Hồi Ký Của Một Tay Súng Bắn Tỉa

Chương 6. Đội SEAL số 2



Sau đợt huấn luyện đường không, tôi đến nhận nhiệm vụ ở Đội SEAL của mình. Các đội số lẻ (1, 3, 5) đóng ở Bờ Tây, Coronado, California và các đội số chẵn (2, 4, 8) đóng ở Bờ Đông tại Little Creek, Virginia. Mặc dù còn có sự tồn tại của Đội SEAL tuyệt mật mang số hiệu Đội SEAL số 6, nhưng tôi chưa biết gì về nó cả. Tôi nhận công tác tại Đội SEAL số 2 ở Little Creek.

Trong một buổi tập chạy vượt chướng ngại vật vào thứ Tư, một lính SEAL gần 60 tuổi tên là Rudy Boesch chạy cùng chúng tôi. Tôi nghĩ mình có thể thư thả vì không có huấn luyện viên nào bên cạnh hò hét chúng tôi cả. Cuối buổi tập, Rudy kéo tất cả chúng tôi − những người về đích sau ông − qua một bên và nói: “Gặp tôi ở đây chiều nay nhé.”

Chiều hôm đó, những người về chậm hơn ông, trong đó có tôi, chạy lại vòng vượt chướng ngại vật. Đó thực sự là tiếng chuông cảnh tỉnh. Ngay cả khi đã ở trong các Đội, bạn cũng phải nỗ lực để trở thành người chiến thắng. Sau đó, tôi đã trở thành một trong số những người chạy vượt chướng ngại vật nhanh nhất ở Đội 2.

Không lâu sau, Rudy trở thành cố vấn cao cấp đầu tiên của Bộ Tư lệnh Tác chiến Đặc biệt Mỹ (USSOCOM) mới được thành lập, chỉ huy các đơn vị tác chiến đặc biệt Hải, Lục, Không quân và Lính thủy đánh bộ, trong đó có các đơn vị ở JSOC như Đội SEAL số 6 và Delta. Sau hơn 45 năm phục vụ trong Hải quân, phần lớn thời gian với tư cách là lính SEAL, Rudy nghỉ hưu. Ở tuổi 70, ông tiếp tục thử sức trong chương trình truyền hình Người Sống sót.

Một vài người trong Đội 2 trở về từ một chiếc tàu chở dầu tên là Hercules, một trong hai chiếc có mặt tại vùng vịnh Pec-xích. Họ là một phần trong Chiến dịch Praying Mantis. Khi tàu khu trục Samuel B.Roberts của Mỹ dính ngư lôi của Iran, một trong những nhiệm vụ của SEAL là đánh chiếm giàn khoan của Iran được sử dụng để thực hiện những cuộc tấn công tàu bè trong vùng Vịnh. Theo kế hoạch của SEAL, một chiếc tàu khu trục hải quân sẽ bắn vào giàn khoan bằng đạn chống tăng để tiêu diệt quân Iran, sau đó lính SEAL sẽ đáp xuống sân bay dành cho trực thăng và chiếm giàn khoan. Đen đủi là lính trên tàu khu trục lại nạp đạn cháy và đạn hỏa lực cao. Khi chiếc tàu khu trục khai hỏa, quả thực đó là “khai hỏa.” Thay vì án binh bất động, quân Iran lại nhanh chóng nhảy ra khỏi giàn khoan đang bốc cháy. Giàn khoan dầu cháy nóng đến mức lính SEAL không thể đáp máy bay trực thăng xuống. Rồi con tàu từ từ chìm xuống biển. Chúa ơi!

Dick, Mike H., Rob và tôi không tham gia chiến dịch đó vì chúng tôi vẫn phải huấn luyện thêm, nhưng điều đó không ngăn chúng tôi muốn chào mừng những người bạn trở về an toàn. Sau giờ huấn luyện, chúng tôi ra khỏi doanh trại Đội SEAL số 2 qua Cổng số 5 của căn cứ Little Creek và đi đến một câu lạc bộ múa thoát y nhỏ có tên là Body Shop. Vì Body Shop rất gần doanh trại Đội SEAL số 2 nên nhiều người chúng tôi thường tiêu khiển ở đó.

Nhân viên bảo vệ là một người mới đang ngồi đợi Bob − một thành viên của SEAL. Một người trong nhóm chúng tôi bảo với anh ta: “Một số người chúng tôi vừa trở về từ vịnh Pec-xích. Anh có thể chúc mừng họ không?” Anh ta làm ngay: “Chúng ta hãy nói lời cảm ơn sâu sắc với những người lính Mỹ vừa trở vì từ vùng Vịnh Pec-xích.”

Tiếng vỗ tay hoan hô tràn ngập căn phòng.

Chúng tôi hân hoan đập tay nhau chúc mừng và uống bia.

Ở chiếc bàn phía cuối căn phòng có bốn người Tuynidi, một người nói trôi chảy tiếng Anh: “Tại sao đám người Mỹ lại không quan tâm đến việc của chính họ đi đã?”

Dick không vòng theo lối đi mà tiến thẳng đến chiếc bàn đó qua chỗ các cô gái đang khiêu vũ. Tôi thì đi vòng và khi đến được chiếc bàn đó thì đã thấy Dick đang siết chặt cổ của kẻ lắm mồm đó. Khi chúng tôi đang gây lộn, ba người đi cùng gã lắm mồm lại quay ra chửi rủa hắn. Bốn người chúng tôi bỏ đi trong khi bốn người bọn họ chất thành một đống.

Khi chúng tôi tìm cách ra ngoài, người bảo vệ ngăn lại: “Các anh vừa đánh nhau ở đây. Các anh không thể đi đâu cả.”

Chúng tôi đánh anh ta ngã xuống quầy rượu.

Khi đến cửa trước, một sĩ quan cảnh sát xuất hiện. Chắc anh ta ở đâu đó trong câu lạc bộ vì trận ẩu đả chỉ mới bắt đầu có năm phút.

“Thôi nào, các quý ông, chúng ta hãy ngồi xuống với nhau một phút đi.”

Chúng tôi làm theo. Anh bạn này có vẻ điềm đạm đây.

Người bảo vệ đứng dậy và xen vào: “Các anh này là lính SEAL Hải quân. Họ vừa mới vào đây và phá phách nơi này.”

Ồ không. Hắn ta nhắc đến từ có chữ S rồi.

Viên sĩ quan hoảng sợ, gọi vào máy điện đàm: “Những người lính SEAL đang phá phách ở đây, tôi cần hỗ trợ!”

Chúng tôi đã ngồi xuống bình tĩnh nói chuyện với anh ta. Vậy là đủ rồi. Chúng tôi đứng dậy để đi.

“Đợi đã, các anh không thể đi đâu cả.”

Phớt lờ anh ta, chúng tôi đi ra cửa trước. Ở bên ngoài, một quầng sáng xanh chiếu vào chúng tôi từ điểm đỗ xe. Đội yểm trợ gồm một xe tải cảnh sát lớn có ghi đơn vị K-9 ở bên sườn. Những sĩ quan đầu tiên bước ra khỏi xe.

Chúng tôi bắt đầu giải thích.

Viên cảnh sát từ trong nhà bước ra bất ngờ trở nên dũng cảm, cắt ngang lời giải thích của chúng tôi: “Xin lỗi, nhưng các anh phải đi với tôi.”

Anh ta túm lấy ống tay áo của Mike.

Dick tung một cú đấm trời giáng vào cằm viên cảnh sát làm hắn ta ngã phịch xuống.

Thế là các sĩ quan cảnh sát cầm dùi cui đối đầu với bốn người tay trần chúng tôi. Chúng tôi đánh nhau trong khoảng 10 – 15 phút. Trên tivi, những chiếc dùi cui có thể đập người ta ngã xuống vỉa hè, nhưng với chúng tôi, chúng chỉ đập vào rồi lại nảy ra. Một con chó nghiệp vụ của cảnh sát nhảy lên cắn Dick. Anh túm đầu con chó, bẻ quặt nó, đè nó xuống và thụi cho một cú đấm. Con chó kêu ăng ẳng và bỏ chạy.

Khi đang đánh nhau với hai viên cảnh sát ở trước mặt, tôi cảm nhận được một cú phang vào lưng mình. Quay người lại, giơ nắm đấm ra, tôi nhận ra người vừa dùng dùi cui tấn công tôi là một nữ sĩ quan cảnh sát nhỏ bé. Tôi cảm thấy cú đánh của cô ta chỉ như là muỗi cắn so với những cú đánh của các cảnh sát khác. Vì đó là phụ nữ, thay vì tẩn cho một trận, tôi nhấc bổng cô ta lên và giúi cô ta lên trên mui xe.

Lúc này đã có gần 30 cảnh sát đánh nhau với 4 người chúng tôi. Cuối cùng chúng tôi thua và bị còng tay. Chúng tôi kể cho họ nghe chuyện xảy ra. Những gã Tuynidi bước ra khỏi Body Shop và lại nói những lời lăng mạ Mỹ. Thế là nhóm cảnh sát phát bực với viên sĩ quan trong câu lạc bộ: “Anh nghĩ gì vậy? Anh có điên không?”

