

Vâng.

Ông có thể cho tôi biết trong vòng một tuần không?

Xin ông cho hai tuần, ông Kane, – Ông Cohen nói.

Báo cáo đầy đủ gửi đến cho tôi trong vòng hai tuần nữa nhé, ông Cohen?

Vâng, hai tuần, thưa ông Kane.

Thomas Cohen vẫn là một người đáng tin cậy như từ trước đến nay. Một báo cáo đầy đủ đã được gửi đến tận chỗ làm việc của William vào sáng ngày mười lăm. William giở hồ sơ ra đọc rất kỹ. Không có quan hệ làm ăn gì giữa Abel Rosnovski với Henry osbome.

Hình như Rosnovski chỉ thấy ở oborne là một người có ích cho những quan hệ chính trị của mình, thế thôi.

Từ khi rời Boston, osborne đã chạy từ việc này sang việc khác rồi cuối cùng về làm ở Công ty bảo hiểm Great Western. Theo nhận xét của họ, chính vì thế mà osborne đã tiếp xúc với Abel Rosnovski, vì trước đây Công ty Richmond vẫn do cơ quan này bảo hiểm. Lúc khách sạn bị đốt cháy, công ty bảo hiểm này từ chối không chịu trả tiền bồi thường. Một người quản lý, có tên là Desmond Pacey, bị tù mười năm sau khi nhận tội là chính mình đã đốt, và trong vụ này người ta hơi có chút nghi ngờ

là Abel Rosnovski có nhúng tay vào đó. Tuy nhiên, không có chứng cớ gì cụ thể, vì vậy công ty bảo hiểm đành chịu trả 750.000 đô la. Báo cáo cũng nói thêm hiện nay osborne là ủy viên Hội đồng thành phố và là một nhà hoạt động chính trì chuyên môn

Tòa thị chính, mọi người đều biết ông ta hy vọng trở thành nghị sĩ quốc hội đại diện cho Chicago.

Mới đây ông ta có lấy cô Marie Axton, con gái của một nhà sản xuất thuốc khá giàu có, và hai người vẫn chưa có con.

william lại xem lại toàn bộ báo cáo để chắc chắn là mình không bỏ qua điều gì dù là không quan trọng.

Nhưng anh vẫn thấy giữa hai người không có gì thật sự gắn bó với nhau lắm. Dù sao, trong thâm tâm anh vẫn lo lắng cả hai người, Abel Rosnovski và Henry osbonle, đều là những người căm ghét anh, nếu quan hệ chặt chẽ với nhau tất thế nào cũng có điều gì nguy hiểm mà anh phải đề phòng. Anh ký một tấm séc gửi trả Thomas Cohen và yêu cầu ông ta cứ ba tháng một lần lại báo cáo thêm cho anh biết. Nhưng rồi tháng tháng trôi qua, những báo cáo ba tháng cũng không nêu được chuyện gì mới, vì vậy anh không còn lo nghĩ gì nữa, chỉ cho rằng mình đã quá quan tâm đến bức ảnh đăng trong báo mà thôi.

Mùa xuân năm 1937, Kate lại đẻ cho chồng được một đứa con gái. Họ đặt tên nó là Virginia. Wilham vẫn làm cái việc thay tã cho con. Anh quá săn sóc “cô công chúa” này đến nỗi Kate tối nào cũng phải dành về cho mình kẻo nó không được ngủ. Còn Richard bây giờ dã lên hai tuổi rưỡi, chả thích gì em bé và cả ngày chỉ chơi với bộ lính gỗ để khỏi ghen với em được săn sóc cẩn thận hơn.

Vào quãng cuối năm, bộ phận của William trong ngân hàng Kane và Cabot thu về được món lợi nhuận khá to. Anh như vừa thoát ra khỏi trạng thái lơ mơ do cái chết cua Matthew gây ra và lại nhanh chóng giành lại uy tín của mình như một trong những người rất khôn khéo đầu tư vào thị trường chứng khoán.

Anh cũng không còn thấy phiền lòng gì với sự điều khiển của Tong Simmons nữa: Tuy nhiên, William trong thâm tâm cũng không vui gì với triển vọng dù có được làm chủ tịch ngân hàng Kane và Cabot thì cũng phải chờ mười bảy năm nữa cho Simmons về hưu mới đến lượt anh, vì vậy anh tính đến tìm việc lành ở ngân hàng

khác.

William và Kate vẫn đi New York thăm Charles Lester mỗi tháng một lần vào ngày cuối tuần. Trong ba năm qua kể từ khi Matthew chết đến nay, ông đã già đi ghê gớm. Trong giới tài chính người ta đồn ông chẳng còn thiết gì làm ăn và thỉnh thoảng mới thấy có mặt ở ngân hàng. William bắt đầu lo không biết ông già còn sống được bao lâu nữa. Thế rồi ít tuần sau ông qua đời luôn. Hai vợ chồng Kane xuống New York dự tang lễ. Hình như mọi người ai cũng có mặt ở đám tang này, kể cả ông Phó Tổng thống Hoa Kỳ John Nance Gamer. Sau khi dự đám tang, William và Kate đi xe lửa trở

về Boston, biết là từ nay trở đi đã mất hẳn mối quan hệ với gia đình Lester.

Khoảng sáu tháng sau William nhận được thông báo của Sullivan và Cromwell, một công ty Luật ở New York, yêu cầu anh đến dự nghe công bố chúc thư của Charles Lester tại văn phòng của họ Ở phố Wall.

William nhận lời về dự vì tình nghĩa với gia đình Lester hơn là muốn biết nội dung chúc thư của Charles Lester. Anh chỉ muốn nhớ lại những kỷ niệm nhỏ với Matthew và những gì còn lại mà anh đang giữ trong nhà hiện nay. Anh cũng mong có dịp được gặp lại những người khác trong gia đình Lester đã quen biết từ hồi còn nhỏ cũng như trong những năm ở đại học với Matthew.

William tự mình lái chiếc xe Daimler mới mua xuống New York từ đêm hôm trước và ngủ trọ tại Câu lạc bộ Harvard. Bản di chúc sẽ được công bố vào mười giờ sáng hôm sau, và Wiìham lấy làm lạ khi đến văn phòng công ty Sulhvan và Cromwell thấy đã có đến năm chục người tề tựu sẵn ở đó rồi. Nhiều người ngước nhìn lên khi Wilham bước vào phòng. Anh đến chào các cô dì chú bác của Matthew, thấy họ đã già đi rất nhiều và anh nghĩ bụng có lẽ họ cũng nghĩ về anh như vậy. Anh để ý tìm Susan, em gái của Matthew, nhưng không thấy cô ta đâu. Đúng mười giờ ông Arthur Cromwell vào phòng, có một trợ lý đi kèm và cầm trong tay một cặp da màu nâu. Mọi người im lặng chờ đợi. Ông luật sư giải thích cho những hưởng di chúc biết rằng theo lời dặn của Charles thì di chúc này chỉ được mở ra sáu tháng sau khi ông đã qua đời.

Lý do là vì ông không có con trai để ông để lại gia tài nên ông muốn để cho thời gian chứng minh nguyện vọng của ông vậy.

William nhìn quanh căn phòng và các khuôn mặt đang theo dõi từng lời nói của ông luật gia. Arthur Cromwell đọc bản di chúc đó mất gần một tiếng đồng hồ. Sau khi đọc những mục thông thường để lại cho những thành viên khác nhau trong gia đình, cho những cơ quan từ thiện và trường Đại học Harvard, Cromwell cho biết thêm rằng Charles Lester đã chia tài sản cá nhân của ông cho tất cả bà con họ hàng, nhiều hay ít tùy theo mức độ xa gần của họ. Cô con gái, Susan, được nhận phần lớn nhất của bất động sản, còn năm người cháu trai và ba cháu gái, mỗi người được hưởng một phần tài sản ngang nhau còn lại Tất cả tiền của và chứng khoán dành cho họ đều do ngân hàng lưu giữ cho đến khi họ ba mươi tuổi.

Nhiều bà con cô bác và họ hàng xa đều được lĩnh tiền mặt ngay tại chỗ.

William ngạc nhiên thấy ông Cromwell tuyên bố.

– Đó là tất cả những gì liên quan đến tài sản của ông Charles Lester để lại.

Mọi người bắt đầu rục rịch trở về chỗ và có tiếng rì rầm trao đổi giữa người này người kia.

Tuy nhiên, đó chưa phải đã hết những gì ông Charles Lester dặn lại trong Di chúc, – Luật gia bình tĩnh nói tiếp, và mọi người lại dằn lòng ngồi nghe, trong lòng rất lo không biết còn điều gì bất ngờ và không hay nữa chăng.

ông Cromwell tiếp:

Tôi xin đọc tiếp những lời của chính ông Charles Lester. “Trước nay tôi vẫn cho rằng một ngân hàng và tiếng tăm của nó rất liên quan đến người quản lý nó. Ai cũng biết rằng tôi hy vọng con trai tôi là Matthew sẽ kế nghiệp tôi làm Chủ tịch ngân hàng Lester, nhưng nó chẳng may đã chết một cách bi thảm và không đúng lúc. Cho đến nay, tôi chưa hề nói cho ai biết tôi đã chọn người nào để quản lý ngân hàng Lester. Vậy nay tôi công bố đê mọi ngươi biết là tôi đã chọn William Lowell Kane, con của một trong những người bạn thân nhất của tôi lã Richard Lowell Kane trước đây, hiện đang là phó chủ tịch ngân hàng Kane và Cabot, làm chủ tịch ngân hàng Lester và toàn bộ Công ty Tín dụng, và nhận chức đó trong cuộc họp toàn thể ban giám đốc tới”.

Lập tức có tiếng xôn xao. Mọi người nhìn quanh phòng xem con người bí mật William Lowell Kane ấy là ai, con người mà chỉ có vài thành viên trực tiếp trong gia đình Lester biết đến.

Tôi chưa đọc hết, – Arthur Crnmwell nói.

lại im lặng. Cử tọa nhìn nhau kinh hãi, e rằng lại một quả bom nữa sắp nổ tung.

Nhà luật gia đọc tiếp:

‘tất cả những khoản trợ cấp và phân chia chứng khoán của Công ty Lester nói trên đây đều tùy thuộc vào việc những người được hưởng sẽ bầu cho ông Kane tại cuộc họp toàn thể hàng năm và vẫn sẽ tiếp tục làm như vậy ít nhất là năm năm sau đó, trừ phi ông Kane tuyên bố là ông ta không nhận chức vụ chủ tịch”.

Lại xôn xao ồn ào trong phòng. William ước gì mình ở cách xa chỗ này hàng vạn dặm, vì anh không biết mình nên sung sướng hay nên thừa nhận mình là người bị căm ghét nhất trong tất cả những ai có mặt ở đây – Đến đây là kết thúc Di chúc của ông Charles Lester, – Ông Cromwell nói. Nhưng chỉ có những người ngồi ở hàng đầu nghe rõ ông nói gì. William nhìn lên, Susan Lester đang bước về phía anh. Hình ảnh cô gái béo lùn đã biến đâu mất, chỉ còn những nét tàn nhang xinh đẹp. Anh mỉm cười, nhưng cô đi qua mặt anh, làm như anh không có đó. William nhăn nhó.

Một người cao lớn, tóc hoa râm, mặc bộ quần áo chật căng và thắt chiếc ca vát sáng, không để ý đến những tiếng ồn ào chung quanh, bước đến chỗ William.

Ông là William Kane, có phải không ạ – Vâng, chính tôi, – William hơi bực bội đáp Tên tôi là Peter Parfitt, – Người đó nói.

Một trong những phó chủ tịch ngân hàng, – William nói.

