Hẳn Là Yêu

Chương 14



Khoảng nửa đêm, Gabrielle đẩy hết đống đồ lót mà Joe đã đổ ra trên chân của cô xuống sàn và bò vào giường. Cô nhắm mắt lại và cố không nghĩ đến cảnh anh đứng trong phòng cô, bờ vai rộng kéo căng cái áo phông đã cắt tay, một chiếc quần lót không đũng lủng lẳng trên ngón tay anh. Anh đúng là người tiền sử. Cơn ác mộng nhầm thời đại của một cô gái. Anh khiến cô tức giận hơn bất kì người đàn ông nào mà cô từng biết. Cô nên ghét anh. Thực sự nên. Anh lấy niềm tin của cô ra làm trò đùa và giờ là cả nghệ thuật của cô nữa, và vậy mà bất kể cô đã cố gắng thế nào, cô vẫn không thể không thích anh. Có gì đó ở anh, thứ gì đó kéo cô về phía anh như tín đồ sùng đạo hướng về Mecca. Cô không muốn đi theo, nhưng trái tim dường như không hề lắng nghe.

Nếu có một người nào đó trên hành tinh mà Gabrielle biết rõ cả trong lẫn ngoài thì đó chính là bản thân cô. Cô biết những gì tốt cho cô và cái gì thì không. Thi thoảng cô cũng sai, như khi cô nghĩ mình muốn trở thành một chuyên viên xoa bóp, để rồi khám phá ra rằng cô cần một lối thoát sáng tạo hơn. Hay khi cô đi học thuật phong thủy và học được rằng lập kế hoạch thiết kế một căn phòng để đạt được sự hòa bình và cân bằng hoàn hảo khiến cô bị đau đầu.

Như kết quả của những lối đi khác nhau mà cô đã đi trong đời, cô biết tí này tí nọ về rất nhiều thứ khác nhau. Vài người có thể lý giải điều đó và lông bông hoặc vô trách nhiệm, nhưng cô nhìn nó một cách khác hẳn – giống với việc sẵn sàng chịu mạo hiểm hơn. Cô không e dè thay đổi hướng đi giữa dòng. Cô sẵn sàng tiếp thu gần như tất cả mọi thứ. Ngoại trừ cái ý niệm rằng cô nên để trái tim mình dính líu tới Joe. Mối quan hệ tình cảm giữa họ sẽ không bao giờ có tiến triển. Họ quá khác biệt. Ngày và đêm. Cực dương và cực âm. Âm và dương.

Anh sẽ sớm ra đi, rời khỏi cuộc đời cô. Ý nghĩ không bao giờ nhìn thấy anh nữa đáng lẽ khiến cô hạnh phúc. Thay vào đó, nó khiến cô cảm thấy trống rỗng và khiến cô thao thức gần như cả đêm.

Sáng hôm sau cô chạy bộ hai dặm thường ngày trước khi trở về nhà và sẵn sàng làm việc. Sau khi tắm, cô mặc vào một cái quần lót trắng với các hình trái tim nhỏ và áo lót đồng bộ. Bộ này được làm tách biệt hẳn và là một trong số ít những món đồ từ cửa hàng của Francis mà Gabrielle thực sự mặc. Cô chải tóc cho hết rối, và trong lúc nó khô, cô trang điểm và đeo một đôi khuyên hột cườm dài lên tai.

Thứ Hai là ngày nghỉ của Kevin, và cô sẽ ở một mình với Joe cho đến trưa, khi Mara đến. Ý nghĩ dành thời gian riêng với anh khiến cô sợ hãi kể cả khi những cơn nhộn nhạo kích động run rẩy trong dạ dày cô. Cô tự hỏi anh có dành thời gian khám xét các tài liệu của Kevin lần nữa sau cánh cửa văn phòng đóng kín như anh đã làm tuần trước hay không. Hay họ sẽ nghĩ ra thứ gì đó cho anh dựng lại hoặc sửa chữa. Và cô tự hỏi anh có đeo cái thắt lưng đeo dụng cụ trễ trên hông nữa không.

