Hoa trên mộ Algernon

Chương 21



16 tháng Bảy – Tối qua Alice gặp Fay. Tôi vẫn luôn lo ngại không biết nếu hai người gặp mặt nhau thì thế nào. Alice đến gặp tôi sau khi nghe Burt nói chuyện về tình hình Algernon. Cô biết điều đó có nghĩa là gì, và cô vẫn cảm thấy có trách nhiệm động viên tôi ngay.

Chúng tôi ngồi uống cà phê và nói chuyện rất khuya. Tôi biết rằng Fay đã đến sàn nhảy Stardust, vì vậy tôi không nghĩ là cô lại về sớm đến thế. Nhưng tầm khoảng một giờ bốn mươi lăm phút sáng, chúng tôi giật mình khi Fay đột ngột xuất hiện trên lối thoát hiểm. Cô gõ nhẹ, đẩy cánh cửa sổ khép hờ rồi bước vào phòng, chân nhún nhảy điệu waltz, tay cầm một cái chai.

“Lẻn vào dự tiệc, “cô nói. “Tự mang theo đồ uống.”

Trước đó, tôi đã từng kể cho cô nghe về Alice tham gia dự án ở trường đại học, và cũng đã đề cập về Fay với Alice – vì vậy họ không hề ngạc nhiên khi gặp nhau. Nhưng sau vài giây đánh giá lẫn nhau, họ bắt đầu nói chuyện về hội họa, về tôi, và về tất cả những gì họ quan tâm, cứ như tôi đang ở một nơi xa lắc nào đó trên thế giới. Họ thích nhau.

“Để anh đi pha cà phê,” tôi nói và đi vào bếp để mặc họ với nhau.

Khi tôi quay lại, Fay đã cởi giày ra và đang ngồi trên sàn, tu rượu từ trong chai. Cô đang giải thích với Alice rằng theo cô thì tắm nắng là điều quý giá nhất đối với cơ thể người, và sống khỏa thân là câu trả lời cho mọi vấn đề về đạo đức thế giới.

Alice cười như điên khi Fay đề xướng ý tưởng là tất cả chúng ta hãy tham gia vào một nhóm khỏa thân nào đó rồi nàng trườn tới và nhận lấy ly rượu Fay rót cho nàng.

Chúng tôi ngồi nói chuyện đến tận sáng, và tôi vẫn giữ nguyên ý định đến thăm nhà Alice. Khi nàng phản đối rằng điều này không cần thiết, Fay kiên quyết nói rằng thật ngớ ngẩn khi ra đường một mình vào giờ này. Vì vậy tôi đi xuống đường và vẫy taxi.

Trên đường về nhà, Alice nói: “Ở cô ấy có một điều gì đó. Em không biết là điều gì. Chân thành, tin người, không vị kỉ…”

Tôi đồng ý.

“Và cô ấy yêu anh.” Alice nói.

“Không. Cô ấy yêu tất cả mọi người.” Tôi khẳng định. “Anh chỉ là người hàng xóm bên kia hành lang thôi.”

“Không phải là anh đang yêu cô ấy sao?”

Tôi lắc đầu: “Em là người phụ nữ duy nhất anh yêu.”

“Đừng nói về chuyện ấy nữa.”

“Thế là em ngăn không cho anh đến với một nguồn trò chuyện quan trọng rồi.”

“Chỉ có một điều duy nhất em lo lắng, Charlie ạ. Uống rượu. Em đã nghe nói về những vụ nôn mửa của anh.”

“Em bảo với Burt là chỉ nên quan sát và báo cáo về dữ liệu thử nghiệm thôi. Anh sẽ không để cho anh ta đầu độc em bằng những câu chuyện chống lại anh như thế. Anh có thể kiểm soát được việc uống rượu.”

“Em đã từng nghe thấy điều này.”

“Nhưng không phải là từ anh.”

