HÃNG THÁM TỬ TƯ

Chương 8 : Đưa vua vào thế bí (Finessing the King)



Vào một buổi quá trưa ẩm ướt, bà Tuppence vừa lướt qua tờ Daily Leader vội bỏ báo xuống vẻ nghĩ ngợi. 

– Anh biết em nghĩ gì không, Tommy. 

– Không thể đoán được. – Ông chồng làu bàu. 

Em cũng một lúc nghĩ đến quá nhiều điều! 

– Em cho rằng đã đến lúc chúng mình trở lại khiêu vũ. 

Tommy vội chộp lấy tờ báo. 

– Lời quảng cáo của em đạt lắm. – Ông nghiêng đầu nhận xét – “Những thám tử nổi tiếng của Blunt”. Tuppence, em có hình dung rằng một mình em, em đại diện cho “những thám tử nổi tiếng của Blunt” không? Vinh quang đến với em, như Humpty Dumpty 1 nói. 

– Em vừa nói với anh về cuộc khiêu vũ. 

– Anh nhận xét thấy có điều lạ trong tờ báo. Thử xem bản thân em có phát hiện ra không. Cầm lấy ba số “Daily Leader” này và em thử nói chúng có gì khác nhau không nào? 

Tuppence tò mò so sánh các đầu đề. Cuối cùng bà tuyên bố với đôi chút coi thường : 

– Em nghĩ điều đó khá đơn giản. Một tờ là của hôm nay, tờ thứ hai hôm qua và tờ thứ ba hôm kia. 

– Cực giỏi, Watson thân mến của anh. Nhưng vấn đề không ở chỗ đó. Hãy quan sát các đầu đề kỹ hơn và so sánh chúng cẩn thận. Em có nhận xét thấy sự khác biệt nào không? 

– Không, em chắc là không có gì khác. 

Tommy thở dài và hai bàn tay nắm lấy nhau theo kiểu rất đặc biệt – của Sherlock Holmes. 

– Có lẽ là em đọc báo nhiều, nếu không nói là nhiều hơn anh. Nhưng anh nhận xét và em thì không. Nếu em để ý nhìn đầu đề tờ Daily Leader hôm nay một lần nữa, em sẽ thấy ở giữa nét của chữ D cũng như chữ L có một chấm trắng. Nhưng trong tờ báo hôm qua lại các thấy các chấm ấy không phải trong từ Daily mà cả hai chấm ở chữ L từ Leader. Chuyển qua tờ ngày hôm kia. Nhìn này… Hai chấm trong chữ D của Daily. Vậy các dấu hiệu ấy mỗi ngày in một khác. 

– Tại sao? 

– Đó là bí mật nhà báo. 

– Tức là anh không biết gì mà cũng chẳng đoán được điều gì. 

– Anh chỉ nhận thấy rằng báo nào cũng làm như vậy. 

– Anh láu cá thật! Nhất là khi muốn làm lệch hướng cuộc đàm thoại? Hãy trở lại điều lúc nãy em nói với anh. 

– Được. 

– The Three Arts Ball 2 

Tommy phản đối : 

– Đừng, Tuppence. Anh xin em. Anh không còn trẻ nữa để khiêu vũ. 

– Khi em còn là một cô gái trong trắng, – Người bạn đời của Tommy thì thầm – người ta dạy rằng những người đàn ông… và đặc biệt hơn những người đàn ông có vợ thích uống rượu, khiêu vũ và đi ngủ muộn. Chỉ có một người đàn bà đẹp và khôn ngoan đặc biệt có thể giữ họ ở nhà. Lại tan thêm một ảo tưởng! Tất cả những người đàn bà quen biết của em mơ việc đi chơi, đi nhảy và than phiền rằng các ông chồng họ thích đi giầy păng tup và vào giường lúc chín rưỡi tối. Vậy mà anh nhảy đến là giỏi, Tommy thân yêu. 

– Nịnh vừa vừa thôi, Tuppence ạ. 

– Thật ra không phải duy nhất vì thú nhảy mà em muốn đến cuộc khiêu vũ đó. Cách báo tin này làm em chột dạ phải suy nghĩ. 

Nàng cầm lại tờ báo và đọc: 

“I should go three hearts, 12 trickes. Ace of Spades Necessaray to finesse the King” 3

– Một cách khá đắt học chơi bài britdge, Tommy nói. 

– Đừng có mà ngốc. Điều đó không liên quan gì đến bridge. Có việc là hôm qua em ăn sáng với một cô bạn ở Ace of Spades. Đó là một quán nhỏ đáng chú ý ở Chelsea và bạn em cho em biết là những người của Nhà hát đến đó vào buổi tối để thưởng thức một đĩa bacon and eggs 4 và Welsrh Rabbits 5 tất cả các cái đo tạo ra vẻ rất phóng đãng. Có những lô giấu kín khắp quanh phòng và theo ý anh hẳn đó là một nơi không đứng đắn. 