Chuông cửa nhà Gabrielle reo lên, theo sau bởi một tiếng gõ nặng trịch mà cô nhận ra. Cô thọc tay vào cái áo choàng vải bông trắng và buộc dây lung lại khi đi ra cửa. Cô kéo tóc ra khỏi áo choàng và mở then cài cửa. Thay vì quần Jean và áo phông thường ngày, anh mặc một bộ vét màu xanh hải quân, áo sơ mi trắng phẳng phiu, và cà vạt màu xanh dương xen đỏ tía. Cặp kính râm gương che mắt anh lại, và anh cầm một cái túi từ cùng cửa hàng bán thức ăn trên đường Eighth nơi anh đã mua cho cô sandwich hôm thứ Sáu. Tay kia anh thọc vào túi quần trước. “Tôi mang đồ ăn sáng đến cho cô,” anh nói.

“Sao thế, anh cảm thấy tồi tệ về việc lấy tôi ra làm trò đùa tối hôm qua à?”

“Tôi chưa bao giờ lấy cô ra làm trò đùa,” anh nói với khuôn mặt hoàn toàn trung thực. “Cô có mời tôi vào không?”

“Trước đây anh chưa bao giờ hỏi cả.” Cô dịch sang bên để anh có thể đi vào, rồi đóng cửa lại sau lưng anh. “Anh cứ luôn xông thẳng vào.”

“Cửa nhà cô bị chặn lại mà.” Anh đặt cái túi giấy lên bàn trước mặt tràng kỉ và lôi ra hai chiếc bánh xốp và hai cốc cà phê. “Tôi hy vọng cô thích bánh pho mát kem,” anh nói khi với tay lên kính râm và nhét chúng vào túi trong của áo vét. Rồi anh ngước lên nhìn cô qua đôi mắt mệt mỏi và xê cái nắp nhựa ra khỏi cốc cà phê Styrofoam. “Đây.”

Gabrielle không thích cà phê, nhưng cô cũng nhận lấy nó. Anh đưa cô một cái bánh nướng và cô cũng nhận lấy. Lần đầu tiên kể từ khi mở cửa, cô mới chú ý đến sự căng thẳng đang ôm lấy hai khóe miệng anh. “Có gì không ổn à?”

“Cô nên ăn trước. Chúng ta sẽ nói chuyện trong mấy phút nữa.”

“Trước ư? Làm sao mà tôi có thể ăn được bây giờ?”

Anh trượt ánh mắt ngang miệng và cằm cô, rồi ngược lên mắt cô. “Đêm qua một tên buôn đồ nghệ thuật từ Portland đã liên lạc với Kevin. Tên hắn là William Stewart Shalcroft.”

“Tôi biết về William. Kevin từng làm việc cho anh.”

“Vẫn còn làm. Lúc ba giờ chiều nay, William Stewart Shalcroft sẽ đến trên chuyến bay Delta hai hai mươi thẳng từ Portland. Hắn và Kevin đã lên kế hoạch gặp mặt ở một ghế dài trên sân bay, đổi bức Hillard lấy tiền mặt, rồi tên Shalcorft định sẽ thuê một chiếc ô tô và lái xe về Portland. Hắn sẽ không bao giờ đến được quầy tính tiền của Hertz 1 đâu. Chúng tôi sẽ bắt cả hai tên ngay khi chúng thực hiện trao đổi.”

Gabrielle chớp mắt. “Anh đang đùa tôi phải không?”

“Tôi ước là thế, nhưng không đâu. Từ đêm xảy ra vụ trộm, Kevin đã có bức tranh trong tay rồi.”

Cô nghe anh nói. Lời lẽ của anh khá rõ ràng, dù vậy chúng vẫn thật khó hiểu. Cô không thể biết về Kevin nhiều năm đến thế mà lại vô cùng nhầm lẫn về anh ta đến vậy. “Phải có nhầm lẫn rồi.”

“Không nhầm đâu.”

Anh trông quá chắc chắn, nghe thật sắt đá, đến mức cảm giác nghi ngờ không chắc chắn đầu tiên đọng lại trong não cô. “Anh tuyệt đối chắc chắn à?”

