Hãy Cứu Em

CHƯƠNG 29



Ta vẫn muốn quay lại thời khắc ta yêu mến
Nhưng giờ chết đã điểm mất rồi.”
ĐẦU GIỜ CHIỀU – BỆNH VIỆN ST. MATTHEW
Căn phòng nhỏ của Jodie Costello chìm trong bóng tối. Cánh cửa nhẹ nhàng mở ra và ai đó thò đầu qua khe cửa hé mở. Sau khi đã kiểm tra chắc chắn rằng cô bé vẫn ngủ say, Grace lặng lẽ bước lại gần giường.
Rất nhẹ nhàng, cô run rẩy đặt tay lên trán con gái. Cô bàng hoàng đứng yên bên nó, trong khi những giọt nước mắt cứ âm thầm chảy dài trên má cô. Đó là một cảm xúc mà trước kia cô chưa từng biết đến: niềm vui sâu sắc vì cuối cùng cũng tìm lại được Jodie xen lẫn nỗi buồn mênh mang vì không thể nói chuyện được với nó. Có lúc, chỉ thiếu chút nữa thôi là cô đã đánh thức nó dậy để nói cho nó biết cô yêu nó biết chừng nào và cô ân hận biết bao vì tất cả những việc đã xảy ra. Nhưng cô biết cô không có quyền làm như vậy và cũng không nên làm như vậy: Jodie cần được thanh thản còn hơn là phải chịu thêm một cú sốc tình cảm khác. Vì vậy cô đành hài lòng với việc thì thầm:
– Hãy tha thứ cho mẹ vì đã bỏ rơi con trong suốt từng ấy năm…
Rồi cô cầm lấy bàn tay nó:
– Mẹ mong rằng từ nay trở đi mọi chuyện sẽ diễn ra tốt đẹp hơn với con.
Jodie ngủ mơ màng. Nó trở người trên giường và lẩm nhẩm điều gì đó không rõ. Trên bàn đầu giường, Grace nhận ra bức ảnh mà cô luôn để trong ví của mình.
Cô vẫn nhớ rất rõ cái ngày bức ảnh này được chụp, một ngày đầu những năm 1990….
Đó là một ngày mùa thu đẹp trời, một ngày Chủ nhật. Grace và Mark Rutelli đã quyết định tận hưởng ánh mặt trời trên đảo Nantucket, phía Nam Boston. Họ để hành lý ở Madaket, bãi biển yêu thích nhất của những người lướt sóng, rồi trải khăn tắm hướng ra biển. Bên cạnh hai người, Jodie – lúc đó vừa tròn một tuổi – đang vừa nghịch cát vừa gặm một chiếc bánh quy Oreo.
Một chiếc đài cũ đang phát một bài hát của Simon và Garfunkel nói về sức mạnh của những tình yêu chân thành. Grace nhắm mắt lại. Cô cảm thấy rất dễ chịu. Thanh thản, được tiếng sóng ru êm và được làn gió cuối hè mơn trớn.
Rồi họ ăn trưa ngay trên bãi biển: bánh mì kẹp thịt, gà nguội, và để chiều lòng Jodie, bánh ngọt nhân dâu rừng và nước quả.
Đó cũng là ngày họ bàn luận với nhau về tương lai của họ trong ngành cảnh sát. Một đồng nghiệp cũ của họ đã thành lập một công ty bảo về và mời họ làm một công việc vừa được trả lương cao hơn lại vừa bớt nguy hiểm hơn những công việc mà họ đang làm lúc đó. Rutelli – quá mệt mỏi vì cuộc sống căng thẳng của một nhân viên cảnh sát – đã tỏ vẻ chấp nhận nhưng điều đó là không thể đối với Grace.
– Em yêu nghề của mình, Marko ạ. Em yêu thực tế công việc…
– Em muốn có một mức lương tồi tệ, đi một chiếc xe hơi cũ nát và sống trong một căn hộ tồi tàn?
– Anh đừng nói quá lên như thế. Trước hết căn hộ của em chẳng đến nỗi tồi tàn!
– Dù sao đi nữa, công việc này cũng quá nguy hiểm. Nhất là đối với phụ nữ!
– Rồi đấy! Vậy là anh đã nói ra! Toàn những luận điệu phân biệt đối xử!
– Anh chẳng hề phân biệt đối xử!
