Hẳn Là Yêu

Chương 7



Gabrielle ngạc nhiên trước điệu bộ ăn uống của anh. Ngạc nhiên khi anh không nhai nhồm nhoàm, gãi người, hay ợ như một thằng nhóc vênh váo với sáu chai bia Old Milwaukee. Anh thực sự đã đặt khăn ăn lên lòng và đang tiêu khiển cho cô bằng những câu chuyện kì quặc về chú vẹt tên Sam của anh. Nếu cô mà không khôn ngoan, có khi cô đã nghĩ anh đang cố quyến rũ cô hoặc có lẽ anh có một linh hồn đứng đắn vùi sâu đâu đó trong cơ thể rắn chắc kia.

“Sam có vấn đề về trọng lượng,” anh bảo cô giữa những lần ăn thịt bê. “Nó yêu pizza và bim bim Cheetos.”

“Anh cho con chim của anh ăn pizza và Cheetos á?”

“Không còn nhiều nữa. Tôi đã phải làm cho nó cái máy tập thể hình. Giờ thì tôi bắt nó tập luyện khi tôi tập.”

Gabirelle không biết có nên tin anh hay không. “Sao anh làm cho con chim tập luyện được? Nó không bay đi luôn ạ?”

“Tôi lừa nó nghĩ rằng nó đang được chơi vui.” Joe bẻ một mẩu bánh mì và ăn. “Tôi đặt cái máy tập cạnh máy tập tạ của tôi,” anh tiếp tục sau khi đã nuốt xuống. “Và miễn là tôi còn ở trong phòng với nó, nó sẽ trèo lên các bậc thang và dây xích của nó.”

Gabrielle cắn một miếng bánh mì của chính cô và quan sát anh qua đầu ngọn nến sáp ong. Luồng ánh sáng yếu ớt từ cửa sổ phòng ăn tràn qua các tấm màn mỏng, tắm căn phòng và cả Thám tử Joe Shanahan trong thứ ánh sáng dịu dàng. Những đường nét mạnh mẽ, nam tính của anh có vẻ thoải mái và dịu nhẹ. Gabrielle đoán đó hẳn là trò lừa đảo của ánh sáng, bởi vì dù hiện thời anh có quyến rũ, từ những kinh nghiệm gần đây cô biết rằng chẳng có gì dịu nhẹ ở người đàn ông ngồi đối diện với cô này cả. Chẳng có gì dịu dàng, nhưng cô cho là một người đàn ông yêu chú chim của anh ta không thể hoàn toàn thiếu vắng những phẩm chất bù lại. “Anh có Sam bao lâu rồi?”

“Đến giờ thì chưa đến một năm, nhưng cứ như là tôi lúc nào cũng có nó vậy. Debby đã mua nó cho tôi.”

“Anh có chị em à?”

“Tôi có bốn.”

“Wow.” Khi lớn lên, Gabrielle luôn mong muốn có một ông anh bà chị hoặc một đứa em. “Anh là người lớn nhất à?”

“Trẻ nhất.”

“Nhóc út,” cô nói, mặc dù cô không thể tưởng tượng ra Joe là bất kì cái gì ngoại trừ một người đàn ông đã trưởng thành. Anh có quá nhiều hoóc môn nam tính để cô nghĩ về anh như một cậu bé xinh xắn với đôi má bóng hồng. “Tôi cá là lớn lên với bốn người chị gái rất vui.”

“Phần lớn là địa ngục.” Anh cuộn một miếng mì Ý vào đĩa của mình.

“Vì sao?”

Anh đẩy chỗ mì vào miệng và quan sát cô khi nhai. Trông anh không có vẻ như anh sẽ trả lời, nhưng rồi anh nuốt xuống và thú nhận, ”Họ đã bắt tôi mặc quần áo của họ và giả vờ là em gái thứ năm.”

Cô cố không cười, nhưng môi cô run run.

”Chẳng vui đâu. Họ thậm chí còn không để tôi giả vờ làm chó. Tanya luôn được là chó.”

