Hồi Ký Của Một Tay Súng Bắn Tỉa

Chương 8. Đội đặc nhiệm SEAL số 6



Chúng tôi bước vào huấn luyện ở đội Em út Xanh lục. Đây là khóa tuyển chọn vào Đội số 6. Sau khóa huấn luyện, một số người sẽ bị loại. Đa số chúng tôi đều đã ở tuổi ba mươi. Khi đó, tôi vừa tròn ba mươi tuổi. Các huấn luyện viên bấm thời gian ghi thành tích chạy và bơi của chúng tôi. Chúng tôi thực hành huấn luyện tác chiến trên bộ, nhảy dù và lặn. Tất cả các khoa mục này đều ở mức độ khó hơn trước. Chẳng hạn, với khoa mục nhảy dù, chúng tôi phải thực hiện khoảng 150 lần nhảy trong bốn tuần, gồm các nội dung: rơi tự do, mở dù ở độ cao thấp (HAHO), nhảy dù xếp chồng… Chương trình huấn luyện của chúng tôi còn có các nội dung: trèo bằng tay không, chiến đấu tay bo, lái xe phòng thủ và tấn công, nội dung học cách tồn tại, lẩn trốn, rèn luyện khả năng chịu đựng và tẩu thoát (SERE). Mặc dù chúng tôi dành khá ít thời gian học các kỹ năng như làm thế nào để đột nhập vào ô tô và khởi động động cơ chỉ bằng một chiếc tuốc nơ vít nhưng chúng tôi lại dành khá nhiều thời gian học cách điều khiển xe và bắn súng trong quá trình xe chạy. Các huấn luyện viên sẽ đánh giá và xếp hạng mỗi nội dung huấn luyện. Cuối cùng là đưa ra tổng số điểm và thứ hạng của mỗi cá nhân.
Với tôi, dễ nhất là khóa huấn luyện vượt vật cản, còn khó nhất là khóa huấn luyện cận chiến trong thành phố do huấn luyện viên John Shaw phụ trách. Không chỉ dừng ở việc học cách mở khóa, chúng tôi còn phải học cách phá các bản lề cửa. Mỗi ngày, số lượng đạn chúng tôi tập bắn lên tới hàng nghìn viên. Theo tôi biết, chỉ riêng số tiền mua đạn loại 9 ly dành cho Đội đặc nhiệm SEAL số 6 hàng năm còn nhiều hơn số tiền mua đạn dành cho toàn bộ Lực lượng lính thủy đánh bộ cộng lại.

Tôi trải qua khóa huấn luyện cận chiến trong thành phố ở một cấp độ khó hơn rất nhiều so với trước đó. Mặc dù đã là thành viên của đặc nhiệm SEAL nhưng tôi không áp dụng được nhiều kiến thức đã học trước đó. Trong một bài huấn luyện, chúng tôi phải đột nhập vào một căn phòng, bắn đón đầu mục tiêu, vừa di chuyển zíc zắc vừa bắn, chạy nước rút và bắn hạ mục tiêu cản đường. Các huấn luyện viên liên tục thay đổi cấu trúc của căn phòng. Khi thì là phòng lớn, lúc lại phòng bé; khi là phòng hình vuông, lúc lại hình tam giác và bố trí địch ta lẫn lộn. Thậm chí họ còn thay đổi cả nội thất của căn phòng. Chúng tôi luôn luôn phải cẩn thận và tỉ mỉ. Kết thúc khóa huấn luyện, các huấn luyện viên cho chúng tôi xem lại đoạn ghi hình của mỗi học viên.

Tôi luôn sát cánh bên cạnh Bobby Z, một chàng trai cao lớn có mái tóc màu đồng. Đôi khi, chúng tôi gần nhau đến mức tôi cảm nhận được cả luồng gió phát ra từ nòng súng của Bobby Z thổi vào tóc tôi mỗi khi bắn. Chúng tôi đã tạo ra khoảng cách rất lớn với những người còn lại. Sau khi xem lại đoạn ghi hình, chúng tôi thấy cả Bobby và tôi đều không giảm tốc độ khi bắn chạy đổi bên. Đa số mọi người đều di chuyển chậm lại để đón đầu mục tiêu nhưng chúng tôi thì không. Trong nội dung chạy và bơi, Bobby về đích ngay sau tôi.

Trong khóa huấn luyện tại Đội Em út Xanh lục, Bobby và tôi luôn thay nhau dẫn đầu. Kết thúc khóa huấn luyện, tôi xếp vị trí thứ hai. Khi chúng tôi ở trường bắn của John Shaw, một số thành viên của đội Anh cả Đỏ, đội Anh hai Vàng và Đội Anh ba Xanh của Đội đặc nhiệm SEAL số 6 đến xem chúng tôi tập.

Lính SEAL liên tục phải hoạt động trong môi trường nguy hiểm, nhưng Đội đặc nhiệm SEAL số 6 còn hoạt động trong môi trường nguy hiểm hơn nhiều. Năm đầu tiên sau khi thành lập Đội số 6, trong quá trình huấn luyện khoa mục cận chiến trong thành phố, một thành viên của đội đã vô tình bóp cò và trúng vào lưng Roger Cheuy. Sau đó, Cheuy chết trong bệnh viện do nhiễm khuẩn cầu chùm, loại khuẩn tạo ra các độc tố giống với những độc tố có trong những người bị ngộ độc thực phẩm. Thành viên này không chỉ bị đuổi khỏi Đội số 6 mà còn bị đuổi khỏi SEAL. Trong một sự cố khác, cũng trong quá trình huấn luyện khoa mục cận chiến trong thành phố, một viên đạn xuyên qua vách ngăn của nhà tập bắn và trúng vào chỗ nối trong chiếc áo chống đạn của Rich Horn. Viên đạn đã giết chết Horn. Trong một tai nạn ở mục nhảy dù, Gary Hershey cũng đã thiệt mạng.

Sau sáu tháng huấn luyện, khoảng bốn đến năm người bị loại trong tổng số ba mươi người tham gia. Mặc dù chúng tôi bị một số chấn thương, nhưng không ai thiệt mạng cả. Đội Anh cả Đỏ nhặt tôi ngay từ vòng đầu. Logo của Đội Anh cả Đỏ là hình một người Mỹ da đỏ. Một số nhà hoạt động xã hội coi logo này là hình ảnh xúc phạm nước Mỹ. Nhưng căn nguyên của việc lựa chọn logo này là biểu lộ ý muốn mọi người trong đội phát huy lòng gan dạ và kỹ năng chiến đấu của những người Mỹ da đỏ.