– Nghề này chính là thứ em thích làm. Em không muốn có một công việc nhàn hạ. Em yêu ý nghĩ rằng mình đang mạo hiểm cuộc sống của mình để cứu cuộc sống của những người khác…
– Em liều lĩnh quá, Grace ạ. Giờ em đã có một đứa con, em phải nghĩ đến nó một chút chứ!
– Em tin vào ngôi sao may mắn của mình.
– Một ngày nào đó, vận may sẽ bỏ rơi em.
– Khi nào nó bỏ rơi em hẵng hay. Em cũng rất có thể bị xe đâm chết khi đang đi chợ trên phố lắm chứ.
Rutelli cầm máy ảnh lên và đề nghị Grace đứng với Jodie trước mặt biển.
– Em sẽ không bao giờ bỏ công việc này, – Grace vừa nói vừa bế con gái lên tay.
– Nói thế, em cũng phải thận trọng hơn, – Rutelli nhắc lại. – Người ta chỉ sống một lần thôi.
Cô đã nhún vai và nhoẻn miệng cười với anh chàng điệu bộ rất quyến rũ:
– Ai mà biết được, Marko? Ai mà biết được?
Tiếng mở cửa kêu lên ken két khiến Grace đột ngột quay trở lại hiện tại. Cô y tá chỉ quan tâm tới việc kiểm tra xem mọi chuyện với Jodie có ổn không rồi rời khỏi căn phòng ngay mà không để ý tới sự hiện diện của Grace.
Cô trút tiếng thở dài nhẹ nhõm, nhưng cô ý thức được rất rõ rằng cô đang quá mạo hiểm. Cô không thể ở lại đây mãi được.
Một lần nữa, Jodie trở người trên giường và vì thói quen từ ngày xưa, Grace hát khẽ cho con bé nghe một điệu nhạc của Gershwin, êm ả như một bài hát ru và mang tên gọi rất ý nghĩa: Someone to watch over me[1].
Thay lời vĩnh biệt, cô nghiêng mình xuống giường và thì thầm hứa:
– Mẹ không biết mình đi đâu, mẹ không biết chuyện gì sẽ đến với mẹ, mẹ chỉ hy vọng rằng một phần bé nhỏ của mẹ sẽ ở lại với con, dù con không thể nhìn thấy hay nghe thấy mẹ…
Lần này, Jodie giật mình thức giấc.
Có ai đó đang ở trong phòng!
Nó mở mắt ra và bật đèn ngủ lên.
Nhưng Grace đã biến mất.
 
o O o
 
CHELSEA – 151 ĐƯỜNG SỐ 34 PHÍA TÂY
Với vài trăm nghìn mét vuông mặt bằng và cao mười tầng, Macy’s chiếm hẳn một tòa nhà trên Đại lộ số Bảy. Chính khu trung tâm mua sắm, cửa hàng lớn nhất trong số các cửa hàng lớn nhất thế giới này, là nơi Sam và Juliette đến tận hưởng nốt buổi chiều. Sau khi dạo chơi trên phố SoHo và trước khi nhấm nháp một ly kem lạnh ở Serendipity, họ đã cùng nhau bàn hàng giờ liền về những dự định tương lai cho năm mươi năm sắp tới. Họ thống nhất với nhau tên gọi của ba đứa con, màu sơn cửa sổ cho ngôi nhà của họ, nhãn hiệu chiếc xe sắp tới và những nơi họ sẽ cùng đi nghỉ.
Hạnh phúc tột đỉnh, Juliette vô cùng rạng rỡ. Bước chân nhẹ nhõm, cô đi qua tất cả các gian hàng của cửa hàng vĩ đại này, ngây ngất trước những chiếc nôi em bé, những con thú nhồi bông và những chiếc gối ôm. Hơi tụt lại phía sau, Sam cố gắng hưởng ứng mặc dù lòng anh đang tan nát. Suốt buổi chiều, anh phải tán dương một niềm hạnh phúc mà anh sẽ không bao giờ có được, bởi anh ý thức rất rõ mình đang sống những giờ phút cuối cùng của cuộc đời. Ngày mai, cũng vào giờ này, anh sẽ không hiện diện trên cõi đời nữa, và điều đó khiến anh cảm thấy vô cùng chán nản. Thế nhưng không một giây nào anh cảm thấy hối hận về đề nghị của anh với Grace. Anh phải cứu Juliette và đó là ý nghĩ duy nhất đem lại cho anh cảm giác nhẹ nhõm, đủ để xua đi tất cả.