Việc gì đến thì đã đến rồi. Chúng tôi đã tấn công cảnh sát. Họ tách chúng tôi ra và đưa lên hàng ghế phía sau xe tuần tra. Nữ cảnh sát nhét số điện thoại của cô vào túi áo tôi và nói: “Này, lúc nào đó gọi tôi nhé.”

Ở đồn cảnh sát, họ xử lý sự việc và hẹn chúng tôi ngày ra tòa. Họ liên lạc với chỉ huy của chúng tôi ở Đội SEAL số 2 và không thả chúng tôi cho đến khi Đội SEAL số 2 cho xe đến đón.

Đến ngày ra toà, tôi cảm thấy lo cho công việc của mình. Tất cả chúng tôi đều mới đến Đội SEAL và sự nghiệp có nguy cơ bị hủy hoại. Trên hàng đầu của phòng xét xử là những viên cảnh sát đang đeo nẹp cổ. Một người bị bó bột ở tay. Một người khác thì chống gậy. Họ trông thật thiểu não. Còn chúng tôi trông tươi tỉnh trong bộ đồng phục màu xanh.

Được các bạn đồng đội cử trình bày, tôi tường thuật lại câu chuyện. Mọi người trong phòng xét xử có vẻ thông cảm với chúng tôi bởi vì những gì đã xảy ra và cách mà chúng diễn ra.

Vị thẩm phán hỏi: “Tại sao ba người này bị bắt và được thả ngay, còn viên hạ sĩ (Dick) lại được thả muộn hơn?”

Viên sĩ quan K-9 giải thích: “Anh ta bị chó cắn và chúng tôi phải đưa anh ta đi kiểm tra.”

“Làm kiểm tra mất bao lâu?” − Vị thẩm phán hỏi.

“Thưa Ngài, con chó của tôi cắn phải anh ta, vì vậy tôi cũng phải đưa con chó của tôi đến bác sĩ thú y để kiểm tra.”

Cả phòng xét xử phía sau tôi phá lên cười.

Viên sĩ quan K-9 giải thích: “Thưa Ngài, thật sự không có gì buồn cười cả. Tôi đã phải mất nhiều tháng để huấn luyện nó và đến giờ vẫn phải dành 16 giờ mỗi tháng để huấn luyện. Nhưng do bị hạ sĩ (Dick) đánh nên con chó không làm việc được nữa.”

Tiếng cười càng ầm ĩ hơn.

Vị thẩm phán gõ búa: “Trật tự. Giữ trật tự tại Tòa!”

Ngoại trừ đôi ba tiếng cười khúc khích ở cuối phòng, tiếng ồn đã lắng lại.

“Bây giờ xin mời bốn anh bước lên bục”, vị thẩm phán nói.

Chúa ơi. Mất việc rồi. Bước thẳng vào tù. Không kiếm được 200 đô-la nữa. Chúng tôi lo sợ.

Vị thẩm phán hơi rướn người về phía trước và nghị án một cách nhẹ nhàng và điềm tĩnh:

“Thưa quý vị, tôi sẽ bác vụ này do nhiệt tình tuổi trẻ và lòng yêu nước của các anh, nhưng đừng bao giờ để tôi gặp lại các anh trong phòng xét xử này nữa.”

Tôi nghe thấy tiếng vỗ tay ở phía sau.

Quay người lại, tôi nhìn những viên cảnh sát ngồi hàng đầu. Họ trông như là vừa bị trộm đột nhập vào nhà vậy. Trên đường về, tôi đi ngang qua viên cảnh sát đeo nẹp cổ và viên cảnh sát chống gậy. Tôi nháy mắt với viên cảnh sát bị bó bột ở tay. Chúng tôi rời khỏi phòng xét xử.

Trở lại Đội SEAL số 2, chúng tôi báo cáo những gì xảy ra với Norm Carley, đội trưởng Đội 2, một người Công giáo Ai-len thấp lùn đến từ Philadelphia, tốt nghiệp Học viện Hải quân và là đội phó thứ nhất (chỉ đứng sau đội trưởng) của Đội SEAL số 6. Norm Carley vừa trở về từ Chiến dịch Praying Mantis ở vịnh Pec-xích.
Ông nhìn chúng tôi một lát: “Đã từng có thời chúng ta rất hay ra ngoài và gây lộn với cảnh sát. Nhưng giai đoạn đó kết thúc rất nhanh. Quân đội đang thay đổi.”

Ông để chúng tôi đi và lời tiên tri của ông đã thành sự thực − quân đội hiện đại đã thay đổi. Ngày 31 tháng Ba năm 2004, Ahmed Hashim Abed, tên khủng bố thuộc nhóm Hồi giáo Al- Qaeda người Iraq, bố trí một trận mai phục các xe tải rỗng đang đi nhận đồ dùng nhà bếp ở sư đoàn không quân 82 của Lục quân Mỹ. Nhóm khủng bố của Abed đã giết chết bốn nhân viên hộ tống xe, rồi đốt xác, phanh thây, kéo lê họ trên đường phố và treo hai thi thể lên cầu Euphrates. Một trong số bốn người đó là Scott Helvenston − một cựu lính SEAL. Ngày 1 tháng Chín năm 2009, SEAL đã tóm được Abed. Ba người lính SEAL bị đưa ra tòa án quân sự với cáo buộc là làm chảy máu lưỡi của hắn. Mặc dù cuối cùng họ vẫn được xác nhận là vô tội nhưng người ta cho rằng lẽ ra không bao giờ nên đưa những cáo buộc kiểu như vậy ra tòa quân sự. Nếu đơn giản là những người lính SEAL đã giết chết Abed thì không còn gì để nói nữa. Bạn khó mà có thể kiện ai ra tòa nếu như bạn đã chết.

Trong cùng một tòa nhà với Body Shop có cửa hàng bán lẻ 7−Eleven. Nhà tôi cách đó hơn 3 km. Một lần sau bữa tối, khi đó Blake đã 4 tuổi, tôi lái xe đưa con đến cửa hàng 7−Eleven để mua sữa và bánh mì. Ngay lúc đó, Smudge lái chiếc xe tải nhỏ Ford Bronco với những bánh xe và bộ phận giảm xóc kềnh càng vượt qua xe tôi. Chúng tôi làm bạn sau khi tôi cùng cậu ấy phục vụ trong trung đội Foxtrot ở Đội SEAL Số 2. Smudge bước đến và như thường lệ, nhấc bổng Blake lên và ôm lấy cu cậu.

Khi Smudge đang bế Blake, tôi bảo Smudge: “Mình chạy vào mua ít sữa và bánh mì. Mình sẽ ra ngay.” Khi tôi quay lại với đống thực phẩm trên tay, hai người đã biến mất. Tôi nhìn vào trong Body Shop. Bạn gái của Smudge là một vũ nữ ở đó. Ồ không, không được. Khi tôi lao vào, người bảo vệ chào: “Xin chào Howard.”

“Bob này”, tôi nói, “tôi muốn xem con trai tôi có ở đây không.”

Anh ta mỉm cười, cho tôi đi qua mà không phải trả phí vào cửa.

Đi vào trong, câu lạc bộ gần như tối đen ngoại trừ ánh sáng từ sân khấu trung tâm nơi một vũ nữ đang lắc lư người. Smudge đang ngồi bên một chiếc bàn, đặt một chân lên sân khấu trong khi Blake ngồi trong lòng cậu ta. Cô bạn gái ngực trần của Smudge đứng cạnh họ, khom người, vuốt tóc của Blake và xoa cằm của cháu: “Con thật là kháu khỉnh quá.” Bộ ngực của cô ta thật khổng lồ, tôi ngạc nhiên là cô đã không làm mắt của con trai tôi lồi ra.

Tôi túm lấy Blake và hét lên với Smudge khi bỏ đi: “Ôi trời, cậu điên à? Cậu sẽ khiến tôi bị giết đấy.”

Cậu ta không thể hiểu có chuyện gì xảy ra: “Tôi chỉ muốn giới thiệu bé với Cassandra thôi mà.”

Tôi đưa Blake vào xe và hỏi han con trên đường về nhà. Chuyện là thế này. Smudge là một trong những người bạn tốt của tôi và cậu ta yêu Blake − nhưng nếu Laura phát hiện ra, tôi sẽ không bao giờ được phép cho Smudge đến gần cậu con trai của mình nữa.