– Và anh nghĩ rằng… 

– “Three hearts” được dùng thay cho Three Arts Ball, tối mai, 12 tricks là nửa đêm và The Ace of Spades là Ace of Spades. 

– Thế anh làm gì với thế bí của Vua. 

– Quả vậy, là điều anh nghĩ rằng chúng ta có thể cùng nhau khám phá chúng? 

– Anh sẽ không ngạc nhiên là em đã đoán đúng – Tommy thừa nhận – Nhưng anh không thấy thật rõ tại sao em cứ muốn can thiệp vào công việc tình cảm của người khác. 

– Em là không can thiệp. Em chỉ đề nghị một thí nghiệm thú vị về mặt trinh thám. Chúng ta cần có sự tập dượt. 

– Công việc lúc này hẳn không làm chúng ta quá lo lắn – Tommy nhượng bộ – Nhưng mục đích thực sự của em là đi đến Three Arts Ball và nhảy. Có thể nói rằng ý nghĩ của em có sự liên tục! 

Tuppence phá ra cười trâng tráo. 

– Hãy là người chơi đẹp, anh yêu quý. Anh hãy quên tuổi 32 và sợi lông xám ở lông mày trái của anh đi. 

– Anh luôn yếu đuối với đàn bà! Liệu anh có trở thành trò cười bằng cách mặc áo quần giả trang hay không? 

– Tất nhiên. Song anh có thể tin cậy ở em trong vấn đề này. Em có một ý tuyệt vời. 

Tối hôm sau về tới nhà ông thấy Tuppence ló ra khỏi phòng và lao về phía ông, báo tin. 

– Nó đã đến. 

– Ai kia. 

– Bộ quần áo. Anh đến mà xem. 

Tommy nghe lời. Trên giường có một bộ comple đồng phục của đội viên cứu hỏa bổ sung thêm chiếc mũ cát sáng loáng. 

– Lạy Chúa! Phải chăng tôi được tuyển vào đội cứu hỏa của Wembley mà không hay. 

– Anh chưa hiểu. Anh hãy vắt óc ra mà suy nghĩ đi, anh bạn. Hãy chói sáng, anh Watson! Hãy là con bò tót đã vào trường đấu hơn mười phút. 

– Gượm… Anh đã bắt đầu hiểu. Tất cả chỉ là che giấu một lý do bí mật. Em sẽ mặc gì, Tuppence? 

– Một trong những bộ áo quần cũ của anh, mũ Hoa Kỳ và cặp kính sừng. 

– Sự mô tả khá thô thiển nhưng anh nắm được ông Carty 6 giấu tên. Và anh là Riordan [6]. 

– Đúng. Em nghĩ rằng chúng ta phải thực hành những phương pháp Hoa Kỳ cũng như những phương pháp Anh Cát Lợi. Dù chỉ một lần, em sẽ đóng vai chính và anh là trợ lý khiêm nhường của em. 

Tommy nhắc nhủ vợ : 

– Đừng quên rằng bao giờ cũng vậy, một nhận xét ngây thơ của Dancy bình dị đã đặt ông Barty vào hướng tìm tòi đúng. 

Nhưng Tuppence chỉ cười. Bà đang trong tâm trạng vui vẻ. 

Buổi dạ hội là một trong những buổi thành công nhất. Cử tọa, âm nhạc, y phục hư ảo, tất cả góp phần làm vui thích đôi vợ chồng trẻ. Tommy quên vai người chồng mà người ta đã bắt ra khỏi nhà một cách miễn cưỡng và đang buồn chán. 

Lúc kém mười phút đầy mười hai giờ đêm, họ đi ô tô đến Ace of Spades mang tiếng xấu. Như Tuppence miêu tả, đó là một cái hang dưới đất, trông thảm hại và vẻ ngoài rất kỳ quặc. Các cặp giả trang lúc nhúc ở đó, balo đóng kín xếp thành hàng đối diện với các bức tường và cặp Beresford chiếm một lô qua cửa hé mở có thể quan sát những gì xảy ra trong phòng. 

– Em tự hỏi những ai là người làm chúng ta quan tâm. – Tuppence nhận xét – Anh nghĩ về cái cô ở đằng kia mặc áo quần bồ câu màu tím đỏ, có chàng Méphistophélès áo quần màu đỏ đi kèm. 

– Anh thích ông Quan xảo quyệt và cái bà đang cố để được xem là một chiếc tàu bọc sắt… Theo anh là một chiếc du thuyền để rong chơi thì đúng hơn. 