Cũng không nên tự lừa dối mình làm gì, anh phải chịu trách nhiệm về cái chết của hai con người và dù đó có là những tên buôn ma túy đi nữa thì cảm giác tội lỗi của anh mất hết ý nghĩa. Anh có thể tự nhủ với mình đủ thứ: sâu thẳm trong lòng, anh vẫn biết một ngày nào đó anh sẽ phải trả giá và cái chết của Federica không đủ để thanh toán hết món nợ của anh. Chính vì thế, anh đã nói dối Juliette đêm đầu tiên, vì gánh nặng tội lỗi của anh đã ngăn cấm anh mãi mãi không được hưởng hạnh phúc.
– Sam!
Từ cuối lối đi, Juliette đang vẫy anh lia lịa, thích thú khi nhìn thấy một con khủng long nhồi bông cao hơn năm mét. Anh cười với cô song tâm trí anh để đi chỗ khác.
Như thể anh đã chết.
Khỉ thật, anh sợ đến đờ đẫn cả người mất rồi! Thế mà đã rất nhiều lần anh đồng hành với bệnh nhân cho tới tận ngưỡng cửa tử. Anh đã cầm tay của những người không gia đình, cố tìm những lời an ủi để xua đi nỗi kinh hoàng trong họ. Nhưng mọi sự lại khác hoàn toàn khi nó liên quan tới cái chết của chính anh!
Sam rã rời. Nỗi sợ của anh còn xen lẫn cả cảm giác bị tước đoạt vì anh sẽ không bao giờ được thấy con anh. Nó sẽ là trai hay gái? Ngay cả điều đó anh cũng sẽ chẳng bao giờ biết.
Vậy mà đã nhiều năm nay anh đã ao ước xây dựng một gia đình. Anh chưa bao giờ có được điều đó và nó khiến anh đau đớn. Anh muốn có nhiều con để bám chắc hơn vào cuộc sống. Trong một môi trường ngày càng thù địch và phi nhân tính như hiện nay, anh mong mỏi tạo lập được những mối liên hệ sâu sắc và xây dựng được một không gian sống yên ổn, giàu tình người.
Nhưng mọi chuyện sẽ không diễn ra như vậy. Ngày mai, anh sẽ biến mất. Juliette có lẽ sẽ quay về Pháp và làm lại cuộc đời. Thậm chí có thể con anh sẽ chẳng bd cô nghe nhắc đến anh. Suy cho cùng, anh sẽ để lại gì cho nó? Anh chẳng có tài sản, chẳng có của cải, chẳng có bất cứ bằng chứng nào vệ sự có mặt của anh trên trái đất. Đúng là anh đã chữa bệnh và chăm sóc cho hàng trăm người, nhưng liệu còn ai nhớ đến anh?
Bỗng nhiên, anh nghĩ ra một việc: tại sao anh không thành hôn với Juliette trước khi chết nhỉ? Phải rồi, đó chính là giải pháp! Điều đó tương đương với việc chính thức thừa nhận con của anh. Anh suy nghĩ một lát rồi dùng máy di động của Juliette gọi đến Tòa Thị chính để hỏi thủ tục. Liệu họ có thể thành hôn trong buổi tối hôm nay hoặc sáng mai được không? Người ta trả lời anh rằng đây không phải là Las Vegas và mọi buổi lễ thành hôn tại Bang New York đều phải được cấp wedding license mà để có được nó thì phải trình đơn yêu cầu trước buổi lễ tối thiểu hai mươi tư giờ đồng hồ. Quả là hợp lý: người ta muốn tránh những cuộc hôn nhân được quyết định một cách bốc đồng. Sam chán chường gác máy. Anh thậm chí còn không có đủ hai mươi tư giờ cho mình.
– Liệu anh có yêu em mãi mãi không?
Đang mê mải với những ý nghĩ của mình, anh ngẩng đầu lên và phát hiện ra Juliette đang đứng nhón gót chân trước mặt đợi anh trao cô một nụ hôn.
– Mãi mãi, – anh trả lời và hôn cô.
Anh mong muốn điều đó thành hiện thực biết bao, thế nhưng như Grace Costello đã nói, chắc chắn trong cuộc sống có những thứ người ta không thể nào chạy trốn được.