“Đó là điều duy nhất em phản đối cô ấy.” Nàng nói. “Cô ấy cho anh uống rượu và cản trở anh làm việc.”

“Việc đó anh cũng kiểm soát được.”

“Bây giờ công việc là quan trọng, Charlie ạ. Không phải là với thế giới và hàng triệu người xa lạ, mà là với anh. Charlie, anh phải giải quyết vấn đề này cho bản thân anh nữa. Đừng để bất cứ ai trói tay anh lại.”

“Như vậy là bây giờ sự thật mới bắt đầu xuất hiện.” Tôi trêu nàng. “Em muốn anh ít gặp cô ấy hơn.”

“Ý em không phải là như vậy.”

“Rõ ràng là như vậy mà. Nếu cô ấy cản trở công việc của anh thì cả hai chúng ta đều biết là anh phải gạt cô ấy ra khỏi cuộc sống của anh.”

“Không, em nghĩ rằng anh không nên gạt cô ấy ra khỏi cuộc sống của anh. Cô ấy rất tốt cho anh. Anh cần có một người bên cạnh mình như cô ấy.”

“Em mới là người cần cho anh.”

Nàng quay mặt đi. “Nhưng không phải theo cách của cô ấy.” Nàng quay lại nhìn tôi. “Đêm nay em đến đây với tâm thế căm ghét cô ấy. Em muốn thấy cô ấy là một con điếm đê tiện, ngu xuẩn mà anh giao du, và em đã chuẩn bị những kế hoạch lớn để can thiệp và giành lấy anh từ tay cô ấy. Nhưng giờ đây gặp cô ấy rồi, em mới nhận thấy rằng em chẳng có quyền gì để phán xét hành vi của cô ấy cả. Em nghĩ cô ấy sẽ tốt cho anh. Điều này làm em cảm thấy thoải mái. Em thích cô ấy cho dù lòng em không muốn. Nhưng thay vì thế, nếu anh phải cùng cô ấy uống rượu và suốt ngày la cà ở các hộp đêm và quán rượu thì có nghĩa là cô ấy đang ngáng trở anh. Và rắc rối này chỉ một mình anh giải quyết được mà thôi.”

“Còn rắc rối nào khác nữa không?” tôi cười.

“Anh đủ sức giải quyết không? Anh dính vào cô ấy sâu quá rồi. Em thấy rõ mà.”

“Không sâu đến thế đâu.”

“Anh đã kể cho cô ấy nghe về mình chưa?”

“Chưa.”

Không thể nhận thấy, nhưng tôi biết nàng thở phào nhẹ nhõm. Khi còn giữ bí mật về bản thân thì có nghĩa là tôi vẫn còn chưa hoàn toàn thuộc về Fay. Cả hai chúng tôi đều biết rằng một con người tuyệt vời như Fay sẽ không bao giờ hiểu nổi.

Tôi nói: “Anh cần cô ấy, và trên một phương diện nào đấy thì cô ấy cũng cần anh, với lại sống ngay sát bên cạnh nhau như vậy cũng tiện, thế thôi. Nhưng anh sẽ không gọi đấy là tình yêu – nó không giống với điều tồn tại giữa hai chúng ta.”

Nàng nhìn xuống tay và nhíu mày: “Em cũng không chắc là em có biết điều gì tồn tại giữa hai chúng ta nữa.”

“Điều đó sâu sắc và ý nghĩa đến mức Charlie trong anh thấy sợ hãi mỗi khi anh có cơ hội nào đó để làm tình với.”

“Còn với cô ấy thì không?”

Tôi nhún vai: “Đấy là cách để anh biết rằng chuyện đó không quan trọng với cô ấy. Nó không đủ để Charlie thấy hoảng sợ.”

“Hay đấy!” nàng bật cười. “Và mỉa mai ghê gớm. Khi anh nói về cậu ta như vậy, em thấy ghét vì cậu ta đã xen vào giữa chúng ta. Anh có nghĩ rằng sẽ có lúc cậu ta để cho anh… để cho chúng ta…”

“Anh không biết. Anh hy vọng vậy.”