Lần này cô có cười và thậm chí còn nghĩ đến việc vươn tay ra vỗ về tay anh và bảo anh rằng anh sẽ ổn thôi, nhưng cô không làm thế. “Nghe như thể anh có một con chim nhân ngày sinh nhật.”

”Debby đã cho tôi Sam khi tôi nằm dưỡng thương ở nhà một khoảng thời gian. Chị ấy nghĩ chú chim sẽ bầu bạn với tôi cho đến khi tôi đi lại được và sẽ đỡ phiền hơn một chú cún con.” Giờ thì anh mỉm cười. ”Chị ấy đã sai về điều đó.”

”Sao anh phải nằm dưỡng thương ở nhà?”

Nụ cười của anh rũ xuống, và anh nhún đôi bờ vai rộng. ”Tôi bị bắn trong một vụ án thuốc phiện mà đã sai lầm ngay từ lúc bắt đầu.”

”Anh đã bị bắn ư?” Gabrielle cảm thấy hai hàng lông mày của cô rướn lên tận trán. ”Ở đâu thế?”

”Ở đùi phải của tôi,” anh nói và đột ngột đổi chủ đề. ”Tôi đã gặp bạn của cô khi tôi gõ cửa nhà cô lúc trước đấy.”

Gabrielle sẽ rất thích được biết chi tiết về cú bắn đó, nhưng anh rõ ràng là muốn bỏ rơi chủ đề này. “Francis à?”

”Cô ấy không cho tôi tên, nhưng cô ấy có nói là cô đã kể với cô ấy rằng tôi là bạn trai cô. Cô còn nói gì với cô ấy nữa?” Anh hỏi trước khi nhét miếng mì Ý cuối cùng vào miệng.

”Thế thôi,” Gabrielle nói lập lờ khi cô với tay lấy cốc trà lạnh của mình. ”Cô ấy đã biết tôi nghĩ rằng có một tay rình mò đang theo đuổi tôi, nên hôm nay cô ấy đã hỏi tôi về chuyện đó. Tôi bảo cô ấy giờ chúng ta đang hẹn hò.”

Anh từ tốn nuốt xuống, và ánh mắt anh nghiên cứu cô qua khoảng cách không đáng kể chia cách họ. ”Cô bảo với cô ấy là cô đang hẹn hò với kẻ cô đã nghĩ là đang rình mò cô?”

Gabrielle uống một ngụm và gật đầu. “Ừ đấy.”

”Và cô ấy không nghĩ chuyện đó quái gở sao?”

Gabrielle lắc đầu và đặt cốc trà xuống. ”Francis có rắc rối với các mối quan hệ. Cô ấy biết rằng thi thoảng một người phụ nữ phải chớp lấy cơ hội. Và được một người đàn ông theo đuổi có thể rất lãng mạn.”

”Kể cả một tên rình mò nữa sao?”

“Ừ thì, trong đời anh phải hôn vài con cóc ghẻ chứ.”

”Cô đã hôn rất nhiều con cóc ghẻ đấy à?”

Cô đâm nĩa vào món salad và cố tình chĩa thẳng sự chú ý của cô vào môi anh. ”Chỉ một thôi,” cô nói và nhét miếng rau diếp vào trong miệng.

Anh với tay lấy cốc của mình, và tràng cười trầm thấp của anh lấp đầy căn phòng. Họ đều biết cô không đáp lại anh như thể anh là một con cóc ghẻ. ”Ngoài việc hôn cóc ghẻ, hãy nói thêm cho tôi biết về bản thân cô đi.” Một giọt chất lỏng trượt khỏi cốc, rồi nhỏ xuống áo phông của anh, tạo nên một hình tròn nhỏ xíu ướt nước trên ngực phải của anh.

”Anh đang thẩm vấn tôi đấy à?”

”Tuyệt đối không.”

”Anh không có một tập tài liệu về tôi đâu đó đầy những thông tin, như thể tôi đã có bao nhiêu lỗ răng sâu hay vé phạt tốc độ sao?”