Ra đến vỉa hè, trong khi Juliette bước lên taxi trước, một ý nghĩ khác lại nảy sinh trong tâm trí Sam.
– Em không ngại đi về một mình chứ? Anh muốn tạt qua bệnh viện một lát.
– Nhưng em muốn ở bên anh cả buổi tối cơ!
– Cho anh hai tiếng thôi, em nhé. Có chuyện quan trọng.
Cô bĩu môi tỏ vẻ thất vọng.
– Chỉ hai tiếng ít ỏi thôi mà! – Sam hứa và vừa đóng cửa xe vừa hôn cô.
Còn lại một mình, anh nhìn đồng hồ. Anh sẽ không bị muộn. Nếu khẩn trương, có thể anh vẫn còn thời gian. Không chờ được một chiếc taxi khác, anh lao xuống trạm tàu điện ngầm gần nhất và ngược lại điều anh đã khẳng định với Juliette, anh không đến bệnh viện mà đến ngân hàng.
– Thông thường các chuyên viên tư vấn tài chính của chúng tôi chỉ có thể tiếp khách khi có hẹn trước, – nhân viên lễ tân giải thích với anh. – Tuy vậy, may ra có ai đó trong số họ kết thúc công việc sớm hơn dự định. Tôi sẽ thử hỏi xem.
Sam kiên nhẫn đợi trong khoảng không gian được bố trí thành phòng chờ nơi anh có thể xem một số tài liệu dành cho khách tham khảo. Vì thế, khi anh bước vào phòng làm việc của Ed Zick Jr., chuyên gia tư vấn đầu tư, anh đã có thừa thông tin để hoàn thiện kế hoạch của mình.
– Tôi có thể giúp được gì, thưa ông?
– Tôi muốn mua một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, – Sam giải thích.
– Chúng tôi có một mẫu hợp đồng tuyệt vời, đơn giản và ít tốn kém, có thể đảm bao tương lai cho những người thân của ông, – nhân viên ngân hàng bắt đầu ngâm nga.
Sam gật đầu và khuyến khích anh ta tiếp tục.
– Ông có thể hiểu nguyên tắc của các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ không? Mỗi tháng ông sẽ rót vào một khoản tiền đóng phí. Nếu không có chuyện gì xảy ra với ông – lạy Chúa ban phước để điều đó luôn đúng – ông sẽ mất khoản phí đó. Nhưng trong trường hợp tử vong sớm, chúng tôi sẽ rót một khoản tiền cho người thừa hưởng do ông chỉ định: vợ ông, các con ông hoặc… một người nào khác. Và khoản tiền đó không phải đóng bất cứ một khoản thuế thừa kế nào.
– Đó chính là thứ mà tôi đang tìm kiếm.
Trong vòng chưa tới nửa tiếng, hai người đã thống nhất xong mức phí bảo hiểm, thời hạn đóng, mức đền bù và người thừa hưởng hợp đồng.
Sam điền vào một bảng câu hỏi y khoa và hứa ngày hôm sau sẽ đi xét nghiệm máu. Ở tuổi của anh, các thủ tục tương đối đơn giản. Ed Zick đưa cho anh danh sách các tổ chức được công nhận và thật may mắn vì bệnh viện của anh nằm trong số đó. Sáng mai anh có thể tiến hành ngay xét nghiệm này. Lại thêm một vận may nữa: Ed Zick làm việc cả thứ Bảy và anh ta đề nghị hồ sơ sẽ có hiệu lực ngay khi anh ta nhận được bản fax xét nghiệm.
Trong lúc Sam chuẩn bị đặt bút ký thì anh chàng nhân viên ngân hàng thủ thỉ gợi ý với anh một điều khoản đảm bảo bổ sung: nhân đôi khoản tiền trong trường hợp tử vong do tai nạn.
Sam nhíu mày và ra chiều suy nghĩ. Anh đã theo học một khóa học về kinh tế y khoa và biết rõ đây là một mẹo marketing. Theo thống kê, chỉ có một trên mười hai hay mười ba các ca tử vong có nguyên nhân do tai nạn. Do đó, các hãng bảo hiểm không phải gánh chịu nhiều rủi ro nghiêm trọng lắm trong khi phần lớn các khoản đóng góp sẽ giúp họ bứt phá về lợi nhuận.