Tôi chia tay nàng ở cửa. Chúng tôi bắt tay, nhưng thật lạ là cái bắt tay này lại gần gũi và thân mật hơn cả một cái ôm.

Tôi về nhà và làm tình với Fay, nhưng vẫn nghĩ về Alice.

27 tháng Bảy – Làm việc suốt ngày đêm. Bất chấp Fay phản đối, tôi đặt một cái giường xếp trong phòng thí nghiệm. Cô đã trở nên quá sở hữu và căm ghét công việc của tôi. Tôi nghĩ cô có thể chấp nhận một người phụ nữ khác, nhưng không thể chấp nhận việc tôi chú tâm mê mải vào một thứ mà em không thể theo được. Tôi từng lo ngại điều này sẽ xảy ra, nhưng bây giờ tôi không còn kiên nhẫn với cô được nữa. Tôi ghen tị với từng giây phút xa rời công việc – nổi nóng với bất cứ ai tìm cách đánh cắp thời gian của tôi.

Mặc dù phần lớn thời gian viết lách của tôi đều dành để ghi chú thích và tôi cất chúng vào một hồ sơ riêng, thỉnh thoảng tôi vẫn ghi lại cảm xúc và suy nghĩ theo thói quen.

Tính toán trí tuệ là môn nghiên cứu thú vị. Về một phương diện nào đó, nó là vấn đề mà suốt cuộc đời tôi vẫn hằng quan tâm. Đây là nơi áp dụng tất cả mọi kiến thức mà tôi có được.

Bây giờ thời gian như có một chiều khác nữa – công việc và niềm say mê tìm kiếm câu trả lời. Thế giới quanh tôi và quá khứ của tôi dường như xa cách và méo mó, như thể thời gian và không gian là một miếng kẹo bị kéo căng ra, cuộn thành vòng tròn và vặn xoắn lại làm biến dạng. Thứ duy nhất có thực là những chiếc lồng và lũ chuột cùng với thiết bị thí nghiệm ở đây, tại tầng bốn tòa nhà chính.

Không còn khái niệm ngày đêm nữa. Tôi phải nhét một đời nghiên cứu vào phạm vi vài tuần ngắn ngủi. Tôi biết mình cần phải nghỉ ngơi, nhưng tôi chưa thể nghỉ được chừng nào chưa tìm ra sự thật về những gì đang xảy ra.

Alice đã trở thành một nguồn hỗ trợ lớn lao. Nàng mang bánh sandwich và cà phê cho tôi, nhưng không đòi hỏi gì.

Quan điểm của tôi là: cái gì cũng phải cụ thể và rõ ràng, mỗi cảm giác đều được làm nổi bật và minh họa sao cho đèn đỏ, đèn vàng, đèn xanh dương nhấp nháy. Ngủ ở đây mang lại hiệu ứng rất lạ. Mùi động vật thí nghiệm như chó, khỉ, chuột đưa tôi trở lại kí ức, và thật khó mà phân biệt được là tôi đang trải nghiệm một cảm giác mới hay đang nhớ lại quá khứ. Không thể nào biết được đâu là ký ức và đâu là thực tại – thế là một hợp chất được hình thành từ ý thức và thực tại; quá khứ và hiện tại; phản xạ tới kích thích tố lưu trong trung tâm não – của tôi và phản xạ tới kích thích tố trong căn phòng này. Cứ như thể tất cả những gì tôi học được đều tan chảy thành một vũ trụ pha lê quay tròn trước mặt tôi, cho phép tôi nhìn thấy mọi mặt của nó phản chiếu trong một vụ nổ ánh sáng rực rỡ…