– Ông ta mới hóm hỉnh làm sao! Lão đã uống ra trò! Bà nào đang đi đến, trang phục thành con Đầm Cơ. Bộ quần áo thật tinh xảo. 

Bà ta đi vào lô cạnh lô của họ, có người hộ tống đi theo, “Người mặc bộ quần áo bằng giấy báo” của “Alice ở xứ sở thần tiên”. Cả hai người đều trang phục kiểu con sói cổ điển, khá thông dụng ở Ace of Spades. 

– Em đoán chắc rằng chúng ta rơi vào một bầu không khí đầy khả ố, – Tuppence phát biểu, mắt nhìn long lanh – những điều tai tiếng đang được chuẩn bị ngầm khắp quanh ta. 

Một tiếng la, rõ ràng là tiếng kêu phản đối cất lên ở lô bên cạnh, được một tiếng cười đàn ông ầm ĩ át đi. Mọi người cười và hát. Giọng cao của các bà tương phản với giọng những người đàn ông hộ tống họ. 

– Hãy nhìn cái cô chăn cừu ấy – Tommy thét lên – Cái cô đi theo anh chàng người Pháp ấy. Có thể đó là người đi bè đôi với chúng ta chăng? 

– Ai mà chẳng được. Em không có ý định tự làm khổ mình về chuyện đó. Chủ yếu là chúng ta được vui đùa. 

– Anh có thể nhởn nhơ trong bộ quần áo khác – Tommy làu bàu – Em không hình dung được anh mặc bộ này nóng như thế nào đâu. 

– Can đảm lên. Anh đầy quyến rũ. 

– Cám ơn. Anh sẽ không nói về em như thế. Em là đứa bé tinh nghịch có thể coi là kỳ cục nhất. 

– Bạn ơi, em mong anh bạn giữ lịch sự cho một tí. Hello! Ngài mặc giấy báo rời bỏ người bạn tình. Anh cho là ông ta có thể đi tới đâu? 

– Tới quán rượu để thúc nhanh đồ nhậu, anh cho là như vậy. Nếu là anh, anh sẽ làm như thế. 

Sau vài phút, Tuppence nhận xét : 

– Công việc đó tốn thì giờ của anh ta. Tommy, anh có cho em là một đứa cực kỳ ngu ngốc không, nếu… 

Bỗng bà giật nẩy mình : 

– Anh cứ coi em là con ngốc đi nhưng em sang lô bên cạnh đây. 

– Xem nào, Tuppence. Em không thể… 

– Em có cảm tưởng điều gì đó không ổn đang xảy ra, chắc chắn như thế. Đừng cố giữ em lại. 

Bà đi ra rất nhanh và ông chỉ đi theo. Các cửa lô bên đều đóng. Tuppence mở ra và đứng sững trên thềm. 

Người đàn bà mặc thành con Đầm Cơ ngồi trong một góc, dựa sát vào tường trong một tư thế không được tự nhiên lắm. Cặp mắt, sau chiếc mặt nạ, nhìn chằm chằm vào những người mới đến, nhưng bà ta không động đậy. Phía bên trái cái áo dài đỏ và trắng của bà dường như hình vẽ đã trôi đi. Có quá nhiều màu đỏ. 

Tuppence vừa kêu rú lên vừa dướn cổ ra phía trước. Cùng lúc đó, Tommy thoáng thấy như bà vừa phát hiện: chiếc cán chạm trổ của một thanh đoản kiếm cắm trung vào dưới tim. 

Tuppence quỳ xuống cạnh người đàn bà. 

– Mau lên, Tommy, bà ta còn thở. Anh tìm ông giám đốc yêu cầu gọi ngay cấp cứu. 

– Đồng ý. Em chú ý đừng sờ vào cán thanh đoản kiếm. 

– Tất nhiên rồi. Nhanh lên anh ơi! 

Beresford vội vã đi ra và khép cửa lại. 

Tuppence vòng tay ôm vai người không quen; người này phác một cử chỉ yếu ớt và bà hiểu rằng bà ta muốn gỡ bỏ cái mặt nạ. Bà thận trọng gỡ ra và chợt thấy một gương mặt tươi như một nụ hồng, với đôi mắt to nhìn đăm đăm, trong đó người ta đọc thấy sự kinh hoàng, nỗi đau đớn và một thứ hoài nghi ngơ ngác. 

Tuppence dịu dàng nói : 

– Bạn ơi, bạn nói được không? Bạn có thể nói với tôi ai làm điều này không? 

Bà cảm thấy cặp mắt người bị thương chăm chú nhìn bà. Bà ta thở dài. Đó là cái thở dài run rẩy của một trái tim sắp kết thúc nhịp đập. Tuy nhiên, người sắp chết vẫn chăm chú nhìn bà. 