Bây giờ tôi là người của một tổ chức bình phong có cấp trên, có địa chỉ và có cả trợ lý trả lời điện thoại. Khi điền những thông tin để xin cấp thẻ tín dụng, tôi không thể công khai với họ tôi làm việc cho Đội đặc nhiệm SEAL số 6. Thay vào đó, tôi phải cung cấp cho họ thông tin về tổ chức bình phong của mình. Khi công tác, tôi phải mặc quần áo dân sự thay vì quân phục. Từ “Đội đặc nhiệm SEAL số 6” không còn được nhắc đến nữa.

Ngay cả sau khi hoàn thành khóa huấn luyện có quân xanh và được nhận vào Đội số 6, chúng tôi vẫn tiếp tục trau dồi kỹ năng bắn súng tại Học viện Bắn súng tự vệ Mid South ở Mississippi do John Shaw huấn luyện. Trường bắn ở đây rất rộng, các mục tiêu ở cả bên trái, bên phải, có mục tiêu ẩn hiện và nhiều loại mục tiêu khác nữa. Tám chúng tôi rời Đội Anh cả Đỏ đến đó huấn luyện. Đêm thứ Sáu, đêm đầu tiên ở đó, cả tám chúng tôi rủ nhau đến câu lạc bộ thoát y bên kia sông ở Tennessee để xem biểu diễn. Chúng tôi có lái xe riêng. Người lái xe này không phải là người của SEAL, vóc dáng thấp bé và rất thích nghe đài phát thanh. Anh ta tên là Willie nhưng chúng tôi đùa vui gọi anh ta là Wee Wee. Anh ta thích đọc mọi thứ nhưng lại là người ít nói. Wee Wee không vào trong với chúng tôi mà ngồi trong xe đọc sách đợi ở bên ngoài. Chiếc xe tải nhỏ chở chúng tôi có màu đen và các cánh cửa cũng màu đen. Chiếc xe mang biển số của Virginia và các nhíp xe vừa được thay mới. Ghế ngồi được lắp theo yêu cầu của khách hàng, đủ thoải mái cho tám người ngồi. Đội số 6 thường đi những chiếc xe có cửa kính chống đạn, có khả năng chạy khi bánh xe hết hơi, có lắp đèn và còi hú của cảnh sát và có các ngăn đựng vũ khí trong xe. Tuy nhiên, chiếc xe này chỉ đơn thuần là một chiếc xe tải chở người và thiết bị ở Mỹ. Sau khi rời khỏi quán, Wee Wee lái xe đưa chúng tôi về.

Tại một cột đèn giao thông, ba tên đi chiếc xe con bốn bánh, hai ống xả dừng ngay cạnh xe chúng tôi. Chúng thấy Wee Wee đeo kính Clark Kent khi anh kéo cửa kính xuống nhưng lại không nhìn thấy tám chúng tôi ngồi trong xe. Một trong ba tên gào lên: “Này tên khốn da đỏ. Lái xe về nhà ngay! Đừng bao giờ lái chiếc xe mang biển số của Virginia, cái bang chết tiệt đã từng gây chiến với các bang miền Nam trong cuộc Nội chiến. Đây là vùng đất của Tướng Robert E. Lee”.

Một người trong nhóm chúng tôi hét to: “Mẹ kiếp, bọn khốn này!”

Đèn giao thông chuyển sang màu xanh. Wee Wee lái xe tiến lên phía trước đến cột đèn đỏ tiếp theo và dừng lại. Ba gã đó cũng dừng xe lại cạnh chúng tôi.

“Này, cái thằng nhỏ thó kia. Mày vừa chửi đổng phải không?”. Chúng tưởng Wee Wee chửi chúng.

Một người trong số chúng tôi đáp trả: “Này, bọn khốn. Chúng mày cảm thấy như thế nào khi biết bố mẹ chúng mày là anh em của nhau?”.

Lúc này, ba tên đó vô cùng tức giận và hét lên: “Táp vào lề đường ngay, chúng tao phải dạy cho mày một bài học mới được”.

Mồ hôi trên trán Wee Wee bắt đầu túa ra. Anh kéo kính xe lên cao quá mũi. Chúng tôi cố nín thở để khỏi cười phá lên làm ba tên khốn này sợ và biết chúng tôi ngồi sau xe. Một người trong nhóm nói nhỏ với anh lái xe “Wee Wee, hãy lái xe vào bên đường và dừng xe lại.”

Wee Wee lái xe thêm khoảng hai, ba cây số nữa và dừng lại trước khi đến điểm nút giao các đường cao tốc giữa các bang.

Ba tên khốn cứ lặng lẽ bám theo và dừng cạnh xe chúng tôi. Chúng nhạo báng để Wee Wee tức giận ra khỏi xe.

Chúng tôi đứng ngay sát chiếc cửa đẩy bên hông xe sẵn sàng nhảy ra ngoài tiếp chiến. Tôi để tay lên tay nắm cửa. Ngay khi tôi mở cửa, ba người sẽ nhảy ra chặn bên trái, ba người khác sẽ nhảy ra chặn bên phải. Sau khi bố trí xong, chúng tôi bảo: “Wee Wee, dụ bọn chúng đến cửa hông đi”. Wee Wee đã thuyết phục được bọn khốn ra cửa hông để tránh ảnh hưởng đến giao thông.

Bọn khốn đi một vòng quanh xe đến bên cửa chúng tôi đang nấp. Ngay khi chúng vừa đến, tôi mở bung cửa ra. Như một phép lạ, sáu người trong chúng tôi đã đứng thành một vòng tròn vây ba tên khốn vào giữa. Mắt bọn chúng trợn trừng lên cứ như con ngươi sắp lòi ra khỏi mắt đến nơi vậy.

Một trong ba tên khốn nhổ miếng thuốc lá đang nhai trong miệng ra và nói: “Thấy chưa John, tao đã bảo mày rồi. Có ngày cái mồm của mày sẽ làm hại bọn tao. Tao nói có sai đâu.”

Trước tiên tôi dạy chúng bài học về lịch sử, “Này, câm mồm ngay! Thứ nhất, bọn tao không phải là những người da đỏ. Thứ hai, Virginia không phải là một bang của người da đỏ. Thứ ba, Tướng Robert E. Lee là người đến từ Virginia.”

Ba tên khốn đã bình tĩnh trở lại và tên John bắt đầu lớn tiếng.

Chúng tôi quyết định dạy cho chúng bài học về cách cư xử, không ỷ mạnh bắt nạt yếu. Nói chung, chúng tôi đã đánh cho chúng một trận thừa sống thiếu chết. Để cho chúng nhớ, một người trong số chúng tôi ra lệnh “Cởi quần ngoài ra ngay”.