Vâng, đúng, thưa ông, – Ông ta nói. – Tôi không biết ông, nhưng tôi được biết tiếng của ông, và tôi cũng là một trong những người có may mắn được quen biết người cha đáng kính của ông. Nếu như Charles Lester nghĩ rằng ông là người thích hợp để làm chủ tịch ngân hàng của ông ta, tôi cho rằng như thế là tốt rồi.

William chưa bao giờ cảm thấy nhẹ người như vậy.

Ông đang ở đâu tại New York? – Peter Parfitt đã hỏi ngay trước khi William nói

được câu gì.

Tôi ở Câu lạc bộ Harvard..

Tuyệt. Tôi xin hỏi ông tối nay có rảnh dùng bữa với tôi được không) Tôi định tối nay về Boston ngay, – William nói, – Nhưng bây giờ thì có lẽ tôi phải ở lại New York thêm vài ngày nữa.

Tốt, vậy tôi mời ông đến nhà tôi ăn tối vào tám giờ được không ạ?

ông ta đưa danh thiếp cho William trong đó có địa chỉ in nổi bằng chữ vàng.

– Tôi sẽ có dịp được nói chuyện thân mật với ông trong không khí đó.

Cảm ơn ông, – William đáp và bỏ danh thiếp vào túi áo trong khi một số người khác xúm quanh đến.

Một số người nhìn anh bằng con mắt không thiện cảm, một số khác muốn chúc mừng anh.

Sau khi anh thoát được khỏi đám người này và trở về Câu lạc bộ Harvard, việc đầu tiên là anh phải gọi cho Ka te và báo tin trên cho cô biết.

Cô lặng lẽ trả lời.

Matthew cũng lấy làm mừng cho anh đấy.

Anh biết.- Wilham nói.

Bao giờ anh về nhà?

Có Trời biết. Tối nay anh đến ăn với ông Peter Parfltt, một phó chủ tịch của lester. Ông ta có vẻ rất quan tâm và thân mật, như vậy cũng dễ chịu. Đêm nay ở lại Câu lạc bộ và trong ngày mai sẽ gọi về cho em xem tình hình ở đây thế nào.

Được thôi, anh yêu.

Ở nhà bình thường chứ – Virginia nhổ một cái răng và nó làm nũng lắm, Richard hứa với cô bảo mẫu nên phải đi ngủ sớm. Cả nhà nhớ anh lắm.

William cười.

Mai anh sẽ gọi về.

Nhớ gọi nhé. Nhân đây cũng chúc mừng anh. Em rất hoan nghênh Charles Lester đã nhận xét về anh như vậy, mặc dù em sẽ rất ghét là phải ở New York.

Đây là lần đầu tiên William nghĩ đến chuyện ở New York.

Tám giờ tối hôm đó Wilham đến nhà Peter Parfitt ở Đường 64 và anh ngạc nhiên thấy chủ nhà ăn mặc rất trịnh trọng cho bữa tối. William cảm thấy hơi ngượng trong bộ quần áo làm việc bình thường hàng ngày của mình. Anh giải thích ngay cho bà chủ nhà là anh đinh tối hôm đó trở về Boston. Diana Parfitt, hóa ra là người vợ thứ hai của Peter, tiếp khách rất có duyên và tỏ ra vui mừng thấy William sẽ là chủ tịch tương lai của ngân hàng Lester. Trong suốt bữa ăn khá thịnh soạn, William tranh thủ hỏi Peter Parfltt về những người khác trong ban giám đốc ngân hàng Lester phản ứng về Di chúc của ông ta như thế nào.

Mọi người sẽ đều tán thành cả thôi, – Parfitt nói.

Tôi đã nói chuyện với phần lớn trong số họ rồi. Sáng thứ hai tới sẽ có cuộc họp toàn ban giám đốc để khẳng định việc chỉ định ông làm chủ tịch, tuy nhiên tôi chỉ còn thấy có một điều hơi lấn cấn có thể xẩy ra thôi.

Đó là điều gì – William hỏi, cố tỏ ra không có vẻ lo lắng gì hết.

Nói riêng để ông biết, người phó chủ tịch kia, Ted Leach, là người đã hy vọng sẽ được chỉ định lên làm chủ tịch kế nhiệm. Tôi có thể nói ông ta đã yên trí như vậy rồi. Tất cả chúng tôi được thông báo là chỉ sau khi công bố di chúc mới được biết ai là chủ tịch, tuy nhiên ý nguyện đó của Charles Lester đối với Ted quả là không thể ngờ được.
ông ta sẽ chống chứ? – William hỏi.

Có thể như vậy, nhưng ông không có gì đáng phải lo đâu Tôi phải nói ngay rằng tôi chưa bao giờ thấy ưa ông ta được, – Diana Partikt vừa nói vừa nhìn vào đĩa bánh xèo trước mặt.

Này thôi, em ơi, – Parfitt gạt đi, – Chúng ta không nên nói điều gì sau lưng Ted mà phải để cho ông Kane tự mình xét mới được chứ. Tôi thì tôi chắc chắn rằng trong cuộc họp ban giám đốc vào sáng thứ hai mọi người sẽ chấp thuận việc chỉ định ông Kane nhưng vẫn có khả năng Ted Leach từ chức.

Tôi không muốn bất cứ ai cảm thấy vì có tôi mà phải từ chức, – William nói.

ông suy nghĩ như vậy là rất đáng quý, – Parfltt nói. – Nhưng ông chả nên bận tâm về chuyện nhỏ ấy.

Tôi tin chắc là toàn bộ vấn đề sẽ đâu ra đó. Ông cứ yên trí quay về Boston ngày mai đi, và tôi sẽ thông tin đều cho ông được biết.

Có lẽ tôi nên qua ngân hàng vào sáng mai một chút. Không biết các bạn đồng nghiệp của ông có lấy làm lạ nếu tôi không có ý muốn gặp họ không?

Không nên. Tôi nghĩ trong tình hình này ông chưa nên đến ngân hàng vội. Có lẽ tốt hơn là ông hãy đứng ngoài để chờ cho cuộc họp ban giám đốc vào sáng thứ hai xong đâu đấy đã. Như vậy họ cảm thấy mình độc lập và tự thấy có giá trị đàng hoàng hơn. Õng hãy nên nghe tôi, Bill, và trở về Boston đi. Trước mười hai giờ trưa sáng thứ hai, tôi sẽ gọi báo tin mừng cho ông.

William miễn cưỡng đồng ý với đề nghị của Peter Parfltt và ngồi lại nói chuyện cả tối với hai vợ chồng Parfltt, và nói cả chuyện anh và Ka te có thể ở New York tạm thời trong khi tìm một ngôi nhà nào đó để ở hẳn. William hơi lấy làm lạ thấy Peter Parfitt không có ý muốn bàn gì về chuyện ngân hàng, nhưng anh nghĩ có lẽ vì có mặt Diana Parfltt ở đó. Buổi tối kết thúc vui vẻ với rượu brandy uống hơi quá nhiều, và đến tận một giờ đêm William mới trở về Câu lạc bộ Harvard.

Về đến Boston, William nói lại ngay cho Tony Simmons biết về tất cả những gì đã xảy ra ở New York. Anh không muốn để ông ta biết về chuyện được chỉ định ấy qua bất cứ ai khác. Tony nghe tin đó lại vui mừng một cách không ngờ.

Tôi rất tiếc là anh lại sẽ phải xa chúng tôi, william. Tất nhiên Lester còn lớn gấp

hai ba lần Kane và Cabot, nhưng rất khó có thê kiếm được người nào thay cho anh, vì vậy tôi đề nghị anh cân nhắc rất kỹ trước khi nhận nhiệm vụ.

Wiìliam cũng ngạc nhiên và biểu lộ ra mặt.

Thật tình, Tony, tôi vẫn cứ tưởng ông sẽ mừng mà thấy tôi không còn ở đây nữa.

Wilìiam, đến bao giờ thì anh mới tin rằng mối quan tâm đầu tiên của tôi vẫn chỉ là ngân hàng, và trong óc tôi bao giờ cũng vẫn cho anh là một trong những người khôn ngoan nhất về lĩnh vực đầu tư của ngân hàng ở nước Mỹ hiện nay? Nếu bây giờ anh bỏ Kane và Cabot, thì sẽ có rất nhiều khách quan trọng của ngân hàng muốn bỏ đi_theo anh ngay đó.

Tôi sẽ không bao giờ chuyển quỹ riêng của tôi sang Lester, cũng như không bao giờ mong bất cứ khách hàng nào của ngân hàng này bỏ đi với tôi cả, – William nói.

Cố nhiên anh không kêu gọi họ bỏ theo anh, William, nhưng một số trong những khách hàng đó vẫn muốn anh tiếp tục quấn lý cho tài khoản của họ.

Cũng giống như bố anh trước đây với Charles Lester, họ hoàn toàn có lý khi tin vào ngân hàng tức là tin vào con người và cái tiếng tốt của họ.

William và Ka te qua một ngày cuối tuần căng thẳng chờ đến thứ hai và kết quả cuộc họp ban giám đốc ở New York. Cả buổi sáng thứ hai, anh ngồi ở phòng làm việc chờ một cách sốt ruột và đích thân trả lời các nơi gọi điện thoại đến nhưng không thấy gì.

Hết sáng lại đến chiều. Anh cũng không dám rời nhiệm sở đi ăn trun nữa. Mãi đến sau năm giờ chiều Peter Parfltt mới gọi về.

Có lẽ có vài điều trục trặc hơi bất ngờ một chút, Bill – Ông ta đã mở đầu thế. William lặng người.

Nhưng ông khỏi lo, vì tôi vẫn nắm vững tình hình. Có điều ban giám đốc muốn có quyền được cử người ra cùng tranh cử với ông. Một số người còn đưa ra ý kiến hợp pháp để nói rằng điều khoản trong di chúc đó thực sự không có giá trị. Tôi phải lĩnh cái nhiệm vụ không lấy gì làm vui là hỏi xem ông có sẵn sàng ra tranh cử với một người khác trong ban giám đốc không?

Ai là người trong ban giám đốc ra ứng cử – Wilìiam hỏi.

Cho đến nay chưa ai nêu tên ra, nhưng tôi đoán họ sẽ chọn lựa Ted Leach. Ngoài ra chẳng có ai tỏ ý muốn ra tranh cử với ông đâu.

Để tôi suy nghĩ thêm, – Wilham. – Cuộc họp lần sau vào ngày nào?

Ngày này tuần sau, – Prafitt nói. – Nhưng ông không cần phải đến và bận tâm tới Ted Leach làm gì.

Tôi vẫn tin rằng ông sẽ thắng dễ đàng và trong tuần tôi vẫn sẽ báo tin cho ông biết để tiện theo dõi tình hình.

Ông cần tôi xuống New York không, Peter Không, lúc này thì chưa. Tôi nghĩ ông xuống cũng chẳng giúp được gì vào đây.

William cảm ơn và bỏ máy xuống. Anh đóng cặp lại và rời phòng làm việc ra về, trong lòng cảm thấy hơi chán nản. Tony Simmons, tay cầm va li bỗng ở đâu ra gặp anh ở chỗ để xe.

– Tôi không biết là ông sắp đi đâu, Tony.

Đây chỉ là bữa tiệc hàng tháng của các nhà ngân hàng ở New York thôi. Chiều mai tôi về ngay rồi. Tôi nghĩ là có thể yên tâm để Kanne và Cabot hai mươi bốn giờ trong tay có tài năng của ông chủ tịch tương lai của Lester được chứ.

William mỉm cười.

Có thể tôi đã là cựu chủ tịch rồi, – Anh nói và kể lại câu chuyện vừa qua. Một lần nữa, William lại ngạc nhiên với phản ứng của Tony Simmons.

Đúng là Ted Leach vẫn hy vọng làm chủ tịch kế nhiệm của Lester đấy, – Ông nói.