Cặp môi hé mở. 

Bà ta thì thầm khó nhọc. 

– Chính là Bingo. 

Rồi bàn tay bà ta buông xuống như muốn ôm sát lấy vai người ngồi cạnh. 

Tommy trở lại kèm theo hai người. Người cao lớn hơn, vẻ khắc khổ, tiến lên; rõ ràng là một thày thuốc. 

Tuppence buông thân hình nặng nề của bà ta ra. 

– Tôi e rằng bà ta đã chết. – Bà nói với một giọng không tự tin lắm. 

Bác sĩ tiến hành khám nhanh rồi đứng lên : 

– Hết rồi. Tốt hơn là chúng ta cứ để nguyên hiện trạng tới lúc cảnh sát đến. Sự việc xảy ra như thế nào? 

Tuppence ngập ngừng kể lại, tuy nhiên bỏ qua không nói lý do thúc đẩy bà đi vào lô. 

– Một việc lạ lùng – Người thầy thuốc nhận xét – Bà không nghe thấy gì ư? 

– Tôi có nghe thấy như bà ta kêu lên thành tiếng, nhưng cùng lúc ấy người đàn ông cười phá. Tất nhiên, tôi đã không nghĩ đến… 

– Tất nhiên – Người thầy thuốc tán thành với thái độ động viên – Và bà nói rằng người đàn ông mang mặt nạ? Bà có nhận ra ông ta không? 

– Tôi không nhận rõ. 

– Thế còn Tommy, ông có nhận ra ông ta không? 

– Không, tuy nhiên chúng tôi biết bộ đồ giả trang của ông ấy. 

– Việc đầu tiên phải làm là nhận dạng người đàn bà khốn khổ này – Người thầy thuốc nhận xét thêm – Sau đó, tôi cho rằng thế nào cảnh sát cũng sẽ khám phá ra sự thật khá nhanh. Đây không phải là một việc khó giải quyết. A! Họ đến kìa…

b. Người đàn ông mặc báo 

(The gentleman dressed in newspaper)

Đã hơn 3 giờ sáng, mệt nhoài và buồn bã, hai vợ chồng nhà Beresford về đến căn hộ của mình. Tuppence trằn trọc mãi mới ngủ được. Bà không ngừng thấy lại khuôn mặt tươi rói với đôi mắt mở to vì hoảng sợ. 

Bình minh lọt qua khe cửa và cuối cùng, bà chìm vào một giấc ngủ nặng nề không có giấc mơ. Lúc bà thức dậy, trời đã sán trưng và Tommy cúi xuống giường, nhẹ nhàng lay vợ. 

– Dậy thôi, bà ơi. Thanh tra Marriot và một người tháp tùng đã ở đây và muốn gặp em. 

– Mấy giờ rồi? 

– Gần mười một giờ. Anh sẽ bảo Alice mang trà vào cho em. 

– Cám ơn. Anh hãy nói với thanh tra em sẵn sàng có mặt trong mười phút. 

Mười lăm phút sau, Tuppence ùa vào phòng khách. Làm ra trịnh trọng và nghiêm trang, Marriot đứng dậy để chào bà. 

– Xin chào bà Beresford. Cho phép tôi giới thiệu với bà, Ngài Arthur Merivale. 

Người đàn bà trẻ bắt tay người đàn ông cao và mảnh khảnh có cặp mặt nhớn nhác và hai bên tóc mai đốm bạc. 

Thanh tra giải thích : 

– Ấy là về sự cố bi thảm xảy ra đêm hôm qua. Mong bà nói lại cho Ngài Arthur nghe những từ mà người đàn bà đã thốt ra trước lúc qua đời. Ngài Arthur rất khó tin. 

Đương sự phản đối : 

– Tôi không thể tin rằng Bingo Hale có lúc nào muốn đụng đến dù chỉ là một sợi tóc của Vere. 

Marriot giải thích : 

– Chúng tôi đã nhanh chóng làm sáng tỏ được một số điểm. Trước tiên, chúng tôi đã nhận dạng được nạn nhân, bà Merivale. Sau đó, chúng tôi liên hệ với ngài Arthur, có mặt tại đây; ngài ấy nhận ra vợ mình và hoàn toàn suy sụp. Chúng tôi đã hỏi ngài ấy có quen ai tên là Bingo hay không. 

– Thưa bà Beresford, bà cần biết rằng, – Meriale nói tiếp – đại úy Hale tất cả chúng bạn đều có quen gọi là Bingo, là người bạn đường thân nhất của tôi. Ông ấy hầu như sống với chúng tôi. Hơn nữa ông đang ở nhà tôi khi người ta đến bắt ông sáng nay. Tôi không thể không nghĩ rằng bà đã lầm… Không phải tên ông ta mà vợ tôi đã thều thào nói lúc ấy. 