Mắt anh gặp phải mắt cô qua thành cốc, và anh quan sát cô khi uống một hơi dài. Rồi anh đặt cốc xuống và bảo cô, ”Tôi đã không kiểm tra tiền sử nha sĩ của cô, nhưng cô có một vé phạt tháng Năm vừa rồi vì lái xe ba mươi lăm dặm ở khu vực hai mươi dặm. Khi cô mười chín tuổi cô đã đâm chiếc Volkswagen của mình vào một bốt điện thoại và đủ may mắn để bỏ đi chỉ với vài vết bầm nhỏ và ba mũi khâu trên đỉnh đầu.”

Cô không ngạc nhiên là anh biết tiền sử lái xe của cô, nhưng thực là hơi lúng túng khi anh biết nhiều thứ về cuộc đời cô trong khi cô gần như chả biết tí gì về anh. “Những thứ thú vị đấy. Anh còn biết gì nữa?”

”Tôi biết cô được đặt tên theo tên ông nội cô.”

Không phải một ngạc nhiên lớn nữa. ”Chúng tôi là một trong những gia đình mà tên trẻ con theo tên ông bà. Các bà của tôi là Eunuch Beryl Paugh và Thelma Dorita Cox Breedlove. Tôi tự cho bản thân mình may mắn.” Cô nhún vai. ”Còn gì nữa?”

”Tôi biết cô đã vào hai trường đại học nhưng không nhận được một bằng cấp nào từ cả hai.”

Rõ ràng anh chẳng biết gì cốt lõi hết. Anh chẳng biết tí gì về cô. ”Tôi không đi học để lấy một tấm bằng,” cô bắt đầu khi đặt bát salad gần như trống không của cô lên đĩa và đẩy chúng sang bên. Cô không ăn nhiều phần thịt bê của mình, nhưng với Joe ngồi bên kia bàn, cô đột nhiên không thấy đói lắm. ”Tôi đi để học về những thứ thu hút tôi. Khi tôi đã học được những gì mình muốn, tôi chuyển tới thứ thu hút tôi tiếp theo.” Cô đặt cánh tay lên bàn và tựa má vào tay. ”Bất kì ai cũng có thể kiếm một cái bằng hoặc chứng chỉ gì đó, chẳng có gì lớn lao. Một mẩu giấy từ một trường đại học đâu đó không định nghĩa được một con người. Nó sẽ không nói cho anh biết tôi là ai.”

Anh lấy khăn ăn bằng vải lanh ra khỏi lòng và đặt cạnh cốc của anh. ”Vậy thì, sao cô không nói cho tôi biết cô là ai. Nói cho tôi biết điều gì mà tôi chưa biết đi.”

Cô cho là anh muốn cô tiết lộ bằng chứng phạm tội, nhưng cô chẳng biết gì hết. Chẳng biết tí gì, nên cô kể cho anh một số điều mà cô lạc quan rằng anh sẽ không bao giờ đoán được về cô. ”Chà, tôi đag đọc những gì Freud (Sigmund Freud (1856 – 1939): một bác sĩ thần kinh và tâm lý người Áo) nói về ép buộc tâm lý và vật kích dục. Theo như lời ông ấy, tôi có chứng khát miệng (khiến cho người ta đòi hỏi cần có sự kích thích bằng miệng).”

Một nụ cười giật giật khoé miệng anh, và anh hạ ánh mắt xuống môi cô. ”Thực sao?”

”Đừng có trở nên phấn khích quá,” cô cười lớn. ”Freud là một trí óc sáng chói đằng sau sự thèm muốn của quý, một điều thật dớ dẩn. Chỉ có đàn ông mới nghĩ đến những chuyện ngớ ngẩn như vậy. Tôi chưa bao giờ gặp một người phụ nữ nào mà lại muốn có của quý hết.”

Khi anh nhìn cô chằm chằm từ bên kia bàn, khoé miệng anh cong lên thành một nụ cười toe toét. ”Tôi biết vài người đã muốn của tôi đấy.”