Đến nhà, thật may là Laura đang bận bịu trong bếp. Tôi đưa Blake về phòng và để cho con say sưa với trò chơi Nintendo Duck Hunt. Sau đó tôi cất gọn chỗ sữa và bánh mì mà tôi chọn mua ở 7-Eleven. Tôi vào phòng khách và như thường lệ nghiên cứu một số chiến thuật hoạt động và các tài liệu huấn luyện SEAL, nhưng mắt tôi cứ canh chừng chiếc đồng hồ, chờ đến giờ đi ngủ của Blake. Nếu tôi là người đưa con đi ngủ, tôi sẽ không bị nghi ngờ ít nhất là đến sáng mai. Thông thường thì tôi vẫn là người đưa con trai lên giường và tối hôm đó khi đến giờ đi ngủ của con, tôi chủ động vào phòng và đưa con đi ngủ. Sau đó ít hôm, Laura, Blake và tôi lái xe ngang qua Body Shop trên đường đến Đội SEAL Số 2. Quỷ thần ơi, liệu nhìn thấy nơi này Blake có nhớ lại và kể gì với Laura không đây? “Mẹ này, con gặp mấy người ở đó buồn cười lắm đấy.” Đến cả mấy tuần sau, tôi vẫn lo lắng. May là Blake đã không kể gì cho đến khi thằng bé 12 hoặc 13 tuổi. Và tôi không bao giờ quay trở lại Body Shop nữa.

Blake uống ngụm bia đầu tiên khi một anh bạn trong Đội của tôi mời nó. Khi Blake lớn hơn, tất cả chúng tôi cùng chơi golf với nhau. Bài học lái xe đầu tiên của Blake là trên một chiếc xe golf với một trong số những người bạn say ngất ngưởng của tôi, một bài học vô cùng thú vị với cậu nhóc. Sau này Blake tâm sự với tôi rằng: “Những điều con nhớ nhất về Virginia là được đi chơi lang thang với nhiều chú bác khác nhau.” Đó là những người bác, người chú của Blake ở Đội SEAL, những người thích nghe bài “The Boys Are Back in Town” (Những chàng trai trở lại thị trấn) của Thin Lizzy và thỉnh thoảng cho phép cậu làm những điều mà lẽ ra không nên làm.

Sau vài tháng làm mấy việc vặt vãnh ở doanh trại Đội SEAL Số 2, cuối cùng tôi đã được phép tham gia khóa huấn luyện chuyên sâu về tác chiến trên biển, trên không và trên đất liền, được gọi chung là Huấn luyện Chiến thuật SEAL (STT). Trong khi BUD/S tập trung vào sàng lọc và huấn luyện sinh tồn thì STT tập trung chủ yếu vào huấn luyện. Trong 6 tháng STT, chỉ có 2 người bị loại vì tập không đạt. Chúng tôi học lặn và chiến đấu trên đất liền theo cấp độ tăng cường, trong đó có kỹ thuật cận chiến (CQC).

Khi tôi hoàn thành STT, đội trưởng Đội SEAL Số 2, Norm Carley, mang đến các phù hiệu và gắn một cái cho tôi. Tấm phù hiệu có hình một con đại bàng đang giữ chặt một cái mỏ neo, đinh ba và súng lục của Hải quân Mỹ. Vì nó trông giống một con đại bàng giống Budweiser già nua nên chúng tôi thường gọi phù hiệu của mình là “Budweiser.” Không theo thông lệ của Hải quân là tân binh thì đeo phù hiệu màu bạc, cả sĩ quan và tân binh SEAL đều đeo phù hiệu màu vàng. Phù hiệu này vẫn là một trong những loại to nhất, lòe loẹt nhất của Hải quân. Người chỉ huy giúi mạnh nắm đấm tay lên tấm phù hiệu trên ngực tôi. Sau đó từng thành viên trong trung đội tôi bước đến và đeo phù hiệu vào. Tấm phù hiệu lún sâu vào da ngực tôi, đến mức viên hạ sĩ trưởng nhóm phải giật nó ra khỏi da cho tôi. Những vết hằn vẫn còn sau đó nhiều tuần trời. Bây giờ tôi có thể chính thức chơi với các “bậc tiền bối” rồi.

Trung đội trưởng đầu tiên của tôi là Burt. Trong Hải quân, một “người cha biển cả” có trách nhiệm hướng dẫn cho thủy thủ. Mặc dù tôi chưa bao giờ thực sự cần một “người cha biển cả” vì tôi luôn nghe theo lời chỉ dạy của một số người, cả trong công việc và các vấn đề cá nhân, nhưng tôi biết ơn Burt vì ông đã nhận tôi vào trung đội tác chiến mùa đông của ông ngay sau khi tôi rời STT. Thông thường, lính SEAL phải phục vụ ở các trung đội chính quy trước khi tham gia một trung đội tác chiến mùa đông, nhưng Burt đã sớm tin tưởng tôi.

Giống như gần 50% các sĩ quan SEAL − một tỷ lệ rất cao trong quân đội, Burt đã từng là một binh nhì trước khi trở thành sĩ quan, điều mà chúng tôi gọi là “sĩ quan gốc lính.” Có lẽ đây là điều khiến tôi rất có cảm tình với ông. Ông không bao giờ đề nghị chúng tôi làm điều gì mà chính ông sẽ không làm. Ông rất giỏi lập, đánh giá kế hoạch và kết quả thực hiện các chiến dịch. Ông thực sự là người luôn giúp đỡ người khác và một nhà ngoại giao khéo léo. Burt yêu mùa đông − trượt băng, trượt tuyết và nhiều hoạt động khác – và hướng dẫn các Đội sử dụng các thiết bị chiến tranh mùa đông công nghệ cao. Ví dụ, chúng tôi thử nghiệm và đánh giá chất lượng các trang bị viễn chinh của Gore- Tex.

Nhân vật thứ hai sau Burt là Mark, người có chiều cao hơn 1m80. Bố mẹ của Mark di cư từ một nước vệ tinh của Nga. Là người không phô trương, ông không kể cho mọi người về việc ông đã tốt nghiệp MIT, nói được tiếng Nga, tiếng Séc, tiếng Ba Lan và cả tiếng Đức. Mặc dù rất thông minh và biết nhiều ngoại ngữ, ông không bao giờ lên giọng kẻ cả với chúng tôi. Mark xây dựng những kế hoạch lớn và có thể giải trình chúng một cách đơn giản và rõ ràng, đủ để mọi người ai cũng hiểu được. Tuy nhiên, ông nói hơi ngọng và chúng tôi nhại giọng của ông trong khi ông tóm tắt nhiệm vụ. Sau khi công việc xong xuôi, chỉ cần đưa cho ông vài cốc rượu và mỗi bên một cô gái xinh đẹp thì sẽ không thể hiểu được Mark nói gì nữa.

Ở Đội SEAL Số 2, chúng tôi thực hành huấn luyện thể lực mỗi ngày một tuần và tập chạy vượt chướng ngại vật vào thứ Tư. Còn những ngày khác, chúng tôi chạy bền (PT). Một số người dành thời gian này để chơi bóng rổ hoặc sa vào những trò tiêu khiển vô bổ, nhưng Mark khuyến khích chúng tôi tập đến mệt bã người với những bài tập chạy-bơi-chạy cự ly dài hoặc nhiều bài cực hình khác. Ông có khả năng chạy như linh dương và bơi như cá, làm cho những người trong số chúng tôi ức chế vì không thể đuổi kịp ông, mặc dù chúng tôi vẫn thích làm việc cùng với Mark.

Ở Đội SEAL Số 2, chúng tôi bắt đầu nghe tiếng đồn về Đội SEAL tuyệt mật số 6. Sau thất bại năm 1980 trong nỗ lực giải cứu các con tin Mỹ tại Đại sứ quán Mỹ ở Iran, Hải quân yêu cầu Richard Marcinko thành lập một đội chống khủng bố chuyên nghiệp. Là sĩ quan chỉ huy đầu tiên, Marcinko đặt tên cho đơn vị mới là Đội SEAL Số 6. Ông tuyển nhân sự chủ yếu từ hai đơn vị chống khủng bố của SEAL là Đội cơ động 6 (MOB 6) của Đội SEAL Số 2 ở bờ Đông và Trung đội Tiếng vang (Echo) ở Đội SEAL 1 ở bờ Tây. Họ mặc thường phục, không phải tuân theo quy định lễ tiết khi để tóc dài và râu ria. Các sĩ quan và binh sĩ gọi nhau bằng tên thường và biệt danh, không chào kiểu quân sự. Họ chuyên giải cứu con tin từ tàu, giàn khoan dầu và các vị trí khác trên biển.
Bên cạnh đó, họ hỗ trợ an ninh cho các sứ quán và căn cứ quân sự. Trên hết, Đội 6 cũng yểm trợ các chiến dịch của CIA.