– Không thể lầm chút nào. 

Tuppence nhẹ nhàng phản đối. Bà ta đã nói: “Chính Bingo đã làm việc này…”. 

– Thấy chưa! – Marriot thốt lên. 

Con người bất hạnh để mình rơi xuống một chiếc ghế bành và vừa úp mặt vào hai bàn tay vừa rên rỉ : 

– Thật không sao tin nổi! Hẳn ông ta phải có cái cớ gì chứ. Ôi! Tôi biết… tất cả các vị đều nghĩ rằng Hale là tình nhân của vợ tôi, điều mà tôi không thừa nhận, nhưng dù có thật thế đi chăng nữa, tại sao ông ta lại muốn giết vợ tôi? 

Viên thanh tra ho một tiếng rồi nói : 

– Giả thuyết tôi sắp đưa ra trình bay không dễ chịu lắm. Xin ông vui lòng bỏ qua cho tôi. Gần đây, đại úy Hale rất để ý đến một cô người phải đề phòng. Đó là sự giải thích câu: “Mỹ trẻ được hưởng một tài sản đáng kể”. Nếu bà Merivale nghi ngờ cuộc dan díu này, hẳn bà ta muốn ngăn cản nó… 

– Đó là một điều sỉ nhục, thưa ông thanh tra! 

Merivale giận dữ đứng lên, nhưng ông cảnh sát ra hiệu ngăn ông ta lại. 

– Xin ngài thứ lỗi. Ngài có tâm sự với tôi rằng đại úy và ngài có ý định dự buổi dạ hội nào đó và biết rằng vợ ngài đến thăm bạn bè, ngài không hề nghi ngờ bà ấy cũng có mặt tại buổi dạ hội có phải không? 

– Tuyệt đối không. 

– Bà Beresford, xin bà đưa chúng tôi xem lời báo tin mà bà đã nói với tôi. 

Tuppence đưa cho họ tờ báo và Marriot nói tiếp : 

– Rất rõ ràng. Lời báo tin này được đại úy đăng báo để lôi kéo sự chú ý của vợ ngài. Về phía ngài, hôm qua ngài mới quyết định sẽ tham dự cuộc khiêu vũ đó, khiến người đàn bà trẻ cần thiết để đưa Vua (K) vào thế bí”. Ngài đã thuê áo quần ngài mặc ở một công tay nhà hát trong lúc đại úy có thời giờ thuê làm bộ y phục đàn ông bằng các tờ báo. Ngài có biết rằng chúng tôi đã tìm được cái gì nắm chặt trong lòng tay người quá cố không thưa ngài Arthur? Một mẩu báo. Nhân viên của tôi đã nhận được lệnh thu hồi bộ áo quần của ngài đại úy tại nhà ông ta mang về Sở. Nếu chúng tôi nhận ra là ở bộ quần áo ấy thiếu một mảnh và nếu mảnh ấy khớp với mảnh tìm thấy thì quả là vụ án sẽ kết thúc. 

– Các ông sẽ không tìm ra gì về những thứ ấy cả. Tôi biết Bingo Hale. 

Cả hai người rút lui sau khi xin lỗi Tuppence, vì đã quấy rầy bà. 

Vào lúc đã muộn đôi vợ chồng trẻ nhà Beresford rất ngạc nhiên lại tiếp ông thanh tra Marriot đến thăm một lần nữa : 

– Tôi nghĩ rằng “những thám tử xuất sắc của Blunt” thích biết những phát triển cuối cùng của công việc. – Ông mỉm cười nói. 

– Tất nhiên – Tommy tán thành – Ông có uống chút gì không? 

Ông đưa cốc cho người cảnh sát đang báo tin một cách ngắn gọn : 

– Một công việc rất đơn giản, vắn tắt như sau: đoản kiếm thuộc về nạn nhân. Người ta mong thấy kết luận là vụ tự tử, nhưng nhờ ông bà làm chứng kịp thời, kế hoạch của kẻ sát nhân đã thất bại. Chúng tôi đã nắm được nhiều trao đổi thư từ. Rõ ràng là bà Merivale và Hale có quan hệ tình ái đã từ lâu. Ngài Arthur không biết gì hết. Để hoàn thành toàn bộ, chúng tôi vừa tìm ra mắt xích cuối cùng. 

– Cái gì cuối cùng? – Tuppence vội vã ngắt lời. 

– Mắt cuối cùng của sợi dây xích. Mẩu báo “Daily Leader” tìm thấy trong tay người quá cố khớp hoàn toàn với một lỗ thủng trong bộ áo quần Hale mặc. Vâng… chuyện này thật đơn giản… Tôi có đem đến cho ông bà bản sao của mẫu tang vật, có lẽ khi quan sát bà sẽ rất thích thú. Thật hiếm tìm thấy một vụ dễ đến thế. 