Điều đó trong giới tài chính ai cũng biết cả. Nhưng ông ấy là một người phục vụ rất trung thành của ngân hàng, và tôi không thể nào tin rằng ông ta sẽ chống lại những nguyện vọng của Charles Lester đâu.

Tôi không biết là ông có quen ông ta, – Wilham nói.

Tôi cũng không quen ông ta lắm đâu, – Tony nói.- Ông ta học trước rồi một năm ở Đại học Yale, bây giờ thỉnh thoảng tôi gặp ông ta ở những bữa tiệc của các nhà ngân hàng, và khi nào anh làm chủ tịch thì anh cũng sẽ không tránh khỏi phải dự những bữa ấy đâu.

Tối nay tôi sẽ gặp ông ta ở đó. Nếu anh muốn nhắn gì tôi sẽ nói lại cho.

Vâng, nhờ ông nói hộ, nhưng ông phải rất cẩn thận nhé, – William nói.

Anh William thân mến ơi, đã đến cả chục năm nay anh vẫn bảo tôi là người quá cẩn thận, anh quên rồi ư?

Tôi xin lỗi, Tony. Khi người ta quá lo về chuyện riêng của mình thì thường là đầu óc dở thế đấy. Vậy mà khi là chuyện của người khác thì mình lại cho là sáng suốt chứ. Tôi hoàn toàn tin cậy ở ông, ông bảo gì tôi sẽ làm nấy.

Được thế thì tốt. Cứ để việc đó cho tôi. Tôi sẽ hỏi Leach xem ông ta nói thế nào, và sáng mai sẽ gọi điện về cho anh.

Nhưng chỉ mấy phút sau mười hai giờ đêm Tony đã gọi từ New York về trong lúc William đang ngủ say.

Tôi đánh thức anh dậy phải không, William? Vâng, ai đấy?

Tony Simmons.

Ông bảo đến sáng mai mới gọi về kia mà. Tony cười.
Có lẽ điều tôi nói với anh đây không lấy gì làm vui lắm đâu. Cái người chống anh làm chủ tịch Lester chính là Peter Parfitt.

Sao? – William bỗng tỉnh hẳn.

Ông ta đang tìm cách vận động ban giám đốc ủng hộ Ông ta và giấu không cho anh biết. Ted Leach, như tôi dự đoán đúng, lại là người ủng hộ anh làm chủ tịch, nhưng ban giám đốc bây giờ chia đôi làm hai phe rồi.

Trời ơi. Trước hết cảm ơn ông đã, Tony. Và thứ hai là bây giờ ông bảo tôi nên làm thế nào?

Nếu anh muốn làm chủ tịch tương lai của Lester, thì tốt hơn hết là anh hãy xuống đây cho nhanh, kẻo mọi người trong ban giám đốc sẽ bảo tại sao anh lại trốn lủi ở Boston.

Trốn lủi ư – Đó chính là điều mấy ngày hôm nay Parfltt đã nói với các giám đốc khác như vậy đấy.

Thằng cha thế thì đểu thật?

Anh đã nói thế thì thôi, tôi không dám nhận là có quen thuộc gì với ông ta nữa đâu nhé, – Tony.

William cười.

Anh xuống đây và đến Câu lạc bộ Yale nhứ. Rồi đến sáng mai chúng ta sẽ nói tiếp chuyện đó.

Tôi sẽ xuống ngay đây, – William nói.

Lúc anh đến có lẽ tôi sẽ còn đang ngủ. Đến lượt anh phải đánh thức tôi dậy đấy. William bỏ máy xuống và nhìn sang Ka te, chợt quên ngay những vấn đề khó

khăn mới của mình.

Suốt lúc anh nói chuyện, cô vẫn ngủ. Anh chỉ mong mình cũng ngủ ngon được như vậy. Chỉ cần có một ngọn gió hơi đụng vào màn cửa là anh đã thức giấc rồi. Có lẽ cô sẽ còn ngủ cho đến lúc Chúa trở lại thế gian. Anh biết vội vài dòng đề lại giải thích cho cô biết và để mảnh giấy trên bàn ngủ. Rồi anh mặc quần áo, chuẩn bị đồ đạc, lần này mang theo cả chiếc áo lễ phục, và lên đường đi New York.

Đường vắng và chiếc xe Daimler của anh hình như đi nhanh hơn bao giờ hết. Anh đến New York và tới Câu lạc bộ Yale vào đúng lúc thợ giặt, người đưa thư, trẻ bán báo đã bắt đầu hoạt động và mặt trời buổi sáng vừa rọi nắng xuống. Lúc này là sáu giờ mười lăm. Anh mở va li thay đồ và quyết định nghỉ ngơi một giờ rồi mới đánh thức Tony dậy. Nhưng lát sau anh lại nghe có tiếng gõ cửa phòng dồn dập. Anh đang ngái ngủ, bước ra mở cửa thì đã thấy Tony Simmons đứng đó – áo ngủ đẹp nhỉ, William, – Tony cười nói. Ông ta đã ăn mặc chỉnh tề.

Tôi ngủ thiếp đi mất. Ông chờ một phút tôi ra ngay, – William nói.

Không, không, tôi phải ra cho kịp tàu về Boston.

Anh cứ vào tắm rồi mặc quần áo đi, vừa làm vừa nói chuyện.

William vào buồng tắm và cứ để cửa mở.

– Bây giờ vấn đề chính của anh nhé. – Tony bắt đầu nói.

Wilham thò đầu ra ngoài cửa buồng tắm.

Đang mở nước, không nghe thấy ông nói gì hết. Tony chờ cho nước chảy xong.

Peter Parfitt là vấn đề chính của anh. Ông ta cho rằng chính ông ta sẽ là chủ tịch kế nhiệm và lẽ ra tên ông ta đã phải được nêu lên trong di chúc của Charles Lester. Ông ta đang vận động các giám đốc chống lại anh và dùng các thủ đoạn bên trong để thực hiện điều đó Ted Leach có thể cho anh biết các chi tiết, và ông ta muốn anh đến cùng ăn trưa với ông ta ở Câu lạc bộ Metropolitan. Ông ta có thể sẽ đưa đến đó vài ba giám đốc khác nữa mà anh tin cậy được. Nhân đây, cũng nói luôn là hình như ban giám đốc chia đôi, nửa nọ nửa kiạ.

William bị lưỡi dao cạo làm đứt một tí ở cằm. Đồ chết tiệt. Ông bảo Câu lạc bộ nào?

Metropolitan, quá Đại lộ Năm một chút lên Đường 60 phía Đông.

William, khi anh phải đối phó với những loại người như Peter Parfltt ở cái thế giới này, thì anh chớ có đánh điện cho ai biết là anh muốn gì. Anh phải tỉnh táo và rất phớt mới được. Theo Leach cho tôi biết thì ông ta vẫn tin là anh có thể thắng được.

William trở lại phòng ngủ, quấn chiếc khăn quanh người.

Tôi sẽ cố, anh nói. – Đúng là phải phớt mới được.

Tony cười.

Bây giờ tôi phải trở về Boston. Trong mười phút nữa là tàu chạy rồi. – Ông nhìn đồng hồ tay. – ‘Chết chửa, chỉ còn sáu phút nữa thôi.

Tony dừng lại ở cửa.

Anh biết không, bố anh ngày xưa không bao giờ tin được Peter Parfitt. Phải mềm dẻo mới được, bố anh thường vẫn nói thế. Chớ bao giờ làm cái gì quá đáng, chỉ cần mềm dẻo một chút là được. – Ông ta cầm va li lên. Chúc anh may mắn, William.

Tôi biết cảm ơn ông thế nào đây, Tony?

Anh không cảm ơn được đâu. Đó là cách tôi chuộc lỗi vì đã cư xử không đúng với Matthew trước đây.

William nhìn cánh cửa khép lại và vừa mặc quần áo vừa nghĩ ngợi. Anh thấy thật lạ, anh đã sống bao nhiêu năm và làm việc gần gũi với Tony Sinmons mà chẳng thể nào hiểu được ông ta, thế mà chỉ qua có vài ngày khó khăn như thế này anh lại bỗng thấy yêu mến và tin cậy một con người anh chưa từng hiểu được bao giờ. Anh xuống phòng ăn gọi một bữa sáng điển hình của Câu lạc bộ, một quả trứng luộc đã để nguội, một mẩu bánh nướng rắn phết bơ với một ít mứt quả của ai đó còn để lại ở bàn bên cạnh. Người phục vụ đưa cho anh một số báo phố Wall ở trang bên trong có bài nói là

ngân hàng Lester không phải mọi thứ đều trôi chảy sau việc chỉ định Wilham Kane làm chủ tịch. Rõ ràng là tờ báo không có được những thông tin nội bộ.

William trở về phòng yêu cầu tổng đài cho một số máy ở Boston. Anh phải chờ ít phút đường dây mới được thông.

Tôi xin lỗi, ông Kane. Tôi không biết là ông gọi.

Tôi xin có lời mừng ông được chỉ định làm chủ tịch ngân hàng Lester. Tôi hy vọng điều này có nghĩa là văn phòng của chúng tôi ở New York tương lai sẽ có nhiều dịp được gặp ông.

Điều đó còn tùy thuộc ở ông đấy, ông Cohen.

Có lẽ tôi chưa hiểu rõ ý ông, – Nhà luật gia nói.

William kể cho ông ta nghe những điều xảy ra trong mấy ngày qua, và đọc lại đoạn nói trong di chúc của Charles Lester.

Thomas Cohen ghi lại từng lời rồi xem kỹ.

Ông có cho rằng những nguyện vọng của ông ta sẽ đứng vững được nếu đưa ra tòa không – William hỏi.

Điều này khó mà biết trước được. Việc như thế này chưa có tiền lệ. Thế kỷ 19 có một nghị sĩ dặn lại các cử tri của mình trong một bản di chúc và không có một ai phản đối, rồi sau người được hưởng di chúc cứ thế trở thành Thủ tướng. Nhưng đó là chuyện đã cách đây hơn một trăm năm rồi, và là ở Anh. Bây giờ, trong trường hợp này nếu ban giám đốc quyết định thách thức lại di chúc của ông Lester và nếu ông quyết định đưa ra tòa, thì tôi chưa thể đoán trước được là chánh án sẽ nghiêng về bên nào. Huân tước Melbolưne sẽ chẳng ra mặt đối chọi với một đại biểu của New York đâu. Dù sao, đây cũng là một chuyện khó giải về pháp lý, ông Kane ạ.

Vậy ông khuyên tôi thế nào? – Wilham hỏi.

Tôi là một người Do Thái, ông Kane. Tôi đến đất này trên một con tàu từ Đức sang hồi đầu thế kỷ, và tôi vẫn phải đấu tranh rất chật vật để giành được những gì tôi muốn. Ông có rất cần phải trở thành chủ tịch ngân hàng Lester lắm không?

– Có chứ, ông Chen. Tôi rất cần.

Vậy ông hãy nên nghe kỹ một người già lâu nay vẫn nhìn ông bằng con mắt rất kính trọng và có thể nói bằng con mắt thân ái nữa. Tôi sẽ nói cho ông nghe nếu ở vào trường hợp khó khăn như của ông thì tôi làm như thế nào.

Một giờ sau William bỏ máy xuống và vì còn thừa thì giờ anh dạo chơi trên Đại lộ Công viên. Anh đi qua một công trường đang xây một tòa nhà cao tầng rất lớn. Một tấm biển to viết:

Khách sạn Nam tước sắp tới sẽ là ở New York. Đã đến ở Nam tước rồi, các bạn sẽ không bao giờ muốn ở đâu khác nữa. William mỉm cười và bước tiếp về phía Câu lạc bộ Metropolitan.