Bọn chúng nhìn chúng tôi đầy vẻ ngỡ ngàng. Tuy nhiên, để không bị đánh nữa, chúng ngoan ngoãn tụt quần ra.

Chúng tôi lấy chìa khóa, khóa cửa xe của chúng lại, ném chìa khóa xe vào bụi cây và thu hết quần và giày dép của chúng. “Hãy đến lối ra phía trước, dừng xe tại cửa hiệu 7–Eleven ở bên tay phải và chúng mày sẽ tìm thấy đồ của chúng mày trong phòng tắm.”

Sáng hôm sau, chúng tôi đang ngồi ở thao trường bắn của huấn luyện viên Shaw nhâm nhi ly cà phê trước khi bắt đầu buổi tập bắn thì một sĩ quan cảnh sát, vốn là một trợ lý huấn luyện của Shaw, lái xe đến và bước ra khỏi xe cảnh sát. Ông đi đến phía chúng tôi. Chúng tôi biết rõ ông vì chúng tôi thường xuyên huấn luyện cùng nên chúng tôi ra đó uống cà phê cùng ông. Ông cũng là một tay đua của dòng xe Harley-Davidson, rất giống chúng tôi. Ông nói: “Lúc một giờ ba mươi sáng nay, tôi nghe được một câu chuyện buồn cười nhất từ trước tới nay”.

Chúng tôi ngây thơ hỏi: “Chuyện gì vậy?”.

“Tôi nhận được một cuộc gọi từ cửa hiệu 7–Eleven báo có ba thanh niên mặc quần đùi đi bộ đến cửa hiệu. Người thu ngân đã khóa cửa lại không cho họ vào. Ba thanh niên này nói họ phải vào bên trong để lấy quần áo của họ. Khi chúng tôi đến, một nửa số cảnh sát trong đồn cũng đi cùng. Tôi thề đấy, đúng là có ba thanh niên mặc quần đùi đang đứng ở đó. Chúng tôi nghe hết câu chuyện lạ kỳ của họ. Chuyện là thế này: có một chiếc xe tải màu đen mang biển số Virginia, loại xe trông giống chiếc xe đang đậu đằng kia kìa – ông giơ tay chỉ vào chiếc xe tải của chúng tôi – đậu bên cạnh xe của họ. Bất thình lình, tám gã khốn, giống hệt các cậu, vây lấy họ và đánh cho họ thừa sống thiếu chết mà không nói lý do. Nghe xong chuyện, chúng tôi để ba thanh niên này ở trong cửa hiệu 7–Eleven và tìm đồ cho họ khoảng chừng hai mươi phút nhưng chúng tôi chẳng tìm thấy quần áo của họ ở đâu cả.

Đêm hôm đó, chúng tôi buồn cười quá nên đã quên béng chuyện dừng lại ở cửa hiệu 7–Eleven. Quần áo và giầy dép của chúng vẫn còn nguyên trong xe của chúng tôi.

Viên cảnh sát tiếp tục: “Trước khi tôi ra về, một trong ba thanh niên đó nói: ‘John, thấy chưa. Tao đã bảo mà. Cái mồm của mày thể nào cũng có lúc hại bọn tao mà.’ Sau đó, hai tên trong bọn còn đấm tên John ngay trước trạm xăng. Chúng tôi ra can họ và hỏi: “Cái mồm gây ra rắc rối” có nghĩa là gì thì bọn chúng đều im lặng. Viên cảnh sát lắc lắc đầu và hỏi: “Các cậu có tin vào câu chuyện điên rồ này không?”

Tất cả chúng tôi đều im lặng. Sau một phút bối rối, chúng tôi cùng đứng dậy và bắt đầu buổi tập bắn.

Cuối buổi chiều hôm đó, viên cảnh sát nói: “Đối với những kẻ mất dạy đó, cũng cần người đánh cho một trận. Cho dù những người đi trên xe là ai đi chăng nữa thì họ đã cứu ba tên mất dạy đó khỏi những người không giữ được bình tĩnh với những lời nói của chúng.”

Chúng tôi gật đầu đồng tình.

Mặc dù chưa có kinh nghiệm thực tiễn, tôi luôn để tâm vào mục tiêu tiếp theo: trở thành lính bắn tỉa. Theo quy định, phải là thành viên của Đội số 6 ít nhất ba năm thì mới được nộp đơn đăng ký thành lính bắn tỉa.

Mùa thu năm 1992, tôi nộp đơn xin học tại Trường đào tạo lính bắn tỉa. Chỉ huy trưởng của Đội Anh cả Đỏ Denny Chalker bảo tôi: “Cậu là một đặc nhiệm giỏi nhưng thời gian công tác chưa đủ. Cậu phải phục vụ ở đây ba năm trước khi vào học tại Trường đào tạo lính bắn tỉa, đó là luật bất thành văn. Hơn nữa, chỉ huy nhóm của cậu không muốn mất cậu.”

Mặc dù Đội Anh cả Đỏ phải cần từ bốn đến sáu lính bắn tỉa nhưng hiện tại mới chỉ có hai lính bắn tỉa. Một tuần sau đó, Denny nói: “Cậu đã biết tin gì chưa? Chúng tôi thay đổi quyết định rồi − cậu có thể đi học. Chúng tôi sẽ cử cậu và Casanova đến học ở Trường đạo tạo lính bắn tỉa.”

Mặc dù chúng tôi vẫn ở Đội Anh cả Đỏ nhưng chúng tôi cũng trở thành thành viên của Đội Áo đen (Black Team) bao gồm các tay lính bắn tỉa. Casanova và tôi có quyền lựa chọn theo học ở một trong ba trường. Đặc nhiệm SEAL bắt đầu mở trường đào tạo bắn tỉa riêng. Lục quân có tổ chức Khóa học đánh chặn mục tiêu trong các chiến dịch đặc biệt ở Fort Bragg, Bắc Carolina. Lực lượng Lính thủy đánh bộ có trường đào tạo bắn tỉa ở thành phố Quantico, Virginia. Tôi biết học ở trường của Lính thủy đánh bộ là rất vất vả nhưng đây là trường có truyền thống lâu đời nhất, uy tín nhất và quan trọng hơn cả là trường danh giá nhất trên toàn thế giới.

Do vậy, tôi quyết định đến Căn cứ của Lính thủy đánh bộ ở thành phố Quantico để theo học chuyên ngành bắn tỉa. Căn cứ này có diện tích gần 160 km², ngay gần con sông Potomac, Virginia. Học viện Quốc gia FBI và Học viện Phòng chống Ma túy cũng đặt trụ sở tại đây. Nằm ở góc của căn cứ, cạnh đường cao tốc Carlos Hathcock là Trường đào tạo lính bắn tỉa, một trường có những yêu cầu cao nhất. Trong số rất ít những người được nhận vào học thì chỉ có 50% số họ được tốt nghiệp.