– Đồng ý, – Sam nói và nghĩ tới tai nạn cáp treo sẽ đưa anh đi.
Miệng cười hớn hở, Ed Zick chìa tay cho anh, tin chắc đã dễ dàng lừa vào tròng một khách hàng béo bở.
Ngày mai anh sẽ bớt cười cợt, Sam nghĩ khi chào tạm biệt. Song điều đó cũng chỉ mang lại chút an ủi thoáng qua.
Khi anh ra đến phố, trời đã trở nên lạnh buốt và màn đêm bắt đầu buông xuống. Trên trời, những vì sao đầu tiên đang xuất hiện.
Sam trút tiếng thở dài nhẹ nhõm. Ít ra, tương lai vật chất của Juliette và con anh cũng đã được đảm bảo.
Nhưng anh biết tiền bạc chỉ là một lối thoát giả tạo.
 
o O o
 
Nam Brooklyn – khu phố Bensonhurst – đầu buổi tối.
Mark Rutelli leo hai tầng gác của một tòa nhà xây gạch nâu. Ông mở cửa căn hộ của mình và không bật đèn ngay. Rèm cửa đã được kéo hết lên và vầng trăng tròn vành vạnh tỏa khắp căn phòng một thứ ánh sáng xanh dìu dịu. Trái với điều người ta có thể đoán được, căn hộ này, dù khiêm tốn và không có gì đặc biệt, song lại rất sạch sẽ và gọn gàng.
Rutelli không về nhà từ hai ngày nay. Cả đêm hôm qua ông ở bệnh viện và cả ngày thì đi trực. Chừng nào công việc còn khiến ông bận rộn thì chừng ấy ông còn cảm thấy trong mình khỏe khoắn; lúc này, ông rất sợ phải ở một mình. Ông cho một đĩa CD vào dàn nghe: một bản giao hưởng của Prokofiev. Ông yêu thích và am hiểu nhạc cổ điển. Những người chỉ mới quen biết ông thời gian gần đây vẫn luôn coi ông là một gã quê mùa nghiện rượu không có khả năng gì khiến họ vì nể. Song những người trước kia đã từng nói chuyện với ông thì đều biết ông là người hiểu biết và nhạy cảm.
Ông bước vào buồng tắm, tắm dưới vòi hoa sen, cạo râu rồi thay một bộ quần áo sạch sẽ: quần jean đen và áo phông màu nước biển mà Grace tặng ông cách đây rất lâu nhưng nhiều năm nay ông không dùng tới. Lần đầu tiên sau nhiều tháng, ông dám nhìn mình trong gương. Thông thường, ông không thích thứ mà ông thấy trong đó, nhưng từ khi cứu thoát Jodie, ông cảm thấy trong mình có điều gì biến chuyển và ông nhìn chăm chú không hề chớp mắt vào hình ảnh phản chiếu trong gương.
Rồi ông đi vào bếp và mở tủ lạnh lấy ra một bịch sáu chai bia Budweiser. Đó khẩu phần của ông, là liều thuốc của ông, là thứ duy nhất ông tìm được để chắc mình có thể đi vào giấc ngủ. Và ông biết rất rõ điều gì sẽ xảy đến: ông sẽ uống đến khi ngã vật ra, đờ đẫn vì say và ngủ một giấc đầy mộng mị cho tới ba giờ sáng. Khi đó, ông thức dậy, lo lắng và run rẩy, và để có thể ngủ đến tận sáng, ông sẽ phải uống thêm một cốc vodka đầy tràn trong tâm trạng áy náy.
Ông đặt sáu lon bia lên bàn nhưng không đụng tới một lon nào.
Mày đang chơi trò gì thế này? Mày biết rất rõ rằng cuối cùng mày cũng sẽ uống.
Ông mở lon đầu tiên song vẫn không đụng tới.
Mày thấy khoái chí, đúng không, khi tự nhủ với mình rằng đó chỉ là chuyện muốn là được!
Ông dốc hết bia trong lon vào bồn rửa bát, lon thứ nhất rồi tới lon thứ hai, lon thứ ba, lon thứ tư và lon thứ năm.
Thế đấy, giờ thì mày chỉ còn một lon thôi. Cứ tiếp tục trò chơi này thêm chút nữa đi xem nào.