Một con khỉ ngồi chính giữa lồng, nhìn tôi bằng đôi mắt ngái ngủ, dùng đôi tay nhỏ bé nhăn nheo như tay người già xoa xoa má…chí… chíí… chíííí… rồi nhảy vọt từ lưới thép lên chiếc đu trên đầu, nơi một con khỉ khác đang ngồi nhìn đờ đẫn vào không trung. Đái, ỉa, đánh rắm, nhìn tôi và cười… chíííí… chíííí… chíííííí…

Rồi nhảy quanh, lao lên, chạy lò cò, hết lên rồi lại xuống, nó đánh đu và tìm cách túm đuôi con khỉ kia, nhưng con khỉ ngồi trên thanh đu nhẹ nhàng đuổi nó ra khỏi tầm với. Khỉ xinh… khỉ đẹp… đôi mắt to và cái đuôi quất vun vút. Con cho nó ăn lạc được không?… không, ông ấy mắng đấy. Trên biển ghi không được cho thú ăn. Đây là một con tinh tinh. Con có được nuôi nó không? Không. Con muốn nuôi con tưn tưn. Đừng bận tâm, đi xem voi nào.

Bên ngoài, từng nhóm người tươi vui ăn diện đón xuân.

Algernon nằm trong đám chất thải của nó, không động đậy, và mùi bốc lên nặng hơn bao giờ hết. Còn tôi thì sao?

28 tháng Bảy – Fay có bạn trai mới. Đêm qua tôi về nhà với cô. Tôi ghé qua phòng tôi trước để lấy chai rượu và sau đó chui qua lối thoát hiểm. Nhưng thật may là tôi đã nhìn trước khi trèo vào. Họ đang ngồi với nhau trên ghế bành. Thật lạ là tôi chẳng thấy bận tâm lắm. Gần như là cảm giác được giải thoát.

Tôi quay lại phòng thí nghiệm để xử lý Algernon. Có những lúc nó đã thoát ra khỏi tình trạng hôn mê. Theo định kỳ, nó phải hoàn thành một mê cung biến đổi, nhưng khi thất bại và thấy mình đang đứng trong một lối cụt, nó phản ứng một cách bạo lực. Lúc về đến phòng thí nghiệm, tôi nhìn vào trong. Nó nhận ra và chạy đến tựa hồ như nó biết tôi. Nó háo hức làm việc, và khi tôi thả nó qua cánh cửa trập và lưới thép của mê cung, nó nhanh nhẹn di chuyển dọc theo lối đi đến chiếc hộp phần thưởng. Hai lần nó hoàn thành nhiệm vụ trong mê cung. Lần thứ ba, nó đi được nửa đường thì dừng lại trước một giao lộ, sau đó quay ngoắt vào một lối rẽ sai. Tôi thấy được điều gì sắp sửa xảy ra và tôi muốn thò tay vào để nhấc nó ra trước khi nó đâm đầu vào ngõ cụt. Nhưng tôi kìm mình lại và theo dõi tiếp.

Khi nhận ra mình đi vào lối đi lạ, nó đi chậm lại và bắt đầu có hành động kì cục: tiến một bước, dừng lại, lùi hai bước, quay vòng và đi lại về phía trước, cho đến khi nó lọt hẳn vào đường cùng có tín hiệu thông báo bằng một cú giật nhẹ để nó biết rằng đã mắc lỗi. Đến lúc này, thay vì quay lại để tìm đường khác, nó bắt đầu quay tròn, kêu ré lên như một cây kim trên máy quay đĩa cào vào rãnh. Nó tự quăng mình vào thành mê cung, lần này đến lần khác, nhảy vọt lên, vặn mình ra phía sau và rơi xuống, rồi lại tiếp tục quăng mình. Hai lần nó bám được một móng vào mắt lưới trên đầu, kêu rít lên một cách hoang dã, buông mình ra rồi lại cố gắng một lần nữa trong vô vọng. Sau đó, nó ngừng lại và cuộn chặt mình thành một trái bóng nhỏ.

