Hồi Ký Của Một Tay Súng Bắn Tỉa

Chương 10. Ngôi nhà bí mật của CIA – cuộc săn lùng Aidid



Chưa đầy nửa năm sau khi Casanova và tôi kết thúc khóa học bắn tỉa, chúng tôi nhận nhiệm vụ: Bắt thủ lĩnh phiến quân Mohamed Farrah Aidid và các thủ hạ của y. Được đào tạo tại Moscow và Rome, Aidid đã từng phục vụ trong lực lượng cảnh sát thực dân Italia trước khi gia nhập quân đội và sau đó trở thành một vị tướng của quân đội Somali. Phe cánh của Aidid (Habar Gidir), phe cánh của Muhammad Ali Mahdi (Abgaal) và các phe cánh khác đã hùa nhau lật đổ nhà độc tài Somali. Sau đó, các phe phái này đánh nhau tranh giành quyền kiểm soát Somali. Hai mươi nghìn người Somali đã thiệt mạng hoặc bị thương, sản xuất nông nghiệp đình trệ. Mặc dù cộng đồng quốc tế, đặc biệt là Liên Hợp Quốc thông qua “Chiến dịch Vãn hồi Hy vọng – Operation Restore Hope” viện trợ lương thực cứu trợ, tuy nhiên, quân của Aidid đã tịch thu rất nhiều số lương thực này bằng cách hăm dọa hoặc sát hại những người không hợp tác với y. Sau đó Aidid đã bán lương thực cho các nước khác để đổi lấy vũ khí. Nạn đói hoành hành, cướp đi sinh mạng của hàng trăm nghìn người và nỗi thống khổ của người dân ngày càng gia tăng. Mặc dù các nhà lãnh đạo khác của Somali đã cố gắng để đạt được một thỏa thuận hòa bình, nhưng đều bị Aidid từ chối.
Ngày 5 tháng Sáu năm 1993, binh lính Pakistan tham gia nhóm viện trợ nhân đạo của Liên Hợp Quốc đã vào Somali để kiểm tra một kho lương thực tại một đài phát thanh. Khi đó, những người thuộc phe phái Aidid tụ tập biểu tình bên ngoài. Binh sĩ Pakistan vẫn tiến vào và hoàn tất việc kiểm tra. Khi họ đi ra, nhóm người biểu tình đã tấn công và giết chết 24 binh sĩ Pakistan. Sau đó, chúng chặt đứt chân tay, moi ruột moi gan và lột da những binh sĩ xấu số này.

Vụ việc này khiến Đô đốc Jonathan Howe, đại diện thường trực tại Liên Hợp Quốc phụ trách vấn đề Somali, vô cùng kinh hoàng. Ngay lập tức, ông treo giải thưởng 25.000 đô-la cho ai cung cấp thông tin về hành tung của Aidid. Cùng đó, Howe còn nhờ Bộ Chỉ huy Đặc nhiệm Liên quân (JSOC) giúp đỡ.

Ngày 8 tháng Tám năm 1993, người của Aidid sử dụng bom điều khiển từ xa sát hại bốn lính Mỹ. Hành động này được ví như giọt nước làm tràn ly. Tổng thống Bill Clinton bật đèn xanh cho JSOC hành động. Đội thực thi nhiệm vụ gồm bộ tứ bắn tỉa chúng tôi được gom từ Đội đặc nhiệm SEAL số 6, lực lượng biệt kích Ranger, lực lượng Delta, lực lượng đặc nhiệm số 160 và một số từ các lực lượng khác. Lực lượng đặc nhiệm 160, có biệt danh “sát nhân bóng đêm – Night Stalker”, đã lái trực thăng bay nhanh trong đêm ở độ cao thấp (để tránh bị rađa phát hiện). Chúng tôi tiến hành chiến dịch Rắn Chúa (Operation Gothic Serpent) theo ba giai đoạn: trước tiên, triển khai quân đến Mogadishu và xây dựng một căn cứ ở đây; thứ hai, theo dõi hành tung của Aidid; thứ ba, nếu chúng tôi không bắt giữ được Aidid thì theo dõi và bắt các trợ thủ của y để lần ra dấu vết.

Tại khu tập trung ở Dam Neck, Virginia, bốn chúng tôi gồm Gã Mập lùn, Sourpuss, Casanova và tôi sẵn sàng lên đường đến Somali. Chúng tôi tập luyện, chuẩn bị trang thiết bị, nuôi tóc và râu dài. Công tác chuẩn bị của chúng tôi có cả việc mã hóa các bộ đàm bằng giọng nói. Đây là phần việc tốn rất nhiều thời gian bởi chúng tôi phải nhập rất nhiều mã và tất cả các mã đều phải giống hệt nhau cho tất cả các bộ đàm cầm tay. Chúng tôi đã thống nhất tần số chung. Là một lính bắn tỉa, tôi phải liên lạc với cộng sự của mình là Casanova và sau đó hai chúng tôi phải liên lạc với bộ đôi bắn tỉa khác là Gã Mập lùn và Sourpuss. Tiếp theo chúng tôi phải liên lạc với cơ sở tiền phương. Tôi đã kiểm tra cẩn thận tất cả các trang bị thiết yếu. Sau đó tôi thử lại súng lần cuối. Mặc dù không biết chính xác nhiệm vụ được giao phó, nhưng chúng tôi đều chuẩn bị cẩn thận tất cả mọi thứ.

Sau khi hoàn tất công tác chuẩn bị, chúng tôi bay đến Fort Bragg, Bắc Carolina − trụ sở của Bộ Chỉ huy các Chiến dịch Quân sự đặc biệt và một số bộ chỉ huy của các đơn vị khác, nằm trong khu vực có diện tích hơn 60.000 héc ta, được bao bọc bởi cây xanh và đồi núi. Ở đó, chúng tôi nhận được thông tin chi tiết hơn về nhiệm vụ của mình. Chúng tôi xếp các hộp thực phẩm chồng lên nhau và chuẩn bị mang theo thì một sĩ quan bảo: “Các anh không cần làm điều đó, chúng tôi mang theo rất nhiều thức ăn rồi.”

Vì vậy, chúng tôi bỏ lại thực phẩm ở doanh trại của lực lượng Delta.

Các giảng viên Viện Ngôn ngữ Quốc phòng đã dạy chúng tôi một số cụm từ quan trọng trong tiếng Somali: đứng lại, xuống, lùi lại, nhanh lên…

Vài ngày sau, nhận được thông báo chiến dịch có thể bị hoãn nên chúng tôi bay về Dam Neck.

Sau đó, một sĩ quan của lực lượng Delta gọi điện thông báo “Chiến dịch vẫn tiếp tục nhưng không phải để tóc dài và râu rậm.” Vì vậy, chúng tôi cắt tóc, cạo râu gọn ghẽ và bay đến Fort Bragg.

Ngày 27 tháng Tám năm 1993, chúng tôi lên chiếc máy bay vận tải C-5A thường dành chở lính biệt kích. Sau mười tám giờ bay, chúng tôi đáp xuống sân bay Mogadishu nằm trong khu tổ hợp của Liên Hợp Quốc. Lực lượng gìn giữ hòa bình của Ai Cập bảo vệ vòng ngoài. Bảo vệ phía trong là lực lượng gìn giữ hòa bình của Italia, New Zealand, Rumani và Nga đảm trách. Chúng tôi được bố trí ở và sinh hoạt tại một nhà chứa máy bay cũ ở phía tây đường băng. Phía trước nhà chứa máy bay là một tòa nhà hai tầng mái lệch − Trung tâm Hoạt động Chung (JOC). Các ăng-ten đâm tua tủa trên mái nhà trông chẳng khác gì gai nhím.

Một viên sĩ quan đưa chúng tôi đến nơi ở của Tướng Garrison. Phía trong căn nhà, Garrison không treo ảnh gia đình hay để những đồ dùng lặt vặt, do đó, ngay khi có thông báo, ông có thể đi mà không để lại bất kỳ một dấu vết nào. Viên trợ tá đã đánh thức ông dậy khi chúng tôi đến. Garrison nhìn chúng tôi một lượt và nói: “Xin chào, sao tất cả đều để tóc ngắn? Tôi muốn tất cả để tóc dài, như vậy mới có thể hòa mình vào dòng người trong thành phố và tác chiến được.”

“Chúng tôi được thông báo ngài muốn chúng tôi cắt tóc ngắn, thưa ngài.” Khi đó, chúng tôi ngờ rằng Delta đã cố tìm cách loại bọn tôi khỏi các hoạt động, đưa bộ binh đi nhưng lại chỉ dùng hải quân để tác chiến.

Tuy nhiên, Tướng Garrison vẫn cho chúng tôi biết kế hoạch hành động. Ông cho biết bốn chúng tôi sẽ là nhân tố chủ chốt của chiến dịch và giao nhiệm vụ.

Sau cuộc họp với Garrison, chúng tôi liên lạc với Cơ quan Tình báo Tín hiệu (SIGINT) do một sĩ quan thông tin của CIA điều hành. Cơ quan này có nhiệm vụ thu thập tin tức bằng cách chặn thu tín hiệu giữa con người (tình báo thông tin liên lạc) và những bức xạ điện từ phát ra từ công nghệ đối phương như các thiết bị vô tuyến điện, radar, hệ thống tên lửa đất đối không, máy bay, tàu chiến v.v… SIGINT kết hợp giữa giải mã thông tin mã hoá với phân tích đường truyền: nghiên cứu ai đang đánh tín hiệu đi đâu và bao nhiêu tín hiệu được đánh đi. Họ có thể chặn thu cả trên thông tin di động, vô tuyến điện và thậm chí còn nghe được cả các cuộc hội đàm từ rất xa. Đa số nhân viên trong cơ quan SIGINT đều nói được hai hoặc ba ngôn ngữ khác nhau và có máy bay dành riêng.

Tiếp theo, chúng tôi đến khu ở của CIA trên đỉnh đồi để gặp một đặc vụ CIA, vốn là cựu binh từng tham chiến tại Việt Nam, bí danh là Kền Kền (Condor). Cấp trên trực tiếp của Kền Kền là cụm phó cụm hoạt động, là một người Mỹ gốc Italia có bí danh Báo gấm (Leopard). Họ đều phải báo cáo tin tức lên cụm trưởng cụm tình báo CIA, Garrett Jones, bí danh Trăng Khuyết (Crescent). Jones có thân hình đậm và bộ ria kẽm. Khi nói chuyện với nhau, chúng tôi thường ví CIA là “Tín đồ Kitô hữu trong hành động” và đôi khi chính các đặc vụ của CIA cũng dùng biệt hiệu này để tự gọi mình. Ở Somali, họ gặp khó khăn, bởi việc đánh cắp bí mật của một nước vô chính phủ là điều vô cùng gian khó.

Trước khi chúng tôi đến, Washington không cho phép CIA vào hoạt động trong thành phố vì thấy việc làm này quá nguy hiểm. Khi chúng tôi có mặt, CIA đã có thể xâm nhập vào thành phố Mogadishu. CIA giới thiệu sơ qua cho chúng tôi những nét chính về thành phố Mogadishu, trong đó có một số nét về văn hoá và lịch sử. Họ cũng đặt bí danh cho chúng tôi dựa theo cấp hàm: Sierra 1 là Sourpuss; Sierra 2 là Gã Mập lùn; Sierra 3 là tôi và Sierra 4 là Casanova. Ngôi nhà bí mật của chúng tôi sẽ được gọi là Pasha, tước hiệu của một người có chức vị cao trong đế chế Ottoman. Ahmed làm nhiệm vụ phiên dịch cho chúng tôi. Hiếm khi nào Ahmed nhìn thẳng vào mắt tôi khi nói chuyện và có vẻ anh ta là người dễ bị kích động. Viên mật vụ chủ chốt người Somali tên là Mohammed. Mặc dù là người ưa mạo hiểm, ông ta lại rất nghiêm túc trong công việc.