Khóa học kéo dài 10 tuần, chia thành ba giai đoạn. Ngày đầu tiên của giai đoạn I: Thiện xạ và các kỹ năng cơ bản trên chiến trường, chúng tôi phải trải qua đợt kiểm tra thể lực. Những ai không vượt qua lần kiểm tra này đều bị trả về đơn vị chủ quản ngay lập tức mà không có cơ hội kiểm tra lại lần hai.

Sau khi các cán bộ đưa ra danh sách những học viên đỗ, chúng tôi vào ngồi trong tòa nhà màu đen với các cửa sổ bị bịt kín được gọi là nhà trường. Ở đây, chúng tôi được phổ biến những nội dung chính của khóa học.

Ngày hôm sau, một Trung sĩ lên lớp cho chúng tôi. Trông anh ta độ ngoài bốn mươi với mái tóc cắt ngắn. Anh ta là thành viên trong Hiệp hội các xạ thủ hàng đầu nước Mỹ. Đây là tổ chức gồm 100 xạ thủ có điểm số cao nhất trong cuộc thi bắn súng trường và súng lục được tổ chức hàng năm. Các huấn luyện viên của chúng tôi gồm cả các cựu chiến binh, các chuyên viên hàng đầu và các nhân viên có năng lực nhất.

Trung Sĩ nhấn mạnh: “Lính bắn tỉa có hai nhiệm vụ. Thứ nhất là hỗ trợ các hoạt động tác chiến bằng cách bắn chính xác, hạ gục các mục tiêu đảm nhận từ vị trí ẩn nấp. Lính bắn tỉa không được phép rời vị trí ẩn nấp để bắn mục tiêu. Việc hạ gục các mục tiêu đảm nhận sẽ góp phần quan trọng vào chiến thắng của cuộc chiến. Nhiệm vụ thứ hai là quan sát và thu thập tin tức. Đây là nhiệm vụ tốn nhiều thời gian.”

Trên trường bắn, Casanova và tôi là một cặp huấn luyện cùng nhau. Chúng tôi luân phiên thay đổi vai trò làm tay súng bắn tỉa và người chỉ thị mục tiêu (tính toán tốc độ gió). Đối với súng trường, chúng tôi buộc phải sử dụng loại súng M-40 của lực lượng lính thủy đánh bộ, súng bắn tỉa Remington 700 cỡ nòng 0,308 caliber với băng đạn năm viên. Gắn trên khẩu súng trường này là chiếc kính ngắm loại Unertl 10. Tôi là người bắn trước nên cẩn thận chỉnh thước ngắm. Sau đó, tôi chỉnh độ bù đường đạn do ảnh hưởng của lực hút trái đất ở cự ly bắn 300m. Nếu thay đổi cự ly bắn, tôi sẽ phải chỉnh lại độ bù của đường đạn.

Casanova nhìn qua kính ngắm điểm loại M-49 được đặt trên giá đỡ ba chân. Nếu không có giá đỡ, độ lệch có thể sẽ lớn do tay cầm kính ngắm bị rung. Casanova sử dụng kính ngắm điểm để đo tốc độ gió. Đây thường được xem là thách thức lớn nhất của các tay súng bắn tỉa.

Thông thường, các tay súng bắn tỉa thông qua lá cờ để tính toán tốc độ của gió dựa vào góc bay. Nếu một lá cờ có góc bay 80 độ, lấy con số đó chia cho hằng số 4 thì sẽ ra tốc độ gió là 20 dặm/h (32 km/h). Tương tự, nếu góc là 40 độ thì lấy 40 chia cho 4 ra tốc độ gió là 10 dặm/h (16 km/h).

Trong trường hợp không có cờ, lính bắn tỉa phải dựa vào kỹ năng quan sát. Nếu người lính bắn tỉa chỉ cảm nhận là có gió thổi và gió có thể làm làn khói chuyển động thì tốc độ gió dưới 3 dặm/h (4,8 km/h). Nếu gió thổi nhẹ thì tốc độ từ 3 – 5 dặm/h (4,8 – 8 km/h). Nếu gió thổi làm lá rung rinh thì tốc độ từ 5 – 8 dặm/h (8
– 12,8 km/h). Nếu bụi và rác bị thổi bay lên thì tốc độ gió từ 8 – 12 dặm/h (12,8 – 19,2 km/h). Nếu các cây lắc lư thì tốc độ gió từ 12 – 15 dặm/h (19,2 – 24 km/h).

Một lính bắn tỉa cũng có thể sử dụng phương pháp dùng kính ngắm điểm. Khi mặt trời đốt nóng trái đất, không khí gần bề mặt trái đất gợn lên thành các làn sóng. Gió đẩy các làn sóng nóng này di chuyển theo hướng gió. Để thấy được các làn sóng nóng này, các tay súng bắn tỉa cần tập trung vào một vật gần mục tiêu. Xoay ống kính một góc 45 độ theo chiều ngược kim đồng hồ, rồi tập trung vào vùng phía trước vùng mục tiêu để có thể nhìn thấy làn sóng nóng. Gió thổi với tốc độ chậm sẽ tạo ra các làn sóng nóng lớn, còn gió thổi nhanh mạnh sẽ làm tan các làn sóng nóng. Phương pháp xác định tốc độ gió kiểu này đã được áp dụng vào thực tiễn.

Gió thổi trực tiếp từ trái sang phải hoặc phải sang trái có ảnh hưởng lớn nhất đối với đường đạn. Loại gió này được gọi là gió ảnh hưởng trực tiếp. Gió thổi xiên từ trái qua phải hoặc từ phải qua trái được gọi là gió ảnh hưởng gián tiếp. Gió thổi từ trước về sau hoặc từ sau lên trước thì ít ảnh hưởng nhất.

Casanova thông báo cho tôi tốc độ gió: “5 dặm/h (8 km/h), ảnh hưởng trực tiếp, từ trái qua phải”. Cự ly 300m nhân với 5 dặm/h bằng 15; 15 chia cho hằng số 15 bằng 1. Tôi điều chỉnh ô kẻ ngang trên kính ngắm sang trái một khấc. Nếu trong trường hợp số chia là hai từ bên phải thì tôi phải chỉnh sang phải hai khấc trên kính ngắm.