Bất chấp những quan niệm tự do của cô về tình dục, Gabrielle vẫn cảm thấy hai má cô nóng lên. ”Tôi không nói theo ý đó.”

Joe bật cười và ngửa ghế của anh chống trên hai chân.”Sao cô không nói cho tôi cách cô gặp Kevin ấy.”

Gabrielle cho là Kevin cũng đã kể với Joe tất tần tật rồi, và cô băn khoăn có phải anh đang hỏi để bắt quả tang cô nói dối hay không. Cô không có gì để mà phải nói dối hết. ”Như Kevin hẳn đã kể với anh, chúng tôi lần đầu tiên gặp nhau ở một buổi đấu giá tài sản cách đây vài năm trước khi chúng tôi mở Anomaly. Anh ấy vừa chuyển từ Portland về đây và đang làm việc cho một tay buôn đồ cổ từ trung tâm thị trấn, và tôi đang làm việc cho một người với các cửa hàng ở Pocatello, Twin Falls, và Boise. Sau lần đầu tiên đó, tôi tình cờ chạm mặt anh ấy khá nhiều.” Cô dừng lại và vuốt một mẩu vụn bánh mì ra khỏi bàn. ”Rồi tôi bị đuổi việc, và anh ấy gọi cho tôi và hỏi xem tôi có muốn tham gia kinh doanh với anh ấy không.”

”Cứ như trên trời rơi xuống thế sao?”

”Anh ấy đã nghe chuyện tôi bị đuổi vì một vụ mua bán thêm các tác phẩm tranh tang. Ông chủ cửa hàng không nghĩ thoáng về chuyện đó cho lắm, thậm chí sau khi tôi đã hoàn lại cho ông ấy các chi phí, ông ấy vẫn sa thải tôi.”

”Vì vậy, Kevin gọi cho tôi, và hai người đã quyết định mở một doanh nghiệp.” Anh khoanh tay trước ngực và hơi đung đưa cái ghế. ”Chỉ như thể thôi à?”

“Không. Anh ấy muốn chỉ bán mỗi đồ cổ, nhưng tôi đã hơi chán đồ cổ rồi, nên chúng tôi thoả hiệp và ổn định với một cửa hàng bán đồ lạ. Tôi đưa vào sáu mươi phần trăm vốn khởi tạo.”

”Bằng cách nào?”

Gabrielle ghét phải nói về tiền nong. ”Tôi chắc chắn là anh biết tôi có một khoản uỷ thác khiêm tốn.” Và cô đã đầu tư hơn nửa số đó vào Anomaly. Thường thì, khi người ta biết đến họ của cô, họ sẽ cho rằng cô có một tài khoản ngân hàng không đáy, nhưng không đúng trường hợp rồi. Nếu cửa hàng của cô thất bại, cô sẽ gần như khánh kiệt. Nhưng ý nghĩ về việc mất đi khoản đầu tư tài chính không khiến cô buồn phiền nhiều bằng ý nghĩ mất đi thời gian, năng lượng và những gắn bó cảm xúc mà cô có với cửa hàng của mình. Phần lớn mọi người đo thành công bằng số tiền kiếm được. Không phải Gabrielle. Chắc chắn là cô muốn trả các hoá đơn, nhưng với cô thành công được đo đạc bằng hạnh phúc. Cô tự cho mình là cực kì thành công.

”Thế còn Kevin thì sao?”

Trong khi đối với Gabrielle thành công có nghĩa là hạnh phúc, thì cô cũng biết điều đó không đúng với Kevin. Với anh, thành công phải sờ mó được. Thứ gì đó anh có thể cầm, lái, hoặc mặc được. Điều đó khiến anh mờ mắt, chứ không khiến anh thành tội phạm. Điều đó cũng biến anh thành một đối tác tốt. ”Anh ấy kiếm một khoản vay ngân hàng cho bốn mươi phần trăm còn lại.”