Khi tôi nhấc nó lên, nó không hề duỗi người ra mà cứ giữ nguyên trạng thái gần như là ngơ ngẩn do rối loạn tâm lý. Khi tôi đụng vào, đầu và chân nó cứng đơ như sáp. Tôi thả nó trở lại vào lồng và theo dõi đến khi nó hết ngơ ngẩn và đi lại bình thường được.

Điều khiến tôi không hiểu nổi là nguyên nhân nào làm nó phát triển giật lùi như vậy – phải chăng đây là một trường hợp đặc biệt? Một phản ứng độc nhất? Hay còn có nguyên lý chung nào đó dẫn đến thất bại của toàn bộ quy trình? Tôi phải tìm ra quy luật này.

Nếu tôi tìm ra được, và nếu như nó có thể bổ sung được một chút thông tin vào những gì đã từng được khám phá về hiện tượng thiểu năng trí tuệ và khả năng giúp đỡ người khác cũng như giúp đỡ chính bản thân mình, tôi sẽ rất mãn nguyện. Bất kể điều gì có thể xảy ra với bản thân, với những gì làm được cho những sinh linh chưa ra đời, coi như tôi cũng đã được sống hàng ngàn cuộc đời bình thường rồi.

Như vậy là đủ.

31 tháng Bảy – Tôi đã tiến đến gần lắm rồi. Tôi cảm nhận được nó. Mọi người đều nghĩ rằng cứ cái đà này thì tôi sẽ tự giết mình mất, nhưng họ không hiểu một điều là tôi đang sống trên đỉnh của sự minh mẫn và đẹp đẽ mà từ trước đến nay chưa bao giờ tôi biết đến. Mọi bộ phận trên cơ thể tôi đều hòa vào công việc. Công việc thấm vào từng lỗ chân lông trên người tôi suốt cả ngày, và ban đêm – ngay trước lúc tôi cuối cùng chìm vào giấc ngủ – các ý tưởng bùng nổ trong đầu tôi như pháo hoa. Không có niềm vui nào lớn hơn cảm giác tìm được ra lời giải cho một bài toán.

Không thể tin được là có một thứ gì đó có thể lấy đi được nguồn năng lượng đang sôi sùng sục này, nó thổi đầy say mê vào mỗi việc tôi làm. Cứ như thể tất cả mọi kiến thức tôi đắm mình vào mấy tháng qua đã kết thành một khối và nhấc tôi lên đỉnh cao khai sáng và hiểu biết. Nó là sắc đẹp, tình yêu và sự thật, tất cả hòa vào làm một. Nó là niềm vui. Và giờ đây khi tôi đã tìm thấy nó, sao tôi lại từ bỏ cho được? Cuộc sống và công việc là hai thứ tuyệt vời nhất mà con người có được. Tôi yêu những gì tôi đang làm bởi vì đáp án cho bài toán này đang nằm ngay trong tâm trí tôi, và sớm – rất sớm thôi – nó sẽ bùng lên thành ý thức. Hãy để tôi giải bài toán này. Tôi cầu Chúa cho đây là lời giải mà tôi muốn, nhưng nếu không phải thì tôi cũng sẽ chấp nhận bất cứ lời giải nào và cố gắng biết ơn với những gì tôi có.

Bạn trai mới của Fay là một thầy dạy khiêu vũ ở sàn Stardust. Tôi không thể trách cô được bởi vì tôi có quá ít thời gian dành cho cô.

11 tháng Tám – Ngõ cụt trong suốt hai ngày qua. Không có gì. Tôi đã rẽ sai ở một chỗ nào đó, bởi vì tôi nhận được câu trả lời cho quá nhiều câu hỏi, nhưng lại không phải câu hỏi quan trọng nhất: Bước lùi của Algernon ảnh hưởng thế nào đến giả thuyết cơ bản của cuộc thử nghiệm?