Ted Leach, một người thấp nhỏ nhưng ăn mặc rất lịch sự, có bộ tóc nâu sẫm và một hàng ria, đang đứng giữ câu lạc bộ chờ anh. Ông ta dẫn William vào quầy rượu, William rất thích câu lạc bộ bài trí theo kiểu thời Phục hưng, do otto Kuhn và Stanford White xây nên từ năm 1891. J. P. Morgan đã lập ra câu lạc bộ này khi một người bạn thân của ông ta bị thất bại trong cuộc bầu vào Liên đoàn.

Thật là một cử chỉ ngông cuồng đối với bạn thân, phải không ạ, – Ted Leach thấy anh ngắm cảnh trong nhà định gợi chuyện. – Ông sẽ uống gì đây, ông Kane?

Xin cho tôi “wyki se-ri, – William nói.

Một chú bé mặc đồng phục màu xanh đi một lát rồi quay lại với rượu se-ri và Whisky với nước. Chú không cần chờ Ted Leach gọi mới mang rượu đến.

Xin chúc chủ tịch tương lai của Lester, – Ted Leach nâng cốc lên nói.

William ngập ngừng ông đừng uống, ông Kane. Như ông biết đấy, mình chả bao giờ nâng cốc tự chúc mình cả.

Wilham cười, không biết nên nói thế nào.

Mấy phút sau, hai người khác lớn tuổi hơn bước đến chỗ họ, cả hai người cao lớn mặc bộ quần áo mầu sẫm kiểu nhà ngân hàng với cổ cứng và ca vát đồng màu. Giá như họ đang đi trên phố Wall thì William không liếc nhìn họ làm gì. Nhưng đây là Câu lạc bộ Metopolitan nên anh nhìn họ chăm chú.

Ông Alfred Rogers và ông Wínthrop Davies, – Ted Leach giới thiệu hai người. Wilìiam cười vui vẻ dè dặt, vì chưa biết thái độ họ như thế nào. Hai người mới đến
nhìn anh rất kỹ.

Không ai nói gì.

Chúng ta bắt đầu từ đâu? – Người có tên là Rodgers nói, chiếc kính một mắt của ông ta tuột xuống..

Bắt đầu từ đi ăn trưa, – Ted Leach nói.

Cả ba người quay ra và William đi theo họ. Phòng ăn ở trên tầng hai rất rộng, trần nhà cao và đẹp.

Trưởng phòng ăn xếp cho họ ngồi bên cửa sổ nhìn xuống Công viên trung tâm, và ngồi đây nói chuyện thì không ai nghe được họ nói gì.

– Ta gọi ăn đã rồi nói chuyện, – Ted Leach nói.

Nhìn qua cửa sổ, Wilìiam có thể trông thấy khách sạn Plaza. Anh bỗng nhớ lại hôm kỷ niệm sinh nhật của anh cùng với các bà nội ngoại và Matthew, rồi còn có một cái gì khác nữa anh cố nhớ lại vào lúc diễn ra buổi tiệc trà ở khách sạn Plaza ấỵ…

ông Kane, chúng ta cứ nói thẳng với nhau nhé, – Ted Leach phát biểu. – Quyết định của Charles Lester cử ông làm chủ tịch ngân hàng đối với chúng tôi là một chuyện bất ngờ, nếu không nói là quá khó xử.

Nhưng nếu ban giám đốc không cần biết đến những mong muốn của ông ấy thì ngân hàng có thể rơi vào tình trạng hỗn loạn và đó là điều trong chúng tôi không ai muốn. Ông ấy là một người rất khôn ngoan, và ông ấy có những lý do để muốn ông làm chủ tịch tương lai, và tôi cho rằng như thế là tốt rồi.

William đã từng nghe những lời này một lần rồi, và đó là của Peter Parfltt.

Cả ba chúng tôi, – Winthrop Davies nói tiếp, – Đều mang ơn ông Charles Lester, và chúng tôi sẽ thực hiện những mong muốn của ông ấy nếu như đó là điều cuối cùng chúng tôi phải làm với tư cách là thành viên ban giám đốc.

Nếu như Peter Parfitt thành công trong việc trở thành chú tịch, thì chúng tôi sẽ phải làm thế thật, – Ted Leach nói.

Thưa các vị, William, – Tôi rất lấy làm tiếc đã khiến cho các vị phải bận tâm như vậy. Nếu như việc chỉ định tôi làm chủ tịch đã làm cho các vị ngạc nhiên, thì tôi cũng phải đảm bảo với các vị rằng chính tôi cũng hoàn toàn bất ngờ về chuyện đó. Tôi cứ nghĩ là mình sẽ nhận được chút kỷ niệm nhỏ gì đó về Matthew trong di chúc của Charles Lester, chứ không phải là nhận trách nhiệm quản lý ngân hàng.

Chúng tôi hiểu hoàn cảnh ông đã bị đặt vào đó, ông Kane, – Ted Leach nói, – Và ông cũng phải tin chúng tôi khi chúng tôi nói là đến đây để giúp ông. chúng tôi biết rằng ông khó mà tin được sau khi Peter Parfitt đã đối xử với ông như vậy và những thủ đoạn mà ông ta đang dùng sau lưng ông.

Tôi phải tin ở các vị chứ, thưa ông Leach, vì tôi không còn có sự lựa chọn nào khác ngoài cách tự đặt mình vào trong tay các vị. Các vị xét tình hình hiện nay là thế nào?

Tôi thấy tình hình là rõ rồi, – Leach nói. – Cuộc vận động của Peter Parfitt là rất có tổ chức, và bây giờ ông ta làm như mình đang ở trên thế mạnh. Vì vậy thưa ông Kane, nếu chúng ta muốn có cơ hội đánh bại ông ta thì chúng ta phải hoàn toàn nói thật với nhau đã. Cố nhiên, tôi cho rằng ông sẵn sàng lao vào cuộc chiến chứ.

Nếu không thì tôi đã không đến đây, thưa ông Leach. Bây giờ, vì các vị đã nói rõ

lập trường của mình rồi, có lẽ các vị cho phép tôi đề nghị là chúng ta nên làm thế nào để đánh bại ông Parfitt.

Cố nhiên, – Ted Leach nói. Ba người chăm chú nghe.
Các vị rất có lý khi cho rằng Parfltt cảm thấy ông ta đang ở thế mạnh vì cho đến nay ông ta vẫn là người tiến công, và luôn luôn biết là cái gì sẽ xảy ra. Vì vậy tôi xin đề nghị với các vị là đã đến lúc chúng ta đảo ngược lại chiều hướng ấy và chúng ta sẽ tiến công ở chỗ nào và lúc nào ông ta không ngờ đến nhất- Tức là ở ngay trong phòng làm việc của ông ta.

Ông bảo chúng tôi làm tế nào, ông Kane? – Winthrop Davies hỏi với một vẻ hơi ngạc nhiên.

Tôi sẽ trình bày cách đó nếu trước hết các vị cho phép tôi hỏi hai câu. Có tất cả bao nhiêu giám đốc chấp hành có quyền bỏ phiếu?

Mười sáu, – Ted Leach đáp ngay.

Lúc này đây thì họ có ý ủng hộ ai? – Wiìliam hỏi.

Câu này không dễ trả lời đâu, ông Kane, – Winthrop Davies nói chen vào. Ông ta rút từ túi trong ra một phong bì nhàu và nhìn kỹ sau lưng nó rồi nói tiếp – Tôi nghĩ chúng ta có thể trông vào sáu phiếu chắc chắn và Petter Parfitt chắc ăn được năm. Sáng nay tôi sững cả người khi nghe nói Rupert Cork-smith, trước đây là bạn thân nhất của Charles Lester, không muốn ủng hộ Ông, ông Kane. Thật lạ kỳ, vì tôi biết ông ta không thích gì Parfitt. Nếu như vậy thì mỗi bên được sáu phiếu.

Chúng ta còn thì giờ đến thứ năm, – Ted Leach nói thêm. – Từ nay đến đó có thể tìm hiểu thêm còn bốn thành viên nữa sẽ bỏ phiếu cho ai.

Sao phải chờ đến thứ năm? – Wiìham hỏi.

Tức là kỳ họp ban giám đốc lần sau, – Leach trả lời và đưa tay vuốt ria. William đã để ý mỗi lần ông ta sắp nói gì là thế nào cũng vuốt ria một cái. – Và điều quan trong nhất là việc bầu chủ tịch mới đứng hàng đầu trong chương trình nghị sự – Tôi nghe nói cuộc họp lần sau là vào thứ hai kia,- William ngạc nhiên nói.

Ai nói? – Davies hỏi.

Peter Parfitt, – William đáp.

Thủ đoạn của ông ta đấy, – Ted Leach nói. – Ông ta không bao giờ nói thật.

Tôi đã được biết khá nhiều về con người lịch sự này rồi. – William nói với một giọng mỉa mai. – Chính vì thế bây giờ tôi phải quyết định giao chiến với ông ta.

– Nói thì dễ thôi, ông Kane. Lúc này đây, ông ta là người ngồi ở ghế cầm tay lái, – Winthrop Davies nói,- Tôi chưa biết mình có thể làm cách gì nhấc được ông ta ra khỏi cái ghế đó.

Thì bật đèn đỏ lên, – William đáp. – Ai là người có quyền triệu tập họp ban giám

đốc?

Trong khi ban giám đốc không có chủ tịch, thì phó chủ tịch nào cũng triệu tập được, – Ted Leach nói. – Cụ thể hoặc là Peter Parfitt hoặc là tôi.

Tối thiểu phải có bao nhiêu thành viên thì cuộc họp mới có giá trị?

Chín, – Davies nói.

Ông là một trong hai phó chủ tịch thì ai là Bí thư của ban lãnh đạo.

Tôi, – A]fred Rodgers nói. Từ nãy đến giờ ông ta chưa hề mở miệng. Đó là một đức tính mà William bao giờ cũng đòi hỏi ở một người làm Bí thư của công ty – Nếu triệu tập một cuộc họp bất thường thì phải báo trước bao nhiêu lâu, ông Rodgers?

Mỗi giám đốc phải được báo trước hai mươi bốn giờ mặc dầu điều đó chưa bao giờ xảy ra trừ cái hồi khủng hoảng năm hai mươi chín. Charles Lester thường báo trước ít nhất ba ngày.

Nhưng ngân hàng có quy chế cho phép triệu tập cuộc họp bất thường nếu báo trước hai mươi bốn tiếng chứ – William hỏi.

Vâng, quy chế thì có, – Alfred Rodgers nói. Lúc này chiếc kính một mắt đã được ông ta gắn chặt lên mắt để nhìn kỹ William.

Thế thì tốt, vậy chúng ta triệu tập cuộc họp giám đốc riêng của chúng ta.

Các vị thử nghĩ xem, – William nói tiếp. – Ông Leach, với tư cách phó chủ tịch, triệu tập cuộc họp ban giám đốc, và ông Rodgers, với tư cách bí thư của ban lãnh đạo, thông báo cho các giám đốc được biết.

Ông muốn cuộc họp này tiến hành vào ngày nào?- Ted Leach hỏi.

Trời đất ơi, thế thì gấp quá, – Alfred Rodgers nói.- Tôi không chắc là….

Vì ông muốn nói gấp quá đối với Peter Parfitt, phải không ạ? – William nói.

Gấp quá thật đấy, – Ted Leach nói, – Trừ phi ông đã biết rõ trước cuộc họp sẽ tiến

hành như thế nào.

Về cuộc họp thì xin cứ để đó cho tôi. Chỉ cần các vị nắm chắc rằng cuộc họp được triệu tập theo đúng nội quy và mỗi giám đốc đều được thông báo cẩn thận.