– Tommy, – Tuppence đột ngột tuyên bố lúc chồng bà trở lại sau khi tiễn viên thanh tra – theo ý anh tại sao thanh tra cứ không ngừng nhắc lại rằng việc này hoàn toàn đơn giản? 

– Anh không biết. Anh cho rằng đó chỉ là sự thỏa mãn cá nhân. 

– Không hề! Ông ấy cứ tìm cách khiêu khích chúng ta đấy. Cứ lấy ví dụ những anh hàng thịt. Họ biết mọi chuyện về thịt phải không? 

– Anh nghĩ thế, nhưng… để làm cái quái gì mới được chứ…? 

– Cũng như người bán rau am hiểu về rau, người bán cá am hiểu về cá. Các thám tử, thám tử chuyên nghiệp, tất nhiên, họ phải hiểu về tội phạm. Họ do thám một người tình nghi và đánh hơi kẻ giết người. Kinh nghiệm của Marriot nhắc cho anh rằng đại úy Hale không phải là tội phạm mặc dầu mọi điều đổ lên đầu ông ta. Không còn cách nào khác, viên thanh tra quấy rầy chúng ta, hy vọng chống lại một hy vọng, rằng một chi tiết bị quên lãng trở lại trong trí chúng ta, một chi tiết chúng ta có thể ghi nhận đêm vừa rồi, chi tiết đó cho phép ông lao theo một hướng tìm tòi khác. Tommy, tại sao rốt cuộc đây không phải vấn đề của một vụ tự tử? 

– Em hãy nhớ lại những lời người đàn bà ấy nói trước lúc chết. 

– Em biết… nhưng anh thử cân nhắc cái sự vật dưới một góc độ khác. Bingo là nguyên nhân của mọi chuyện… hay đúng hơn, cách cư xử của Bingo. Bà ấy thất vọng và tự tử. Không phải là không thể được. 

– Đồng ý! Nhưng điều đó không giải thích được mảnh báo bà ta cầm trong tay. 

– Chúng ta hãy xem các bản in Marriot để lại. Em quên không hỏi ông ta về Hale tuyên bó những gì để tự bảo vệ. 

– Anh vừa hỏi ông lúc anh đi tiễn chân ông ta. Hale khẳng định không nói với bà Merivale lời nào suốt buổi tối hôm ấy. Ông ấy bảo rằng ai đó đã tuồn vào tay ông ta một mảnh giấy trong đó viết: “Đừng có nói với em tối nay, Arthur nghi ngờ đấy”. Tuy nhiên ông ấy không xuất trình mảnh giấy đó, khiến điều ông ấy nói không tin được. Dẫu sao em và anh biết rằng ông ấy có mặt cùng bà ta vì chúng ta đã nhìn thấy. 

Tuppence gật đầu và ngắm nghía hai bản in. Một bản in một đoạn báo có khắc chữ DAILY LE… và bản kia là trang nhất tờ báo với mảnh rách ở đầu lề. Dĩ nhiên là hai bản tiếp giáp với nhau hoàn toàn khớp. 

– Những dấu ở phía bên cạnh là dấu gì? – Tommy hỏi. 

– Những lỗ kim châm. Đó là chỗ người ta may. 

– Anh nghĩ có lẽ phải chú ý một hệ thống các dấu chấm khác – Ông run lên – vì chúng ta đang nghiên cứu các dấu chấm và tìm cách đoán ý nghĩa của lời báo tin này… 

Ngạc nhiên về sự im lặng của vợ, Tommy quay về phía bà ngạc nhiên thấy bà nhìn không chớp mắt và nét mặt của bà.

– Tuppence… – Ông lay cánh tay vợ – Có chuyện gì vậy? Em sắp bị một cơn kịch phát hay sao? 

Không động đậy. Tuppence nói ra bằng một giọng xa xăm : 

– Denis Riordan. 

– Thế nào! Denis Riordan nào vậy? 

– Đúng như anh đã nói, Tommy ạ: một nhận xét đơn giản và tất cả đều khớp nối lại với nhau. Anh tìm cho em tất cả các số “Daily Leader” của tuần này. 

– Anh đã vắt óc ra và nhờ có em cuối cùng anh đã nảy ra một ý. Bản in của Marriot chỉ cho chúng ta đầu đề của tờ báo ngày thứ ba và anh nhớ rằng tờ báo ngày thứ ba mang hai chấm ở chữ L của Leader. Tờ này có một chấm khác trong chữ L. Lấy tờ báo ra đây, chúng ta cùng kiểm tra. 