Sau buổi gặp mặt với các đặc vụ CIA trên đồi, chúng tôi trở về nhà chứa máy bay và xin cấp bốn loại lựu đạn: AT-4, lựu đạn cay, lựu đạn phát sáng và lựu đạn nổ. Chúng tôi còn đề nghị cấp một chiếc đèn hiệu loại SST-181 để máy bay bay qua có thể xác định được vị trí của chúng tôi khi cần. Chúng tôi cũng học cách bảo vệ ngôi nhà bí mật của mình trong trường hợp kẻ thù tấn công hoặc cách thoát thân khi kẻ thù đánh chiếm. Đêm đó, chúng tôi ở trong nhà chứa máy bay cùng với lính Mỹ, tổng cộng khoảng 160 người. Mỗi người có một chỗ nằm với diện tích 1,2 x 2,4m. Chỗ tôi ở có 4 chiếc cọc gỗ để mắc màn. Những con diều hâu lao xuống vồ bắt những con chuột to cỡ con cún con tha lên xà nhà cho bữa tối. Giữa các bức tường thép đều có một khoảng trống nhất định nên luôn có ánh sáng rọi vào. Các cửa ra vào nhà chứa máy bay luôn để mở. Những chiếc trực thăng nằm lặng lẽ trên đường băng, không khí sặc mùi dầu mỡ. Do khu đất chúng tôi ở cao hơn các khu khác nên tôi có thể nhìn thấy ánh sáng lóe lên từ các cuộc đọ súng ở Mogadishu. Có một lá cờ Mỹ treo trên rui nhà phía sau chúng tôi. Tôi có thể cảm nhận được vị mặn của nước biển lẫn trong không khí vì biển ở ngay phía sau nhà chứa máy bay. Mặc dù nơi ở có đầy đủ tiện nghi nhưng cả bốn chúng tôi không được phép ở lại lâu. Aidid đã bắn ba quả đạn cối nổ ngay gần nhà chứa máy bay như một “nhã ý” chúc chúng tôi một đêm an lành. Một người nào đó đã tinh ý quay những bóng điện của nhà chứa máy bay hướng xuống dưới.

Thứ Bảy, ngày 28 tháng Tám năm 1993, chúng tôi mã hoá radio cầm tay loại PRC-112 trước khi xuất phát. Bên ngoài, thời tiết vô cùng khắc nghiệt, đoạn đường nhựa dưới chân như muốn tan chảy khi cuốc bộ đến chỗ máy bay trực thăng. Tôi đeo kính râm Oakley mắt để giảm bớt sự chói chang của mặt trời và kiểm soát cơ thể lấy lại cảm giác yên bình. Mặc dù khi đeo kính râm thì không thể giao tiếp bằng mắt nhưng nó lại giúp ngụy trang, dọa người khác, che giấu cảm xúc và ý nghĩ. Giống như một người bạn tốt, kính râm là món đồ chúng tôi luôn mang theo bên mình.

Một số binh sĩ thuộc lực lượng Delta đã ngồi sẵn trên đó và chiếc máy bay sẵn sàng cất cánh để bay huấn luyện.

Phi công thuộc lực lượng đặc nhiệm số 160 đều là những tay lái hàng đầu thế giới. Họ nói với nhóm Delta: “Chào, xin lỗi, chúng tôi phải tiến hành một chiến dịch thực thụ. Các anh biết đó, chúng tôi cần phải để những anh chàng này lên cùng”.

Nhóm Delta lầm bầm và tỏ ra không vui: “Lạy Chúa, chúng tôi không muốn chen chân trong chiến dịch này.” Chúng tôi lên trực thăng và nói “chúng tôi sẽ kể lại với các anh khi quay về.”

Bốn chúng tôi chia nhau ngồi ở hai bên cửa máy bay để, chân để buông ra bên ngoài. Sau khi cài chặt thắt lưng an toàn, chiếc trực thăng bắt đầu cất cánh. Nhóm Delta trở thành các chấm nhỏ xíu khi máy bay đạt độ cao.

Chiếc trực thăng đưa chúng tôi vào sâu trong vùng lãnh thổ của Somali để có thể tìm được đường chính và đường phụ phục vụ cho việc đi và về ngôi nhà bí mật. Mặt trời chói chang và khung cảnh chiến tranh khiến chúng tôi cảm tưởng Mogadishu như chìm trong biển lửa. Các thánh đường Hồi giáo là những kiến trúc duy nhất cả hai bên tham gia cuộc nội chiến không dám động đến. Còn lại đa số các tòa nhà đều bị phá huỷ. Người dân sinh sống trong các túp lều có vách làm bằng bùn, mái tôn trong mê cung của những con đường đất. Những đống bê tông đổ nát, những khối sắt thép bị vặn cong và khung xe cháy nằm rải rác khắp nơi. Quân phiến loạn tay cầm súng AK-47 ngồi trong thùng các xe vận tải quân sự chạy băng băng trên đường phố. Lửa từ các đống rác, đống kim loại và lốp xe ô tô ngày càng cháy to. Những cột lửa này trông giống như phát ra từ địa ngục.

Quay trở lại khu biển, chúng tôi do thám tìm địa điểm cất hạ cánh máy bay gần ngôi nhà bí mật để bảo đảm nhanh chóng lên đường khi nhận nhiệm vụ đột xuất. Trong chuyến bay, do thám các vị trí trên bờ biển để khi cần chúng tôi cũng có thể xuất phát bằng đường biển. Vùng biển này có bãi cát màu trắng và nâu nhạt. Hẳn nơi đây đã từng là một khu nghỉ mát lý tưởng.

Kết thúc chuyến trinh sát, chúng tôi lái chiếc Humvee ra khỏi khu ở qua một chiếc lỗ bí mật ở hàng rào phía sau và đi ngược lên đồi. Ở đây, nhân viên của CIA giới thiệu ngắn gọn cho chúng tôi hiểu về tình báo con người (HUMINT). Công nghệ rất hữu ích trong hoạt động gián điệp, nhưng chúng chẳng mấy ý nghĩa nếu không có người dũng cảm đột nhập vào lãnh thổ đối phương. CIA nêu ra những vấn đề hợp lý – con người có thể nghe, nhìn còn công nghệ thì không làm được điều đó và do vậy không hiểu được bối cảnh xung quanh.

Gã Mập lùn sử dụng sơ đồ của Pasha để lập kế hoạch tiếp cận ngôi nhà bí mật và phân công nhiệm vụ cho từng người. Anh ta giao cho tôi nhiệm vụ tuần tra, cảnh giới và giao cho Casanova nhiệm vụ chỉ đạo hành động trong cuộc chiến. Gã Mập lùn cũng tiến hành thử các thiết bị thông tin liên lạc. Sourpuss rất thích kiểu tập luyện bơi và chạy của Đội đặc nhiệm SEAL số 6, nhưng khi bước vào thực hành, Sourpuss lại tỏ ra kém cỏi cả về tài năng và nghị lực. Lẽ ra phải đóng vai trò trung tâm dẫn dắt và lập kế hoạch, nhưng anh ta lại tự giới hạn vai trò của mình ở mỗi việc bố trí ai là người đứng trên mái nhà Pasha và ở thời điểm nào. Bốn chúng tôi cũng bắt đầu xây dựng một sa bàn về thành phố Mogadishu.

Trước khi xuất phát, Trăng Khuyết đưa cho chúng tôi bản tóm tắt các nhiệm vụ. Mặc dù chúng tôi đã gặp CIA, SIGINT và thông dịch viên của mình, chúng tôi sẽ vẫn phải hợp tác với họ ở huyện Lido, phía bắc tỉnh Mogadishu, gần trung tâm đầu não của kẻ địch. Tại Pasha, chúng tôi sẽ có thêm nhiều người khác tham gia cùng: lực lượng bảo vệ, đầu bếp và các mật vụ – là những người dân địa phương cung cấp tin tức tình báo cho chúng tôi. Trăng Khuyết nói với chúng tôi: “Nếu các anh không thoải mái với bất kỳ người nào, họ sẽ ra đi. Giờ là lúc các anh thực hiện nhiệm vụ của mình. Trong trường hợp các anh bị lộ, Tướng Garrison sẽ đưa các anh ra khỏi đó trong vòng mười lăm phút. Chúc may mắn!”

Tờ mờ sáng thứ Hai, ngày 29 tháng Tám năm 1993, chúng tôi bay trên trực thăng Black Hawk khoảng 5 km về phía tây bắc, băng ngang thị trấn để đến sân vận động Mogadiscio. Đây là sân vận động quốc gia của Somali có sức chứa tới 35.000 người, nơi tổ chức các trận đấu bóng đá và các sự kiện khác. Chỉ chưa đầy năm phút chúng tôi đã tới nơi. Do nằm trong khu ở của lính Pakistan nên chúng tôi gọi đó là sân vận động Pakistan. Từ đây, chúng tôi lên ba xe tải của người bản địa. Nhưng do chỉ cần hai chiếc nên chúng tôi sử dụng chiếc thứ ba làm xe hậu cần và cũng phòng sự cố một xe nào đó hỏng trên đường đi. Nhìn những chiếc xe này, tôi cứ nghĩ phải có một phép lạ nào đó thì chúng mới chạy được. Người Somali thường sử dụng đồ dùng cho đến khi hỏng không thể dùng được nữa. Người làm cho đống sắt vụn này chuyển động được quả là những tay siêu hạng.

Chúng tôi lái xe ra khỏi sân vận động vào thành phố. Không khí trong thành phố sặc mùi nước tiểu và phân người hòa trộn với mùi xú uế bốc từ nạn đói, bệnh tật và tuyệt vọng. Những mùi vị này lởn vởn trong không trung như một đám mây đen bao trùm lên thành phố. Nó làm trái tim tôi nghẹn lại. Người Somali đổ chất thải thô ra đường phố rồi sử dụng chúng và phân động vật làm nhiên liệu đun nấu bằng những chiếc bếp sắt tròn hoen gỉ. Những đứa bé ở độ tuổi tiểu học mang súng AK-47. Chúng tôi đã được biết bệnh tả đang hoành hành trong thành phố vì nguồn nước bị ô nhiễm. Mogadishu trông như phần còn sót lại của thế giới cổ tích − nhiệm vụ của chúng tôi là phải ngăn chặn những kẻ ác độc và cứu vớt dân lành. Chuyện này không thành vấn đề, chúng tôi là lực lượng SEAL. Đây là điều chúng tôi phải làm.

Lái xe khoảng gần 1 km, chúng tôi đến Pasha. Lính canh người Somali mở cổng để chúng tôi vào. Trước đó, chúng tôi đã phái một mật vụ đưa cho họ chiếc radio để làm công tác chuẩn bị đón chúng tôi. Ở mỗi thời điểm có bốn lính bảo vệ Pasha. Bốn người khác sẽ luân phiên đổi ca. Tất cả những lính canh này đều luôn cảnh giác cao độ.

Những cánh tay gầy nhẳng, khẳng khiu của họ làm cho khẩu AK- 47 trông to tướng. Họ mặc áo ngắn tay. Chúng tôi phóng nhanh vào bên trong và lính canh đóng cổng lại.

Pasha là tòa nhà hai tầng được bao quanh bằng các bức tường bê tông cứng nhắc. Trước đây, nó là nhà ở của một bác sĩ giàu có. Ông này đã cùng gia đình bỏ chạy khi Somali không còn là nơi an toàn cho họ nữa. Tình trạng đói nghèo ở Somali là nguyên nhân gây ra nạn trộm cướp. Do vậy, người ta đã xây các bức tường bê tông xung quanh ngôi nhà. Các thợ xây đã cắm các chai thủy tinh lên các lỗ trên bức tường khi bê tông còn ướt, sau đó đập bỏ phần đầu của những chai này khi bê tông đã khô. Bất kỳ ai muốn trèo qua bức tường đều phải trèo qua những chai thủy tinh vỡ. Mặc dù biện pháp này khá hiệu quả, nhưng trông bức tường thật mất mỹ quan. Vào một buổi tối, có tiếng súng nổ cách đó hai nhà. Sau đó, chúng tôi được biết đó là tiếng súng chủ nhà bắn tên cướp. Những tên cướp thường xuyên lượn lờ qua chỗ chúng tôi ở bởi khu vực này có nhiều người khá giả sinh sống.