Tôi bắn phát đầu tiên vào bia cố định – trúng. Sau khi bắn tiếp hai bia cố định và hai bia di động nữa, tôi đổi vai trò sang làm người tính tốc độ gió còn Casanova sang vai trò bắn. Sau đó chúng tôi thu gọn trang bị và chạy lùi lại vạch bắn ở cự ly 500m. Tại cự ly bắn này, chúng tôi tiếp tục lần lượt thay nhau bắn ba bia cố định và hai bia di động. Sau đó chúng tôi lùi xuống bắn ở cự ly 600m. Thật khó khăn để giữ hơi thở và nhịp tim chậm lại sau mỗi lần chuyển vị trí. Tại cự ly bắn 700 m, chúng tôi một lần nữa bắn ba bia cố định nhưng hai bia di động không chuyển động liên tục mà lúc chuyển động, lúc lại đứng im. Tại cự ly 800 m, hai bia di động không di chuyển nữa mà lắc từ trái sang phải và ngược lại ở một vị trí cố định. Tại cự ly 900m và 1.000 m, cả năm bia đều cố định. Với tổng cơ số đạn là 35 viên thì ít nhất phải có 28 viên trúng bia mới đạt yêu cầu. Ở nội dung này, rất nhiều người không đạt yêu cầu và bị loại.

Sau khi kết thúc nội dung bắn trên thao trường, chúng tôi trở về nhà bắn và lau chùi, vệ sinh vũ khí trước khi bước vào nội dung vẽ phác thảo địa hình. Các huấn luyện viên đưa chúng tôi đến một khu vực và nói: “Hãy phác thảo địa hình khu vực từ mép rừng phía bên trái đến tháp nước phía bên phải. Các anh có 30 phút để thực hiện nhiệm vụ.” Chúng tôi cố vẽ cho bằng hết các chi tiết quan trọng trong khả năng của mình theo thứ tự từ gần đến xa: các vật ở gần phải to hơn các vật ở xa. Ở phía dưới bản phác họa, chúng tôi ghi rõ những thứ chúng tôi nhìn thấy. Các huấn luyện viên xếp hạng chúng tôi dựa vào sự rõ ràng, chính xác và giá trị tình báo của bản phác họa. Cứ đạt được 70% trở lên thì đỗ. Sau đó, họ rút ngắn thời gian của chúng tôi xuống còn 15 phút thay vì 30 phút.

Lính bắn tỉa cũng luôn giữ bên mình một cuốn sổ ghi chép để sử dụng cùng với bản phác họa. Điều này có nghĩa là người lính bắn tỉa phải ghi chép những thông tin cần thiết về địa hình, tọa độ, bụi cây, vật cản và đường cơ động để bổ sung cho bản phác họa.

Chúng tôi cũng tham gia nội dung Ghi nhớ nhanh. Huấn luyện viên đặt lên trên bàn từ 10 đến 12 đồ vật: vỏ đạn 9 ly, đèn hiệu, túi đựng đồ loại Ziploc, bút mực, một chiếc kính hỏng, ảnh của một ai đó và một số đồ vật khác nữa. Trong vòng từ 10 đến 15 giây, chúng tôi phải ghi nhớ được mọi thứ ở đúng vị trí đặt trên bàn. Sau đó, chúng tôi vào lớp học, lấy một mảnh giấy và vẽ những thứ chúng tôi nhìn thấy. Cuối cùng, chúng tôi phải mô tả bằng lời những đồ vật này. Đôi khi, chúng tôi phải nói chính xác kích thước đồ vật mà chỉ nhìn chúng bằng kính ngắm hoặc ống nhòm. Nếu tôi không thể nhớ được 70% số đồ vật này thì sẽ bị loại. Chúng tôi cũng phải chui rúc trong các bụi cây, bụi cỏ − tìm một vị trí quan sát trong tình trạng các bụi cây làm cản tầm nhìn của chúng tôi − sử dụng cây cối để che dấu khỏi bị phát hiện.

Trong Giai đoạn II “Trinh sát mục tiêu và bắn súng không biết trước cự ly”, những người đã vượt qua Giai đoạn I có nhiệm vụ bắn hạ 100 mục tiêu ở khoảng cách từ 300m đến 800m. Do chúng tôi không biết chính xác khoảng cách từ vị trí đứng đến mục tiêu nên chúng tôi phải ước lượng. Nếu bắn trúng bia mục tiêu ở viên đạn thứ nhất thì được 10 điểm, ở viên đạn thứ hai được 8 điểm. Chúng tôi không được phép bắn ba viên cho một mục tiêu. Khi khi hoàn thành, Casanova và tôi sắp xếp lại các mục tiêu và thực hiện lại một lần nữa sau khi đổi vai cho nhau. Chúng tôi phải đạt được trên 70% số mục tiêu cần bắn hạ thì mới đạt điểm chuẩn để được ở lại trường.

Ngoài kỹ năng bắn súng, trường đào tạo lính bắn tỉa cũng dạy chúng tôi nghệ thuật ngụy trang. Chúng tôi phải tự chế tác trang phục ngụy trang cho riêng mình. Trước tiên, chúng tôi chuẩn bị quần áo: chỉ lấy phần trên và phần dưới của bộ quần áo dã chiến. Tiếp theo, sử dụng loại dây chỉ bền như loại cước câu cá lớn nặng hơn 5kg, chúng tôi buộc bộ lưới (chẳng hạn như: võng quân sự hoặc lưới đánh cá) vào lưng và khuỷu tay của bộ quần áo dã chiến. Sử dụng keo dán giày Shoe Goo dễ dàng hơn sử dụng kim chỉ rất nhiều. Tiếp theo chúng tôi cắt một vài miếng vải rộng khoảng 2,54 cm, dài 22,8 cm và buộc vào điểm nút ở phần trên của chiếc áo dã chiến buộc với lưới. Chúng tôi kéo theo chiều dọc từ dưới lên trên để cọ miếng vải sờn đi. Dùng một bình sơn phụt, sơn màu cho miếng vải. Casanova và tôi buộc lá cây từ phần đầu gối trở xuống, đây là bộ phận lính bắn tỉa phải di chuyển. Lá cây xòe ra trong quá trình người lính bắn tỉa bò trên mặt đất. Chúng tôi rất cẩn thận không buộc bất kỳ một vật nào quá dài vào để tránh nó lắc lư sẽ dễ bị phát hiện. Lá cây là tốt nhất vì chúng bền màu. Cỏ bị úa nhanh nhất − chỉ trong vòng khoảng 4 giờ đồng hồ. Xung quanh báng súng trường, chúng tôi quấn vải màu vàng và buộc thắt nút vuông. Chúng tôi cũng làm tương tự như vậy với phần nòng súng và kính ngắm. Sau đó, chúng tôi dán miếng vải màu xanh đậm đã được cắt trước đó ra bên ngoài. Tương tự, chúng tôi cũng làm như vậy với khẩu M-49, ống nhòm và các trang bị khác.