Ông muốn uống chết đi được. Mặc dù vậy, ông vẫn dốc cạn lon cuối cùng vào bồn rửa bát và mở vòi cho nước chảy để xua tan mùi bia.
Ông châm một điếu thuốc và bước ra hiên. Ngày mai, ông sẽ tới gặp Sam Galloway nhờ giúp đỡ và nếu cần ông sẽ đi cai nghiện. Lần đầu tiên trong đời ông cảm thấy phải làm điều đó. Ông sẽ dừng uống, vì ông và vì Jodie.
Ông thổi thổi vào hai bàn tay cho ấm. Trời rét như cắt. Khi đang chuẩn bị quay lại phòng thì ông nghe có tiếng bước chân phía sau.
– Chào anh, Marko.
Ông quay phắt lại, hoảng hốt khi nghe thấy giọng của người vừa gọi ông.
Grace đang đứng cách ông ba mét. Rạng rỡ, tự tin, đúng như trong ký ức của ông.
Đôi mắt Rutelli nhòa đi. Cảm xúc này quá sức chịu đựng của ông.
Khỉ thật, mình không uống một giọt rượu nào từ hai ngày hôm nay…
Có lẽ ông đã mất trí. Ông bước một bước về phía cô, thử cất tiếng nói, nhưng giọng ông trở nên lắp bắp:
– Anh… anh không hiểu…
– Em nghĩ chẳng có gì nhiều để hiểu, – cô vừa nói vừa đặt ngón tay lên miệng ông.
Grace vòng tay ôm lấy ông và Rutelli thả lỏng người cho thời khắc mà ông đang được sống.
Họ ôm chặt nhau như vậy rất lâu, Rutelli lại thấy lại mùi hương không hề thay đổi trên làn da của người đồng nghiệp cũ, một mùi hương phảng phất sữa và va ni mà ông không bao giờ quên được.
– Anh đã nhớ em biết bao nhiêu, – ông thú nhận.
– Em cũng vậy, Marko, em cũng nhớ anh.
Rutelli cảm thấy tim mình đập thình thịch vì xúc động và lo âu. Ông cầm lấy cổ tay Grace, không thể buông ra được vì sợ lại đánh mất cô thêm lần nữa.
– Em đã thực sự quay lại ư? – mãi rồi ông cũng nói ra được.
Cô nhìn thẳng vào mắt ông và đặt tay lên má ông.
– Phải, Marko ạ.
Cô dừng lại, đến lượt cô trở nên quá xúc động.
– … nhưng em sẽ không ở lại, – cô nói nốt câu.
Ánh mắt rạng rỡ của Rutelli chợt tối đi tức thì. Grace tựa đầu lên vai ông.
– Em sẽ giải thích tất cả.
 
o O o
 
Một giờ sau, Grace đã kể cho Rutelli nghe toàn bộ câu chuyện khó tin của cô. Rất nhiều lần, ông nhíu mày tỏ vẻ ngạc nhiên, thế nhưng ông chẳng còn cách nào khác ngoài việc chấp nhận những gì cô bạn đồng nghiệp kể. Dù mọi khái niệm cơ bản trong ông đều đang tan biến song ông biết điều Grace nói là sự thật. Quá hạnh phúc vì được gặp lại cô, ông không muốn làm cho mọi chuyện trở nên nặng nề bởi những câu hỏi mà ông biết chắc sẽ chẳng bao giờ có câu trả lời.
Thật ngược đời vì chính Grace lại là người muốn tìm hiểu thông tin.
– Có thể anh sẽ giúp được em, – cô vừa nói vừa đưa cho ông một tập giấy.
Rutelli mở ra xem. Đó là báo cáo khám nghiệm tử thi Grace. Ông đã đọc tập hồ sơ này nhiều lần song thêm một lần nữa ông nghiên cứu nó chăm chú.
– Anh không thấy có điều gì kỳ lạ ư?
– Điều gì? – ông hỏi.
– Dấu vết heroin, Mark ạ! Tại sao? Em không bị nghiện, phải không?
Rutelli thở dài, lúng túng.
– Em không nhớ ư?
– Không.
Lúc này, Grace cảm thấy lo ngại về điều Rutelli sắp tới cho cô biết. Cô chẳng dám chắc điều gì nữa. Thực ra cô là ai? Cô có điều gì cần giấu giếm chăng?
– Hồi đó, Đôi Chống ma túy đề nghị em đảm nhiệm vị trí tay trong…
– Em làm tay trong ư?