Bên trong, nước được lấy từ vòi nhờ trọng lực chứ không bằng áp suất. Khi mở các van, nước sẽ chảy xuống từ chiếc thùng để trên mái nhà. Tuy nhiên nước chảy rất chậm. Chúng tôi không thể uống nước này nếu chưa cho chạy qua thiết bị lọc Katadyn để loại bỏ các vi trùng gây bệnh. Đôi khi chúng tôi đun nước sôi để dùng, nhưng phần lớn là dùng nước đóng chai. Theo mức sống của người Somali, chúng tôi là những người khá giả.

Tôi chắc rằng khi vị bác sĩ này bỏ đi, hẳn ông đã mang theo tất cả đồ nội thất còn tốt. Trong nhà chỉ còn lại một chiếc bàn. Tôi có một chiếc giường cỡ 1,2 x 2m và một chiếc chiếu mỏng. Tuy nhiên, so với việc phải sống trong lều và ngủ trong bùn đất như hầu hết mọi người trong thành phố thì cuộc sống của chúng tôi vẫn sướng như vua.

Khi chúng tôi tháo dỡ hành lý ra, một lính canh gầy gò có cân nặng ước chừng 55 kg cúi xuống cầm lấy một túi đồ khá nặng. Tôi đang định xách lên nhưng anh ta nằng nặc đòi tôi để anh ta mang giúp. Anh ta nhấc bổng túi đồ đặt lên vai và bước lên cầu thang.

Đầu bếp người Somali của chúng tôi đến đúng hẹn. Ông ta nấu món ăn halal theo chế độ ăn uống của Đạo Hồi – không thịt lợn, không rượu v.v… Thức ăn Somali là sự kết hợp cách nấu nướng của các nước Somalia, Ethiopia, Yemen, Ba Tư, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ và Italia với nhau. Cách nấu ăn này bắt nguồn từ lịch sử giao thương lâu đời của Somali. Bữa sáng, chúng tôi ăn bánh ngọt nhân kếp mỏng và có hình thù giống bánh mì. Loại bánh này tên là bánh canjeero. Đôi khi chúng tôi ăn cháo boorash phong cách Italia kèm với bơ và đường.

Bữa trưa, đầu bếp nấu các món ăn từ loại gạo hạt dài basmati. Ông nêm thêm một vài gia vị như hành, tỏi, quế, thì là và cây xô thơm để món ăn hấp dẫn hơn. Chúng tôi cũng ăn cả mì ống baasto kèm với món hầm và chuối, chứ không ăn kiểu mì ống sốt vang.

Đầu bếp ninh nhừ đỗ azuki bằng ngọn lửa liu riu trong khoảng nửa ngày. Sau đó, ông cho đường và bơ vào để nấu thành món ăn tối cambuulo.

Đồ uống ưa thích của tôi là trà Rooibos đỏ, có hương vị thơm và ngọt tự nhiên. Tại Pasha, chúng tôi không bao giờ ăn đồ ăn đóng gói. Giá như biết trước thức ăn ở đây tuyệt vời như thế này, chúng tôi đã chẳng mang theo những gói đồ ăn này.

Mặc dù không được cung cấp đầy đủ những đồ ăn dinh dưỡng cần thiết, nhưng những người lính bảo vệ không bao giờ nghĩ đến việc lấy đồ ăn chúng tôi không dùng đến. Chúng tôi phải mời, thậm chí phải nói khéo để họ nhận số thức ăn đó. Chúng tôi cho họ tất cả số đồ ăn đóng gói mang theo, ngoại trừ những gói có chứa thịt lợn vì họ theo Đạo Hồi nên không được phép ăn. Tuy nhiên, họ chỉ ăn một ít, còn lại mang về cho gia đình. Ngoài ra, chúng tôi còn cho họ những vỏ chai nước để họ dùng làm đồ đựng nước. Theo phong tục, họ thường bắt tay chúng tôi và sau đó đặt tay chúng tôi lên ngực trái (nơi có trái tim) của họ như một cử chỉ thể hiện sự tôn trọng và biết ơn đối với chúng tôi. Người thông dịch viên bảo chúng tôi rằng những lính bảo vệ rất hạnh phúc khi người Mỹ có mặt ở đây. Họ rất thán phục vì chúng tôi đã rời xa gia đình, mạo hiểm tính mạng đến đây để giúp đỡ họ. Mặc dù một số phương tiện truyền thông cho rằng chúng tôi đến đây để bắt nạt người Somali, nhưng họ đều chẳng tin điều này.

Tôi nghĩ đa số người Somali đều muốn chúng tôi giúp họ kết thúc cuộc nội chiến nơi đây.

Nếu tính ra tiền thì chi phí của những bữa ăn này vượt xa số tiền phòng thân Đội đặc nhiệm SEAL số 6 cấp cho chúng tôi. Tôi cuộn tròn những đồng 100 đô-la của mình lại và nhét vào báng khẩu CAR-15. Tôi lên kế hoạch cho riêng mình trong trường hợp buộc phải bỏ trốn khỏi đây. Khi đó, tôi sẽ tìm một ngư dân Somali và thuê anh ta đưa tôi xuống bờ biển Mombasa, Kenya. Ở đây, quân đội Mỹ sẽ bố trí người đón và chăm sóc tôi.

Nhiệm vụ của các mật vụ người Somali là ngày nào cũng phải đến Pasha, do vậy Kền Kền đã nói cho chúng tôi một số kí tín ám hiệu để hiểu được hành động của các mật vụ này. Chẳng hạn, bình thường người mật vụ phải đến Pasha từ hướng đông nam, nhưng anh ta lại đến từ hướng tây nam, khi đó chúng tôi phải hiểu rằng anh ta đã bị cưỡng ép làm điều này hoặc anh ta đang bị theo dõi. Lúc này, chúng tôi có nhiệm vụ phải bắn chết cái đuôi đang bám theo anh ta. Người mật vụ của chúng tôi có thể thực hiện một hành động rất đơn giản như dừng lại một vài giây ở một góc quặt nào đó và chúng tôi phải nhanh chóng nhả đạn tiêu diệt kẻ bám đuôi. Nếu anh ta dừng lại hai lần thì chúng tôi phải nhả đạn kết liễu cả hai tên theo sau. Quy trình đưa ra ám hiệu của chúng tôi đủ kín kẽ để kẻ địch không thể nhận ra chúng tôi đã ra hiệu cho nhau mặc dù những tín hiệu này rất đơn giản và dễ nhớ. Trước khi hành động, chúng tôi đã ôn lại các ký tín ám hiệu với các mật vụ. Theo bố trí, đặc nhiệm SEAL trên mái nhà có nhiệm vụ kín đáo bảo đảm sự an toàn cho quá trình lui tới của người mật vụ và phát hiện kẻ trà trộn. Thông thường, khi người mật vụ đến vào buổi tối thì đều cầm theo một chiếc đèn hồng ngoại hoặc đèn nhấp nháy.

Động cơ chung nhất của các mật vụ này là tiền. Mặc dù, đôi khi họ giúp đỡ chúng tôi vì một lý do cao cả nào đó, nhưng đa số đều bị đồng tiền sai khiến. Tuy nhiên, ở một đất nước nghèo đói như Somali thì số tiền chúng tôi phải trả cho họ là không nhiều lắm.

Cùng ngày, bốn lính thuộc Cơ quan Tình báo Tín hiệu (SIGINT) cũng đến. Họ đến bằng con đường khác chúng tôi. Ngay khi đến, họ dựng phòng làm việc trông giống hệt phòng điều khiển phóng tên lửa vào không gian của NASA, có các màn hình, các nút điều khiển, thiết bị chuyển mạch. Họ dựng cột ăng-ten và các thiết bị khác trên mái nhà. Nhìn bên ngoài, nơi này chẳng khác gì trụ sở đài truyền hình CNN.

Gã Mập lùn triệu tập mọi người lại và phổ biến kế hoạch đột nhập và tháo lui. Như mọi khi, gã mang bên mình con dao Randall. Thật đúng là “Người bé, dao lại lớn”. Tôi tóm tắt lại kế hoạch tác chiến. Casanova chia bốn chúng tôi thành hai cặp tuần tra: Tôi cặp với Casanova, còn Gã Mập lùn cặp với Sourpuss.

Tấm sa bàn về thành phố của chúng tôi hoàn tất, nó che khuất toàn bộ bức tường lớn nhất trong ngôi nhà. Khi mật vụ nói cho chúng tôi biết khu vực nguy hiểm, chúng tôi sẽ đánh dấu vị trí đó bằng các đinh ghim và mã hoá bằng toạ độ ô lưới để khi cần có thể gọi điện tấn công vào vùng đó.

Trong một bản tóm tắt riêng, một mật vụ đã chỉ cho chúng tôi biết những vị trí lãnh chúa Somali, Mohamed Farrah Aidid có thể trú ẩn. Ngay lập tức chúng tôi đóng các đinh ghim lên các vị trí này trên sa bàn: Khách sạn Olympic, các doanh trại của các sĩ quan v.v… Sau đó, chúng tôi gửi các tọa độ dưới dạng tám chữ số này cho Trăng Khuyết.

Cùng ngày, hai mươi viên đạn cối đã nã trúng sân bay, trung tâm hoạt động chiến thuật và trụ sở CIA. Một viên rơi gần ngay khu ở của CIA và thổi bay tất cả các cửa sổ của căn phòng này. Rõ ràng, thuộc hạ của Aidid đã phát hiện ra các mật vụ lui tới nơi ở của CIA. Cũng trong ngày hôm đó, một loạt đạn nữa lại bắn vào khu chúng tôi ở.

Chúng tôi tăng cường tuần tra canh gác Pasha gắt gao gấp hai lần so với trước đó và giải thích cho mọi người hiểu khái niệm “thu dọn và tẩu thoát”: thu dọn các máy mã của SIGINT, bỏ chúng vào một chiếc ba lô, dùng lựu đạn nhiệt phá hủy các thiết bị khác của SIGINT, ấn định điểm tập trung và sau đó rút lui.

Đêm đầu tiên, Casanova và tôi gác trên mái nhà. Mùi thối giống mùi xác chết động vật ngập tràn trong không khí. Tôi lẩm bẩm: “Chẳng biết mùi quái quỷ gì mà kinh tởm thế”.

Thứ Hai, ngày 30 tháng Tám năm 1993, tôi đưa mắt nhìn những ngôi nhà xung quanh để xem mùi kinh khủng đó bốc ra từ đâu, nhưng mùi đó đã biến mất. Trong khi tôi đang nhâm nhi chén trà ở tầng dưới thì một mật vụ viên đến đưa tin. Tôi mời anh ta cốc trà.

Anh ta lịch sự từ chối.

Tôi cố nài “Không vấn gì đâu, anh cứ uống đi.”

Anh ta chỉ uống một nửa cốc cứ như kiểu tôi ban cho anh ta một vật gì đó vô cùng giá trị vậy. Người Somali luôn hành xử kiểu đó vì không muốn người khác nghĩ họ quá tham lam.

SIGINT thông báo cho chúng tôi là họ vừa chặn thu được một cuộc trao đổi giữa bộ phận điều khiển bắn với bộ phận bắn. Theo đó, các tay súng sẽ bắn từ những vị trí được ngụy trang kín đáo, còn lực lượng điều khiển sẽ quan sát xem các viên đạn có trúng mục tiêu hay không. Nếu đạn pháo nã trúng mục tiêu, người điều khiển sẽ đánh giá mức độ thiệt hại của đối phương. Bộ phận điều khiển bắn khuyên bảo “không được nhai lá ‘Khat’ trong khi bắn và khi đánh giá mức độ thiệt hại sau trận đánh”. Khat là một loài cây ở Somali. Lá cây này có chứa chất kích thích tạo cảm giác hưng phấn, làm mất cảm giác thèm ăn và tạo ảo giác. Người dùng sẽ bỏ vài chiếc lá vào miệng và nhai giống như nhai thuốc lá. Đa số các tay súng của Aidid làm nhiệm vụ của mình là để mong được đổi lấy lá Khat. Nhóm người này phải phục tùng Aidid để tiếp tục được cung cấp lá Khat thỏa mãn cơn nghiền, giống như những tên ma cô cho gái điếm hút chích để dễ bề kiểm soát. Do loại lá này làm mất cảm giác ngon miệng nên Aidid không cần phải cho họ ăn nhiều. Đội quân này rõ ràng không có tinh thần kỷ luật cao. Mặc dù không có điều gì xảy ra trong thời gian này, nhưng sau đó, SIGINT sử dụng vô tuyến điện gọi máy bay đến không kích vào các khu vực quân sự và đã thắng lợi khi diệt được một số trận địa pháo của đối phương.