Vào cuối tuần, lúc được nghỉ, Casanova và tôi tập luyện nghệ thuật giấu mình. Chúng tôi làm các bộ quần áo ngụy trang. Sau đó, mặc vào và nằm ở các địa hình khác nhau, thử tìm cách phát hiện ra nhau. Hầu hết thời gian rỗi, chúng tôi chỉ thực hành kỹ năng giấu mình này.

Phần Trinh sát mục tiêu làm nhiều học viên bị loại nhất. Vị trí của mỗi lần Trinh sát mục tiêu đều khác nhau và chúng tôi phải thay đổi bố cục màu sắc và kết cấu quần áo ngụy trang để hòa lẫn với môi trường xung quanh. Lúc nào trong tay cũng phải cầm theo kính ngắm quang học. Mắt thường được sử dụng để nhìn bao quát địa hình. Ống nhòm được sử dụng để nhìn các vật cận cảnh hơn, tuy nhiên vẫn giúp có được cái nhìn bao quát. Kính ngắm của lính bắn tỉa cho phép quan sát kỹ năng nhất các vật nhưng lại không nhìn bao quát được.

Càng tiếp cận gần mục tiêu, lính bắn tỉa càng phải di chuyển chậm. Khi cách mục tiêu khoảng 3 km, lính bắn tỉa cần di chuyển nhanh nhưng phải êm. Sau khoảng 1 km phải cẩn thận hơn, phải điều chỉnh lớp ngụy trang cho phù hợp với địa hình. Khi còn cách mục tiêu chưa đầy 1 km, lính bắn tỉa phải chú trọng khi di chuyển – bò sát xuống mặt đất. Mỗi lần tay chỉ di chuyển về phía trước khoảng 30 cm và cứ 30 giây mới thực hiện một hành động này.

Đôi khi người đi trinh sát phía trước đánh dấu đường đi. Việc làm này tạo khá nhiều thuận lợi cho người đi sau.

Trong vòng ba đến bốn giờ, chúng tôi phải vượt qua chặng đường từ 800 đến 1.200 m, đến cách vị trí quan sát khoảng 200m. Nếu người ở đài quan sát phát hiện ra chúng tôi trước khi chúng tôi đến cách vị trí quan sát 200 m, chúng tôi chỉ được 40 điểm trên thang điểm 100. Với kết quả như vậy, chúng tôi trượt.

Nếu người Quan sát nhìn thấy bụi cây chuyển động, anh ta sẽ dùng vô tuyến điện gọi báo cho giám sát viên (Walker): “Giám sát viên, sang trái 3 thước. Dừng lại. Sang phải 1 thước. Dừng lại. Một lính bắn tỉa ở ngay dưới chân”. Bất kỳ lính bắn tỉa nào ở trong vòng bán kính 30 cm đều bị bắt giữ. Những người bị bắt giữ thường là chưa đến được vị trí cách người Quan sát 200m. Lính bắn tỉa bị lộ sẽ đứng dậy và đi bộ về xe buýt, đạt 50 điểm và trượt.

Khi đến vị trí bắn, cách người Quan sát trong vòng 200 m, chúng tôi phải lấy súng ra và bắn vào một khoảng trống ở chỗ người Quan sát. Nếu người lính bắn tỉa không phát hiện ra người Quan sát, không đưa ra tốc độ gió hoặc độ cao chính xác hay không bắn từ bệ bắn chắc chắn, sẽ chỉ đạt được 60 điểm và bị đánh trượt.

Nếu chúng tôi làm được tất cả những điều trên nhưng lại để người Quan sát phát hiện ra tiếng nổ, anh ta sẽ chỉ cho giám sát viên vị trí của chúng tôi và đến bắt chúng tôi. Trường hợp này được 70 điểm và đỗ vớt.

Nếu người Quan sát không phát hiện ra tiếng súng từ đâu, giám sát viên sẽ hô vang ở nơi anh ta nghi ngờ có lính bắn tỉa: “Hãy bắn phát thứ hai!” Đa số học viên đều bị lộ bởi người Quan sát đã nhìn thấy bụi cây di chuyển từ phát nổ thứ hai. Trường hợp này được 80 điểm.

Phần cuối cùng của nội dung trinh sát mục tiêu là kiểm tra xem lính bắn tỉa có nhìn thấy tín hiệu từ người Quan sát hay không. Nếu lính bắn tỉa không bị phát hiện ở phát bắn thứ hai nhưng vẫn không quan sát được tín hiệu phát ra từ người Quan sát thì được 90 điểm.

Tôi nói: “Mục tiêu đang đập đập tay xuống đỉnh đầu.”

Giám sát viên nói qua vô tuyến điện với người Quan sát “Các lính bắn tỉa nói anh đang đập tay xuống đỉnh đầu.”

“Đúng, rất tốt. Đứng lên. Tới xe buýt. ‘Trinh sát mục tiêu chính xác, được 100 điểm’. Chúng tôi cần ít nhất hai lần trinh sát chính xác trong tổng số 10 lần ngoài việc đạt được mức điểm trung bình từ 70 trở lên.

Ngay cả vào mùa thu, nhiệt độ là 21 độ C, nhưng Quantico vẫn nóng như địa ngục khi chúng tôi phải khoác trên người bộ quần áo ngụy trang, kéo theo túi đựng trang thiết bị và bò sát mặt đất. Mọi người đều bị mất nước. Sau khi kết thúc nội dung Trinh sát mục tiêu, chúng tôi phải quay trở lại và sục sạo các bụi cây tìm những người bị ngất để đưa họ trở về doanh trại.

Casanova và tôi ở tại một khách sạn bên ngoài căn cứ trong khi lực lượng lính thủy đánh bộ ở trong doanh trại đối diện Trường đào tạo lính bắn tỉa phía bên kia đường. Chúng tôi vẫn đang trong chế độ trực chiến. Nếu máy nhắn tin của chúng tôi đổ chuông và phải thực thi nhiệm vụ, chúng tôi sẽ phải kín đáo rời khỏi nơi ở đi thực hiện nhiệm vụ mà không được phép để cho nhiều người biết điều gì đang diễn ra. Chúng tôi được hưởng những dịch vụ tốt nhất – đi máy bay hạng nhất và thuê xe ô tô chỉ dành cho hai người. Sau mỗi lần thực hành nội dung Trinh sát mục tiêu tại phòng khách sạn, tôi phải giúp kiểm tra một số vùng trên cơ thể của Casanova mà anh ấy không thể tự xem xét, xem có con bọ chét nào không để phòng tránh bệnh Lyme. Nếu không được chữa trị, bệnh Lyme sẽ tấn công vào hệ thần kinh trung ương. Casanova cũng làm tương tự như vậy với tôi. Không có việc nào tế nhị và thân mật hơn việc dùng chiếc nhíp để gắp bọ chét ra khỏi hậu môn của đồng đội mình.