Chưa biết được Peter Parfitt, – William nói. – Đó là một sai lầm mà chúng ta đã mắc cho đến bây giờ. Ta hãy bắt đầu lo về phần mình xem sẽ thay đổi như thế nào. Chừng nào ông ta được báo trước đúng hai mươi bốn giờ và ông ta là người cuối cùng được thông báo, thì chúng ta không có gì đáng sợ. Chúng ta không để cho ông ta có thêm thì giờ cần thiết đề bố trí phản công được. Và thưa các vị, xin các vị đừng ngạc nhiên gì hết về những gì tôi làm hoặc tôi nói ngày mai. Chỉ xin các vị hãy tin vào xét đoán của tôi và các vị có mặt đó để ủng hộ tôi là được.

Ông không nghĩ là chúng tôi cũng cần biết chắc ông sẽ tính toán như thế nào ư – Không, thưa ông Leach. Xin các vị hãy xuất hiện ở cuộc họp ban giám đốc như những người rất vô tư và chỉ vì nhiệm vụ của mình mà đến đó thôi.

Ted Leach và hai đồng nghiệp của ông ta bắt đầu hiểu ra tại sao Charles Lester đã chọn William Kane là người chủ tịch tương lai. Họ rời Câu lạc bộ Metropolitan ra về trong lòng vững tin hơn lúc mới đến, mặc dầu họ hoàn toàn chưa hiểu cuộc họp sẽ diễn ra như thế nào. William, trái lại, sau khi đã thực hiện được phần đầu những gì Thomas Chen đã dặn dò, bây giờ chuẩn bị bước vào phần thứ hai mà anh biết là sẽ khó khăn hơn.

Hầu hết cả buổi chiều và buổi tối, anh chỉ ngồi trong phòng ở Câu lạc bộ Yale, suy nghĩ thật cẩn thận về những sách lược anh sẽ đem ra thi hành ở cuộc họp ngày hôm sau , chỉ rảnh được một lúc để gọi về cho Kate.

Anh đang ở đâu thế, anh yêu? – Cô nói. – Lủi đi giữa đêm mà không biết đi đâu.

Đi gặp người tình ở New York, Wilham nói.

Tội nghiệp cho cô ta nhỉ, Kate nói. – Có lẽ cô ta không biết tại sao. Thế cô ta khuyên anh về cái ông Parfitt ngoắt ngoéo ấy thế nào?

Anh chưa có thì giờ hỏi cô ta, vì còn bận nhiều việc khác. Nhân tiện em đang nói điện thoại, em khuyên anh nên thế nào?

Anh đừng làm bất cứ gì mà Charles Lester hay cha anh đã làm trong trường hợp tương tự như thế này, – Ka te bỗng nghiêm giọng nói.

Có lẽ các cụ đang đánh gôn ở trên chín từng mây và đang nhìn chúng ta đánh cuộc đấy.

Anh làm gì tùy, William, nhưng chớ có làm quá đáng và nhớ rằng các cụ vẫn đang theo dõi anh đấy.

****** William dậy từ sáng sớm. Anh chỉ có ngủ vừa phải thôi. Sau sáu giờ một chút, anh đã dậy rồi. Tắm nước lạnh rồi đi dạo một vòng trong công viên trung tâm cho đầu óc tỉnh táo, rồi sau đó về Câu lạc bộ ăn sáng.

Có bức điện gửi cho anh để ở quầy tiếp tân. Đó là điện của vợ. Đọc đến lần thứ hai, William bỗng bật cười thấy trong điện nói:

nếu anh không bận lắm thì nhớ mua một chiếc găng dã cầu cho Richard. William nhặt tờ Nhật báo phố Wall lên xem, trong đó vẫn còn đăng chuyện rắc rối trong ban giám đốc ngân hàng Lester về chuyện bầu chủ tịch mới. Lần này, báo đăng ý kiến của Peter Parfitt nói ý rằng việc ông ta được chỉ định làm chủ tịch sẽ rõ ràng trong cuộc họp vào thứ năm.

William không biết đến số báo ngày mai sẽ có ý kiến của ai. và có lẽ bây giờ có thể hỏi ra số báo ngày mai được rồi. Cả buổi sáng, anh tìm hiểu về chuyện đó ở những nơi có liên quan đến ngân hàng Lester. Anh bỏ cả bữa cơm trưa nhưng vẫn có thời giờ đến nhà hàng Schwarz mua chiếc găng dã cầu cho con trai.

Đến hai giờ ba mươi, anh đi taxi đến ngân hàng ở phố Wall và tới đó mấy phút trước ba giờ. Người gác cửa trẻ tuổi hỏi anh có hẹn để gặp ai không.

Tôi là William Kane.

– Thưa vâng, chắc ông muốn lên ban giám đốc.

Trời ơi, William nghĩ bụng, mình cũng không nhớ là phòng đó ở đâu nữa.

Người gác cửa thấy anh có vẻ lúng túng – Ông theo hành lang phía bên trái, thưa ông, rồi vào cửa thứ hai bên phải.

Cảm ơn. – Wìlliam nói, rồi đàng hoàng đi xuống dưới hành lang. Lúc đó, anh nghĩ cái thành ngữ “bụng phập phồng” là ngớ ngẩn. Đúng ra, anh cảm thấy tim mình đập mạnh hơn cả chiếc đồng hồ treo ở trước sảnh, và nghe nó đánh ba tiếng chuông, anh chả ngạc nhiên tí nào.

Ted Leach đứng một mình ở cửa ra vào phòng giám đốc – Sẽ có rắc rối đây, – Ông ta vừa mở miệng đã nói thế.

Tốt, – William nói. – Đó chính là cái mà Charles Lester rất thích và đối diện ngay với nó.

William bước thẳng vào căn phòng đồ sộ chung quanh tường lát gỗ sồi và anh cũng không cần đếm xem tất cả các giám đốc đều có mặt ở đó không. Đây sẽ không phải là một trong những cuộc họp giám đốc bình thường mà anh nào dám vắng mặt được. Thấy William bước vào, họ đã ngừng nói chuyện ngay và mọi người đứng quanh đó im lặng nhìn anh, một cái im lặng nặng nề. William ngồi ngay vào ghế chủ tịch ở đầu chiếc bàn dài bằng gỗ đen trước khi Peter Parfltt kịp hiểu ra đầu đuôi.

Mời các vị ngồi, – William nói, giọng chắc nịch.

Ted Leach và một số giám đốc ngồi vào chỗ ngay, còn một số khác đang có vẻ lừng chừng. Có tiếng rì rầm trong đám họ William có thể thấy hai giám đốc mà anh không biết là ai sắp sửa đứng dậy ngắt lời anh.

Trước khi ai phát biểu gì, xin cho phép tôi được mở đầu vài lời, rồi sau đó các vị sẽ quyết định muốn thế nào thì tùy. Tôi nghĩ đó là điều tối thiểu chúng ta có thể làm để tuân theo những điều mong muốn của cố chủ tịch Charles Lester.

Hai người kia ngồi xuống.

Cảm ơn các vị. Để mở đầu, tôi muốn nói rõ với tất cả các vị có mặt ở đây là tôi hoàn toàn không có ý muốn làm chủ tịch ngân hàng này. – William ngừng lại một chút để câu đó phát huy hiệu lực – Trừ phi đó là điều mong muốn của đa số các vị giám đốc.

Lúc này mọi con mắt đều hướng hẳn vào William.

Thưa các vị, hiện nay tôi là phó chủ tịch ngân hàng Kane và Cabot, và tôi có 51 phần trăm cồ phiếu trong đó. Kane và Cabot là do ông nội tôi lập nên và tôi nghĩ tuy quy mô không lớn bằng Lester nhưng tiếng tăm thì cũng là ngang hàng. Nếu như tôi có phải rời Boston về New York để trở thành chủ tịch tương lai của Lester theo đúng như điều mong muốn của Charles Lester, thì cũng xin nói với các vị là điều đó không dễ cho riêng tôi cũng như cho gia đình tôi.

Tuy nhiên, vì đây là mong muốn của Charles Lester, ông muốn tôi thực hiện điều

đó – Ông không phải là một người mỗi khi đưa ra ý kiến gì mà không cân nhắc kỹ càng nên, thưa các vị, tôi buộc cũng phải coi trọng những điều mong muốn ấy của ông. Tôi cũng muốn nói thêm rằng con trai ông, Matthew Lester, đã từng là bạn thân nhất của tôi trong hơn mười lăm năm, và tôi cho rằng thật là bi thảm vì đây lại là tôi, chứ không phải anh ấy, là người nói với các vị hôm nay với tư cách chủ tịch được chỉ định.

Một số giám đốc gật đầu tán thưởng.

Thưa các vị, nếu tôi may mắn có được sự ủng hộ của các vị hôm nay, tôi sẽ hy sinh tất cả những gì tôi có ở Boston để có thể phục vụ các vị. Tôi nghĩ là không cần thiết phải trình bày chi tiết với các vị về kinh nghiệm ngân hàng của tôi làm gì. Tôi chỉ cho rằng bất cứ vị giám đốc nào có mặt đã từng đọc qua di chúc của Charles Lester ắt sẽ suy nghĩ tại sao ông lại chọn tôi làm người kế vị. Bản thân ông chủ tịch của ngân hàng tôi, Anthony Simmons, người mà nhiều vị đã biết, cũng yêu cầu tôi ở lại với Kane và Cabot.

Hôm qua tôi đã định báo cho ông Parfitt về quyết định cuối cùng của tôi, giá như ông gọi cho tôi để tìm hiểu việc đó. Tôi đã có vinh hạnh được cùng ăn với ông bà Parfitt tại nhà tuần trước, và ông Parfltt có nói với tôi là ông không quan tâm gì đến chuyện trở thành chủ tịch ngân hàng này. Theo ông nói thì người đối thủ với tôi ở đây là ông Edward Leach, tức là một phó chủ tịch khác. Sau đó tôi có tham vấn với ông Leach thì lại được ông cho biết là ông ủng hộ tôi làm chủ tịch. Từ đó, tôi có thể rút ra kết luận là cả hai vị phó chủ tịch đều ủng hộ tôi. Sau khi đọc tờ Nhật báo phố Wall số ra sáng nay, – Và đọc không phải vì tôi tin ở những dự đoán của họ kể từ hồi tôi tám tuổi đã biết đến tờ báo này – (có vài tiếng cười), thì tôi cảm thấy mình phải dự cuộc họp hôm nay để tự đảm bảo với mình rằng tôi không hề mất sự ủng hộ của hai vị chủ tịch, và để thấy rằng dự đoán của tờ báo là không đúng. Ông Leach triệu tập cuộc họp này và đến đây tôi xin hỏi ông một lần nữa rằng ông còn ủng hộ tôi kế vị Charles Lester làm chủ tịch ngân hàng hay không?

Willỉam nhìn về phía Ted Leach, lúc đó đang cúi đầu Ai cũng có thể cảm thấy như chờ đợi lời phán xét cuối cùng của ông ta. Nếu ông ta chống lại thì coi như phái Parfitt có thể nuốt sống phái ủng hộ anh.

Ted Leach từ từ ngửng đầu lên nói:

Tôi hoàn toàn ủng hộ Ông Kane.

William lại nhìn thẳng vào Peter Parfitt. Ông ta toát mồ hôi, và trong khi nói ông ta không rời mắt khỏi chiếc cặp giấy màu vàng để trước mặt.

Một số vị trong ban giám đốc cho rằng tôi nên tranh cử… – Ông ta nói.

Vậy là ông đã thay đôi ý kiến về chuyện ủng hộ tôi và làm theo điều mong muốn của Charles Lester ?

William ngắt lời trong giọng nói hơi có chút ngạc nhiên.

Peter Parfitt hơi ngẩng đầu lên.

Vấn đề không đơn giản như vậy, ông Kane.

Xin ông nói có hay không thôi, ông Parfitt.