Tối hôm đó, mùi thối lại bốc ra. “Cái quái gì vậy?” Tôi rời mái nhà, bí mật đi đến ngôi nhà kế bên. Tôi nhìn thấy một cậu thiếu niên đang ngủ trên một tấm đệm ngay dưới mái hiên. Khi cách một đoạn khoảng 10 m, tôi đã hiểu mùi thối bốc ra từ đâu. Sau này tôi mới biết, cậu bé trạc 14 tuổi đó đã giẫm phải mìn ở sân trường. Quả mìn lấy đi cả chiếc chân phải của cậu. Một phần chân trái cũng bị quả mìn thổi bay. Vết thương không được chữa trị đang dần chuyển sang giai đoạn hoại tử. Thuộc hạ của Aidid đã cài đặt chất nổ ở sân trường sát hại hoặc gây thương tật cho trẻ em với mưu đồ không để các em trưởng thành và gia nhập quân đội. Vết thương ở chân của cậu bé bốc mùi quá khó chịu khiến gia đình của cậu không thể chợp mắt nổi. Do vậy, họ mới bắt cậu phải ra ngoài hiên ngủ. Ban ngày, họ lại đưa cậu vào trong nhà. Tôi đã đề nghị CIA cho phép giúp cậu bé. Tuy nhiên, yêu cầu này không được chấp nhận vì họ sợ bị lộ.

Chúng tôi nhận thấy hoạt động trên con đường phía trước Pasha và các tòa nhà bên cạnh rất tấp nập từ lúc 22 giờ đêm đến 4 giờ sáng hôm sau. Theo tin tức báo cáo, Aidid thường tung người ra hoạt động vào thời điểm đó, do vậy lúc 3 giờ sáng, lực lượng Delta đã dùng dây thừng tụt ra khỏi ngôi nhà Ligato Lig. Họ bắt được chín người. Nhưng thật không may, tất cả số bắt được này đều là nhân viên của Liên Hợp Quốc và lính canh người Somali. Delta trắng tay trong vụ này.

Thứ Ba, ngày 31 tháng Tám năm 1993, một mật vụ phát hiện thấy Aidid trong một chiếc xe. Trăng Khuyết muốn viên mật vụ triển khai ngay một máy phát sóng di động trong xe, nhưng Kền Kền không muốn hy sinh viên mật vụ này nên đã bác bỏ kế hoạch vì nó quá mạo hiểm.

Aidid lẩn như trạch. Thay vì ở nhà, hắn sống với người thân. Mỗi nơi hắn chỉ ở một, cùng lắm là hai đêm. Khi di chuyển, đôi khi hắn sử dụng cả một đoàn xe mô tô hộ tống, nhưng có lúc hắn chỉ sử dụng một chiếc xe đưa đón. Hắn thường ăn mặc giả gái để tránh bị phát hiện. Trong phe cánh của mình, Aidid rất được sùng bái nhưng các phe cánh khác lại chẳng ai ưa hắn cả.

Casanova và tôi ăn vận quần áo giống người dân địa phương và sử dụng chiếc xe Jeep hiệu Cherokee để đi trinh sát. Chiếc Jeep này đã bị va đập một vài lần nhưng nó đã được chúng tôi bí mật bọc thép. Tôi vấn khăn trên đầu, mặc áo sơ mi hoa kiểu Somali và mặc chiếc váy macawi ra ngoài chiếc quần dã chiến của mình. Nhờ bộ râu tốt lên và nước da ngăm đen mà tôi dễ dàng qua mặt đám lính gác người Ả Rập. Về vũ khí, chúng tôi mang theo khẩu CAR-15 có lắp ống giảm thanh. Chúng tôi để dưới chỗ ngồi và lấy chiếc váy phủ lên. Bên trong túi đồ của chiếc quần dã chiến, tôi còn nhét thêm một khẩu CAR-15 và một khẩu súng lục SIG 226 cỡ nòng 9 mm trong áo sơ mi.

Cùng đó, tôi nhét thêm một con dao gấp, bấm tự động cực sắc vào túi đồ trong chiếc quần dã chiến. Túi bên phải tôi để bộ sơ cứu khẩn cấp.

Theo quy định của SEAL, chúng tôi chỉ được phép ăn vận gọn nhẹ. Điều này luôn chứa đựng đầy rủi ro, chẳng hạn, nếu một con gấu xuất hiện trong rừng, hẳn là chúng tôi không đánh đuổi được nó. Tuy nhiên, ăn mặc gọn nhẹ giúp chúng tôi dễ dàng trà trộn, thuận lợi cho hoạt động thu thập tin tức tình báo. Điều này đòi hỏi chúng tôi phải biết thích nghi với tình huống. Tuy nhiên trong trường hợp bị lộ, chúng tôi được phép nổ súng và bỏ chạy.

Casanova lái xe còn tôi chụp ảnh. Tôi phát hiện ra một vị trí có thể làm chỗ đậu cho trực thăng để lực lượng Delta và người bản xứ đi cùng có thể đổ bộ. Sau đó, chúng tôi còn tìm được tuyến đường giúp Delta đổ bộ bằng ô tô. Ngoài ra, chúng tôi còn tìm ra một điều thú vị khác nữa. Trước đây, mặc dù người của chúng tôi đi bộ hoặc lái xe hay bay lơ lửng trên những chiếc trực thăng để thu thập thông tin, nhưng chúng tôi vẫn băn khoăn tự hỏi chẳng biết người của Aidid vận chuyển đạn pháo cho đội quân của họ bằng cách nào. Nhưng giờ đây, mọi việc đã rõ. Tôi nhìn thấy hai người phụ nữ đi cạnh nhau. Trên tay mỗi người bế một đứa bé. Ngay lập tức tôi xoay ống kính về phía họ và phóng to lên, tôi đã nhìn thấy đầu của đứa trẻ ở trên tay của một người phụ nữ, nhưng trên tay người phụ nữ thứ hai không phải là đứa trẻ mà là hai viên đạn pháo. Suýt nữa cách ngụy trang này đã qua mặt được tôi.

Trong quá trình đi do thám, chúng tôi đã tìm ra được phương cách đưa quân vào và rút quân khỏi Pasha. Ví dụ, khi đến thời điểm đổi quân, chúng tôi lái xe đến một lò mổ lạc đà bỏ hoang ở bên bờ biển, đánh tín hiệu cho một chiếc thuyền chở lực lượng SEAL thay thế và đưa xe cho họ, còn chúng tôi lên thuyền ra tàu. Lực lượng SEAL thay thế không cần phải mang theo nhiều đồ vì chúng tôi đã để lại các thiết bị nặng, cồng kềnh của SIGINT và các vật tư khác ở Pasha.

Lò giết mổ này đồ sộ như một dãy nhà lớn trong thành phố. Trước đây, lò giết mổ do người Nga sở hữu, nhưng đã bị bỏ hoang từ khi xảy ra nội chiến. Họ chỉ lấy thịt và xương lạc đà, những bộ phận còn lại họ đều ném xuống đại dương. Vùng biển dọc theo bãi biển vốn từng được coi là một trong những bãi biển đẹp nhất thế giới, giờ đây đầy rẫy các loài cá mập: cá mập đầu búa, cá mập trắng và cá mập hổ. Tôi chưa bao giờ sợ bơi ở bất cứ nơi nào nhưng lại không muốn bơi ở vùng biển đó. Ngay cả người dân địa phương cũng không muốn làm điều này, nên bãi biển này chỉ dành riêng cho nhu cầu của chúng tôi. Như một món quà, bãi biển rất gần Pasha. Ở dưới biển có thể dễ dàng nhìn thấy lò giết mổ do lò này che khuất cả một vùng bãi biển rộng lớn. Sử dụng những chiếc xuồng Zodiac (loại xuồng cao su gắn mô tơ bên ngoài) hoặc RHIB để vào bờ là điều vô cùng lý tưởng.

Chúng tôi quay trở lại Pasha. Tối hôm đó, cậu bé ở ngôi nhà kế bên rên la đầy vẻ đau đớn. Tôi hiểu đứa trẻ đã phải chịu đau như thế nào với vết thương như vậy. Phải giúp đứa bé mới được. Casanova, một y sĩ của SIGINT tên là Rick và tôi quyết định đột nhập vào nhà cậu bé. Chúng tôi lấy vải đen bịt kín mặt lại chỉ để hở hai con mắt, mang theo súng MP-5. Không do dự, chúng tôi phá vỡ cửa, trói bố mẹ và người dì của cậu bé lại và đặt họ nằm trên sàn nhà gần tường. Tất nhiên, họ sợ chúng tôi sẽ giết họ. Chúng tôi mang đứa bé vào trong nhà để cha mẹ cậu có thể chứng kiến những điều chúng tôi sẽ làm. Rick mở hộp đựng dụng cụ ra. Chúng tôi rửa vết thương bằng dung dịch sát trùng. Cậu bé vô cùng đau đớn. Chúng tôi đã phải lấy tay bịt miệng cậu lại để giữ cho tiếng la hét của cậu không đánh thức cả khu phố dậy. Cậu bé lịm đi trong cơn đau. Chúng tôi cho cậu uống thuốc kháng sinh, băng bó vết thương lại và tiêm hai mũi kháng khuẩn vào hai bên mông cậu trước khi biến mất vào màn đêm.

Thứ Tư, ngày 1 tháng Chín năm 1993, trong khi quan sát từ mái nhà, chúng tôi thấy một ông lão đánh xe lừa chở gạch vỡ. Khi trở về, ông cũng vẫn chở số gạch vỡ này. Cái quái gì đây? Chúng tôi đã lệnh cho một viên mật vụ theo dõi ông lão. Viên mật vụ phát hiện ông lão giấu đạn pháo dưới gạch. Chúng tôi báo cáo lên trên và nhận lệnh thủ tiêu ông lão.

Một lính bắn tỉa phải có lý trí mạnh mẽ, có niềm tin vững chắc vào tôn giáo hay một triết lý nào đó để đủ tỉnh táo không sát hại người bừa bãi. Trong chiến dịch Beltway năm 2002, lính bắn tỉa John Allen Muhammad đã nổ súng giết chết mười người và làm thương nặng ba người dân vô tội. Bắn súng có thể tạo cho con người cảm thấy mình mạnh mẽ. Một lính bắn tỉa giỏi không được phép để những xung lực này tác động chi phối. Mặt khác, khi một lính bắn tỉa không vượt qua được hội chứng Stockholm, người lính đó khó có thể hoàn thành được nhiệm vụ. (Năm 1973, tại Stockholm, Thụy Điển, một nhóm cướp đã bắt giữ các nhân viên ngân hàng làm con tin. Trong thời gian sáu ngày bị bọn cướp bắt giam, nhóm con tin lại trở nên có cảm tình với bọn cướp. Ngay cả sau khi được giải cứu, nhóm con tin vẫn ra sức bênh vực bọn cướp.) Qua một thời gian tìm hiểu lối sống và thói quen, lính bắn tỉa sẽ có hiểu biết tường tận về mục tiêu của mình. Trong một số trường hợp, lính bắn tỉa trở nên có cảm tình với mục tiêu. Tuy nhiên, lính bắn tỉa phải gạt bỏ được điều này. Khi thời gian đến, lính bắn tỉa phải hoàn tất nhiệm vụ của mình.