Cuộc thử lửa đầu tiên của Đội 6 là vào năm 1983. Sau khi những người Cộng sản liên minh với Cuba và Liên Xô lật đổ chính quyền Grenada trong một cuộc đảo chính đẫm máu, Mỹ phát động Chiến dịch Urgent Fury để khôi phục chính quyền Grenada. Nhằm hỗ trợ Chiến dịch, 12 tay súng của Đội SEAL Số 6 sẽ nhảy dù vào bờ biển của Grenada. Nhiệm vụ đầu tiên này quả là một thách thức lớn ít nhất vì ba lý do. Một là, mặc dù Đội SEAL Số 6 đã được huấn luyện tăng cường về một số chiến thuật chống khủng bố nhưng họ chưa được huấn luyện kỹ năng xuống nước vào ban đêm, một kỹ năng mà nếu dùng thuyền thì thậm chí còn khó hơn nữa. Sứ mệnh này đáng lẽ nên được giao cho Đội SEAL Số 2, những người đã sẵn sàng chiến đấu, nhưng thay vào đó lại được giao cho Đội SEAL Số 6. Hai là, thông tin tình báo còn rối mù. Nhiệm vụ này được vạch ra mà không xem xét đến việc quy ước giờ mùa hè (DST). (Quy ước này thường được thực hiện tại các nước ôn đớihay gần cực, nơi mà vào mùa hè, ban ngày bắt đầu sớm hơn so với mùa đông vài tiếng đồng hồ. Nó có ý nghĩa thực tiễn là giúp tiết kiệm năng lượngchiếu sáng và sưởi ấm, khi tận dụng ánh sángban ngày của ngày làm việc từ sớm, giảm chiếu sáng ban đêm nhờ ngủ sớm), hậu quả là sai lệch hàng giờ khiến cho việc nhảy dù xuống nước vào ban ngày trở thành nhảy vào ban đêm. Ngay cả ánh trăng cũng không có. Không ai thông báo cho người của Đội 6 về những cơn sóng biển cao hơn 3 m, về gió lớn và mưa to. Ba là, có lẽ do các phi công của Không quân không có kinh nghiệm nhảy dù xuống nước nên chiếc máy bay thứ hai đã thả lính SEAL sai địa điểm và xa những người khác.

Kết quả là khi 12 người lính chạm nước, gió tiếp tục thổi bay những chiếc dù và kéo họ theo. Vì mang theo quá nhiều thiết bị và không đủ lực nổi, một vài người chìm dần. Mặc dù khi luyện tập họ sử dụng dù công nghệ cao, nhưng lúc này họ lại dùng loại dù MC-1 cũ. Những người lính tuyệt vọng giữ cho dù khỏi kéo họ tới những địa ngục đại dương. Không có đèn, việc tập hợp mọi người trở nên bất khả thi. Một lính SEAL không ngừng gào thét và nổ ba phát súng vào bóng đêm nhưng không ai đến được với anh. Có tất cả bốn người lính SEAL mất tích. Những người sống sót tìm kiếm nhưng không bao giờ tìm thấy đồng đội của họ là Kenneth Butcher, Kevin Lundberg, Stephen Morris và Robert Schamberger. Vô cùng đau đớn, nhưng những người lính còn lại vẫn triển khai thực hiện nhiệm vụ của mình.

Trực thăng Black Hawk bay một tiếng đồng hồ trong bóng tối rạng sáng để tới giải cứu Toàn quyền Paul Scoon trong khu biệt thự của ông. Không quân Liên Xô vạch thành những đường sáng xanh trên bầu trời. Trên một trong những chiếc trực thăng, 15 người lính SEAL vẫn bình tĩnh cho đến khi đạn pháo của Liên Xô bắt đầu khoan thủng máy bay. Denny “Snake” Chalker và những người chưa bao giờ tham chiến đã không còn bộ mặt phớt lờ nữa. Viên sĩ quan chỉ huy SEAL Wellington T. “Duke” Leonard − một cựu chiến binh Việt Nam, Bobby L., Timmy P. và JJ mỉm cười: “Trúng đạn thì sao nào?”. Sau một hồi căng thẳng, Denny và những người khác mỉm cười − họ còn có thể làm gì khác được?
Chiếc trực thăng chở đội trưởng Đội SEAL Số 6 Bob Gormly (người thay cho Dick Marcinko) bị trúng đạn nặng nhất, buộc phải tách ra để cố gắng quay về tàu sân bay trước khi nó rơi khỏi bầu trời.

Chiếc máy bay của Duke và Denny chếch đầu lên tới điểm dừng cao 30m trên không phía trước khu biệt thự trong khi một chiếc khác vòng lại phía sân quần vợt. Một phi công trúng đạn nhưng vẫn tiếp tục lái. Hỏa lực AK-47 từ khu biệt thự dội vào họ. Một người lính SEAL ngả người ra và bắn trả. Rich cũng đã trúng đạn nhưng anh căng thẳng đến mức không nhận thấy điều đó. Denny tung cuộn thang dây ra và lao nhanh qua những cành thông xuống phía sau khu biệt thự. Duke và những người khác theo sát phía sau, lao qua những cành cây mà Denny chưa làm gãy.

Khi Denny tiếp cận khu biệt thự, từ một cánh cửa, một khẩu AK- 47 chĩa nòng vào hướng đi của anh. Denny khai hỏa khẩu súng trường CAR-15 (nguyên mẫu của M-4) cho đến khi anh xác định được mục tiêu − viên toàn quyền Scoon. Duke, mang theo một khẩu súng ngắn giao cho toàn quyền Scoon. Những người lính tiếp quản được tòa biệt thự, nhưng chỉ có viên toàn quyền, gia đình ông và các nhân viên ở bên trong. Họ thiết lập một vành đai bảo vệ. Đạn súng chống tăng (RPG) bay qua đỉnh mái mà không phát nổ.

Đài truyền thông vệ tinh (SATCOM) của họ đã chung số phận với chiếc máy bay chỉ huy bị trúng đạn, khiến họ bị hạn chế về thông tin liên lạc, vì vậy họ phải tiết kiệm pin của các điện đài cầm tay của mình.

Duke nói với mọi người: “Đừng thách thức ai trừ khi họ vào trong khu vực này.” Họ không muốn bắt đầu một cuộc chiến mà họ không thể kết thúc. Giải cứu vị Toàn quyền là ưu tiên hàng đầu.

Khi màn đêm buông xuống, 30 lính và 4 xe thiết giáp tám bánh chở quân của Liên Xô (BTR- 60PB) bao vây khu biệt thự. Duke dùng điện đàm cầm tay MX-360 nhỏ của mình để liên lạc với hạ sĩ Dennis Johnson ở sân bay Port Salines. Viên hạ sĩ chuyển thông điệp của Duke tới một chiếc máy bay chiến đấu AC-130 đang bay phía trên: “Nổ súng 360 độ quanh lâu đài.” Chiếc Spectre cho khẩu súng 40 mm phát hỏa, tiếng nổ khủng khiếp vang lên: bùm, bùm. Kết quả là cuộc tiến công đã tiêu diệt hết đối thủ đang bao vây xung quanh, ngoại trừ hai tên chạy trốn. Không lâu sau chiếc điện đàm MX-360 nhỏ hết điện. Duke dùng điện thoại của viên toàn quyền để duy trì liên lạc.

Hai người Cuba trang bị AK từ ngoài đường tiến vào. Họ nâng vũ khí lên. Thế là những người lính nổ súng: súng ngắn, CAR-15, súng máy nhẹ Heckler & Koch 21, súng máy M-60 và một khẩu súng bắn tỉa a .50 RAI 500. Một người Cuba cố gắng leo qua tường, nhưng anh ta và người đồng đội đều bị hạ gục.

Sáng hôm sau, Lực lượng Viễn chinh của Lính thủy đánh bộ giúp lính SEAL, viên Toàn quyền và gia đình ông ta thoát ra. Họ thấy tro tàn của xe tải, vũ khí và máu bị đốt cháy ở nơi mà máy bay Spectre tấn công và nhận thấy có ai đó đã thu gom thi thể. Trên đường thoát ra, những người lính SEAL tìm thấy một lá cờ Grenada, thế là họ thay vào đó một lá cờ Đội SEAL Số 6, lá cờ luôn được mang theo để dự phòng cho những dịp như vậy. Sau đó, lính SEAL sẽ treo cờ Grenada ở Đội SEAL Số 6 khi họ quay về. Cả đoàn tiến đến khu vực đậu trực thăng. Tại đó một chiếc trực thăng đón tất cả mọi người.

Để thực hiện một nhiệm vụ khác ở Grenada, 12 lính SEAL, dẫn đầu là Trung úy Donald Kim Erskine, đi trực thăng đến một trạm phát thanh để đảm bảo an ninh cho khu vực này cho đến khi Toàn quyền Scoon vào và phát đi một thông điệp tới cư dân trên đảo. Khi đang bay trên bầu trời, lác đác một vài phát súng từ các khẩu súng cầm tay bắn về phía họ, nhưng khi họ tiếp đất, đối phương đã bỏ trống trạm phát thanh. Điện đàm của nhóm Erskine bị trục trặc, không thể liên lạc được với đài chỉ huy − ai đó đã thay đổi tần số mà không thông báo cho lính SEAL biết.

Một lúc lâu sau khi lính SEAL triển khai xong vành đai phòng vệ, một chiếc xe tải chở 20 lính Cuba tiến đến. Lính SEAL lệnh cho họ bỏ vũ khí, nhưng họ không làm theo. Vì vậy những người lính SEAL nổ súng, hết khoảng 1/3 số đạn và tiêu diệt được 10 người. Họ bắt 10 người còn lại làm tù binh và sử dụng gần như tất cả các dụng cụ sơ cứu để băng bó cho những đám tù binh này.
Không người lính SEAL nào bị thương.