Rutelli gật đầu:
– Khi bị giết, em đang tìm cách trà trộn vào một nhóm buôn lậu ma túy.
– Điều đó giải thích cho dấu vết ma túy…
– Phải, em biết công việc như vậy thường giả dối thế nào rồi đấy…
Grace gật đầu. Dần dần, các ký ức xuất hiện trở lại. Để được các tên trùm buôn ma túy chấp nhận, cảnh sát trà trộn vào đội ngũ của chúng thường phải tự chích ngay trước mặt chúng. Chỉ để đánh lừa chúng và không làm mất vỏ bọc của chúng. Grace biết rõ có rất nhiều người trong số họ trở thành những con nghiện thực sự và bước chân sang phía bên kia hàng rào ranh giới.
– Em phải biết anh đã tìm cách ngăn em chấp nhận công việc đó, – Rutelli trấn an cô. – Nhưng em là một thanh tra trẻ đầy nhiệt huyết và năng nổ lúc nào cũng tin chắc như đinh đóng cột vào công việc của mình.
– Em muốn có ích cho xã hội và có thể mang lại cho con gái em một thế giới an toàn hơn.
– Phải, nhất là em lại cứng đầu và chúng ta đều biết điều đó đã dẫn em đi tới đâu!
– Cuộc sống thường ác nghiệt, – cô nhận xét và nghĩ tới điều đã xảy ra với Jodie sau đó.
– Phải, – ông thừa nhận, – ác nghiệt và ngắn ngủi.
Một nỗi buồn sâu lắng chợt trùm lên hai người cảnh sát. Grace sực tỉnh và tự trách mình đã làm nguội lạnh sự nồng nàn của buổi trùng phùng giữa hai người.
– Đừng lãng phí buổi tối hôm nay, Marko. Anh sẽ đưa em đi đâu đó ăn tối chứ? – cô đề nghị, cố làm cho bầu không khí vui vẻ trở lại.
– Đến bất cứ chỗ nào em muốn.
– Nhà hàng quen thuộc của chúng ta, – cô hóm hỉnh đề nghị.
Họ chạy xe vài phút về phía Bắc và đậu lại ở khu Brooklyn Heights, cách RiverManhattan và cầu Brooklyn. Trước kia, mỗi lần đi tuần trong khu phố, Grace và Rutelli thường nói với nhau rằng một ngày nào đó, nếu khá giả, họ sẽ cùng ăn một bữa trong nhà hàng sang trọng này. Còn trong khi chờ đợi, họ thường mua pizza tại cửa hàng Grimaldi’s và quay lại nhấm nháp trong xe. Ăn pizza trong xe chính là cái mà họ vẫn gọi là nhà hàng quen thuộc của họ. Một sự lựa chọn ít tốn kém hơn River Café. Có thể là kém sang trọng hơn, nhưng dù sao đi nữa thì quang cảnh cũng đẹp như thế. Café không xa. Nhà hàng trứ danh, nổi tiếng khắp thế giới này, có một tầm nhìn độc nhất vô nhị bao quát cả
Grace ngồi lại một mình trong xe chờ Rutelli đi mua thức ăn. Ông gõ tay lên kính rồi chui vào xe với một cái hộp bằng bìa.
– Pizza del Mare, nếu anh nhớ không nhầm?
– Trí nhớ của anh rất tốt.
Giống như ngày trước, họ vừa ăn vừa nghe đài, ánh mắt nhìn xa xăm về phía bên kia cầu Brooklyn. Trên đài, Neil Young đang chơi ghi ta những bản tuyệt hay của Harvest Moon. Các tòa nhà chọc trời của khu Hạ Manhattan trải ra trước mắt họ và một lần nữa họ lại có cảm giác như cả thế giới này thuộc về họ. Ở đây, suốt nhiều giờ liền, họ đã thảo luận, vui đùa và tái thiết thế giới.
Giờ khắc thần tiên trôi qua, thế rồi Rutelli liền đặt câu hỏi mà ông giữ trong lòng hồi lâu:
– Liệu em có thể ở lại thêm một thời gian không?
Grace chậm rãi lắc đầu:
– Không được, Marko ạ, điều em đang làm đã khá là vô trách nhiệm rồi…
– Thế khi nào em lại ra đi và đi như thế nào?