Thật may là tôi biết đủ nhiều về các quá trình của trí óc nên không để cho việc này làm mình quá bận tâm. Thay vì hoảng sợ và bỏ cuộc (hoặc thậm chí tệ hơn là cố nặn ra những câu trả lời không chuẩn xác), tôi phải gạt vấn đề đó ra khỏi tâm trí mình một lúc và để mặc nó. Tôi vừa tiến được một bước thật dài trên phương diện ý thức, và giờ đây mọi việc sẽ phụ thuộc vào những quá trình hoạt động bí ẩn dưới mức độ nhận thức. Một trong những điều không thể giải thích nổi là làm thế nào những gì tôi đã học và trải nghiệm đều được đưa ra để quy về vấn đề này? Thúc ép quá chỉ khiến cho mọi việc đình trệ lại mà thôi. Từng có bao nhiêu vấn đề lớn không được giải quyết bởi vì con người không đủ hiểu biết, hoặc không đủ niềm tin vào quá trình sáng tạo cũng như bản thân mình, để thả lỏng cho trí óc tự xử lý?

Vì thế nên chiều hôm qua tôi quyết định gạt bỏ công việc sang một bên và đến dự tiệc cocktail của bà Nemur. Bữa tiệc này nhằm tôn vinh hai người trong ban lãnh đạo Quỹ Wellberg đã có công kêu gọi tài trợ cho chồng bà. Tôi định đưa Fay đi theo, nhưng cô bảo cô có hẹn và thích đi khiêu vũ hơn.

Tôi khởi đầu buổi tối hôm đó với một ý định duy nhất là vui vẻ và kết bạn. Nhưng mấy ngày nay tôi toàn gặp rắc rối trong việc giao tiếp với mọi người. Tôi không biết là do tôi hay là do người ta, nhưng hễ cứ cố gắng nói chuyện thì y như rằng chỉ được vài phút là hàng rào dựng lên. Phải chăng vì người ta sợ tôi? Hay là vì trong sâu thẳm họ không quan tâm và tôi cũng cảm thấy giống như họ?

Tôi lấy một ly rượu và lang thang khắp đại sảnh.

Có một tốp ngồi trò chuyện thành nhóm, kiểu này tôi không thể nào tham gia nổi. Cuối cùng, bà Nemur túm được tôi và giới thiệu tôi với Hyram Harvey, thành viên ban lãnh đạo quỹ. Bà Nemur là một phụ nữ hấp dẫn, hơn bốn mươi tuổi, tóc vàng, trang điểm cầu kỳ và có bộ móng tay dài sơn màu đỏ. Bà ta khoác tay Harvey: “Cuộc nghiên cứu tiến hành đến đâu rồi?” Bà ta hỏi.

“Vẫn tốt như dự kiến. Bây giờ tôi đang cố gắng giải quyết một vấn đề hóc búa.”

Bà ta châm một điếu thuốc và mỉm cười với tôi. “Tôi biết rằng mọi người trong dự án đều rất biết ơn khi anh quyết định tham gia giúp đỡ. Nhưng tôi hình dung anh thích được làm một cái gì đó của riêng anh hơn. Chẳng ai lại ngớ ngẩn đi đảm nhận công việc của người khác thay vì làm điều mà anh tự mình vạch ra, sáng tạo ra.”

Bà ta thật sắc sảo, được rồi. Bà ta muốn Hyram Harvey không quên rằng chồng bà ta mới là người được khen ngợi. Tôi không thể nào không phản công được. “Chẳng có ai là người thực sự bắt đầu một cái mới cả, thưa bà Nemur. Ai cũng đứng lên từ thất bại của người khác. Trong khoa học, không có cái gì gọi là nguyên bản cả. Quan trọng là người ta có đóng góp gì vào kho kiến thức chung hay không mà thôi.”