Một chiếc xe thiết giáp BTR-60PB và ba xe tải leo lên đồi tiến đến trạm phát thanh. Khoảng 40 đến 50 tên địch lao ra. Viên sĩ quan người Cuba quất cây gậy chỉ huy vào mông lính của mình và ra lệnh: “Tấn công”. Erskine và đồng đội phòng thủ trong nhà. Kẻ địch cố gắng đánh thọc sườn họ trong khi chiếc BTR lăn bánh đến cửa trước và khai hỏa pháo 20 mm. Khẩu pháo khoan thủng các bức tường bê tông cứ như là tòa nhà làm bằng giấy vậy.

Một người lính SEAL nạp một viên đạn hỏa tiễn vào nòng súng CAR-15 của mình và giật chốt an toàn. Anh nhằm vào chiếc BTR và bóp cò, phóng quả đạn đi. 1 kg thuốc nổ có sức công phá lớn đánh thẳng vào chiếc BTR.

Tránh né đạn hỏa lực vượt trội của đối phương, Erskine và những người lính SEAL khác đặt thuốc nổ tại trạm phát thanh và mau chóng chạy ra cửa sau. Đối phương cho rằng lính SEAL chết hết rồi, nhưng họ đã lao qua đồng cỏ phía sau trạm. Đối phương tiến đến gần từ phía sau và từ cả hai sườn. Erskine bình tĩnh dẫn người của mình rút lui theo cách nhảy ếch qua khu vực phòng ngự để tới bãi biển. Anh và một nửa số đồng đội nằm xuống và nổ súng vào đối phương trong khi những người khác rút về phía sau. Sau đó những người phía sau lại nằm xuống và bắn đối phương để Erskine và số người trước rút chạy. Đạn pháo trút xuống đầu họ, một viên thổi bay
bi-đông của Erskine; mặc dù Erskine cao hơn 1m80 và nặng hơn 100 kg nhưng viên đạn vẫn khiến anh ngã lăn xuống đất. Những người trong nhóm của anh ngay lập tức nằm rạp xuống. Họ quay lại và nổ súng trong khi nhóm kia rút lui. Khi họ tiếp tục nhảy ếch như vậy, một viên đạn khác xé toạc gót giày của Erskine làm anh gục xuống đất. Khi anh đứng dậy và chạy, một viên đạn nữa trúng vào ổ đạn ở thắt lưng của anh và bật ra, anh lại ngã xuống.
Viên đạn thứ tư đáng sợ hơn. Nó xé toạc một phần thịt khuỷu tay phải của Erskine, làm anh bật lên khỏi mặt đất trước khi rơi xuống trong bụi mịt mù. Anh có cảm giác toàn bộ cánh tay đã bị thổi bay. Đến cuối đồng cỏ, lính SEAL cắt một hàng rào mắt cáo và bò qua. Khi Erskine đếm người của mình, anh gặp phải một cơn ác mộng tồi tệ nhất của một người chỉ huy SEAL − thiếu mất một người. Rồi họ phát hiện ra đồng đội − một nhân viện điện đàm – bị lạc. Erskine và đồng đội nổ súng vào đối phương trong khi cậu nhân viên điện đàm đang kéo lê chiếc đài SATCOM vô dụng qua cánh đồng.

“Vứt cái của nợ ấy đi!” − Erskine hét lên.

Nhân viên điện đài tháo bỏ chiếc đài ra và dùng khẩu SIG SAUER 9mm đeo bên sườn bắn vài phát vào các bộ phận mã của chiếc đài. Sau đó anh lao theo các đồng đội của mình.

Họ trốn chạy đến một rừng cây. Mặc dù đã hạ được vài người của đối phương, nhưng quân số lính SEAL vẫn ít hơn và cũng gần hết đạn. Họ tiếp tục lần theo một lối mòn và hướng ra biển. Bơi thẳng ra biển có thể khiến họ trở thành mục tiêu cho đối phương. Erskine ra lệnh: “Bỏ tất cả đi, chỉ để lại các dụng cụ cần thiết và bơi dọc bờ biển.” Họ ném súng, ba lô và gần như mọi thứ trừ súng ngắn, đạn súng ngắn và bộ dụng cụ dùng để đào thoát và lẩn trốn. Họ bơi dọc bờ biển và ẩn nấp dưới những vách đá nhô ra biển để tránh đối phương ở bên trên.

Các lực lượng đồng minh, không biết rằng họ vẫn còn sống, đã nổ súng thổi tung người của đối phương gần nơi họ ẩn nấp.
Những người lính SEAL đợi cho đến khi đối phương rút đi hết, rồi mới bơi ra biển. Họ trôi nổi trên biển sáu tiếng đồng hồ cho đến khi được một chiếc máy bay cứu nạn phát hiện và gọi một chiếc tàu hải quân đến đón. Tính đến thời điểm đó, họ đã không ngủ liên tục trong 48 giờ. Sau khi chắc chắn rằng tất cả đồng đội đã lên tàu, Erskine bất tỉnh. Sau đó anh đã hồi phục. Hải quân trao cho anh Huân chương Anh dũng bội tinh với Ngôi sao bạc.

Năm 1985, những tên khủng bố của Tổ chức giải phóng Palestine (PLO) cướp tàu tuần tra Achille Lauro và sát hại hành khách Leon Klinghoffer. Chúng lẩn trốn ở Ai Cập. Khi Ai Cập bí mật đưa chúng lên một chuyến bay đến đại bản doanh của PLO ở Tuynidi, các máy bay chiến đấu của Hải quân Mỹ buộc chiếc máy bay này phải hạ cánh xuống căn cứ của NATO ở Italia. Đội SEAL Số 6 bao vây bọn khủng bố trên đường băng, nhưng phía Italia không cho phép SEAL tiếp cận chiếc máy bay và yêu cầu chuyển 5 tên khủng bố đó cho họ. Sau một hồi thương thảo với quân đội và lực lượng thực thi pháp luật Italia, phía Mỹ đồng ý chuyển những kẻ khủng bố cho phía Italia. Không may là sau đó chính quyền Italia đã trả tự do cho tên cầm đầu Abu Abbas (người sau này bị bắt ở Iraq năm 2003). Mặc dù những tên khủng bố khác phải vào tù nhưng một tên trong số đó được ban cho một vài ngày nghỉ và đã trốn thoát (hắn bị bắt lại ở Tây Ban Nha). Một tên khác đã trốn khỏi Italia khi được phóng thích với cam kết là sẽ không chạy trốn.

Năm 1989, Đội SEAL Số 6 đến Panama để truy bắt ông trùm buôn bán ma tuý Manuel Noriega. Noriega trốn trong một nhà thờ Công giáo, nhưng vì không có đường vượt biên, cuối cùng ông ta đã phải đầu hàng.

Grenada, Achille Lauro và Panama chỉ là ba trong số nhiều chiến dịch mà Đội SEAL Số 6 tiến hành trước khi tôi gia nhập.

Tôi tham gia hoạt động đầu tiên với Đội SEAL số 2 ở Machrihanish, Scotland − vùng đất tổ tiên Kirkland (quê hương của mẹ tôi), những người đã đổi tên thành Kirkman khi nhập cư vào Mỹ. Người dân địa phương Scotland đặt cho Smudge một biệt danh theo tên của một cầu thủ bóng đá nổi tiếng người Anh.
Chúng tôi đi cùng với một vài người tới Bảo tàng Tartan ở Edinburgh. Ở đó, tôi phát hiện ra rằng gia tộc của tôi đến từ vùng cao nguyên.

Smudge trêu chọc việc tôi tìm thấy nguồn gốc Tartan của mình: “Ồ, Howard là người cao nguyên.”

“Tuyệt không, chỉ có một người như vậy mà thôi!” Tôi kêu lên.

Ở Scotland, chúng tôi cùng huấn luyện hoặc phối hợp với một số đơn vị tác chiến đặc biệt của nước ngoài như: Lực lượng đặc công nước của Anh, Đơn vị Đặc công Hubert của Pháp, Đơn vị đặc công nước của Đức, Cảnh sát biển Thụy Điển, Bộ Tư lệnh biệt động Hải quân Na Uy và nhiều lực lượng khác. Trong một buổi diễn tập thâm nhập cảng biển ở Đức, tôi đổi một túi MRE lấy khẩu phần ăn của một đặc công Hubert. Đơn vị người nhái đặc công của anh ta khi thành lập đã nhận được sự giúp đỡ rất lớn của một sĩ quan hải quân từng tham gia Chiến tranh Thế giới II tên là Jacques-Yves Cousteau, người nổi tiếng với chương trình tivi của mình về thế giới dưới nước. Khẩu phần ăn của người Pháp gồm có rượu, pho mát và patê. Tôi thấy ngạc nhiên khi họ rất thích thức ăn khô lạnh và món cà phê Maxwell House − chỉ cần thêm nước vào − của chúng tôi. Khi tôi quay về doanh trại ở Scotland, gần như ai cũng xin tôi chút rượu, pho mát và patê đó.