Cô kể cho ông nghe chuyện gì sẽ phải xảy ra ngày mai trên cáp treo ở Đảo Roosevelt và một nỗi buồn sâu lắng chợt xâm chiếm Rutelli. Grace tìm cách an ủi ông:
– Anh phải chấm dứt thần tượng hóa em đi. Anh phải học cách sống thiếu em.
– Anh không thể.
– Đương nhiên là anh có thể. Anh còn trẻ, anh có hàng đống ưu điểm. Anh có thể làm lại cuộc đời, xây dựng gia đình và sống hạnh phúc. Và nếu có thể thì xin anh hãy để mắt tới Jodie.
Rutelli đột ngột quay lại phía cô và nhíu mày:
– Thế còn… em thì sao?
– Em, em đã chết rồi, – Grace đáp rất nhẹ nhàng.
Sự thật này, dù thế nào đi nữa, Mark Rutelli cũng không thể chấp nhận được.
– Lẽ ra anh phải đi với em, buổi tối hôm em bị sát hại. Lẽ ra anh phải có mặt ở đó để bảo vệ em và không bao giờ được rời xa em!
– Không, Marko! Không! Anh không việc gì phải tự trách mình. Cuộc sống là như vậy mà.
Rutelli vẫn không thôi hối hận:
– Nếu làm thế thì mọi chuyện đã khác.
Trong một hồi lâu, mỗi người tự thu mình vào một góc riêng tư và chẳng ai nói gì cho tới khi Grace luồn tay vào tóc Mark.
– Anh cần phải đoạn tuyệt hoàn toàn với nỗi đau,- cô thì thầm.
Rutelli chỉ lắc đầu.
– Hãy làm điều đó vì em. Hãy phá bỏ bức tường cô đơn và nghiện ngập mà anh đã xây lên quanh mình.
– Giá em biết được anh nhớ em biết chừng nào, Grace.
Giọng ông lạc đi và ông quay đầu ra chỗ khác để cô không thấy ông đang khóc.
– Em cũng nhớ anh, – cô vừa nói vừa nghiêng người lại gần ông.
Lúc đó, họ cùng quên đi tất cả và cuối cùng thì họ cũng trao nhau nụ hôn đầu tiên.
Họ quay về Bensonhurst sau nửa đêm một chút. Khi đến chân tòa nhà nơi ông ở, Rutelli biết giờ chia tay đã điểm và tim ông thắt lại.
– Em biết đấy, nhất định em phải biết rằng…
Grace dịu dàng ngắt lời ông:
– Em biết, Marko, em biết.
Cô cố đấu tranh để không cho cảm xúc trào lên. Thay vào đó, cô nói bằng giọng bông đùa:
– Anh không mời em một ly cuối cùng sao? Em cứ tưởng anh là người biết cách cư xử với phụ nữ chứ…
Hơi ngượng nghịu, họ bước lên cầu thang và khi cánh cửa khép lại, sự ngượng nghịu của họ hoàn toàn biến mất và họ quấn lấy nhau nồng nhiệt như một cơn lốc xoáy. Cả hai đều biết rằng đêm nay sẽ là đêm của họ và cũng sẽ là đêm cuối cùng.
Họ tận dụng từng giây một. Thời gian không tồn tại nữa. Chỉ có hai con người yêu nhau say đắm, yêu nhau như thể họ sẽ không bao giờ xa nhau.
Sáng sớm hôm sau, Rutelli bị đánh thức bởi tiếng ríu rít của những con chim chích và chim sẻ. Căn hộ vẫn tràn ngập thứ ánh sáng màu xanh dương nhạt. Động thái đầu tiên của ông là quay sang chiếc gối bên cạnh. Không có phép màu nào diễn ra: Grace không còn ở bên ông nữa và ông biết cô sẽ không quay lại.
Ông đứng lên và nhìn qua cửa sổ, ngắm ngày bắt đầu lên.
Ông suy nghĩ hồi lâu về tất cả những gì Grace nói với ông cho tới khi một ý nghĩ chợt lóe lên trong ông như một điều hiển nhiên. Ông cân nhắc mọi hậu quả có thể rồi quyết định.
Khi ông khép cửa sổ lại, trái tim ông tràn ngập một sự thanh thản kỳ lạ.
Chú thích
[1] Ai đó để bảo vệ tôi. (chú thích của tác giả).

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.