Họ vội vàng bắt tay vào việc và nhận ra rằng Tuppence có lý : 

– Anh thấy không! Mảnh này vậy là không được bứt ra từ số báo ngày thứ ba. 

– Nhưng, Tuppence chúng ta không thể khẳng định được. Có thể đây là một lần in khác. 

– Có thể quả vậy. Nhưng nếu em có lý, kết luận là rõ ràng, phải không nào? Hãy điện thoại cho ngài Arthur. Mời ngài đến ngay đây vì em có một tin quan trọng chuyển cho ngài ấy. Sau đó anh hãy liên lạc với Marriot. Nếu ông ta không ở Sở thì phải gặp ông ta ở đâu. 

Nửa giờ sau Ngài Arthur đến rất tò mò. Tuppence tiến lên đón ông ta. 

– Xin thứ lỗi cho chúng tôi đã đường đột mời ngài nhưng chúng tôi vừa khám phá ra một sự việc mà ngài phải biết ngay không trì hoãn. Chúng tôi biết rất rõ là ngài muốn biện minh cho bạn ngài. 

Ngài Arthur gật đầu buồn bã : 

– Vâng, nhưng than ôi, tôi đành chịu… cho dù điều đó đang đè nặng lên tâm hồn tôi. 

– Ngài sẽ nói gì nếu chúng tôi tiết lộ với ngài rằng do sự tình cờ mà chúng tôi có chứng cớ về sự vô tội của ông ta! 

– Tôi sẽ rất hoan hỉ, thưa bà Beresford! 

– Giả định rằng tôi gặp một cô gái lúc nửa đêm hôm qua đã khiêu vũ với đại úy Hale… Trong lúc mà cũng giờ ấy, ông ta bị buộc tội đang ở kề bên vợ ngài… 

– Ghê gớm! Tôi biết rằng cảnh sát có thể phạm sai lầm. Vậy là cô Vere khốn khổ tự sát ư? 

– Chắc là không phải. Ngài quên người kia rồi sao. 

– Người kia nào? 

– Người mà chồng tôi và tôi thấy rời lô ấy. Thực ra, thưa ngài Arthur, phải có một người khác mặc giấy báo, có mặt ở cuộc khiêu vũ. Mà này, ngài mặc quần áo gì? 

– Tôi ấy à? Tôi giả trang làm một tên đao phủ thế kỷ XVII. 

– Đúng bộ áo quần bị áp đặt! 

– Bị áp đặt? Thưa bà Beresford? Bà muốn qua đó nói gì? 

– Bị áp đặt cho vài mà ngài dành cho ngài. Ngài Arthur, ngài muốn biết tôi nghĩ gì không? Bộ quần áo bằng giấy dễ dàng được khoác ra ngoài bộ áo quần đao phủ. Trước đó, người ta đã luôn một mẩu giấy vào tay Hale, yêu cầu ông ấy đừng đến gần một bà nào đó. Nhưng bà ta không biết gì về mẩu giấy ấy. Vào giờ quy định bà ta đi đến “Ace of Spades”, gặp ở đó người giả trang vào trong một lô. Ở đó, tôi tưởng tượng ông ấy ôm hôn bà, cái hôn của Judas, có thể nói như thế, và cùng lúc hạ sát bà ta bằng thanh đoản kiếm. Nạn nhân kêu lên một tiếng bé mà người đàn ông lấp đi bằng một tiếng cười vang. Sau đó, kẻ sát nhân chạy trốn, bỏ lại người sắp chết khiếp sợ, vì tin chắc rằng kẻ hạ sát mình là tình nhân của mình. Rủi thay, nạn nhân đã bứt một mảnh của bộ quần áo bằng giấy. Kẻ sát nhân biết điều đó vì đây là người rất để ý đến các chi tiết. Hắn ta hiểu rằng – để cho sự phạm tội của Hale không có gì đáng hồ nghi – mảnh giấy bứt từ bộ quần áo của chính bản thân hắn phải là từ bộ áo quần của đại úy. Kế hoạch khó thực hiện được… nếu cả hai người không ở cùng nhà phải không? Nếu ở chung một nhà, kẻ sát nhân sẽ có đủ thì giờ cần thiết để làm thủng một lỗ ở bộ quần áo của kẻ thù ông ta, đốt bộ áo quần của chính mình và chuẩn bị đóng vai người tình chung thủy. Ngài nghĩ sao, ngài Arthur? 

Merivale nghiêng mình duyên dáng. 

– Thưa bà, bà có trí tưởng tượng sắc sảo của người đọc quá nhiều tiểu thuyết. 

– Ông nghĩ thế ư! – Tommy xen vào. 

Ngài Arthur nhìn ông mỉm cười, trước khi hỏi thêm. 