Trong đợt huấn luyện tác chiến mùa đông, tôi có một tháng vui vẻ với các cảnh sát biển Thụy Điển, những người đảm nhiệm trinh thám tầm xa, phá hoại và tấn công kẻ địch xâm phạm bờ biển Thụy Điển. Mặc dù tất cả thanh niên Thụy Điển đều phải đi lính nghĩa vụ một năm nhưng vẫn có nhiều người mong muốn trở thành cảnh sát biển.

Burt, DJ, Steve và tôi bay tới Stockholm, thủ đô của Thụy Điển. Các nhà thờ, cung điện và lâu đài lịch sử cùng với những công viên xanh và các con lạch làm cho Stockholm trở thành một Venice của Bắc Âu. Còn các tòa nhà mới hơn thì có sự kết hợp của thiết kế sinh thái với công nghệ cao và thuyết chức năng. Những người đón tiếp, sắp xếp cho chúng tôi nghỉ tại một khách sạn tuyệt đẹp. Một buổi tối, sau khi huấn luyện, chúng tôi thấy một người đàn ông thấp lùn, gầy guộc, tóc bông xù đang ngồi ở tiền sảnh với hai “chân dài” ngồi trên hai đùi và một phụ nữ khác ngồi trong lòng. Ai vậy? Hai chúng tôi bước lại gần hơn để xem đó là ai: đó là Rod Stewart. Những gã xấu xí ở nơi nào cũng vậy, đều có thể nuôi hy vọng trở thành một ngôi sao nhạc rock.

Buổi sáng, Burt lái chiếc xe thuê đưa chúng tôi qua một con phà đến căn cứ của Cảnh sát biển thuộc Quân đoàn đổ bộ Thụy Điển có tên hiệu là Trung đoàn Lính thủy đánh bộ 1 tại Berga. Các chiến dịch đầu tiên của chúng tôi bắt đầu ở quần đảo Stockholm.
Trong số hàng nghìn hòn đảo ở biển Baltic, đây là một trong những quần đảo lớn nhất. Tôi và bạn chiến đấu khởi hành trên một chiếc thuyền gấp kayak nhẹ hai chỗ ngồi và không có kim loại để tìm kiếm tàu ngầm Liên Xô. Tôi đeo kính Vuarnet − tên được đặt theo vận động viên trượt tuyết người Pháp đạt huy chương vàng Olympic An-pơ − để chống nắng. Chúng tôi đi lên các đảo và tìm kiếm các dấu vết của con người − một trò chơi mèo bắt chuột với người Liên Xô. Đi xuồng kayak từ đảo này tới đảo khác trong khi phải đem theo tất cả các trang thiết bị là một công việc tẻ nhạt và vất vả.

Gần một tuần sau, chúng tôi đi cùng với vài viên cảnh sát biển bằng mấy chiếc xe buýt thuê. Họ mang các túi thức ăn lên xe. “Chúng ta sẽ lại đi bao xa nữa?” – tôi hỏi.

“61 dặm.” Những Cảnh sát biển nói tiếng Anh rất tốt. “Tại sao lại phải mang tất cả thức ăn?”
“Chuyến đi dài mà.”

Chỉ có 61 dặm thôi mà – tôi có trồng cây chuối cũng đi được.

Sau 3 tiếng trên đường, tôi nói với một cảnh sát khác: “Tôi nghĩ chỉ như vậy đã là 61 dặm rồi.”

“Vâng, 61 dặm.” “Chúng ta đã đi quá 61 dặm rồi.”

Một cảnh sát khác mỉm cười: “61 dặm Thụy Điển.” Tôi nhăn mặt: “Là bao xa vậy?”
“Ồ…! Khoảng ba trăm tám mươi dặm Mỹ.”

Các anh chơi khăm tôi rồi. Tôi thấy vui mừng vì đã không đề nghị thi chạy 4 dặm với họ.

Chúng tôi đi qua một biển chỉ dẫn “Có nai băng qua” trước khi đến một thị trấn nhỏ đầy tuyết có tên là Messlingin, gần hồ Messlingin đang bị đóng băng. Không thể tìm thấy bất kỳ tấm bản đồ du lịch nào, Messlingin nằm ở khoảng 200 km về phía tây nam của Östersund, miền trung Thụy Điển. Bốn người chúng tôi làm thủ tục nhận phòng tại một khách sạn bằng gỗ có mái nghiêng và những mái hiên nhô ra trông như một biệt thự nhỏ. Một lát sau, những viên cảnh sát đưa chúng tôi đi dầm mình xuống một hố băng. Mặc dù không bắt buộc nhưng mọi người đều nhảy xuống dòng nước gần như sắp đóng băng. Chúng tôi phải gương mẫu.
Đó là truyền thống ngớ ngẩn kiểu “Tôi có thể chịu được kể cả khi có bị sút vào hạ bộ” của Đội SEAL. Chúng tôi quấn dây vào cổ để đeo một dụng cụ phá băng hạ xuống tầm ngang ngực. Tay cầm của dụng cụ này làm bằng gỗ, vừa một nắm tay, còn mũi nhọn của nó dài khoảng 2,5 cm. Chúng tôi phải nhảy xuống hố băng, giữ nguyên tình trạng và xin phép ra khỏi nước. Nếu được phép, chúng tôi sẽ tiến lên, dùng dụng cụ để phá băng và thoát ra. Lần thử đầu tiên, thanh quản của tôi thậm chí không hoạt động được, nó quá lạnh − tôi liền nhảy phắt ra. Đến lần thứ ba, tôi trấn tĩnh hơn để cho thanh quản đủ thời gian hồi phục chức năng. Tôi rít lên: “Xin phép cho tôi ra”. Sau khi ra khỏi nước, việc cấp thiết đầu tiên là phải làm ấm người.

Tôi nhớ lại thời gian huấn luyện tác chiến mùa đông ở Alaska. Kevin và tôi trở thành bạn chiến đấu của nhau. Anh là một lính SEAL to con, dễ chịu với mái tóc và đôi mắt đen. Được đào tạo để trở thành một y tá quân y, anh có thể đảm nhiệm nhiều tình huống y tế khẩn cấp trong chiến đấu cho đến khi người bị thương được chuyển tới bệnh viện (sau đó, tôi nghe nói anh rời SEAL và trở thành một bác sĩ hải quân đóng ở Tây Ban Nha). Kevin và tôi chọn một con đường khôn ngoan để đi trượt tuyết, đó là con đường qua khu vực mà chúng tôi cắm trại. Sau đó chúng tôi đi đường vòng quay lại trại. Bằng cách này chúng tôi có thể phát hiện từ xa những người đến chỗ chúng tôi. Chúng tôi dựng một cái lều của hãng North Face dành cho hai người, đặt ba lô xuống trước lều, đánh tuyết thành đống bên ngoài lối vào để có thể rã đông thành nước uống, trong đó có cả nước uống cho buổi trượt tuyết ngày hôm sau. Người ta cần uống nhiều nước hơn vào mùa đông vì phổi dùng nhiều hơi ẩm để làm ấm hơi thở. Chúng tôi cũng dùng nước uống cho các bữa ăn khô lạnh của mình. Khi qua cửa, chúng tôi cởi bỏ quần áo ướt ra, chỉ để lại quần áo lót polypro, rồi nhóm lò MSR WhisperLite để đun nước. Nhiệt độ tỏa ra từ chiếc lò nhanh chóng làm chiếc lều ấm lên. Kevin có đôi chân khổng lồ − đôi giầy ngoại cỡ của anh không vừa với giày trượt tuyết. Trong khi chúng tôi chờ tuyết tan, Kevin tháo giày và tôi kẹp các ngón chân của anh vào nách mình cho ấm. Những người khác chỉ mong được vào lều, nhưng tôi thì không. Suốt mười đêm, tôi giúp ủ ấm những ngón chân lạnh như đá đó trong nách của mình trước khi nằm đất ngủ trong chiếc túi ngủ.

Thật may là ở Thụy Điển, cách hố băng chỉ khoảng 50m có một phòng tắm hơi và có cả bia nữa.

Cũng ở Thụy Điển, lần đầu tiên tôi được biết đến xe ủi tuyết − một chiếc xe bọc thép chở người chạy theo các lối mòn trên tuyết. Từ bên trong, những người lính có thể nhằm bắn kẻ địch.
Họ gắn một dây thừng ở phía sau xe để kéo theo 10 hoặc 12 người lính đi trên ván trượt tuyết. Móc một cây gậy trượt tuyết vào dây thừng, tôi giữ lấy tay cầm khi chiếc xe kéo tôi đi. Nhiều cảnh sát biển nhờ đó đã trượt tuyết rất thành thạo. Trong số họ có một vận động viên Olympic môn nhảy xa trên tuyết. Dĩ nhiên ở quê hương Nam Georgia của tôi không có dốc trượt tuyết. Thế là tôi bị ngã. Các viên cảnh sát biển trượt phía sau tôi phải cố gắng di chuyển qua tôi. Bốn người trong số họ cuối cùng cũng vấp ngã chồng lên tôi. Sau một hồi, họ bắt đầu tranh luận. Tôi không hiểu hết các từ, nhưng tôi biết họ đang cãi nhau xem ai sẽ phải trượt phía sau tôi. Ba người bạn trong đội của tôi và tôi ngã quá nhiều, làm cho những cảnh sát biển cũng bị ngã theo như những quân bài domino vậy, vì vậy họ chuyển chúng tôi xuống cuối đoạn dây thừng. Nếu có thể quay phim những người lính SEAL trong buổi trình diễn trên băng đó cho chương trình Các đoạn phim tự chuyện hài hước nhất của Mỹ thì có lẽ chúng tôi sẽ chiến thắng.