Vâng, tôi sẽ đứng ra chống lại ông, – Peter Parfitt dằn giọng.

Mặc dầu tuần trước ông đã nói với tôi là không quan tâm đến chuyện làm chủ tịch?

Tôi muốn có thể nói lên được lập trường riêng của tôi, – Parfitt nói. – Tôi e rằng ông khẳng định hơi quá nhiều. Đây chưa phải là phòng giám đốc của riêng ông, ông Kane.

Vâng, tất nhiên, ông Parfitt.

Cho đến lúc này, cuộc họp đã diễn ra đúng như William dự kiến. Bài phát biểu của anh đã được chuẩn bị rất kỹ và nói ra một cách đàng hoàng. Peter Parfitt bây giờ đang
cái thế không thuận lợi vì đã mất chủ động, đó là chưa nói đến chuyện ông bị công khai coi là một kẻ lừa dối.

Thưa các vị, – Ông ta chầm chậm nói như đang tìm lời lẽ phát biểu. Các con mắt đang từ chỗ nhìn William bây giờ lại hướng vào Parfitt. Như vậy cũng khiến cho Wilham được nghỉ ngơi một chút và có thể quan sát vẻ mặt của các giám đốc khác.

Nhiều vị trong ban giám đốc có gặp riêng tôi sau khi tôi mời ông Kane ăn tối. Và tôi cảm thấy bổn phận của mình là phải tôn trọng những mong muốn của họ và đứng ra tranh cử. Tôi chưa hề bao giờ có ý muốn chống lại những mong muốn của ông Charles Lester, một người mà tôi luôn luôn khâm phục và kính trọng. Cố nhiên, lẽ ra tôi phải báo cho ông Kane biết về ý định của tôi trước cuộc họp ban giám đốc dự định vào ngày mai, nhưng tôi phải thú thật là tôi bị bất ngờ với những sự việc diễn ra hôm nay. – Ông ta hít một hơi dài rồi nói tiếp. – Tôi đã phục vụ ngân hàng Lester hai mươi hai năm, trong đó sáu năm làm phó chủ tịch của các vị. Do đó tôi cảm thấy mình có quyền được xét đến làm chủ tịch. Tôi sẽ rất sung sướng nếu có ông Kane tham gia ban giám đốc, nhưng bây giờ tôi thấy mình không thể ủng hộ việc ông làm chủ tịch được. Tôi hy vọng các vị giám đốc thấy nên ủng hộ người nào đã phục vụ ngân hàng này trên hai mươi năm hơn là bầu cho một người ngoài mà ta không biết và chỉ vì thương xót một người đau khổ về cái chết của đứa con trai duy nhất của mình. Xin cảm ơn các vị.

ông ta ngồi xuống.

Nếu là bình thường thì William cũng có thể bị những lời phát biểu của ông ta tác động rồi. Nhưng Parfitt lại không có được những lời khuyên khôn ngoan của ông Chen về quyền lực của lời nói cuối cùng trong một cuộc tranh chấp gay go. William lại đứng dậy.

Thưa các vị, ông Parfitt có nói rằng các vị không được biết gì về tôi. Do đó, tôi muốn rằng không còn vị nào ngờ vực gì nữa về chuyện tôi là ai, và là người như thế

nào. Như tôi đã nói, tôi là cháu nội và là con đẻ của những nhà ngân hàng. Bản thân tôi đã suốt đời làm ngân hàng, và sẽ không trung thực nếu tôi nói rằng mình không thích gì nếu làm chủ tịch tương lai của ngân hàng Lester. Ngược lại, sau khi các vị đã nghe hết những điều đã nói hôm nay rồi mà vẫn quyết định ủng hộ Ông Parfitt làm chủ tịch, thì đành vậy Tôi vẫn trở về Boston và phục vụ cho ngân hàng của tôi một cách rất sung sướng. Hơn nữa, tôi sẽ công khai tuyên bố cho mọi người biết rằng tôi không hề có ý mong muốn làm chủ ngân hàng Lester, và như vậy các vị có thể yên trí không bị ai cho là mình không muốn thực hiện những điều nêu ra trong di chúc của Charles Lester.

Tuy nhiên, cũng không thể nào có chuyện tôi sẽ phục vụ trong ban giám đốc này dưới quyền ông Parfitt. Về điểm này, tôi xin được nói thẳng ra với các vị như vậy. Tôi đến đây với các vị trong cái thế bất lợi, như ông Parfitt đã nói đó, là một người ngoài không ai biết. Tuy vậy, tôi lại có cái lợi thế là được sự ủng hộ của một người không thể có mặt ngày hôm nay được Một người mà tất cả các vị đều kính trọng và khâm phục, một người mà ai cũng biết là không bị lay chuyển bằng những cảm xúc và cũng không hề có những quyết định vội vã. Do đó tôi đề nghị ban giám đốc này không nên mất thời gian quý báu của mình vào việc quyết định xem ai sẽ là chủ tịch tương lai của Lester. Nếu như bất cứ ai trong các vị còn hoài nghi trong đầu về khả năng của tôi quản lý ngân hàng này, thì tôi chỉ biết đề nghị người đó cứ bầu cho Parfitt. Bản thân tôi, thưa các vị, sẽ không bỏ phiếu trong cuộc bầu này, và tôi cho rằng ông Parfitt cũng sẽ làm như vậy.

Ông không thể bầu được. – Peter parfitt tức giận nói. – Ông chưa là thành viên của ban giám đốc này. Nhưng tôi là thành viên, tôi sẽ bầu.

Thì tùy ông, ông Parfitt. Chẳng ai có thể nói là ông không có cơ hội giành được từng phiếu bầu ở đây.

William chờ cho những lời nói của anh đủ ngấm vào tai mọi người, rồi khi thấy một giám đốc mà anh không biết định ngắt lời, anh nói tiếp:

Tôi sẽ yêu cầu ông Rodgers với tư cách là bí thư đứng ra thực hiện thủ tục bầu bán, và sau khi các vị đã bầu rồi thì xin đưa phiếu bầu lại cho ông Rodgers.

Trong suốt cuộc họp, chiếc kính một mắt của Alfred Rodgers thỉnh thoảng lại nhô ra. Ông ta đưa những phiếu bầu cho từng giám đốc. Viết xong tên ứng cử viên rồi, họ đưa lại cho ông.

Trong những điều kiện lúc này, thưa ông Rodgers, có lẽ thận trọng hơn cả là mỗi phiếu sẽ được đọc to lên để tránh sai lầm không cần thiết có thể đưa đến chỗ phải bầu lại.

Nhất định thế rồi, ông Kane.

Như vậy có được ông đồng ý không, thưa ông Parfitt?

Peter Parfitt gật đầu không nhìn lên.

Cảm ơn ông. Có lẽ xin ông Rodgers đọc to lên cho cả ban giám đốc cùng nghe.

ông bí thư mở phiếu đầu tiên.

Parfitt.

Rồi phiếu thứ hai.

– Parfitt, – Ông ta nhắc lại.

Canh bạc bây giờ không còn nằm trong tay William nữa. Tất cả những năm chờ đợi để có được phần thưởng mà anh đã nói với Charles Lester từ lâu sẽ kết thúc trong giây lát sau đây.

– Kane. Parfitt. Kane.

Ba phiếu trên hai tay của anh. Liệu anh có gặp lại số phận trong cuộc đấu với Tony Simmons trước đây không?

Kane. Kane. Parfitt.

Bốn đều. Anh có thể trông thấy Parfitt toát mồ hôi trên mặt, nhưng bản thân anh cũng chẳng cảm thấy dễ chịu gì.

Parfitt.

Trên mặt William không biểu hiện gì. Parfitt hơi mỉm cười.

Năm phiếu trên bốn.

Kane. Kane. Kane. Nụ cười biến mất.
Hai phiếu nữa, hai phiếu nữa thôi. William nhủ thầm. Anh suýt bật thành tiếng. Parfitt. Parfitt..

ông bí thư để khá lâu mới mở xong một lá phiếu mà người nào đó đã gấp lại nhiều

lần.

Kane. – Tám phiếu trên bảy, nghiêng về phía William.

Lá phiếu cuối cùng bây giờ đã được mở. Willam nhìn vào cặp môi Alfred Rodgers. Ông Bí thư nhìn lên. Trong khoảnh khắc này, ông ta là người quan trọng nhất trong phòng.

Kane. – Parfitt gục đầu vào hai tay.

Thưa các vị, kết quả là chín phiếu bầu cho ông William Kane, bẩy phiếu cho ông Peter Parfitt. Tôi xin tuyên bố ông William Kane là người được chính thức bầu làm chủ tịch ngân hàng Lester.

Trong phòng im lặng một cách nghiêm trang:

Mọi cái đầu trừ đầu của Pẹter Parfitt, quay về phía Wilham chờ xem ông chủ tịch mới nói gì.

William hít một hơi dài và lại đứng dậy, lần này là đứng dậy để nói với ban giám đốc của anh.

Xin cảm ơn các vị về sự tin cậy của các vị đã đặt vào tôi. Mong muốn của Charles Lester là tôi sẽ làm chủ tịch kế vị, và bây giờ tôi rất sung sướng được các vị

khẳng định mong muốn đó bằng lá phiếu của mình.

Tôi sẽ phục vụ ngân hàng này bằng tất cả những khả năng tôi có được, và tôi cũng sẽ không thể thực hiện được điều đó nếu không có sự ủng hộ nhiệt tình của ban giám đốc. Tôi mong rằng ông Parfitt….

Peter Parfitt nhìn lên với một chút hy vọng.

Sẽ cho tôi được gặp ở phòng chủ tịch sau đây ít phút, tôi sẽ rất cảm ơn. Sau khi gặp ông Parfitt, tôi xin gặp ông Leach. Thưa các vị, tôi hy vọng trong ngày mai sẽ có dịp được gặp từng người trong tất cả các vị Cuộc họp ban giám đốc lần tới sẽ là cuộc họp hàng tháng. Cuộc họp này đến đây là kết thúc.

Các giám đốc lục tục đứng dậy và nói chuyện với nhau. William bước vội ra hành lang, tránh cái nhìn của Peter Parfitt. Ted Leach bước ra theo và chỉ cho anh phòng làm việc của chủ tịch.

Ông đã làm một việc rất mạo hiểm, – Ted Leach nói, – May mà ông thắng. Nếu không được bầu thì ông sẽ làm gì?

Trở về Boston, – Wilham thản nhiên đáp.

Ted Leach mở cửa phòng chủ tịch cho William. Căn phòng vẫn đúng như anh nhớ, có lẽ hình như hồi anh còn là học sinh trung học và đến đây bảo với Charles Lester là một ngày kia anh sẽ quản lý ngân hàng này thì lúc đó nó to rộng hơn. Anh nhìn lên bức chân dung của ông chủ tịch cũ treo ở phía sau bàn giấy và nháy mắt với ông. Rồi anh ngồi xuống chiếc ghế da đỏ rất to chống khuỷu tay lên mặt bàn gỗ màu đen. Anh rút trong túi ra cuốn sổ nhỏ có bìa bọc da để xuống trước mặt. Vừa lúc đó có tiếng gõ cửa. Một người đã nhiều tuổi bước vào, chống tay lên một cây gậy đen bịt bạc ở đầu. Ted Leach bỏ ra ngoài.

Tên tôi là Rupert Cork-smith, – Ông ta nói, giọng nói hơi có chút ngữ điệu Anh. William đứng dậy chào ông ta. Ông ta là thành viên già nhất trong ban giám đốc.

Tóc đã bạc, tóc mai dài và chiếc đồng hồ vàng đều là biểu hiện của thời xưa nhưng ông nổi tiếng là người liêm khiết trong giới ngân hàng. Không ai cần phải ký hợp đồng gì với Rupert Cork-smith, vì lời nói của ông đủ đảm bảo rồi.