Phải sau ba hay bốn lần thực hành nội dung trinh sát mục tiêu, tôi mới hiểu hàm ý sâu xa của việc làm trên: Giờ đây tôi hiểu điều họ muốn tôi làm là nhằm mục đích gì. Đó là để giúp chúng tôi không được để hoàn cảnh tác động, không giận dữ và mờ mắt vì ánh hào quang. Trong một lần trinh sát mục tiêu trước đó, tôi bò qua một cánh đồng lúa mạch. Một cậu lính trẻ bò ngang qua tôi rất nhanh.

Tôi thầm thì: “Này, cậu đang di chuyển quá nhanh đấy.”

“Qua ống nhòm, tôi đã nhìn thấy người Quan sát. Anh ta vẫn chưa chuẩn bị xong. Tôi đang chuẩn bị hoàn tất phần thi trước khi người Quan sát tìm kiếm chúng ta.”

Đồ ngu.

Cậu lính trẻ di chuyển quá nhanh cắt qua mặt tôi trong tư thế bò thấp.

Chó chết thật.

Một giám sát viên hét to: “Tất cả các tay súng, nằm im!” Chúng tôi nằm im.
Người Quan sát nói với giám sát viên đứng ngay trước mặt tôi 30 cm.

Lúc này, cậu lính trẻ ở phía trước tôi 1,5m vì cậu ta bò quá nhanh.

Người Quan sát nói qua vô tuyến điện với giám sát viên “Có một lính bắn tỉa ngay dưới chân”.

“Chính xác. Nào Wasdin, đứng dậy”.

Chó chết thật. Liệu tôi có thể làm gì trong tình huống này? Chẳng nhẽ tôi lại quay trở lại nói với huấn luyện viên rằng “Đó thực sự không phải là tôi mà là cậu lính trẻ”.

Bốn mươi điểm. Điều này làm tôi tổn thương ghê gớm, đặc biệt trong những lần trinh sát mục tiêu đầu tiên. Điểm số là vấn đề rất quan trọng. Tôi đã nghĩ đến khả năng tôi có thể trượt vì điểm lần này. Trở về đơn vị ở Dam Neck, Virginia và nói với mọi người rằng tôi vừa bị loại khỏi Trường đào tạo lính bắn tỉa thì thật xấu hổ biết chừng nào.

Mặc dù về mặt lý thuyết, chiến thuật của cậu lính trẻ hoàn toàn ổn nhưng làm tôi phải chịu trận thay là không chấp nhận được. Không cần thanh minh gì với huấn luyện viên, tôi gặp riêng cậu ta ở sau doanh trại và nói: “Cậu có thể nghĩ đó là chiến thuật tốt bởi cậu thấy người Quan sát vẫn chưa chuẩn bị xong, cậu tranh thủ tiến nhanh. Nhưng nhớ đừng bao giờ bò sát bên tôi hoặc trước mặt tôi như thế. Nếu cậu làm tôi trượt một lần nữa, chúng ta sẽ nói chuyện kiểu khác chứ không phải nhẹ nhàng như lần này đâu.”

Cậu ta không bao giờ mắc lại lỗi đó nữa và tốt nghiệp Trường đào tạo lính bắn tỉa cùng khóa với tôi.

Ngay cả sau khi đã đủ điểm đỗ nhưng nếu một lính bắn tỉa lặp lại lỗi đã phạm trước đó, các huấn luyện viên sẽ đánh trượt mà không cần xét đến điểm số. Một số lính bắn tỉa bị trượt bởi họ không làm được những bộ quần áo ngụy trang hòa vào môi trường xung quanh.

Này, chúng ta đã bắt đầu nội dung này được một tháng. Chúng ta đã học cách làm các bộ quần áo ngụy trang từ trước khi bắt đầu nội dung này. Tại sao các cậu không chịu ra ngoài quan sát địa hình và làm những bộ quần áo có thể hòa lẫn vào địa hình ở đó?

Một số học viên có thể làm được các bộ quần áo rất giống với môi trường xung quanh nhưng lại không nằm im được. Tôi thấy nhiều bụi bay lên ở những nơi họ ẩn nấp. Những học viên này bò đến cạnh một cái cây nào đó và nghĩ chiếc cây sẽ giúp họ không bị phát hiện. Các huấn luyện viên gọi đó là “các khối u của cây”. Các huấn luyện viên sẽ đưa mắt nhìn các cây từ trên xuống dưới. Khi phát hiện thấy gốc cây có một khối u. Tất nhiên, tay lính bắn tỉa đó trượt.

Một lính bắn tỉa không chỉ đơn thuần khả năng bắn súng cự ly xa. Một vận động viên bắn súng ở Thế vận hội Olympic có thể bắn súng chính xác ở cự ly xa nhưng không biết cách trinh sát mục tiêu thì cũng không thể trở thành lính bắn tỉa. Ở lần trinh sát mục tiêu thứ bảy, tám và chín, các huấn luyện viên gọi tên một học viên bất kỳ. Nếu các học viên này không đạt điểm tối đa, họ sẽ không đủ điểm để tốt nghiệp. Chúng tôi không bao giờ được gặp lại họ nữa.

Tôi đã kết thúc nội dung này với tổng số điểm là 800 hay 850 gì đó, tính cả lần tôi bị 40 điểm do sự thiếu kiên nhẫn của cậu lính trẻ tuổi.

Giai đoạn III: Các kỹ năng nâng cao ngoài thực địa và thực thi nhiệm vụ, bao gồm cả phần thực hành chiến đấu. Không cần biết chúng tôi đã hoàn thành tốt như thế nào ở các nội dung: bắn súng các cự ly, phác họa địa hình, ghi nhớ nhanh, trinh sát mục tiêu, chúng tôi buộc phải vượt qua phần thực hành chiến đấu kéo dài ba ngày. Ở nội dung này, các huấn luyện viên kỳ vọng ở chúng tôi sự chín chắn và khả năng độc lập tác chiến. Lính bắn tỉa thường hành động theo cặp đôi mà không nhận được chỉ dẫn trực tiếp. Lính bắn tỉa phải có khả năng tự ra quyết định, bao gồm cả quyết định tự điều chỉnh để thích nghi với môi trường xung quanh.