Do chúng tôi đến đó với tư cách là thành viên hỗ trợ huấn luyện lính nghĩa vụ trẻ nên họ phục vụ chúng tôi như là các sĩ quan, lau và đánh bóng ván trượt tuyết trong khi chúng tôi ăn tối. Vào buổi tối, nếu chúng tôi để giày ngoài cửa, họ sẽ lau và đánh bóng xong trước buổi sớm ngày hôm sau. Họ thậm chí còn lau cả vũ khí cho chúng tôi nữa.

Một điều thú vị nữa là chúng tôi đã học được cách đào hang tuyết. Đối tác cảnh sát biển của tôi là người cao dong dỏng. Anh ta có thể dễ dàng trượt vòng quanh tôi. Chúng tôi đào thẳng vào một đống tuyết, mở rộng lên phía trên và sâu vào trong, tạo một khoảng trần lớn để hơi ấm bốc lên đó khi nhiệt độ giảm xuống. Viên cảnh sát biển và tôi đặt ba lô ở lối vào để ngăn gió nhưng đưa rìu vào bên trong đề phòng trường hợp phải đào tuyết thoát ra ngoài. Từ khoảng trần đó, chúng tôi tạo một mái hình vòm để nước không nhỏ giọt thẳng xuống người.

Chúng tôi cởi đôi ủng bên ngoài trước khi bước vào bên trong. Vì chỉ có bốn lính SEAL nên đối tác của tôi có vẻ thấy hân hạnh khi được làm việc cùng tôi. Anh ta cố gắng lau sạch đôi ủng giúp tôi.

“Không, nó không sao đâu. Tôi làm được mà,” tôi nói.

Anh ta nhìn tôi lạ lùng. Sau đó, anh ta có vẻ vui vì không phải phục vụ tôi.

Chỉ cần một hoặc hai cây nến cũng đủ làm cái hang ấm lên. Bên ngoài, nhiệt độ là -41oC. Ở bên trong, tôi ngồi trên một cái túi ngủ, chỉ mặc quần áo lót dài polypro xanh của Hải quân. Chúng tôi không để cho nhiệt độ trong hang cao hơn 0oC, nếu không cái hang có thể tan chảy, trút nước xuống và sau đó đổ sập lên đầu chúng tôi. Chênh lệch giữa nhiệt độ bên ngoài và bên trong hang khoảng hơn 40 độ làm cho người ta cảm thấy như đang sống ở Bahamas vậy. Nhiệt độ trong hang làm mềm tường và trần hang, vì vậy chúng tôi phải vỗ nện cho đến khi chúng cứng trở lại.

Sau khi sống trong cái hang tuyết đó hai tuần, dùng nơi này để triển khai các hoạt động, chúng tôi đã vỗ tường và trần nhà nhiều đến mức bên trong hang dường như sắp trở thành một ngôi nhà tuyết vậy. Người Thụy Điển rất biết cách đương đầu trong một cuộc chiến − khẩu phần ăn của họ bao gồm rượu cô nhắc và hỗn hợp socola nóng ngon nhất mà tôi từng được ăn cùng với các món như mì Bolognese và bánh mì lúa mạnh đen. Thấy tôi ngạc nhiên, đối tác Thụy Điển đề nghị đổi khẩu phần ăn của anh lấy món MRE của tôi. Tôi đoán là anh đã phát chán vì lúc nào cũng ăn những món đó. Chúng tôi sung sướng thưởng thức đồ ăn của nhau trong cái hang tuyết của mình.

Thực ra một điều thú vị khi huấn luyện với các đơn vị tác chiến đặc biệt nước ngoài là được trao đổi đồ dùng. Từ Mỹ, tôi mang theo nhiều thanh thịt bò lớn không có gia vị để cắt lát và bổ sung năng lượng cho khẩu phần ăn của mình trong thời tiết lạnh giá. Các chàng cảnh sát biển rất thích món đó. Tôi cũng mang theo một chiếc bật lửa Zippo và một viên cảnh sát biển đổi con dao Laplander xinh xắn của mình để lấy nó. Con dao có một tay cầm bằng gỗ, lưỡi dao hơi cong, vỏ dao làm bằng da có hai dây bằng da sống để buộc vào ba lô của tôi. Trong giá lạnh, chiếc bật lửa Zippo sẽ tiện dụng hơn so với chiếc bật lửa Butan, nhưng tôi thích con dao hơn.

Vào ngày cuối cùng, hai chúng tôi dùng sơn bôi mặt để sơn trắng những điểm nhô ra trên khuôn mặt, nơi có thể tạo ra điểm tối và bóng xám trên mặt như trán, má, mũi, lông mày và cằm. Tất cả chúng tôi rời hang tuyết để tham gia một chiến dịch lớn. Khoảng 100 đến 150 người chúng tôi móc gậy vào dây kéo phía sau các xe ủi tuyết để được kéo tới khu vực mục tiêu của mình. Chúng tôi trượt tuyết đến nơi xa nhất có thể, rồi cởi bỏ ván trượt và ba lô bên trong hàng cây. Chúng tôi ở cách mục tiêu khoảng 300m.

Tôi đi đôi giày đi tuyết NATO được thiết kế cồng kềnh và vụng về. Còn cảnh sát biển có giày đi tuyết nhỏ gọn làm bằng kim loại tổng hợp nên họ vẫn chạy được. Ồ, trang thiết bị tác chiến mùa đông của các anh hiện đại hơn chúng tôi. Để lấy một đôi giày như thế, tôi đổi bộ dao đa năng Swiss Army cũ và cái vòng đeo bằng da đã rách mà tôi thường dùng để gài bộ dao vào thắt lưng (vì để nó trong túi quần rất vướng víu). Một cạnh bằng nhựa của bộ dao đã bị vỡ nhưng vẫn còn chiếc cưa, dụng cụ đánh vảy cá và gỡ lưỡi câu, cái kìm bằng da có lỗ xâu kim, kính lúp, lưỡi dao dài, lưỡi dao ngắn, kéo, kìm nhỏ, cái mở nút chai, tăm và nhíp. Có người cho rằng vì Thụy Điển gần Thụy Sỹ hơn Mỹ nên con dao Swiss Army không phải là thứ đáng giá lắm, nhưng thực tế không phải vậy. Cùng với đôi giày đi tuyết, viên cảnh sát biển thậm chí còn cho tôi thêm một chai rượu sơ-náp. Anh ta rất vui sướng, có vẻ rất quý tôi vì đã đổi chác như vậy. Sau đó anh mang đi khoe với bạn bè. Bạn bè chỉ trích là anh đã lợi dụng tôi. Nếu anh ấy mang cho tôi đôi giày đi tuyết đó khi tôi đang huấn luyện tác chiến mùa đông ở Alaska, chắc tôi sẽ đổi cả 5 con dao Swiss Army để lấy nó. Khi trở lại Mỹ, tôi sẽ mua một con dao mới.

Chúng tôi tiến lên theo đội hình chữ V ngược với một người ở giữa phía trước và những người còn lại ở hai bên cánh. Một đơn vị khác tiến đến khu vực mục tiêu từ sườn trái. Vừa bắn vào đích, sườn trái và đội hình chữ V phía trước chúng tôi vừa tấn công một công sự giả gồm 10 tòa nhà. Một đơn vị SEAL cơ sở thường giống như một đội thủy thủ với 7 hoặc 8 người. Trong cuộc tấn công quy mô đại đội với hơn 100 lính này, chúng tôi chỉ phải đi theo đội hình.

Cảnh sát biển Thụy Điển và các đơn vị Bắc Âu khác, trong đó có Biệt đội Hải quân Na Uy, dành nhiều thời gian tập trượt tuyết và tác chiến trong môi trường mùa đông hơn lính Mỹ, vì vậy họ vượt trội hơn chúng tôi. Tuy nhiên, công nghệ Mỹ giúp cân bằng thế trận. Bạn có giỏi trượt tuyết thế nào cũng không quan trọng nếu tôi phát hiện ra bạn bằng kính ngắm ban đêm từ khoảng cách 400m. Bạn cứ trượt mà xem.