”Cô có thèm điều tra tí tẹo nào trước khi bắt đầu công việc kinh doanh này không?”

”Tất nhiên rồi. Tôi không phải đồ ngốc đâu nhé. Vị trí là nhân tố quan trọng nhất dẫn tới thành công của một doanh nghiệp nhỏ. Hyde Park có một dòng tiền thu đều đặn…”

”Chờ đã.” Anh giơ một tay lên và ngăn cô lại. ”Đó không phải là những gì tôi định nói. Tôi đang hỏi cô có từng nghĩ đến việc điều tra lai lịch của Kevin trước khi cô đầu tư quá nhiều tiền của chính cô không?”

”Tôi không có kiểm tra tội hình sự hay gì gì đó, nhưng tôi đã nói chuyện với những người chủ trước của anh ấy. Tất cả họ đều nói những điều tuyệt vời về anh ấy.” Phần tiếp theo đây cô biết anh sẽ không bao giờ hiểu được, nhưng dẫu sao cô cũng nói với anh – thật nhanh. ”Và tôi đã ngồi thiền về chuyện đó một khoảng thời gian trước khi tôi cho anh ấy câu trả lời của tôi.”

Tay anh rơi thõng xuống hai bên người, và vẻ cau có làm nhăn trán anh lại. ”Cô đã ngồi thiền ấy à? Cô không nghĩ là tham gia kinh doanh với một người đàn ông cô hầu như không biết gì hết đòi hỏi nhiền hơn việc toạ thiền sao?”

”Không.”

“Vì cái khỉ gì lại không?”

”Đó là nhân quả.”

Với một tiếng bịch thật to, chân ghế đập xuống sàn nhà. ”Lại nữa?”

”Số phận của tôi đang thưởng cho tôi. Tôi đã buồn bã và bị mất một việc làm, và Kevin trao cho tôi cơ hội được làm chủ của chính tôi.”

Anh không lên tiếng trong vài giây dài dằng dặc. ”Cô có phải đang nói với tôi,” anh bắt đầu, lại lần nữa, ”rằng lời đề nghị kinh doanh của Kevin là một phần thưởng cho một chiến dịch tốt đẹp nào đó mà cô đã từng thực hiện trong kiếp trước sao?”

”Không, tôi không tin vào việc đầu thai.” Niềm tin của cô đối với nhân quả làm một số người bối rối, và cô không thực lòng mong đợi Thám tử Shanahan sẽ hiểu. ”Tham gia kinh doanh với Kevin là phần thưởng cho một điều gì đó mà tôi làm trong cuộc đời này. Tôi tin rằng việc tốt hay xấu mà anh làm đều ảnh hưởng ngay đến anh, không phải sau khi anh đã chết. Khi anh chết, anh đi tới một mặt bằng ý thức hoàn toàn khác. Sự thông thái, hay trí tuệ, mà anh đã đạt được trong cuộc đời này quyết định mặt bằng mà linh hồn của anh đi tới.”

”Cô đang nói về thiên đàng hay địa ngục đấy à?”

Cô đã dự đoán một câu hỏi xúc phạm từ phía anh và không ngạc nhiên. ”Tôi chắc chắn anh gọi đó là thiên đàng.”

”Thế cô gọi nói là gì?”

”Thường thì tôi chẳng gọi nói là gì hết. Nó có thể là thiên đàng. Địa ngục. Cõi niết bàn. Gì cũng được. Tôi chỉ biết đó là nơi linh hồn của tôi sẽ đi đến khi tôi chết.”

”Cô có tin vào Chúa không?”