– Và một ông chồng dễ dàng để người ta thuyết phục. Tôi ngỡ bà tìm được những người khách cả tin để tin vào quyển tiểu thuyết của bà. – Ngài Arthur cười vang và Tuppence nghiêm sắc mặt. 

– Tôi nhận ra tiếng cười ấy giữa ngàn tiếng cười. Tôi đã nghe nó ở “Ace of Spades”. Cho phép tôi nói thêm rằng ngài hơi nhầm về tên chúng tôi. Đúng là chúng tôi tên là Beresford, nhưng chưa phải là tất cả. 

Nàng đưa cho ông ta một danh thiếp. Ông ta đọc to và giật nẩy mình : 

– Hãng quốc tế nghiên cứu… Vậy ra là điều ấy! Bây giờ tôi hiểu tại sao Marriot dẫn tôi đến đây. Một cái bẫy hả? 

Ông ta đến gần cửa sổ và lơ đễnh xem xét : 

– Ông bà có một quang cảnh nhìn ra thành phố Luân Đôn. 

– Thanh tra Marriot! – Tommy la lên. 

Viên thanh tra lao ra từ phòng bên cạnh, trong khi một cái mỉm cười giễu cợt hiện ra trên môi ngài Arthur. 

– Tôi đã ngờ. Nhưng lần này thưa ngài thanh tra, ngài không nắm được tôi đâu. Tôi thích thoát bằng lối đi xe riêng của tôi. 

Và đặt hai tay lên bậc cửa sổ, Arthur nhảy vào khoảng không. 

Tuppence kêu một tiếng thất thanh, vừa bịt tai lại để không nghe thấy tiếng từ bên dưới đưa lên. Marriot thốt tiếng chửi thề. 

– Lẽ ra chúng ta đã phải nghĩ đến cái cửa sổ. Mặc dù theo ý em, sẽ khó buộc tội ông ta với một chứng cứ quá mỏng manh như thế. Em phải xuống và anh hãy lo mọi chuyện. 

– Con quỷ khốn khổ, – Tommy lẩm bẩm – giá như hắn ta yêu vợ hắn. 

Marriot cười khẩy : 

– Nếu như hắn ta yêu vợ hắn ư? Hắn sẽ không biết quay về phía nào để kiếm ra tiền. Bà Marivale có sẵn một tài sản cá nhân đáng kể mà ông ta là người thừa kế. Nếu bà ta từ bỏ hắn để đi trốn với đại úy Hale, thì hắn không lĩnh được một xu. 

– Thật thế ư? 

– Đúng mà. Từ đầu, tôi ngờ rằng Merivale là đồ vô lại và Hale không có gì đáng quở trách. Chúng tôi biết khá rõ những người ở Vardt… nhưng điều thật bực mình khi các chứng cớ không thể chối cãi được. Nếu tôi là ông, ông Beresford, tôi sẽ tặng cho bà nhà một cốc sâm banh. Các sự cố đã làm bà nhà xao động. 

Tuppence nói không thành tiếng trong khi cánh cửa khép lại, viên thanh tra đã điềm tĩnh ra về : 

– Những người bán trái cây, những người hàng thịt, những người hàng cá, những nhà thám tử. Em có lý phải không? Ông thanh tra biết rõ. 

Tommy hối hả lại gần tủ đựng thức ăn rồi đến bên vợ với một cốc to. 

– Hãy uống đi em. 

– Gì thế này? Cognac? 

– Không, một cốc rượu cốc-tai đậm đà. 

Đúng, Marriot có lý trên suốt cả quy trình… tình huống đã hiện ra như vậy. Một thế bí táo bạo để thắng người đẹp. 

Tuppence tán thành gật đầu. 

– Nhưng ông ta lầm và đã thử lật ngược thế bí. 

– Như vậy, – Tommy kết luận – Vua có thể thực hiện một cuộc thoát ra.——————————–

1Tên của quả trứng trong “Thơ ca nhi đồng” Humpty Dumpty sat on a wall: quả trứng Humpty Dumpty ngồi trên tường (Chú thích của bản dịch tiếng Pháp).
2Gợi đến Chelsea Arts Ball (khiêu vũ nghệ thuật của Chelsea) đã bị bác bỏ khoảng năm 1953.
3Tôi sẽ đi 3 cơ 12 nước bài. Át pich. Cần thiết để đưa Vua (K) vào thế bí. Tiếng Anh trong bản dịch tiếng Pháp vì lý do hiệu quả ngữ âm liên quan đến cuộc khiêu vũ của ba nghệ thuật (Chú thích của bản tiếng Pháp).
4Trứng rán với mì.
5Món phó mát rưới rượu đặt lên trên lát báng mì.
6Ám chỉ những nhân vật trong tiểu thuyết trinh thám (Chú thích của bản tiếng Pháp).

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.