Trên mái nhà Pasha, Casanova và tôi nấp sau một bức tường. Tôi chĩa khẩu Win Mag về phía ông già, cách chỗ tôi nấp chừng 500m.

Casanova ngắm ông lão qua kính ngắm điểm. “Chuẩn bị. Ba, hai, một, bắn, bắn.”

Mục tiêu trong tầm ngắm của tôi, tôi bóp cò ngay. Tiếng “pằng” đầu tiên, nhưng không phải vào ông lão mà vào con lừa.

Đang mong đợi ông lão sẽ ngã xuống, nhưng lại là con lừa, Casanova chặc lưỡi tỏ vẻ tiếc nuối.

Ông lão bỏ chạy.

Một lúc sau, ông lão chỉ còn là một chấm nhỏ, nhưng con lừa nằm chết ở đó. Không ai ra mang xác con lừa về và nó vẫn mắcvào chiếc xe kéo. Mọi người bỏ mặc con lừa nằm chỏng trơ giữa đường như vậy.

Sau đó, một viên mật vụ cho chúng tôi biết ông lão đó không muốn chở đạn pháo, tuy nhiên quân của Aidid đe dọa sẽ giết chết cả nhà nếu ông từ chối vận chuyển. Tôi cảm thấy lòng mình nhẹ nhõm vì đã không hạ sát ông lão.

Cùng ngày, lực lượng của SIGINT chặn thu được cuộc trao đổi trên vô tuyến điện về kế hoạch pháo kích của đối phương vào nhà chứa máy bay. SIGINT biết được tần số liên lạc của lực lượng pháo thủ. Ngay lập tức, họ đã thông báo cho sở chỉ huy để bố trí thời gian cho mọi người ẩn náu trước khi đối phương pháo kích vào. Không ai bị thương trong vụ pháo kích. Trong chiến tranh, báo động trước một vài phút là điều vô cùng quý báu.

SIGINT thường xuyên nghe lén các cuộc trao đổi vô tuyến điện giữa bộ phận bắn và điều khiển bắn của quân Aidid. SIGINT đã triển khai máy bay oanh kích tiêu diệt các trận địa pháo của đối phương. Ngoài ra, chúng tôi còn chuẩn bị sẵn lá Khat cho các pháo thủ nghiện. “Các anh không nhất thiết phải nghiện ngập giống người của Aidid đâu. Lá Khat đây, cầm lấy và nhai đi.” Họ cười nhăn nhở, phô ra những bộ răng ố vàng, đen xỉn. Tôi hiểu, cho người nghiện nhai lá Khat là điều khủng khiếp, nhưng nó có thể cứu họ thoát chết khỏi các cuộc pháo kích và khỏi các cuộc phản kích của chúng tôi. Quân của Aidid giờ đây bắt đầu khó phối hợp với nhau trong các cuộc pháo kích.

Đêm đó, chúng tôi phát hiện một gã vác súng AK-47, đứng trên ban công ngôi nhà phía sau. Tôi mở chốt an toàn khẩu CAR-15 và hướng chấm đỏ vào đầu của hắn. Chúng tôi luôn gắn ống ngắm quang học (ACOG) trên tất cả các khẩu CAR-15. Đây là loại kính ngắm điểm tầm ngắn, chạy nguồn điện 1,5 vôn. Vào ban đêm, nó sáng hơn so với ban ngày gấp 10 lần nên chúng tôi không gặp trở ngại gì khi tác chiến trong đêm tối. Chấm đỏ xuất hiện trong kính ngắm khi đã tìm được mục tiêu. Điểm này tiên tiến hơn nhiều so với kính ngắm laze. Tôi chỉ đợi gã thanh niên đó chĩa súng về phía mình là bóp cò nhả đạn, tuy nhiên, hắn không làm vậy. Sau khi nói chuyện với số lính bảo vệ của mình, tôi mới vỡ lẽ. Hóa ra gã thanh niên cầm súng AK-47 đó là một lính bảo vệ của chúng tôi. Hôm đó, anh ta về nhà và bắt chước chiến thuật bảo vệ từ trên mái nhà của SEAL. Tất nhiên, gã đần này chẳng nói cho chúng tôi kế hoạch đó và có lẽ gã cũng chẳng biết đã bị chúng tôi phát hiện. Chúng tôi bảo anh ta “Cậu suy nghĩ như vậy là tốt, nhưng lần sau nhớ nói cho chúng tôi biết, bởi nếu không hành động ngu dốt đó sẽ làm cậu hối không kịp.”

Sáng thứ Năm, ngày 02 tháng Chín năm 1993, chúng tôi họp bàn kế hoạch và sắp xếp các vị trí trong thời gian tới. Pasha đang vận hành tốt, nên chúng tôi cần phải duy trì bộ máy này sau khi hoàn thành nhiệm vụ và có lực lượng khác thay thế.

Vài ngày sau đó, chúng tôi có được thông tin cần thiết. Aidid rất giàu có. Cô con gái đang học đại học của Aidid có nhiều bạn ở châu Âu, Libya, Kenya và nhiều nước khác. Ai đó đã gọi điện vào máy di động của cô ta và SIGINT đã nghe trộm được. Mặc dù hắn ta di chuyển liên tục nhưng con gái của y đã mắc sai lầm khi đề cập đến nơi ẩn náu của hắn. Một viên mật vụ đã giúp chúng tôi xác định được ngôi nhà đó. Máy bay do thám P-3 thu nhận được tín hiệu từ đoàn xe hộ tống Aidid, nhưng ngay sau đó đoàn xe ngừng liên lạc và chúng tôi để mất Aidid trong mê cung của các tòa nhà.

Vào buổi tối, Casanova và tôi nằm trên mái nhà Pasha để bảo vệ vòng ngoài. Trong thời gian ở Pasha, chúng tôi hay chơi trò bẫy chuột. Chúng tôi dùng hạt đậu phộng lấy từ gói đồ ăn sẵn để làm mồi nhử. Chúng tôi buộc dây vào một chiếc gậy và gắn một chiếc hộp trên đó. Thông qua kính nhìn đêm, chúng tôi thấy chuột bò vào. Casanova giật dây, nhưng thật tiếc con mồi đã chạy thoát trước khi chiếc hộp rơi xuống đầu nó. Sau đó, chúng tôi cải tiến kỹ thuật bẫy này khoa học hơn. Tôi tháo rời một số chiếc bút bi và sử dụng lò xo bút bi tạo thành đường đi duy nhất dẫn đến chiếc hộp. Bên trong hộp có đặt một vài hạt đậu phộng. Ngay lập tức, một con chuột bò gần đến bẫy và vào trong hộp. Những sợi dây đóng chặt cửa lại và nhốt chặt con chuột trong hộp.

“Bắt được mày rồi”, tôi thì thầm. Casanova mỉm cười.
“Tiếp theo chúng ta sẽ làm gì?” – Tôi hỏi. “Giết nó chứ còn gì nữa.”

“Giết nó bằng cách nào?” “Cậu nói vậy là có ý gì?”
Trong khi chúng tôi mải bàn về cách giết con chuột thì nó đã thoát ra khỏi chiếc bẫy và chạy mất.

Lần sau đó, chúng tôi làm một chiếc hộp nhỏ hơn để chuột không có nhiều khoảng trống do đó nó sẽ khó trốn thoát hơn. Con chuột bò vào bên trong. Bẫy sập xuống. Tôi giận mạnh chân xuống chiếc bẫy. Con chuột chết, đồng nghĩa với việc chiếc bẫy cũng bị hỏng. Theo cách này, mỗi chiếc bẫy chỉ giết được một con.

Tôi cảm thấy vui sướng khi đã giết chết được một con chuột. Giờ đây tôi lại tiếp tục làm một chiếc bẫy khác để bắt con thứ hai.

“Này, đến đây,” Casanova khẽ gọi.

“Gì vậy?” Tôi trườn đến chỗ Casanova.

Anh ta chỉ tay về phía ngôi nhà bên kia đường, chỗ chúng tôi đã cắt cử hai lính canh gác từ ngày hôm trước. Ở đó, có ba người đàn ông đang tìm cách vào nhà. Họ đã chọn nhầm nhà trong khu phố. Giá họ tìm cách đột nhập vào ngôi nhà này trước khi chúng tôi cắt cử người canh gác thì chúng tôi sẽ nói Liệu thần hồn, biến khỏi đây ngay. Giờ đây số lính canh của chúng tôi đã ở trong nhà và việc xử lý số người này là trách nhiệm của chúng tôi.

Casanova xử lý gã bên trái còn tôi xử lý gã bên phải. Di chấm đỏ vào mục tiêu đầu tiên của mình, tôi siết cò. Chân của hắn khụy xuống trước khi đổ gục. Casanova cũng diệt gọn mục tiêu của anh ấy. Tên ở giữa được sống lâu hơn hai tên đồng bọn một vài tích tắc vì ngay sau đó, cả Casanova và tôi đều nổ súng diệt hắn. Nếu ba kẻ đột nhập chỉ là những tên trộm thông thường thì chúng đã bị trả một giá quá đắt cho hành động đó.

Sau đó, SIGINT nghe lỏm được câu chuyện tại quán bar ở khu phố đó và biết quân của Aidid đang đi thu thập tin tức. Có thể bọn chúng đang lên kế hoạch tấn công chúng tôi. Pasha được đặt trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu. Chúng tôi thậm chí bố trí cả tên lửa chống tăng AT-4 và đảm nhận nhiệm vụ bảo vệ vòng ngoài. Hóa ra không phải quân Aidid đi thu thập tin tức mà chúng đi tuyển quân.

Một viên mật vụ nhìn thấy Aidid nhưng không thể xác định chính xác ngôi nhà hắn đang lẩn trốn. Thông tin này là cơn ác mộng đối với chúng tôi. Mặc dù các mật vụ cùng vào cuộc để xác định ngôi nhà nhưng những nỗ lực này bất thành.

Một máy bay của lực lượng SIGINT bay từ châu Âu sang giúp chúng tôi. Chiếc máy bay này đã đến vào buổi tối hôm đó nhằm góp phần lần tìm và xác định chính xác nơi ẩn náu của Aidid. Hoạt động này giúp ích cho chúng tôi rất nhiều. Chúng tôi có thể sử dụng máy phát và đưa ra các cảnh báo hiệu quả hơn. Nó cũng giúp chúng tôi có thể chặn thu thông tin tốt hơn là chặn thu từ tầng thượng ngôi nhà chúng tôi đang ở.

Ngôi nhà lớn ngay bên phải Pasha là nơi cư trú của Đại sứ Italia. Tại đây, viên Đại sứ đã tổ chức một bữa đại tiệc với sự tham gia của đông đảo quân nhân Italia. Italia đóng chiếm tại Somali từ năm 1927 đến năm 1942. Năm 1949, Liên Hợp Quốc giao cho Italia ủy trị một số vùng của Somali. Sau đó, vào năm 1960, Somali giành độc lập. Giờ đây, lính Italia đã thực sự trở thành những thằng khốn khi chơi trò hai mang. Bất cứ khi nào máy bay Black Hawk hoạt động, lính Italia lập tức dùng đèn tín hiệu báo cho dân địa phương biết lính Mỹ đang tới. Nhưng đồng thời, binh sĩ của họ lại sử dụng hình thức tra tấn bằng điện đối với tù binh Somali, hãm hiếp phụ nữ và chụp ảnh ghi lại những chiến tích của chúng.

Liên Hợp Quốc cáo buộc Italia đã hối lộ Aidid và ra lệnh phải cử người thay Đại tướng Italia Bruno Loi. Chính phủ Italia lại đề nghị Liên Hợp Quốc phải chấm dứt những hoạt động hiếp đáp Aidid.