“Chúng tôi đã đặt một máy nghe trộm vào điện thoại nhà của hắn, và chúng tôi đã ghi âm được hắn đang lập cuộc hẹn với Shalcroft.”

Cô nhìn Joe, nhìn sự kiệt sức và căng thẳng nặng nề trong đôi mắt nâu của anh. “Vậy là, tất cả là sự thực sao?”

“Tôi e là thế.”

Và lần đầu tiên kể từ khi anh còng tay cô và kéo cô vào nhà tù, cô cho phép bản thân mình tin anh. “Kevin đã ăn trộm bức Monet của ông Hillard sao?”

“Hắn đã kí kết với một kẻ nào đó làm kẻ trộm thực sự.”

“Ai?”

“Chúng tôi vẫn chưa biết.”

Cô bấu víu lấy câu trả lời đó. “Vậy không thể có khả năng rằng tên trộm ‘thực sự’ cũng là tên trộm duy nhất sao?”

“Không. Vụ trộm một món đồ nghệ thuật lớn như bức Monet cần thời gian để lên kế hoạch và cả một mạng lưới liên lạc ngầm thực hiện. Nó bắt đầu với một nhà sưu tập giàu có và tiếp tục đi xuống. Chúng tôi nghĩ chúng đã lên kế hoạch cho vụ trộm này ít nhất sáu tháng, và chúng tôi không tin rằng đây là lần đầu tiên và duy nhất Kevin cùng Shalcroft có dính líu với nhau. Chúng tôi tin rằng chúng vẫn tiến hành loại hoạt động này kể từ khi Kevin làm việc cho Shalcroft ở Portland.”

Tất cả mọi thứ Joe nói đều có thể, nhưng thật phi lý để tương thích với Kevin mà cô biết. “Sao anh ấy có thể dính líu vào một mớ khủng khiếp như thế này?”

“Tiền. Rất nhiều tiền.”

Gabrielle liếc cái bánh nướng xốp và cốc cà phê trong tay cô. Trong một khoảnh khắc bối rối, cô đã quên bẵng mất làm sao chúng lại có mặt ở đó. “Đây,” cô nói, đặt chúng lên bàn. “Tôi không đói.” Joe với lấy tay cô, nhưng cô tránh đi và chậm chạp lún xuống mép ghế. Cô ngồi với hai tay đặt trong lòng và nhìn chằm chằm sang bên kia phòng.

Tất cả mọi thứ trong nhà cô trông đều y nguyên như cách đây một giây. Đồng hồ trên mặt lò sưởi vẫn im lặng đánh dấu thời gian cùng lúc tủ lạnh vẫn kêu vo vo trong bếp. Một cái xe bán tải cũ đi qua nhà cô, một con chó sủa ăng ẳng đâu đó cuối đường. Những âm thanh hàng ngày bình thường, vậy mà giờ tất cả mọi thứ đã khác. Giờ đây cuộc sống của cô đã khác.

“Tôi đã để anh làm việc ở Anomaly vì tôi không tin anh,” cô nói. “Tôi cứ nghĩ anh sai rồi, và tôi đã xây nên cả một giấc mơ trong đầu khi anh phải đến bảo tôi rằng anh thấy rất hối tiếc r-rằng,” giọng cô vỡ vụn, và cô hắng giọng. Cô không muốn khóc lóc, tan nát, hay làm trò, nhưng cô dường như không có chút kiểm soát nào với những giọt nước mắt đang đong đầy mắt cô. Tầm nhìn cô mờ đi, dòng chữ in trên cốc cà phê nhòe ra và lẫn lộn vào nhau. “Rằng anh sẽ phải xin lỗi tôi vì đã bắt giam tôi ngày đó trong công viên, và vì bắt tôi phản bội Kevin. Nhưng anh lại không nhầm về Kevin.”

“Tôi rất tiếc.” Joe ngồi cạnh cô, chân tách rộng, và anh nắm lấy một bàn tay cô trong bàn tay ấm áp, to bè của anh. “Tôi rất tiếc vì một việc như vậy lại xảy ra với cô. Cô không đáng bị vướng vào một chuyện như thế này.”