ông nhìn thẳng vào mắt William.

Tôi đã bỏ phiếu chống lại ông, thưa ông, và cố nhiên ông có thể thấy đơn từ chức của tôi trên bàn giấy này trong vòng một giờ nữa.

Xin mời ông ngồi xuống đã, – Wiìliam nhẹ nhàng nói.

Cảm ơn ông, – Ông ta đáp.

Tôi đoán ông có quen biết bố tôi và ông tôi.

Tôi có vinh dự đó. Ông nội ông với tôi cùng học ở Harvard và tôi vẫn còn nhớ lại với một niềm thương tiếc cái chết bi thảm của cha ông.

– Còn Charles Lester? – William hỏi.

Là bạn thân nhất của tôi. Những điều nói trong di chúc của ông ta vẫn ám ảnh

lương tâm của tôi. Ai cũng biết rằng sự lựa chọn của tôi lẽ ra không phải là Peter Parfitt. Tôi thì tôi muốn Ted Leach làm chủ tịch. Nhưng đời tôi chưa bao giờ bỏ phiếu trắng cho bất cứ gì, vì vậy tôi thấy mình phải ủng hộ ứng cử viên nào đối lập với ông, vì tôi nghĩ không thể nào lại bỏ phiếu cho một người tôi chưa được gặp bao giờ.
Tôi khâm phục sự thẳng thắn của ông, ông Cork-smith, nhưng bây giờ tôi có nhiệm vụ phải quản lý một ngân hàng. Lúc này tôi cần đến ông hơn là ông cần đến tôi, vì vậy, là một người còn trẻ hơn, tôi xin ông đừng từ chức.

ông già ngẩng đầu lên nhìn William.

Tôi không chắc có thể như vậy. Tôi không thể chỉ qua một đêm là thay đổi thái độ của mình được, – Cork-smith nói, hai tay để lên đầu gậy.

ông hãy cho tôi sáu tháng, và nếu như lúc đó ông còn thấy như vậy thì tôi cũng không dám đấu tranh gì với ông nữa.

Hai người im lặng một lát, rồi Cork-smith lại nói:

Charles Lester nói đúng, ông thật là con của Richard Kane.

Ông sẽ tiếp tục làm việc cho ngân hàng này chứ, thưa ông?

Tôi đồng ý. Ông biết đấy, chẳng có anh ngốc nào bằng anh ngốc già.

Rupert Cork-smith chống gậy từ từ đứng dây. William bước đến đỡ nhưng ông ta gạt ra.

Chúc anh bạn trẻ may mắn. Anh có thể trông vào sự ủng hộ hoàn toàn của tôi.

Xin cảm ơn ông, – William nói.

Lúc mở cửa, William trông thấy Peter Parfitt đã đang chờ ở ngoài hành lang.

Rupert Cork-smith đã đi rồi, nhưng hai người chưa nói gì với nhau.

Peter Parfitt vừa bước vào đã nói ngay.

Tôi đánh liều thế là thua rồi. Chả biết làm thế nào hơn được, – Ông ta cười. – Ông không giận gì chứ, Bill? – Ông ta giơ tay ra bắt.

Không giận gì đâu, ông Parfitt. Ông vừa nói đúng đấy ông đánh liều và ông thua rồi. Bây giờ thì ông hãy từ chức khỏi ngân hàng này đi.

Sao cơ ? – Parfitt hỏi.

Từ chức, – William nói.

Thế thì hơi tệ đấy, phải không Bill? Hành động của tôi không cá nhân tí nào. Tôi chỉ đơn giản cảm thấy rằng…

Tôi không muốn có ông trong ngân hàng này của tôi nữa, ông Parfitt. Ngay đêm nay ông phải đi cho, và đừng bao giờ quay lại nữa.

Nếu tôi bảo là không đì thì sao? Tôi có nhiều cổ phiếu trong ngân hàng và còn được rất nhiều sự ủng hộ của ban giám đốc. Hơn thế nữa, tôi còn có thể kiện ông được.

Vậy tôi khuyên ông nên đọc kỹ nội quy của ngân hàng, ông Parfitt, tôi cũng đã nghiên cứu nó sáng nay rồi.

William nhặt cuốn sổ bìa da ở bàn lên và giở qua mấy trang. Tìm đến một chương anh đã đánh dấu từ sáng, anh đọc to:

Chủ tịch có quyền gạt bỏ bất cứ người nào không còn tin được nữa. – Anh nhìn lên. – Tôi không còn tin được ông nữa, ông Parfitt, do đó ông phải từ chức và nhận hai năm lương. Nếu ngược lại ông buộc tôi phải gạt bỏ ông, thì tôi đành phải để ông rời khỏi ngân hàng với cổ phiếu của ông thôi, ngoài ra không còn gì khác nữa. Tùy ông chọn.

Ông không để cho tôi có cơ hội nào ư?

Tôi đã cho ông một cơ hội trong bữa ăn tối ở nhà ông tuần trước, nhưng ông đã nói dối và lừa đảo. Đó không phải là những nét tôi muốn có trong những người phó chủ tịch sau này của tôi. Vậy ông muốn từ chức hay để tôi phải đuổi ông đi, ông Parfitt?

Khốn kiếp, Kane. Thôi được, tôi từ chức.

Vậy là tốt ông ngồi xuống đây và viết ngay đơn từ chức đi.

Không ! sáng mai lúc nào tiện tôi sẽ viết và đưa cho anh. – Ông ta nói rồi định bước ra cửa.

Viết ngay bây giờ, không thì tôi đuổi ông. – William nói.

Peter Parfitt ngập ngừng một chút rồi quay lại ngồi phịch xuống chiếc ghế bên cạnh bàn giấy của William.

William đưa cho ông ta tờ giấy của ngân hàng và một cây bút. Parafitt rút bút riêng của ông ta ra và bắt đầu viết đơn Viết xong, William cầm lấy xem cẩn thận.

– Thôi chào ông Parfitt.

Peter Parfitt bỏ ra không nói một lời. Vài lát sau Ted Leach bước vào.

Ông muốn gặp tôi chứ, ông chủ tịch – Vâng, – William nói. – Tôi muốn chỉ định ông làm phó chủ tịch toàn diện của ngân hàng. Ông Parfitt cảm thấy ông ấy phải từ chức.

Ồ tôi lấy làm lạ đấy, tôi tưởng ông tạ….

William đưa lá đơn cho ông xem. Ted Leach đọc rồi nhìn William.

Tôi sẽ lấy làm sung sướng được là phó chủ tịch toàn diện. Cảm ơn ông đã tin cậy.

Tốt rồi. Tôi nhờ ông trong hai ngày tới thu xếp cho tôi được gặp từng giám đốc một. Tôi sẽ bắt đầu làm việc từ tám giờ sáng mai.

Vâng, thưa ông Kane.

Có lẽ cũng nhờ ông đưa lá đơn từ chức này của ông Parfitt đến bí thư công ty.

Tùy ông, thưa ông chủ tịch.

Tên tôi là William. Ông Parfitt cũng đã mắc sai lầm về chuyện này.

Ted Leach mỉm cười dè dặt.

– Vâng, sáng mai sẽ gặp lại ông, William.

ông ta đi rồi, William ngồi xuống chiếc ghế của Charles Lester và quay tít một hồi

đến chóng mặt. Rồi anh nhìn ra ngoài cửa sổ, nhìn xuống phố Wall, nhìn đám người đi lại tấp nập, nhìn ra những nhà ngân hàng và các cơ quan đại lý của nước Mỹ với một niềm vui khó tả. Từ nay anh là một phần của tất cả những cái đó – Xin hỏi, ông là ai, thưa ông? – Một giọng đàn bà vang lên phía sau lưng anh.

William quay ghế lại thấy một người đàn bà cỡ trung niên, ăn mặc cổ lỗ, nhìn anh với một vẻ giận dữ.

Có lẽ tôi cũng muốn hỏi bà như vậy, – William nói.

Tôi là thư ký của ông chủ tịch, – Người đàn bà cứng cỏi đáp.

Còn tôi, – William nói, – Là chủ tịch.

****** Mấy tuần sau đó, Wilìiam chuyển gia đình về New York, kiếm được một ngôi nhà bốn tầng ở phía Đông đường 68. Ngôi nhà có đủ mọi thứ Kate cần đến, kể cả một mảnh vườn ở phía sau. Nhưng ở được đâu ra đấy còn mất lâu thời gian hơn họ tưởng. Trong ba tháng đầu William cố gắng bứt hẳn ra khỏi Boston để làm nhiệm vụ của mình ở New York. Anh muốn tập trung mỗi ngày đêm, mong cho nó dài hơn hai mươi bốn tiếng đề có thề dồn sức vào đây được, nhưng rồi anh vẫn thấy khó có thể cắt đứt quan hệ với ngân hàng cũ. Tong Simmons giúp đỡ anh rất nhiều, và bây giờ William mới thấy tại sao Alan Lioyd lại chủ trương ủng hộ Ông ta làm chủ tịch ngân hàng Kane và Cabot. Lần đầu tiên anh phải thừa nhận Alan đã làm đúng.

Cuộc sống của Kate ở New York chẳng mấy chốc trở thành bận rộn. Virginia đã có thể bò quanh phòng và bò cả vào thư viện của William. Richard muốn có chiếc áo gió như mọi chú bé khác ở New York. Với tư cách là vợ của một chủ tịch ngân hàng ở New York, Kate phải thường xuyên tổ chức nhiều tiệc tùng chiêu đãi phải làm sao cho các giám đốc và khách hàng chủ yếu được có cơ hội gặp riêng và trao đổi với William.

Kate đã giải quyết mọi tình hình liên quan với một vẻ duyên dáng lịch sự, còn Willlam thì cũng rất cảm ơn ngân hàng Kane và Cabot đã giúp chuyển cho anh phần tài sản lớn nhất. Khi Kate báo cho William biết là chị lại sắp đẻ nữa, anh chỉ biết hỏi:

thế à, vậy mà anh không biết. Virgima thì rất thích, mặc dù không hiểu tại sao mẹ lại béo ra thế, Richard không cần biết gì hết.

Trong vòng sáu tháng, cuộc xung đột với Peter Parfitt đã trở thành chuyện quá khứ, và William thì đã làm một chủ tịch không ai chối cãi nổi của ngân hàng Lester, một nhân vật mà giới tài chính ở New York phải tính đến. Cứ ít tháng William lại xem lại tình hình và tính chuyện thay đổi hướng làm ăn để đạt mục tiêu mới. Anh đã thực hiện được tham vọng của đời mình là trở thành chủ ngân hàng Lester vào tuổi ba mươi, mặc dầu vậy anh vẫn cảm thấy còn nhiều giang sơn khác phải chiếm lĩnh, chưa thể thỏa mãn mà ngồi đó mơ mộng được.

Kate đẻ đứa con thứ ba vào cuối năm đầu tiên William làm chủ tịch Lester. Đó là một đứa con gái nữa, được đặt tên là Lucy. Virgima bây giờ đã biết đi. William dạy nó ru Lucy nằm trong nôi. Richard đã gần sáu tuổi và sắp phải vào trường tiểu học

Buckley.

Chú tranh thủ dịp này đòi bố mua cho chiếc gậy dã cầu mới. Lucy đã biết nắm được vào tay bố.

Trong năm đầu William làm chủ tịch, lợi nhuận của ngân hàng Lester đã tăng lên chút ít. Anh dự đoán năm thứ hai sẽ thu được nhiều hơn.