Giancarlo Marocchino là một trong những nhân vật có ảnh hưởng lớn. Y bỏ trốn khỏi Italia vì tội trốn thuế và đã cưới một cô vợ người Somali trong gia tộc Aidid. Khi Liên Hợp Quốc tịch thu vũ khí của lực lượng bán vũ trang Somali, quân đội Italia đã giao số vũ khí thu được này cho Giancarlo. Người ta ngờ rằng sau đó Giancarlo đã bán lại cho Aidid.

Italia đã rót hàng nghìn tỷ lia vào Somali dưới chiêu bài viện trợ. Với sự giúp đỡ từ những nhân vật như Aidid, ngay cả khi Aidid chưa trở thành lãnh chúa quyền uy, hầu hết số tiền này đã rơi vào túi của các quan chức Italia và bạn bè của họ. Italia xây dựng đường cao tốc nối liền Bosasso với Mogadishu. Giancarlo Marocchino đã nhận tiền “lại quả” sau dự án này. Marocchino cũng gây dựng được mối quan hệ gần gũi với nhóm phóng viên nhờ việc bỏ tiền bỏ của thết đãi họ trong thời gian lưu trú ở Mogadishu.

Một cựu chiến binh Nga, sống cùng khu phố với chúng tôi, cũng chơi trò hai mang. Trước đây, ông ta được đào tạo qua về tình báo và giờ đây đang hoạt động như một lính đánh thuê. Ông ta làm việc cho cả hai bên miễn là nhận được thù lao. Chúng tôi nghi ngờ ông ta giúp cả hai bên dò tìm các vị trí bí mật và tuyển mộ binh lính. Có vẻ ông ta bắt tay với quân Italia để cùng làm việc này. Gia đình Sicili đã dạy tôi cách nấu ăn là những người rất yêu qúy nước Mỹ. Ngược lại, các hành vi của quân lính Italia ở Somali giống như những cú đấm giáng vào chúng tôi.

Chúng tôi đã nhận được báo cáo cho biết có thể Aidid đã mua được loại tên lửa đất đối không Stinger. Đây là loại tên lửa vác vai có thể bắn hạ được máy bay.

Tôi, Casanova và y sĩ của SIGINT lại một lần nữa đột nhập vào nhà của của cậu bé bị thương ở chân. Lần này gia đình cậu không còn sợ hãi như lần trước đó, tuy nhiên, họ cũng chẳng cảm thấy thoải mái. Chúng tôi còng tay họ lại trước khi chữa trị vết thương cho cậu bé. Vết thương của cậu đã khá hơn nhiều. Lần này, cậu không la hét hay vãi tè ra quần khi chúng tôi rửa vết thương nữa.

Sáng ngày 3 tháng Chín năm 1993, chúng tôi chuẩn bị đến khu quân sự. Những lính bảo vệ người Somali trinh sát đường đi trước khi chúng tôi ra. Trong chuyến đi, lính bảo vệ đã áp dụng chiến thuật tách nhóm. Theo đó, nếu có kẻ bám đuôi, chúng sẽ buộc phải chia đôi lực lượng thành hai ngả khác nhau hoặc đi theo một hướng theo kiểu năm ăn năm thua. Chúng tôi đã được đào tạo cơ bản chiến thuật ở trường học, nhưng những người bảo vệ lại rút ra kinh nghiệm này từ cuộc nội chiến và sẵn sàng áp dụng khi cần. Họ quả là những người rất thông minh.

Khu quân sự được canh phòng cẩn mật với sự bảo vệ của lính bắn tỉa, các tháp canh và các vị trí bắn. Chúng tôi cầm đèn hồng ngoại và bấm nháy để báo hiệu chuẩn bị nâng cấp mức độ bảo vệ an ninh cho Pasha. Khi ở đó, chúng tôi có cuộc họp với lực lượng Delta, kể cho họ nghe chi tiết các vụ pháo kích và các điểm nghi ngờ có bố trí lực lượng pháo thủ. Họ trèo lên mái nhà chứa máy bay và bắn do thám: những tay súng bắn tỉa bắn vào những khu vực nghi ngờ có lực lượng pháo thủ và hy vọng lực lượng SIGINT có thể chặn thu được các cuộc trao đổi ở những nơi trúng đạn. Khi Tướng Garrison phát hiện ra, ông đã mắng chúng tôi một trận thậm tệ. Ông không thích hành động bắn do thám này.

Đêm hôm đó, chúng tôi trở lại Pasha giúp lính bảo vệ hiểu rõ hơn về công việc của chúng tôi và cách thức thực hiện nhiệm vụ. Casanova mang theo đèn hồng ngoại và đi một vòng quanh ngôi nhà. Mắt thường không thể nhìn thấy đèn hồng ngoại. Tôi cho những lính bảo vệ nhìn qua kính nhìn đêm KN-250 nên có thể thấy ánh sáng lấp lánh trên người Casanova. Những người lính canh này há hốc mồm ra vì kinh ngạc như kiểu thể lần đầu tiên thấy vật thể bay lạ (UFO). Họ hạ kính nhìn đêm xuống để quan sát bằng mắt thường, rồi lại nhìn Casanova bằng kính nhìn đêm một lần nữa. Giọng của họ liến thoắng, tay chân khua loạn cả lên như là vừa viếng thăm UFO khiến cả Casanova lẫn tôi đều cười thú vị.

Vào lúc tối muộn, chúng tôi cùng với Cá Đuối (Stingray), đang làm việc dưới quyền của Kền Kền đến trình diễn những tính năng ưu việt của loại đèn nháy hồng ngoại và các thiết bị khác cho viên cảnh sát trưởng xem. Viên mật vụ chủ chốt, phụ trách mảng tuyển quân, đã nói cho viên cảnh sát trưởng phương thức hoạt động của chúng tôi. Kết quả, viên cảnh sát trưởng cảm thấy rất yên tâm và đồng ý cử người cộng tác với chúng tôi. Đổi lại, ông ta nhận được 50.000 đô-la. Tuy nhiên, chúng tôi hiểu, ông ta chỉ cần sử dụng 1.000 đô-la trong số đó là đủ để chi trả cho 20 hay 30 người chịu làm việc với chúng tôi, số còn lại đương nhiên ông ta bỏ vào túi mình.

Casanova và tôi lại đột nhập ngôi nhà của cậu thiếu niên bị thương. Bố mẹ cậu ngoan ngoãn ra chỗ sàn nhà gần tường chứ không cần chúng tôi phải giục. Người dì tay bưng khay trà, quỳ xuống mời chúng tôi.

Tôi cầm một cốc lên và mời gia đình cùng uống. Tuy nhiên họ từ chối.

Lần này chúng tôi mang theo một phiên dịch viên để hướng dẫn gia đình cách chăm sóc cậu bé. Gia đình cậu bé rất nghèo và những cốc trà là điều duy nhất họ có thể làm để cám ơn chúng tôi. Họ đã từng mời thầy mo về chữa trị nhưng rõ ràng việc làm này chẳng cứu chữa được cậu bé.

Giờ đây, vết thương của cậu không còn bốc mùi nữa, nhưng đôi khi vẫn lên cơn sốt. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn quyết định phẫu thuật thêm cho cậu một lần nữa. Sau đó, chúng tôi đưa cho gia đình một số viên kháng sinh amoxilin. Chúng tôi dặn: “Cho cháu uống ba lần mỗi ngày trong vòng mười ngày”.

Tôi thấy lợi của của cậu bé đang chảy máu. Trong mồm cậu đầy máu.

Người y tá thốt lên: “Cậu ấy bị bệnh sco-bút rồi”. Người mắc bệnh này là do thiếu vitamin C trong thức ăn hàng ngày. Trước đây, các thủy thủ thường hay bị nhiễm căn bệnh này. Bác sĩ phẫu thuật người Scotland tên là James Lind thuộc Hải quân Hoàng gia Anh phát hiện ra rằng những thủy thủ nào hay ăn loại hoa quả như cam chanh thường ít mắc bệnh Sco-bút. Do chanh là loại quả dễ tìm ở các thuộc địa của Anh ở vùng Caribê nên Hải quân Anh đã cung cấp nước trái cây này cho các thủy thủ. Từ đó, thủy thủ Anh có biệt hiệu là “limey”. Limey có nguồn gốc từ chữ lime-juicer, có nghĩa là máy ép nước chanh.

Ngày 4 tháng Chín năm 1993, Casanova và tôi lái xe ra ngoài trinh sát tuyến đường dự phòng, dò tìm trận địa pháo của đối phương và để nắm vững địa bàn hơn. Sau đó, một viên mật vụ cho biết quân của Aidid đã cài hai quả mìn trên đường để phục kích các phương tiện đi lại của Mỹ. Hai quả mìn được cài ở đúng con đường chúng tôi đến gặp lực lượng Delta ở khu quân sự ngày hôm trước. Tôi tin rằng, chúng hẳn đã biết chuyến đi của chúng tôi nhưng chúng đã đón trượt.

Trong khu phố, hàng ngày các bé gái phải đi 1,6 km mới đến được nơi lấy nước và mang về nhà. Ở sân trước, một bé gái chừng bốn tuổi đang tắm cho đứa em mới hai tuổi của nó. Hầu hết mọi người Mỹ đều không nhận ra họ may mắn đến thế nào! Chúng tôi thầm cám ơn những hành động của các bé gái này bởi nó làm mọi người ý thức hơn về cuộc sống đang có của mình.

Đến thời điểm này, chúng tôi đã trở thành người nổi tiếng, kiểm soát được khu vực rộng lớn. Khi Casanova thấy các cô cậu học sinh, anh gồng tay và hôn vào đó. Nhóm học sinh bắt chước liền. Một nhóm học sinh tụ tập lại và chúng tôi phát kẹo, socola, bánh Tootsie và kẹo cao su cho các em. Đúng vậy, mặc dù việc làm này làm lộ vỏ bọc của chúng tôi, nhưng Kền Kền nghĩ, đây là một việc làm có ý nghĩa để giành được tình cảm của người dân địa phương. Tôi đồng ý với anh.

Tôi mang một túi cam sang cho cậu bé bị thương ăn, nhưng cậu lại không ăn được vì axít xitric làm xót chỗ lợi đang chảy máu. Casanova giữ chặt cậu bé, còn tôi đổ nước hoa quả vào mồm cậu. Sau hai ba lần, cậu bé không còn cảm thấy xót nữa. Cuối cùng cậu khỏi bệnh sco-bút. Để giúp cậu bé, Kền Kền nói dối CIA là cậu bé có họ hàng với một viên mật vụ của chúng tôi. Một viên mật vụ mang cho cậu bé đôi nạng, còn tôi cho cậu mượn chiếc xe lăn.

Sau này, cậu bé ra ngoài hiên và nhìn thấy chúng tôi khi đang làm nhiệm vụ bảo vệ trên mái nhà của Pasha. Cậu mỉm cười và vẫy tay chào chúng tôi. Đây là chiến dịch thành công nhất của tôi ở Somali. Để làm việc này, tôi đã không tuân lệnh cấp trên trực tiếp của mình. Đúng là cầu xin sự tha thứ tốt hơn là xin phép làm một việc gì đó.

Aidid bắt đầu vận hành chiến dịch “Con tim và Khối óc”. Hắn công khai chống lại người Mỹ và bắt đầu tuyển quân ngay trong khu vực của chúng tôi: hắn tuyển tất cả chẳng chừa một ai từ già tới trẻ.

Các mật vụ báo cho chúng tôi biết tuyến đường Aidid sử dụng để vận chuyển tên lửa Stinger: từ Afganistan qua Sudan, Ethiopia vào Somali. Đây là số tên lửa Afganistan chưa sử dụng đến và nằm trong số tên lửa Mỹ cấp cho Afganistan để đương đầu với Nga. Một vài năm sau đó, Chính phủ Mỹ đã bỏ tiền ra mua lại các tên lửa Stinger này với giá 100.000 đô-la một quả mà không nói rõ lý do.