“Tôi không hoàn hảo, nhưng tôi chưa bao giờ làm bất kì điều gì đáng phải nhận loại nghiệp chướng khủng khiếp này.” Cô lắc đầu, và một hạt lệ tràn xuống má tới một bên khóe miệng cô. “Sao tôi có thể mù quáng đến thế? Không phải có các dấu hiệu sao? Sao tôi lại có thể ngu ngốc đến thế? Làm sao tôi lại có thể không biết đối tác làm ăn của mình là một tên trộm cơ chứ?”

Anh siết tay cô. “Bởi vì cô không như tám mươi phần trăm dân số khác. Cô không nghi ngờ bất kì một người nào mình gặp có biểu hiện phạm tội. Cô không đi lung tung gặp ai cũng nghi ngờ.”

“Anh thế mà.”

“Bởi vì đó là công việc của tôi, và tôi phải xử lí hai mươi phần trăm những tên ngớ ngẩn chạy vòng vòng.” Anh xoa ngón tay cái trên các khớp mu bàn tay cô. “Tôi biết ngay lúc này cô chắc không thể thấy có gì tốt đẹp đến từ chuyện này, nhưng cô sẽ ổn thôi. Cô có một luật sư tinh khôn, người sẽ đảm bảo cô vẫn giữ được cửa hàng của mình.”

“Tôi không tin công việc kinh doanh của tôi có thể trụ nổi qua chuyện này.” Giọt lệ thứ hai trượt ra từ mắt cô, rồi giọt thứ ba. “Vụ trộm bức tranh này vẫn còn là tin nóng. Khi việc bắt bớ Kevin lên báo… tôi sẽ không bao giờ có thể hồi phục lại từ một chuyện như thế này.” Bằng bàn tự do, cô chùi nước mắt ra khỏi mặt. “Anomaly sụp đổ rồi.”

“Có thể không đâu,” anh nói, giọng nói trầm vang lên tự tin đến mức cô suýt thì tin anh.

Nhưng cả hai người đều biết việc kinh doanh của cô sẽ không bao giờ còn như cũ nữa. Cô sẽ luôn bị trói vào vụ trộm bức tranh nhà Hillard. Kevin đã gây ra điều đó. Anh ta đã làm việc đó với cô, và gần như không thể hòa hợp Kevin tên buôn lậu đồ nghệ thuật với người đàn ông đã luôn mang trà hoa hồng đến cho cô khi cô cảm thấy không khỏe. Sao sự đối lập ấy có thể tồn tại trong một con người, và sao mà cô từng có thể nghĩ mình biết Kevin rất rõ, vậy mà thực ra lại không biết tí gì về anh ta cả? “Cảnh sát nghĩ anh ta cũng có thể có những món đồ cổ bị ăn trộm mà tôi được cho xem cái ngày tôi bị bắt sao?”

“Ừ.”

Một ý nghĩ khủng khiếp đập thẳng vào Gabrielle, và cô ngay lập tức nhìn Joe ngang qua vai. “Anh vẫn nghĩ tôi có dính líu sao?”

“Không.” Anh đưa một tay lên và xoa bờ má ẩm ướt của cô bằng mu bàn tay anh. “Tôi biết cô không có dính líu gì.”

“Bằng cách nào chứ?”

“Tôi biết cô.”

Phải, cũng như cô biết anh. Ánh mắt cô dịch lên mặt anh, chỗ hõm nhỏ ở hai bờ má đã được cạo râu sạch sẽ và cái cằm mềm mại của anh. “Sao tôi có thể ngớ ngẩn đến thế hả Joe?”

“Hắn đã lừa rất nhiều người.”

“Ừ, nhưng gần như ngày nào tôi cũng làm việc với anh ta. Anh ta là bạn tôi, nhưng tôi đoán mình cũng chưa bao giờ thực sự biết rõ anh ta. Sao tôi không cảm nhận được năng lượng tiêu cực của anh ta chứ?”