“Tất nhiên rồi,” bà ta trả lời, nói với ông khách già của bà ta nhiều hơn là với tôi. “Thật đáng tiếc là anh Gordon không có mặt sớm để giúp chúng ta giải quyết những vấn đề nho nhỏ cuối cùng này.” Bà ta cười lớn. “Nhưng rồi – ồ, tôi quên mất, anh không ở bất cứ vị trí nào có thể tiến hành thử nghiệm tâm lý học được cả.”

Harvey cười to, và tôi nghĩ tốt hơn hết là mình nên im lặng. Bertha Nemur sẽ không để cho tôi là người nói lời cuối cùng, và nếu mọi việc đi xa hơn nữa thì chẳng có gì hay ho cả.

Tôi thấy bác sĩ Strauss và Burt đang nói chuyện với một người ở Quỹ Wellberg – George Raynor. Strauss nói: “Vấn đề là, thưa ông Raynor, phải có đủ kinh phí để tiến hành những dự án như thế này mà không bị hạn chế về mặt tiền bạc. Khi số lượng bị khoanh lại ở một số mục đích cụ thể nào đó, chúng tôi không thể nào tiến hành được.”

Raynor lắc đầu và vẫy điếu xì gà lớn vào một nhóm nhỏ đang đứng quanh mình: “Vấn đề thực sự là phải thuyết phục được ban lãnh đạo rằng mô hình nghiên cứu này có giá trị thực tiễn.”

Strauss lắc đầu: “Điều tôi muốn nói là số tiền này được chi cho nghiên cứu. Không ai biết trước được liệu dự án có mang lại cái gì hữu ích hay không. Kết quả thường là xấu. Chúng tôi biết cái gì không xấu – điều này cũng quan trọng không kém một phát hiện đúng đắn đối với con người sắp sửa phát triển kia. Ít nhất thì anh ta cũng biết điều gì không nên làm.”

Khi đến gần nhóm này, tôi phát hiện ra vợ của Raynor, ông mà tôi vừa giới thiệu ở trên. Đó là một phụ nữ xinh đẹp, tóc đen, khoảng ba mươi tuổi. Cô ra đang nhìn chằm chằm vào tôi, hoặc vào phần đỉnh đầu tôi – cứ như cô ta nghĩ có cái gì đó sắp sửa mọc ra vậy. Tôi nhìn lại, và cô ta thấy khó chịu nên quay lại với bác sĩ Strauss. “Thế nhưng dự án hiện nay thì sao? Ông có tính đến khả năng sử dụng các kỹ thuật này cho những người thiểu năng khác không? Liệu thế giới có thể sử dụng chúng không?”

Strauss nhún vai và gật đầu về phía tôi: “Vẫn còn quá sớm để nói về chuyện này. Chồng bà đã giúp chúng tôi đưa Charlie tham gia vào dự án, và rất nhiều vấn đề phụ thuộc vào những phát hiện của anh ấy”.

“Tất nhiên,” ông Raynor chêm vào, “tất cả chúng ta đều hiểu cần phải có một cuộc nghiên cứu thuần túy trong những lĩnh vực như của các bạn. Nhưng sẽ có lợi cho hình ảnh của chúng ta nếu chúng ta xây dựng được một phương pháp thực sự hiệu quả nhằm đạt được những thành tựu bền vững bên ngoài phòng thí nghiệm, nếu chúng ta chứng minh được cho cả thế giới thấy nó có thể mang lại một lợi ích hữu hình nào đó.”

Tôi định nói, nhưng Strauss, có lẽ cảm nhận được những gì tôi chuẩn bị nói ra, đã đứng dậy và đặt tay lên vai tôi. “Mỗi người chúng ta ở Beekman đều hiểu rằng công trình Charlie đang tiến hành là quan trọng nhất. Bây giờ, việc của anh ấy là tìm ra sự thật bất kể nó dẫn tới đâu. Chúng tôi sẽ nhường việc lo liệu công chúng, giáo dục xã hội lại cho quỹ.”


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.