***** Ngày 1 tháng Chín năm 1939, Hitler tiến quân vào Ba lan.

Một trong những phản ứng đầu tiên của William là nghĩ đến Abel Rosnovski và khách sạn Nam tước mới của ông ta trên Đại lộ công viên, lúc này đã rất nổi tiếng ở New York. Báo cáo hàng quý của Thomas Cohen gửi đến cho thấy Rosnovski ngày càng mạnh lên, tuy cái ý muốn mở rộng cơ nghiệp sang châu âu lúc này có thể hãy tạm đình lại đã. Cohen vẫn chưa tìm ra mối quan hệ trực tiếp nào giữa Henry osbome với Abel Rosnovski, tuy ông phải thừa nhận rằng càng ngày càng khó có thể khẳng định được những gì William yêu cầu.

Wilham chưa bao giờ nghĩ rằng nước Mỹ sẽ dính líu đến một cuộc chiến tranh nữa

châu âu, nhưng anh vẫn để ngỏ chi nhánh ngân hàng Lester ở Lon don để tỏ cho thấy anh đứng về phía nào, và anh cũng không hề nghĩ đến chuyện bán mười hai nghìn mẫu đất ở Hampshire và Lincolnshire. Trái lại, từ Boston, Tony Simmons báo cho William biết ông có ý muốn đóng cửa chi nhánh ngân hàng Kane và Cabot ở London. William lấy cớ vì có những vấn đề do chiến tranh gây ra ở London nên cần trở về Boston gặp Tony.

Hai ông chủ tịch bây giờ gặp nhau rất thân mật và thoải mái vì họ chẳng còn có lý do gì mà đối chọi nhau nữa. Thực ra, họ đều muốn tranh thủ lẫn nhau để có được những cơ hội làm ăn mới. Như Tony đã dự đoán trước, ngân hàng Kane và Cabot đã mất đi một số khách hàng quan trọng từ khi Wiìliam làm chủ tịch Lester. Tuy nhiên, William bao giờ cũng báo cho Tony biết mỗi khi có một khách hàng cũ muốn chuyển tài khoản, mà anh thì anh không mong như vậy. Ngồi ăn với nhau ở một cái bàn góc phòng nhà hàng Locke-ober, Tony Simmons lại nhắc lại ý kiến của ông ta muốn đóng cửa chi nhánh ngân hàng Kane và Cabot ở London.

Lý do của tôi rất đơn giản, – Ông ta nhấp rượu và nói.

thứ rượu nho nhập từ Pháp rất ngon nhưng ông không tỏ vẻ quan tâm gì đến chuyện những gót giầy của quân Đức sắp sửa giẫm nát các vườn nho trên đất Pháp. – Tôi nghĩ ngân hàng sẽ mất thêm tiền nếu chúng ta không rút ra khỏi Anh.

Tất nhiên, ông sẽ mất đi một ít tiền đấy, Wilham nói, – Nhưng chúng ta phải ủng hộ người Anh.

Sao thế – Tony hỏi. – Chúng ta làm ngân hàng, chứ có phải là câu lạc bộ những người đi ủng hộ đâu.

Nước Anh không phải là một đội dã cầu, Tony ạ. Đó là cả một quốc gia dân tộc mà tất cả di sản chúng ta có được là nhờ ở họ….

Giá anh làm chính trị thì đúng hơn, – Tony nói. – Tài năng của anh bị phí phạm vào ngân hàng mất rồi.
Tuy nhiên, còn có một lý do quan trọng hơn nữa để chúng tôi phải đóng cửa chi nhánh ngân hàng. Nếu Hitler tiến quân vào Anh như đã tiến quân vào Ba lan và vào Pháp – Mà tôi chắc chắn là y sẽ làm như vậy thì ngân hàng sẽ bị chiếm ngay và chúng tôi sẽ không còn một xu nào ở London nữa.

Nó không dám đâu, – William nói. – Nếu Hitler chỉ đặt một chân lên đất Anh thôi là Mỹ sẽ nhẩy vào chiến tranh liền.

Không bao giờ, – Tony nói. – FDR đã.tuyên bố ủng hộ mọi thứ trừ chiến tranh. Và dân Mỹ sẽ làm ầm lên cho mà coi.

Ông đừng có nghe các nhà chính trị, – William nói. – Nhất là Roosevelt. Khi ông ta nói “không bao giờ’ thì điều đó chỉ có nghĩa không phải là hôm nay, hoặc ít nhất không phải là sáng nay. Ông chỉ cần nhớ lại xem năm 1916 Wilson đã nói gì thôi.

Bao giờ thì anh ra ứng cử vào Thượng viện? – Tony cười.

Đó là câu hỏi mà tôi có thể trả lời chắc chắn là không bao giờ.

Tôi tôn trọng những tình cảm của anh, William, nhưng tôi muốn rút.

ông là chủ tịch, – William đáp. – Nếu ban giám đốc ủng hộ Ông, ông có thể đóng cửa chi nhánh Loi don ngay ngày mai, và tôi sẽ không bao giờ dùng địa vị của mình để chống lại đa số.

Đến khi nào anh nhập hai ngân hàng lại với nhau thì nó sẽ thành quyết định của

anh.

Tôi đã nói với ông rồi, Tony, khi nào ông còn là chủ tịch thì tôi sẽ không bao giờ có ý định làm thế.

Nhưng tôi nghĩ là chúng ta phải sáp nhập thôi.

Sao? – William làm bắn cả rượu nho ra khăn bàn vì anh không tin điều mình vừa nghe nói. – Trời đất ơi Tony, ông thật là người không ai có thể đoán trước được – Tất nhiên, tôi vẫn để lợi ích của ngân hàng lên trên hết, William. Anh thử nghĩ về tình hình hiện nay xem. Bây giờ New York là trung tâm tài chính của Mỹ hơn lúc nào hết, và nếu Anh rơi vào tay Hitler thì nó sẽ thành trung tâm tài chính của thế giới, mà Kane và Cabot thì phải cần vươn đến chỗ đó. Hơn nữa, nếu chúng ta sáp nhập lại với nhau thì có thể tạo ra được một thể chế hoàn chỉnh hơi, và những hiểu biết về chuyên môn của chúng ta sẽ bổ sung cho nhau. Kane và Cabot xưa nay vẫn làm nhiều về mặt hàng hải và công nghiệp nặng, trong khi đó Lester làm rất ít.

Ngược lại bên anh làm nhiều về cổ phiếu mà chúng tôi thì lại hầu như không đụng gì đến nó. Đó là chưa nói đến chuyện chúng ta có nhiều cơ quan không cần thiết ở các thành phố khác nữa.

Tony, tôi đồng ý với tất cả những gì ông vừa nói, nhưng tôi vẫn muốn ở lại Anh. Lại càng chứng minh điều tôi nói là đúng, William. Chi nhánh Kane và Cabot ở

London sẽ đóng cửa, nhưng chúng ta vẫn còn giữ Lester. Như vậy nếu London gặp khó khăn gì thì cũng không ngại lắm, vì chúng ta đã được củng cố mạnh hơn rồi.

Nhưng ông sẽ thấy thế nào nếu tôi nói rằng trong khi Roosevelt có quy định về ngân hàng thương mại chỉ được hoạt động trên phạm vi một bang, như vậy nếu sáp nhập thì chỉ được hoạt động ở New York thôi, bấy giờ Boston chỉ còn là một bàn giấy hình thức thì sao nhỉ?

Tôi sẽ ủng hộ anh, – Tony nói. – Anh có thể tính đến đi vào ngân hàng thương mại và bỏ quách hoạt động đầu tư đi.

Không đâu, Tony. Với FDR thì một người lương thiện không thể làm cả hai thứ một lúc được. Vả lại, bố tôi đã từng bảo hoặc là anh phục vụ cho một số ít người giàu hoặc anh phục vụ cho số đông người nghèo, không thể làm cho cả hai được, vì vậy Lester vẫn cứ tiếp tục là ngân hàng thương mại theo truyền thống của nó chừng nào tôi còn làm chủ tịch. Nhưng nếu chúng ta quyết định sáp nhập hai ngân hàng thì ông có thấy vấn đề gì khó khăn sẽ nảy sinh không ?

Hai bên cùng có thiện chí thì chả có khó khăn nào không vượt qua được. Nhưng anh cũng nêu suy nghĩ kỹ về hậu quả của nó nhé, William, vì như vậy anh sẽ chỉ là một cổ đông thiểu số trong ngân hàng mới nên không còn kiểm soát được toàn bộ nữa, và anh sẽ dễ bị thao túng đấy.

Tôi chỉ sợ lại phải làm chủ tịch của một trong những thể chế tài chính lớn nhất của nước Mỹ thôi.

Tối hôm đó William trở lại New York, trong lòng phấn khởi sau cuộc bàn luận với Tony. Anh triệu tập cuộc họp ban giám đốc Lester để trình bày cho họ nghe về đề nghị của Tony Simmons. Sau khi ban giám đốc chấp thuận về nguyên tắc việc sáp nhập, anh yêu cầu các giám đốc ngân hàng hãy xét kỹ thêm về chi tiết toàn bộ kế hoạch ấy.

Trưởng các bộ phận mất ba tháng mới trình bày lại được cho ban giám đốc và ai cũng đều đi đến kết luận giống nhau là việc sáp nhập chẳng qua chỉ là chuyện bình thường, vì hai ngân hàng có thể bổ sung cho nhau về nhiều mặt. Với nhiều văn phòng trên khắp đất Mỹ và các chi nhánh ở châu âu, hai ngân hàng có nhiều điểm có thể bồ trợ cho nhau được. Hơn nữa, chủ tịch ngân hàng Lester vẫn còn 51 phần trăm cổ phiếu trong Kane và Cabot nên việc sáp nhập càng tiện lợi.

Một số giám đốc của Lester không hiểu tại sao trước đây William không nghĩ đến điều đó. Ted Leach cho rằng có lẽ khi Charles Lester chỉ định William làm người kế vị thì ông ta đã nghĩ đến điều đó rồi.

Các chi tiết của việc sáp nhập phải mất gần một năm bàn đi tính lại mới xong, các luật gia phải làm việc đến khuya mới hoàn thành được giấy tờ. Sau khi hoán vị các cổ phiếu, hóa ra William lại là một cổ đông lớn nhất với 8 phần trăm tổng số tài khoản trong công ty mới, và lại được bầu làm chủ tịch và thống đốc ngân hàng. Tony

Simmons ở lại Boston làm phó chủ tịch và Ted Leach ở New York làm một phó chủ tịch khác. Ngân hàng thương mại mới được đặt tên lại là Lester, Kane và Công ty tuy người ta vẫn chỉ gọi đó là Lester thôi.

William quyết định tổ chức một cuộc họp báo ở New York để công bố việc sáp nhập hai ngân hàng. Anh chọn ngày thứ hai, mùng 8 tháng Chạp, năm 1941, để thông báo cho thế giới tài chính nói chung. Cuộc họp báo phải hủy bỏ vì sáng hôm trước, quân Nhật đã tiến công Trân Châu Cảng.

Thông báo được chuẩn bị trước đã gửi cho các báo rồi, nhưng các trang báo tài chính sáng ngày thứ ba chỉ đăng việc sáp nhập vào một chỗ nhỏ thôi, khiến William không lấy gì làm thích lắm.

Anh chưa tính được đến lúc nào anh sẽ nói với vợ về chuyện anh ghi tên vào quân đội, và nói như thế nào. Khi Kate được tin đó, chị hoảng hồn lo sợ và lập tức bảo anh rút lại quyết định ấy đi.

– Cái mà hàng triệu người khác không làm được thì anh tưởng anh làm được ư – Chị hỏi.

Anh cũng không chắc, – William nói. – Nhưng có thể tin chắc được một điều là anh phải làm điều gì mà bố anh và ông nội anh trong trường hợp này đều phải làm rồi.

Các cụ làm là vì lợi ích của ngân hàng chứ.

Không, – William nói. – Các cụ đã làm vì lợi ích cao nhất của nước Mỹ.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.