Anh vòng tay quanh vai cô và ép cô cùng anh ngồi dựa vào lưng ghế sô pha. “Chậc, đừng cảm thấy tệ quá, luồng khí của con người có thể rất lừa lọc mà.”

“Anh đang lấy tôi ra làm trò cười phải không?”

“Tôi chỉ tỏ ra tử tế thôi.”

Họng cô nghẹn ngào, và cô nhìn anh. Đầu tiên là Kevin và giờ là Joe. Chẳng lẽ tất cả mọt người đều không phải như những gì cô đã nghĩ sao? “Sao tôi lại luôn khờ dại đến thế? Francis lúc nào cũng bảo tôi rằng tôi quá cả tin. Nó khiến tôi vướng vào rắc rối.” Cô lắc đầu và cố dằn lại những giọt nước mắt trong mắt. Mặt Joe gần đến nỗi cô có thể thấy lớp lông mao dưới làn da rám nắng và ngửi thấy cả mùi kem cạo râu của anh. “Một số người tin rằng anh thu hút những sự kiện tích cực hoặc tiêu cực về phía mình, rằng anh lôi kéo những con người mà anh đáng phải nhận.”

“Nghe thật vớ vẩn đối với tôi. Nếu đúng trường hợp đó, cô chỉ thu hút những người nhìn thấy luồng khí, sợ nghiệp chướng, và những kẻ ăn chay sa ngã đến với cô thôi.”

“Anh lại đang cố tỏ ra tử tế đấy à?”

Anh mỉm cười. “Nếu cô không biết, vậy thì có lẽ tôi cần hành động.”

Cô nhìn khuôn mặt đẹp trai mà cô đã biết quá rõ của anh, nhìn vào đôi mắt mãnh liệt với hàng lông mày thường xuyên nhăn nhó khi anh nhìn cô. Nhìn vào cái mũi thẳng và cánh cung trũng sâu kéo cong môi trên của anh. Nhìn vào làn da mềm mại thường xuyên sẫm lại từ khoảng buổi trưa. “Anh bạn trai gần đây nhất của tôi là một người nhìn thấy luồng khí, sợ nghiệp chướng, ăn chay. Chỉ có điều anh ta không sa ngã mà thôi.”

“Nghe như một quả bóng lửa ấy nhỉ.”

“Anh ta rất nhạt nhẽo.”

“Thấy chưa, đó là vì cô là một người phụ nữ sa ngã đấy.” Nhón tay cái của anh quét đi một giọt nước mắt khác khỏi má cô cùng lúc ánh mắt anh đi khắp mặt cô. “Cô cần một người đàn ông biết tán thưởng những phụ nữ hoang dã, phóng khoáng. Tôi đã học ở trường thuộc nhà thờ giáo xứ và trân trọng sâu sắc những cô gái sa ngã. Vào năm lớp bốn, Karla Solazabal thường kéo cái váy kẻ ca rô của cô ấy lên tận eo và cho tôi xem hai đầu gối. Chúa ơi, tôi đã yêu cô ấy vì điều đó.”

Và cô cũng yêu anh vì đang cố làm cô vui lên. “Giờ thì chuyện gì sẽ xảy ra?” cô hỏi.

Ánh mắt anh nghiêm túc. “Khi Kevin bị bắt, anh ta sẽ được đặt phòng trong…”

“Không,” cô ngắt lời anh. “Tôi vẫn còn là người cung cấp thông tin bí mật của anh cho đến hết phiên tòa sao?”

“Không, cô đã được giải phóng khỏi hiệp ước. Vì cô không biết gì hết, tôi chắc chắn rằng cô thậm chí còn không cần ra tòa làm chứng nữa.”

Câu trả lời của anh lắng xuống cạnh trái tim cô như một hòn than nóng. Cô sẽ không hỏi xem anh có bao giờ có ý định gặp lại cô, hay giờ anh có gọi điện cho cô hay không khi cô không còn đóng vai bạn gái anh nữa. Cô sẽ không hỏi, vì cô cũng không chắc chắn về câu trả lời. “Khi nào thì anh phải đi?”

“Một lúc nữa thì vẫn chưa.”


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.