Cô đã quen với câu hỏi đó. ”Có, nhưng chắc không phải theo cái cách anh tin. Tôi tin rằng Chúa thà là muốn tôi ngồi trong một cánh đồng đầy hoa cúc và lấp đầy các giác quan của tôi với vẻ đẹp phi thường mà ông ấy đã tạo ra trong khi tôi suy ngẫm về sự thanh thản nội tại. Ông ấy thà là muốn tôi thực sự sống với mười điều răn hơn là ngồi trong một nhà thờ ngột ngạt và lắng nghe một người nào đó nói cho tôi biết cách để thực hiện chúng. Tôi nghĩ có một sự khác biệt to lớn giữa tín ngưỡng và đức tin. Anh có thể là cả hai, tôi không biết. Tôi chỉ biết rằng có rất nhiều người đeo tôn giáo như một cái bảng tên, và họ hạ thấp nó xuống thành những miếng dán quảng cáo. Nhưng đức tin thì khác. Nó đến từ trái tim và tâm hồn.” Cô chờ anh sẽ cười hoặc nhìn cô như thể cô vừa mọc sừng và móng guốc. Anh cuối cùng lại làm cô ngạc nhiên.

”Cô có thể đúng về điều đó,” anh nói khi anh nhỏm dậy. Anh đặt bát salad của anh lên đĩa, thu gom dao nĩa bạc, và đi vào bếp.

Gabrielle theo sau và quan sát anh tráng qua đĩa của anh trong bồn rửa. Cô hẳn sẽ không bao giờ đoán anh lại là loại đàn ông tự rửa đồ cho mình. Có thể chỉ vì anh dường như quá nam tính, như một trong những tên đàn ông đập chai bia lên trán.

”Nói với tôi đi,” anh nói khi tắt vòi nước đi. ”Việc tôi bắt giữ cô trong công viên Julia Davis có phải nhân quả không?”

Cô khoanh tay dưới ngực và dựa một bên hông vào quầy bếp bên cạnh anh. ”Không, tôi chưa từng làm chuyện gì đủ tồi tệ để xứng đáng với anh hết.”

”Có thể,” anh nói, giọng anh trầm và quyến rũ khi anh nhìn cô qua vai, ”Tôi là phần thưởng của cô vì cư xử ngoan ngoãn.”

Cô lờ đi những cơn rùng mình đang chạy lên cột sống của cô cứ như thể cô bị hút tới những tên cảnh sát khô cằn cảm xúc với thái độ hư hỏng ấy. Mà cô thì không. ”Thực tế đi. Anh rực rỡ như một cây nấm độc ấy,” cô nói và chỉ về mấy cái nồi trên bếp. ”Anh sẽ không rửa hết mấy cái đĩa à?”

”Đừng có mơ. Tôi đã làm hết việc nấu ăn rồi.”

Cô đã thái bánh mì và trộn salad cơ mà. Anh không hề làm hết việc nấu ăn. Đây là một thế kỉ mới – những anh chàng như Joe phải bước ra khỏi hang động và làm phần của mình đi chứ, nhưng cô chọn không khai sáng cho anh về chủ đề đó. ”Vậy thì tôi cho rằng mình sẽ gặp anh rực rỡ vào sáng sớm nhỉ?”

”Ừ.” Anh nhét một tay vào túi trước của chiếc quần Levi’s và rút ra một bộ chìa khoá. ”Nhưng thứ Sáu tôi phải làm chứng ở toà, nên tôi chắc sẽ không đến cho tới khoảng sau buổi trưa đâu.”

”Tôi sẽ ở Lễ hội Coeur thứ Sáu và thứ Bảy đấy.”

”Đúng rồi nhỉ. Tôi sẽ ghé qua gian hàng của cô và kiểm tra cô vậy.”

Cô đang trông mong một khoảng lặng khỏi Joe và nỗi căng thẳng mà anh gây ra. ”Không cần thiết.”

Anh liếc lên khỏi bộ chìa khoá trong tay và nghiêng đầu sang một bên. “Dẫu sao tôi cũng sẽ ghé qua, chỉ để cô không bắt đầu nhớ nhung tôi thôi.”

”Joe, tôi sẽ nhớ anh nhiều như một vết lở loét ấy.”

Anh cười thầm, rồi quay ra cửa sau. ”Cô tốt hơn là nên coi chừng đấy, tôi nghe bảo nói dối tạo ra nhân quả xấu lắm.”


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.