Aidid nhận được sự giúp đỡ từ Al Qaeda và Tổ chức giải phóng Palestine (PLO). Khi đó, chẳng mấy người biết đến tổ chức Al Qaeda. Al Qaeda đã gửi các cố vấn đến huấn luyện cho quân của Aidid chiến thuật phòng thủ tác chiến trong thành phố và cung cấp vũ khí giúp Aidid. Trong thời gian này, Al Qaeda còn dạy quân Aidid cách cải tiến kíp nổ tiếp xúc trên đầu đạn của loại súng phóng lựu RPG thành các thành kíp nổ hẹn giờ. Thay vì phải bắn thẳng vào trực thăng, RPG có thể phát nổ gần cánh quạt đuôi, yếu điểm của các máy bay trực thăng. Nếu bắn RPG từ đỉnh mái nhà sẽ dễ lộ và dễ dàng bị các tay súng trên máy bay tiêu diệt nên Al Qaeda đã hướng dẫn quân Aidid đào hố sâu trên đường. Bằng phương pháp này, họ có thể tránh bị trực thăng phát hiện. Mặc dù ở thời điểm đó, tôi không biết việc này, nhưng rõ ràng các cố vấn Al Qaeda đến Somali thời điểm đó có cả Bin Laden và Mohammed Atef. Tương tự, PLO đã cử cố vấn và gửi phương tiện sang giúp đỡ Aidid. Giờ Aidid muốn nhắm đến mục tiêu là các nhân vật cấp cao trong chính quyền Mỹ.

Lực lượng SIGINT chặn thu được bức điện có nội dung về âm mưu phóng tên lửa tấn công vào Đại sứ quán Mỹ. Hơn nữa, các mật vụ còn cho chúng tôi biết lính Italia làm việc ở các trạm kiểm soát của Liên Hợp Quốc trong thành phố tiếp tục cho phép quân Aidid đi lại tự do. Do đó, quân của Aidid chỉ tìm đến các trạm kiểm soát của người Italia và dễ dàng tự do đột nhập vào sân sau của Mỹ và một số khu vực khác.

Hai trong số các vệ sĩ Aidid muốn bán đứng chủ nhân của họ để đổi lấy món tiền thưởng 25.000 đô-la. Do đó, Báo Gấm muốn gặp họ tại Pasha.

Để đến được Pasha, Báo Gấm lập kế hoạch di chuyển qua trạm kiểm soát của người Italia đúng gần một nhà máy mì ống cũ kỹ, được gọi là trạm kiểm soát nhà máy mì ống. Tuy nhiên, Báo Gấm lại không biết trạm kiểm soát này vừa được người Italia giao lại cho người Nigeria. Chỉ vài phút sau khi bàn giao, quân của Aidid đã phục kích và giết chết bảy lính Nigeria. Tối hôm đó, tôi nghe thấy âm thanh của một cuộc giao tranh ngay gần Pasha. Rõ ràng, bọn chúng đã bắt đầu đánh hơi thấy vấn đề. Tình huống này đòi hỏi chúng tôi phải khẩn trương hơn.

Chưa đến 8 giờ sáng Chủ nhật, ngày 5 tháng Chín năm 1993, Báo Gấm và bốn vệ sĩ đi trên hai chiếc Isuzu Troopers phóng ra khu Liên Hợp Quốc. Khi họ tới trạm kiểm soát nhà máy mì ống, một đám đông bu lấy họ. Ở phía trước cách khoảng vài trăm mét, lốp xe cháy và bê tông đổ làm tắc nghẽn con đường. Lái xe của Báo Gấm nhấn ga vượt qua ổ phục kích. Bốn mươi chín viên đạn găm vào xe của họ. Một viên xuyên qua áo và trúng vào cổ Báo Gấm. Người tài xế tiếp tục rồ ga xuyên qua ổ mai phục và đưa Báo Gấm đến bệnh viện trong khu Liên Hợp Quốc. Sau khi truyền gần 5 lít máu và khâu 100 mũi, Tướng Garrison đưa Báo Gấm đến chữa trị tại một bệnh viện ở Đức. Báo Gấm được cứu sống.

Cuối ngày hôm đó, tôi nghe thấy những tiếng nổ của loại súng cỡ nòng 50 caliber, loại đạn có thể xuyên thủng tường, bắn từ hướng tây bắc, cách chỗ chúng tôi chừng 300 – 500m.

Vụ bắn này cộng với vụ phục kích trước đó giúp chúng tôi hiểu rằng mình sẽ bị tấn công. Tình trạng sẵn sàng chiến đấu được ban bố và chúng tôi đều vào vị trí tác chiến. Tôi đã gọi một chiếc AC-130 Spectre đến phòng khi chúng tôi cần sự giúp đỡ. AC-130 Spectre là loại máy bay có thể bay nhiều giờ liên tục, mang hai khẩu pháo Vulcan M-61 cỡ nòng 20 li, một khẩu pháo L/60 Bofors cỡ nòng 40 li và một khẩu bích kích pháo M-102 cỡ nòng 105 li. Các bộ cảm biến tinh vi và radar giúp phát hiện kẻ thù trên mặt đất. Bạn có thể thả một con thỏ trên một sân bóng đá và chiếc AC-130 Spectre sẽ dễ dàng làm thịt con thỏ này. Tôi đã được đào tạo về khả năng của loại máy bay này và cách gọi máy bay đến trút đạn xuống kẻ thù tại thao trường Hurlburt ở Florida. Điều này làm cho tôi rất phấn khích, chúng tôi đã sẵn sàng hạ gục một số binh lính của Aidid. Tuy nhiên, số phận lại mỉm cười với quân của Aidid khi chúng chọn ngày khác để tấn công.

Cùng ngày, chúng tôi phát hiện ra một trong những mật vụ chủ chốt bị lộ và chúng tôi buộc phải đưa anh ta rời khỏi Somali.

Lúc 8 giờ tối, một viên mật vụ báo cáo Aidid đang ở nhà một bà dì của hắn. Kền Kền điều một máy bay trực thăng đến chở Cá Đuối và viên mật vụ đến căn cứ và báo cáo vắn tắt tình hình cho Tướng Garrison biết. Tất cả những người ở Pasha đều rất hưng phấn. Tất cả những gì chúng tôi đã làm ở Pasha − từ việc điều hành các mật vụ, lực lượng SIGINT… đã mang lại thời khắc quý báu này. Tình báo giỏi và màn đêm là lá chắn vững chắc bảo vệ đội xung kích của chúng tôi. Thậm chí, viên mật vụ thậm chí còn có trong tay sơ đồ của ngôi nhà. Đây là điều lý tưởng cho đội hành động đặc biệt khi tiến hành xâm nhập. Aidid là của chúng tôi.

Tuy nhiên, yêu cầu bị từ chối. Đến giờ, tôi vẫn không biết tại sao. Kền Kền và Cá Đuối thực sự bị tổn thương. “Chúng tôi sẽ chẳng thể có được một cơ hội khác qúy báu như lần này!”

Những người còn lại cũng chẳng thể tin vào quyết định này. “Whiskey Tango Foxtrot ?!”

Theo bảng chữ cái ngữ âm quân sự, ba từ trên viết tắt là WTF và có nghĩa là “Chó chết thật!”

Tôi rất bực mình vì chúng tôi đã miệt mài làm việc chỉ để đổi lấy kết quả là nhiệm vụ quan trọng bị bỏ qua. Có vẻ như người đáng trách trong vụ này là bộ phận chính trị trong quân đội. Tôi cũng cảm thấy bức xúc trước hành vi đối xử với lực lượng CIA. “Kền Kền, tôi thành thật xin lỗi. Tôi không biết cái quái quỷ gì đang diễn ra nữa. Tôi chẳng hiểu nổi tại sao chúng ta lại không thực hiện phi vụ này.”

Kền Kền không giận chúng tôi, nhưng anh ta rất hận Tướng Garrison. “Nếu Garrison không cho thực hiện phi vụ này, thì ông ta phái chúng ta đến đây làm cái quái gì? Tại sao lại phải làm tất cả những việc này, tại sao phải ném tiền vào đây, đẩy chúng ta vào nguy hiểm, đẩy các mật vụ vào nguy hiểm.”

“Nếu chúng ta vào cuộc”, tôi nói hộ Kền Kền nửa câu còn lại “Chúng ta đã có Aidid”.

“Chó thật, cậu nói đúng, lẽ ra chúng ta đã có Aidid”.

Khi đó, tôi cũng tức điên lên với Garrison. Khi quá tức giận, tôi thường trở nên im lặng. Kền Kền và tôi đều có chung một nỗi khổ và từ sau vụ việc đó, tôi chẳng nói chẳng rằng. Những người khác biết ý và dành cho tôi một không gian riêng. Tất cả chúng tôi đều tiếc nuối vì bỏ mất cơ hội thực hiện nhiệm vụ.

4 giờ sáng, ngày 6 tháng Chín năm 1993, từ trên mái nhà Pasha, Casanova và tôi nghe thấy tiếng nổ của xe tăng. Khi đó, chúng tôi vẫn chưa biết Aidid đã có xe tăng, nhưng chúng tôi vẫn dự phòng tên lửa chống tăng AT-4.

Vài giờ sau, Casanova và tôi nói chuyện này với Gã Mập lùn và Sourpuss. Vừa nghe xong, Sourpuss đã phản đối: “Không thể có xe tăng ở đây được”.

“Chúng tôi phải biết mình đã nghe thấy tiếng động cơ gì chứ”, tôi nói.

“Tôi không tin,” Sourpuss nói. “Điều vớ vẩn này có thể gây ấn tượng với CIA đấy, còn với tôi thì không.”

“Đúng thật là…”

Cũng buổi sáng hôm đó, một viên mật vụ bị bắn chết khi vừa bước chân ra khỏi xe của mình.

Chẳng bao lâu sau, viên mật vụ thứ hai cũng bị bắn vào đầu. Viên mật vụ này là anh trai của người giúp việc cho chúng tôi. Anh ta là một người tốt. Anh ta đồng ý làm mật vụ không phải vì tiền mà để giúp phe cánh của anh giành thắng lợi và chấm dứt cuộc nội chiến. Ánh mắt người hầu phòng chẳng thể che giấu được nỗi buồn to lớn trước sự mất mát này.

Dường như mọi việc vẫn chưa dừng lại ở đây, viên mật vụ thứ ba đã bị quân Italia đánh một trận thập tử nhất sinh.

Chúng tôi nhận được mật báo về việc Aidid đã sở hữu súng phòng không. Phe cánh Aidid tiếp tục lớn mạnh và ngày càng hoạt động tinh vi hơn nhờ sự hậu thuẫn của Al Qaeda, PLO và sự làm ngơ của quân Italia. Người dân bản địa cũng nhận ra sự phát triển này và đều tỏ ra muốn gia nhập vào đội quân của Aidid.

Một mật vụ báo cho Delta biết Aidid đang ẩn náu trong khuôn viên cũ của Nga. Vì vậy, Delta đã theo sau viên mật thám này và bắt mười bảy người, nhưng không có Aidid trong nhóm này. Chỉ có hai trong số mười bảy người bị bắt là nằm trong số những kẻ bị săn lùng. Họ đã bị giam giữ, hỏi cung và rồi được phóng thích. Delta đã có một màn trình diễn tác chiến trước người của Aidid: máy bay bay vào, dùng dây thừng tụt xuống và sử dụng lực lượng biệt kích Ranger để bảo vệ những người vừa xuống.

Ngày 7 tháng Chín năm 1993, một mật vụ chủ chốt của chúng tôi đến muộn bốn giờ đồng hồ. Chúng tôi nghĩ anh ta đã bị giết chết.

Cuối cùng anh ta cũng xuất hiện “Tôi đến để nhận nhiệm vụ tối nay”.

“Xin lỗi, anh đã bị xóa tên.” “Xóa tên ư?”
“Nhiệm vụ bị hủy bỏ. Tối nay không có nhiệm vụ nào giao cho anh hết.”