Tôi nghe kể lại rằng khi tôi đang huấn luyện ở Thụy Điển, nhiều đêm Laura đã đi chơi đến khuya và tiệc tùng với một vài người vợ lính SEAL khác. Khi tôi hỏi, Laura trả lời: “Ồ, chỉ là một hoặc hai lần thôi mà. Em chẳng thấy thích gì.” Tôi tin lời Laura bởi vì tôi tin tưởng cô ấy − tôi không muốn tin vào điều gì khác. Chúng tôi tới nhà thờ vào các ngày Chủ nhật và mọi thứ dường như đều ổn cả.

Con trai Blake của tôi rất thích lang thang với những người lính trong Đội SEAL và họ cũng yêu quý nó, nhất là sau một sự cố đặc biệt khi Blake 4 tuổi. Một hôm, sau buổi làm việc, tôi trở về nhà, thấy Laura ở trong bếp đang vô cùng hốt hoảng.

“Chuyện gì vậy em?” − tôi hỏi.

“Con nhỏ Debbie sang đây chơi và chúng cùng vào bể lội của Blake. Trần truồng!” Debbie bé nhỏ là cô con gái 6 tuổi của người hàng xóm.

“Vậy đấy.”

“Em đã gọi mẹ con bé và kể cho cô ấy. Cô ấy nghĩ điều đó buồn cười. Anh nên nói chuyện với con đi.”

Tôi liền đi xuống hành lang vào phòng con.

Blake đang chơi trò Săn Vịt trên máy Nintendo, bắn những con vịt đang bay bằng khẩu Nintendo Zapper Light Gun.

“Con trai, hôm nay con thế nào?” “Tốt ạ,” thằng bé trả lời. “Hôm nay con làm gì?”

“Chơi ạ.”

Tôi để thằng bé chơi tiếp và quay trở lại với Laura trong bếp: “Thằng bé ổn mà. Thậm chí còn không thèm nói đến chuyện đó.
Đó không phải là chuyện gì to tát đâu.”

“Ồ không. Anh phải nói chuyện với con. Có lẽ thằng bé cảm thấy khó chịu đấy.”

Tôi liền quay trở lại phòng của Blake. Trên màn hình, một con chó phát hiện những con vịt chết trên cỏ và chúc mừng Blake.

Tôi hỏi trực tiếp hơn: “Hôm nay con có đi bơi không?” “Có ạ.”
“Vậy à, có ai đi cùng con không?” “Có ạ, Debbie đi bơi cùng với con.”
“Con và Debbie cởi hết quần áo ra khi ở trong bể à?”

“Debbie cởi quần áo bơi của mình và bảo con cởi quần áo bơi của con ra.”

“Con có biết là con không nên để mọi người nhìn thấy chim của con không?”

“Có ạ, mẹ bảo con là không để cho mọi người nhìn thấy chim của con.”

“Ồ, vậy Debbie có nhìn thấy con chim của con không?” “Có ạ, Debbie nhìn thấy chim của con.” Thằng bé cười to. “Con có nhìn thấy chim của Debbie không?”
Thằng bé ngừng chơi và đặt khẩu súng xuống, giọng nói có âm sắc lo lắng: “Bố biết gì không? Debbie không có chim.” Thằng bé có vẻ lấy làm tội nghiệp cho Debbie: “Bạn ấy có mông ở đằng trước.”

Tôi cố nhịn để không cười đến nổ tung đầu ra. Tôi gọi kể cho Smudge và cậu ta cười suýt nữa thì vỡ cả ruột.

Ngày hôm sau, vào buổi chiều, Blake cùng tôi đến phòng nghỉ của Trung đội Foxtrot, Đội SEAL Số 2. Chúng tôi nói về câu chuyện ‘mông phía trước,’ và mọi người đều cười như pháo.

Những năm sau đó vẫn có người lính bông đùa: “Anh bạn, anh có biết gì không? Tối nay tôi sẽ vào thị trấn, hãy tìm cho tôi một cái “mông phía trước” nhỏ bé nào đó đi.” Con trai tôi đã trở thành một giai thoại của Đội.

Khi tôi đang công tác ở Đội SEAL Số 2, bác Carroll của tôi qua đời vì một cơn đột quỵ khi đang câu cá. Tôi vô cùng đau đớn khi trở về nhà dự đám tang ở nhà thờ First Baptist, nơi tôi đã đánh Timmy tơi bời trước đây. Họ hàng, bạn bè và nhiều người tôi không biết đã có mặt bên trong nhà thờ. Bác Carroll đã yên nghỉ trong quan tài. Ông luôn yêu thương tôi, dành thời gian cho tôi và giúp tôi trưởng thành. Tôi không rành thủ tục của đám tang lắm: hát Thánh ca, cầu nguyện, đọc Kinh thánh, nghe lời tiễn biệt của Cha Ron và một bài ca ngợi. Tôi thấy không thể kiềm chế được. Tôi đứng lên và nặng nề bước ra cửa trước. Tôi đứng trên bậc cửa và khóc nức nở. Đây là lần tôi khóc nhiều nhất. Ai đó vòng tay qua người và ôm lấy tôi. Tôi ngước lên nghĩ rằng mình sẽ thấy gương mặt của Cha Ron, nhưng người đang ôm tôi không phải là Cha. Đó là bố tôi. Đây là lần thứ hai ông ôm tôi, không giống như cái ôm miễn cưỡng trước khi tôi lên xe buýt đi học chuyên nghiệp: “Howard à, bố cũng sẽ nhớ bác ấy lắm. Bác ấy luôn dành thời gian chơi với con bởi vì bác ấy biết cách dạy dỗ con hơn bố. Bác ấy kiên nhẫn hơn. Vì vậy bác Carroll luôn dành thời gian với con.”

Sau đó, tôi cố gắng tĩnh tâm trở lại và theo đoàn xe tang đến nghĩa trang an táng bác Carroll.

Ngày 6 tháng Sáu năm 1990, con gái tôi, Rachel, chào đời tại một bệnh viện dân sự ở bờ biển Virginia. Mẹ vợ tôi từ Nam Georgia đến. Tôi đang ở đồi Fort A.P., Virginia − một trong số những trường bắn đạn thật lớn nhất Bờ Tây. Tôi lái 224 km theo hướng đông nam để gặp Laura và con gái nhỏ. Tôi vô cùng hạnh phúc khi nhìn thấy Rachel. Mặc dù vậy, thời gian tôi gắn bó cùng Đội cũng nhiều như tình yêu của tôi dành cho con gái tôi vậy. Một số người lính SEAL có thể cân bằng giữa Chúa, gia đình và các Đội. Tôi thì không thể. Các Đội là tất cả. Sau khi ở bệnh viện một hoặc hai ngày, tôi lại đi.

Nhưng bất cứ khi nào trở về nhà, Rachel lại quấn quýt bên tôi. Con bé thích ở cùng tôi và tôi thích được gần con bé. Một lần, khi Rachel lớn hơn một chút, Blake đẩy ngã con bé ở sân sau nhà.

“Blake, vào tủ và lấy thắt lưng ra đây!”

Thằng bé biến vào trong tủ rồi quay lại, trên tay cầm chiếc thắt lưng da lớn nhất của tôi.

“Con trai, tại sao con mang cái thắt lưng to nhất mà con tìm thấy?”

Thằng bé nhìn vào mắt tôi: “Bố, con đã làm một việc tồi tệ. Vì thế con nghĩ con đáng bị tét bằng cái dây lưng to này.”

Có lẽ là thằng bé chỉ đang đùa với tôi. Nhưng tôi không đánh Blake lần đó và cũng không đánh bất cứ lần nào khác sau đó. Nếu có gì không ổn thì đó là việc tôi đã quá nuông chiều Blake. Có lẽ số lần tôi bắt thằng bé nằm lên giường và tét cho một cái thắt lưng chỉ đếm trên đầu ngón tay.

Tôi để cho Rachel đi chơi với Blake nhiều hơn. Con bé là cục cưng của tôi, còn thằng bé là bạn thân của tôi.

Tôi tiếp tục nghe nhiều hơn về Đội SEAL Số 6, đơn vị chống khủng bố bí mật. Mọi người nói rằng Đội 6 là Đội Mơ ước. Số hiệu 6 là đơn vị bậc nhất, chỉ tuyển những người lính SEAL ưu tú nhất − như Pro Bowl của Liên đoàn bóng đá Quốc gia vậy. Họ làm nhiệm vụ giải cứu con tin và được trả rất nhiều tiền. Lính của họ có thể đến học ở bất cứ trường nào họ muốn. Tiêu hàng nghìn đô-la để tham gia khóa đào tạo lái xe hai tuần ư? Không vấn đề gì. Muốn đi đến trường đào tạo bắn súng của Bill Roger ư? Lại nữa à? Được thôi. Họ sử dụng những trang thiết bị tiên tiến nhất. Họ được yểm trợ cao nhất − một trung đội toàn trực thăng được giao cho họ. Không phải suy nghĩ, tôi muốn được tham gia Đội SEAL Số 6. Khi có điều gì xảy ra, tôi sẽ là người được ra chiến trường đầu tiên.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.