Buổi tối hôm đó, Casanova và tôi hộ tống Kền Kền mang tiền đến cho một mật vụ. Các mật vụ chỉ huy thường giàu có, có tầm ảnh hưởng lớn và sở hữu một số nhân viên dưới quyền. Kền Kền đến tận nhà các mật vụ chỉ huy chứ không gọi họ đến bởi ông muốn kiểm tra số lượng và nhận mặt các tân binh, để biết các mật vụ chia cho họ bao nhiêu tiền và giao nhiệm vụ cho họ như thế nào. Cuộc gặp kéo dài khoảng tiếng rưỡi. Trong khi Casanova và tôi đứng bảo vệ bên ngoài, chúng tôi nghe thấy tiếng súng nổ cách đó khoảng 200m về phía bắc.

Gã Mập lùn và Sourpuss nhìn thấy một số người rời khỏi cuộc đọ súng, chạy về hướng chúng tôi. Họ dùng vô tuyến điện hỏi: “Có phải các anh đang cần sự giúp đỡ không?”.

“Không, chúng tôi không tham gia.” Nếu chúng tôi bắn pháo hiệu xanh, Gã Mập lùn và Sourpuss sẽ gọi trực thăng, rồi mở đường đến hỗ trợ chúng tôi trước khi trực thăng có mặt.

Khi đêm đã về khuya, chúng tôi trở lại Pasha và tôi đã bắt được con chuột thứ hai.

Ngày 8 tháng Chín năm 1993, biệt kích Ranger báo cáo đã phát hiện một chiếc xe tăng cũ của Nga cách thành phố khoảng hơn 3 km và đã tiêu diệt chiếc tăng này. Tôi nhắc Sourpuss về tiếng nổ của chiếc xe tăng mà Casanova và tôi đã nghe thấy vài ngày trước đó, “Thấy chưa? Đó là xe tăng đấy. Cậu biết không, chúng gây ra tiếng ồn trong quá trình di chuyển.”

Sourpuss bỏ đi.

Ngày hôm đó, Abe đã trở thành mật vụ chủ chốt của chúng tôi. Chúng tôi đưa cho anh ta một chiếc đèn nháy hồng ngoại và một chiếc đèn hiệu gắn nam châm. Anh ta có vẻ rất tự tin là sẽ tiếp cận được Aidid nên chúng tôi báo động lực lượng Delta để họ sẵn sàng.

“Aidid đang di chuyển,” Abe gọi báo. Tuy nhiên, khi màn đêm buông xuống, Abe đã để mất dấu Aidid.

Mặc dù SIGINT không chặn thu được bất kỳ cuộc trao đổi nào, nhưng một số tiếng nổ vẫn vang lên ở hướng sân bay. Đội pháo thủ của Aidid đã tìm ra được phương thức liên lạc với tổ bắn và tổ điều khiển bắn mà không bị SIGINT chặn thu. Chó thật, chúng đã thay đổi cách liên lạc.

Ngày 9 tháng Chín năm 1993, Tướng Garrison nhận được lệnh tiến hành giai đoạn ba – theo dõi các thủ hạ của Aidid.

Delta cho máy bay lượn trên bầu trời Mogadishu để biểu dương lực lượng: khoảng 10 – 12 chiếc trực thăng Little Bird và 20 – 30 chiếc trực thăng Black Hawk. Các tay súng bắn tỉa ngồi trên những chiếc trực thăng Little Bird trang bị các loại súng, rocket và tên lửa. Những chiếc trực thăng Black Hawk hạng trung cũng trang bị súng, rocket và tên lửa. Các đội đột nhập của Delta và biệt kích Ranger nhanh chóng đu dây tụt xuống mở các cuộc tấn công ngay khi vừa đặt chân xuống mặt đất. Ý tưởng của việc làm này là để chứng tỏ chúng tôi mạnh hơn Aidid và làm cho Aidid ít hấp lực hơn với người dân với hy vọng hắn không tuyển mộ được lính mới.

Cùng ngày, gần nhà máy sản xuất mì ống – cách sân vận động Pakistan khoảng 2 km, các kỹ sư công binh đơn vị 362 của Lục quân tiến hành dọn dẹp đường tỉnh lộ Mogadishu. Một trung đội xe bọc thép Pakistan bảo vệ họ trong khi Lực lượng Phản ứng Nhanh (QRF) đứng bên sẵn sàng hỗ trợ khi cần. QRF được tập hợp từ Sư đoàn sơn cước số 10 của Lục quân, Trung đoàn Không vận số 101 và Trung đoàn Không vận số 25 và đóng quân ở khuôn viên một trường đại học bỏ hoang và Đại sứ quán Mỹ cũ.

Các kỹ sư công binh đang ủi một vật cản ra khỏi con đường thì một đám đông người Somali ùa đến. Một người Somali rút súng bắn một phát rồi nhảy lên xe tải trắng phóng đi. Các kỹ sư công binh dọn xong vật cản thứ hai. Rồi đến vật cản thứ ba: những lốp xe cháy, đống sắt vụn và một chiếc rơ moóc. Ai đó đứng trên ban công tầng hai bắn vào họ. Các kỹ sư và lính Pakistan bắn trả. Đối phương bắn mạnh hơn từ tứ phía. Đám đông chuyển các vật cản để chặn số binh sĩ lại. Các kỹ sư gọi trực thăng của lực lượng QRF đến. Trong vòng ba phút, các máy bay trực thăng Cobra đã đến. Hàng trăm người Somali có vũ trang tiến vào từ phía bắc và phía nam, sử dụng súng phóng lựu RPG bắn ra từ nhiều hướng.

Cobra dùng pháo 20 li và rocket 6,8 li nã vào đối phương. Nhiều máy bay khác của lực lượng QRF được điều đến giúp trong khi các kỹ sư tìm cách thoát thân, tháo chạy về hướng sân vận động Pakistan. Lực lượng bán vũ trang của Aidid bắn đạn cối 106 li vào chiếc tăng đi đầu của Pakistan làm chiếc xe tăng bốc cháy. Một chiếc xe ủi chết máy nên các kỹ sư vứt nó lại. Khi 30 lính Somali cố tìm cách chiếm đoạt chiếc xe bỏ lại này, hai quả tên lửa TOW đã quật ngã chúng và phá hỏng chiếc xe. Hai kỹ sư và ba lính Pakistan bị thương trong quá trình rút chạy về sân vận động. Một lính Pakistan tử thương. Tính tới thời điểm đó, đây là trận chiến lớn nhất xảy ra ở Somali.

Theo nguồn tin tình báo của chúng tôi, Aidid có tham gia trận chiến này và hắn chỉ huy cuộc mai phục ở nhà máy sản xuất thuốc lá gần đó. Hơn một trăm người Somali chết và vài trăm người bị thương, nhưng Aidid đã thắng lợi vì tiếp tục khóa được con đường này, hạn chế được sự chuyển quân của Liên Hợp Quốc. Hơn nữa, các phương tiện truyền thông còn lên tiếng bênh vực Aidid khi phát đi bản tin nhiều “thường dân vô tội” Somali đã thiệt mạng. Tôi ghét các phương tiện truyền thông tự do của chúng tôi. Ngồi một chỗ mà chỉ tay năm ngón thì ai chả làm được. Tổng thống Clinton cũng vô tình giúp Aidid khi tuyên bố tạm dừng các chiến dịch tác chiến tại Mogadishu cho đến khi cuộc điều tra hoàn tất. Chính trị luôn bao trùm lên cuộc sống của người dân Mỹ. Aidid nã pháo vào Pasha. Súng máy và súng bộ binh nổ gần sát chỗ chúng tôi hơn. Chúng tôi vẫn trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao nhất. Lực lượng bán vũ trang của Aidid cũng nã pháo vào trạm kiểm soát của Nigeria ở hải cảng Mogadishu, mới được quân Italia bàn giao.

Các mật vụ của Kền Kền trà trộn vào cuộc họp được tổ chức ở gara ô tô. Mục đích của cuộc họp là để Aidid khích lệ tinh thần binh lính. Chúng tôi muốn biết Aidid có thực sự xuất hiện ở đó không. Tuy nhiên, hắn đã không đến.

Lúc 5 giờ sáng ngày hôm sau, ngày 10 tháng Chín năm 1993, quân của Aidid đã pháo kích dữ dội hơn vào trạm kiểm soát ở hải cảng Mogadishu.

Cùng ngày, một mật vụ thông báo với chúng tôi rằng người của Aidid đã biết rõ về Pasha. Chúng biết cả những loại xe và loại súng của chúng tôi cũng như biết rõ Kền Kền trước khi chúng tôi xây dựng căn cứ ở Pasha.

Aidid phục kích đoàn phóng viên người Somali của CNN. Người phiên dịch và bốn lính bảo vệ của chúng tôi bị sát hại. Quân của Aidid đã nhầm phái đoàn phóng viên của CNN là chúng tôi. Chúng tôi cũng phát hiện thấy một phóng viên Italia đã dàn xếp để có một cuộc phỏng vấn với Aidid. Một viên mật vụ đã đặt một chiếc đèn hiệu bên trong xe của phóng viên này để chúng tôi có thể lần được dấu vết của anh ta. Hẳn tay phóng viên này đã nhận thấy có gì đó không ổn bởi vậy hắn đến nhà một tay trong của chúng tôi thay vì đi gặp Aidid với hy vọng chúng tôi sẽ tấn công vào đó. Thật may, chúng tôi đã cử một mật vụ làm nhiệm vụ xác minh vị trí trước khi tấn công.

Mặc dù vậy, CIA vẫn quyết định vào cuộc. Chúng tôi cũng vậy. Chúng tôi nhận được tin, người của Aidid sẽ phục kích chúng tôi. Thay vì hai đặc nhiệm SEAL làm nhiệm vụ cảnh giới, hai người còn lại nghỉ ngơi, chúng tôi quyết định bố trí ba đặc nhiệm SEAL cảnh giới và một người nghỉ ngơi.

Ngày 11 tháng Chín năm 1993, mãi tới 7 giờ sáng hôm sau tôi mới đi ngủ. Đêm hôm đó, không có cuộc phục kích nào. Sourpuss đánh thức tôi dậy lúc 11 giờ và cho tôi biết là quân của Aidid đã áp sát chỗ chúng tôi.

Một viên mật vụ khác cho chúng tôi biết những thằng khốn đang muốn lấy đầu viên chỉ huy đội bảo vệ của chúng tôi bởi chúng đã phát hiện ra Abdi làm tay trong cho CIA. Trong số những người bảo vệ cho chúng tôi có cả con trai của Abdi. Abdi chịu trách nhiệm thanh toán tiền cho những viên bảo vệ khác; hơn nữa, ông ta còn có trách nhiệm bảo vệ sự sống của họ. Ông là người có địa vị cao trong dòng tộc. Ông đã chấp nhận đẩy gia đình vào nguy hiểm khi làm tay trong cho CIA. Cũng phải nói rằng việc ông đồng ý giúp CIA còn có động cơ kiếm tiền, nhưng động cơ lớn hơn là mở ra tương lai sáng sủa hơn cho dòng tộc. Giờ đây ông đã bị lộ. Sau này chúng tôi phát hiện ra kẻ bán tin là gã người Italia.

Condor gọi điện cho Tướng Garrison. “Chúng tôi bị xâm nhập và chúng tôi cần ra khỏi cái nơi chó chết này.”

Lúc 3 giờ chiều, chúng tôi để lại các thiết bị không cần thiết như những gói đồ ăn sẵn, sau đó tất cả mọi người ở Pasha gói ghém đồ đạc và lái xe đến sân vận động Pakistan. Trực thăng đến đón lúc 7 rưỡi tối và đưa chúng tôi trở lại nhà chứa máy bay ở khu quân sự.

Khi hồi tưởng lại, lẽ ra chúng tôi nên đuổi người Italia ngay từ ngày đầu tiên đến Pasha cũng như nên triệt hạ ngay tên lính đánh thuê người Nga. Sau đó, chúng tôi nên tận dụng cơ hội đột nhập vào ngôi nhà bí mật và bắt Aidid. Tất nhiên là nếu cấp trên để chúng tôi bắt Aidid khi hắn đang ẩn náu ở nhà bà dì thì tốt biết mấy.

Mặc dù đã mất Pasha nhưng chúng tôi vẫn còn mục tiêu để hành động.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.