Lợi dụng màn đêm, trong nội dung thực hành chiến đấu, Casanova và tôi tiếp cận thành công vị trí ẩn nấp. Trước tiên, chúng tôi đào sâu khoảng 10 đến 15 m, cẩn thận đánh cỏ và lớp đất bề mặt thành những mảng to rồi đặt sang một bên. Tiếp theo, chúng tôi đào một chiếc hầm hình vuông có kích thước 6 x 6m và sâu 5m. Ở đáy hầm, Casanova và tôi đào một hố để đi vệ sinh dài khoảng 2 m, rộng 1,5m và sâu 1 m, dốc 45 độ để thoát nước mưa và phòng khi lựu đạn rơi vào thì cả hai vẫn lăn được ra ngoài. Cũng để tránh nước mưa làm sập lở hầm, chúng tôi cố định phần mái hầm bằng các bao cát. Tiếp theo, chúng tôi dọn sạch khu vực trước hố bắn để tì khuỷu tay trong khi ngắm bắn. Sau đó, chúng tôi dùng các thanh gỗ, áo mưa, đá, đất, các mảng cỏ (chúng tôi vừa đánh lúc trước) che chắn phía ngoài hố bắn. Cuối cùng, chúng tôi làm một lỗ thoát hiểm phía sau, được ngụy trang bằng các cành cây. Phía trong lỗ thoát hiểm, chúng tôi gài một quả mìn sát thương phòng khi có người đột nhập.

Chúng tôi ghi chép mọi diễn biến xảy ra ở khu vực mục tiêu, một ngôi nhà nằm trơ trọi với những xe chiến đấu bao bọc xung quanh. Một người tuần tra đi ngay trên đầu chúng tôi nhưng không phát hiện ra chúng tôi. Cứ sau một giờ, Casanova và tôi đổi vai bắn tỉa và chỉ thị mục tiêu cho nhau. Chúng tôi ăn uống, ngủ nghỉ và vệ sinh cá nhân ngay trong hầm. Khó khăn đối với chúng tôi là phần một người gác để người còn lại ngủ. Vào ban đêm, chúng tôi phải ra ngoài và quan sát diễn biến ở ngôi nhà mục tiêu. Qua bộ đàm, chúng tôi nhận được mệnh lệnh tiêu diệt mục tiêu bên cửa sổ: “Một người đàn ông đội mũ đỏ sẽ xuất hiện bên cửa sổ ngôi nhà vào ngày 8 tháng Mười một. Hạ gục mục tiêu.” Nếu người đàn ông đội mũ xanh xuất hiện. Không được bắn.

Trước khi bước vào nội dung này, Casanova và tôi đã chuẩn bị một chiếc thẻ ghi khoảng cách. Khi đến vị trí trú ẩn, chúng tôi thêm vào thẻ một số chi tiết như đặc điểm địa hình và các địa vật khác. Chúng tôi chia thẻ ra thành ba khu vực: A, B và C. Dùng cánh tay và bàn tay đã quy ước từ trước, Casanova ra hiệu mục tiêu của chúng tôi đã đến khu vực B, kim đồng hồ chỉ 12 giờ, cách 500m. Sau đó, Casanova chỉ vị trí ở trên thẻ.

Tôi giơ ngón cái lên hàm ý đã chỉnh thước ngắm vào mục tiêu. Điểm cắt ngang trên kính ngắm nằm đúng ngực mục tiêu đội mũ đỏ đứng bên cửa sổ. Nếu bắn trượt, tôi sẽ không tốt nghiệp. Casanova vẫn còn cơ hội để hạ gục mục tiêu nhưng tôi thì sẽ trượt. Tôi cẩn thận bóp cò. Trúng mục tiêu. Sau khi bắn, chúng tôi bí mật rút lui ra điểm đón. Quá trình rút lui này chỉ cho phép sử dụng bản đồ và la bàn để xác định hướng, chứ không được sử dụng hệ thống định vị GPS.

Khi trở lại nhà bắn, Casanova và tôi thuyết trình lại những gì chúng tôi thấy trên đường vào và trên đường rút lui và cả thời điểm chúng tôi nhìn thấy. Chúng tôi sử dụng hình ảnh và bản phác họa địa hình trong quá trình thuyết trình. Nguy cơ bị trượt vẫn lơ lửng trên đầu chúng tôi.

Huấn luyện viên mang quân hàm Thiếu tá nói với chúng tôi: “Hai cậu đã có bài thuyết trình hoàn hảo. Hầm ẩn nấp của các cậu rất tốt. Đích thân tôi đã đi bộ phía trên hầm ẩn nấp đó. Kỹ năng thuyết trình của các cậu thật tuyệt vời.” Chúng tôi thở phào nhẹ nhõm. Tất nhiên, kỹ năng thuyết trình của chúng tôi rất tốt bởi chúng tôi đã từng thuyết trình khi còn theo học ở Trường đào tạo các kỹ năng cơ bản dưới nước – BUD/S.

Thật không may cho các học viên bắn tỉa khác, chúng tôi là cặp thuyết trình đầu tiên và bài thuyết trình của chúng tôi lại quá tốt. Tôi đưa mắt nhìn quanh căn phòng và các học viên thuộc lực lượng lính thủy đánh bộ không hào hứng lắm với bài thuyết trình của mình. Một cậu lính khá trẻ thuộc lực lượng lính thủy đánh bộ có khả năng bắn súng tuyệt hảo nhưng người thiếu tá chỉ trích họ rất gay gắt và tôi thấy cậu lính thật đáng thương. Cả cậu và đối tác của cậu đều bị bắt sống khi đang ngủ trong khi lẽ ra một người phải thức canh cho người kia ngủ. Quá trình rút lui ra điểm đón họ cũng để bị lộ. Kỹ năng thuyết trình của họ thật tồi. Nếu một lính bắn tỉa không thể nói rõ được cái anh ta nhìn thấy, thông tin anh ta đưa ra không có giá trị. Trong giới bắn tỉa, chúng tôi gọi hai cậu lính trẻ này là “những người bóp cò giỏi”. Nhiều người có khả năng bắn súng giỏi nhưng như thế chưa đủ để trở thành lính bắn tỉa. Tất nhiên, chúng tôi không gặp lại họ ở buổi lễ trao bằng tốt nghiệp.

Sau khi tốt nghiệp, tôi trở về Đội Anh cả Đỏ nhưng chỉ có rất ít thời gian ghé thăm gia đình. Tại đơn vị, tôi nhanh chóng bắt tay vào học cách bắn súng bắn tỉa 300 Win Mag với kính ngắm Leupold. Việc chuyển từ bắn loại súng bắn tỉa cỡ nòng 7,62 ly của lính thủy đánh bộ sang loại súng Win Mag của Đội Đặc nhiệm SEAL số 6 chẳng khác gì việc chuyển từ đua xe buýt sang đua xe Ferrari.

Chúng tôi vẫn sử dụng loại kính nhìn đêm KN-250. Kính nhìn đêm khuếch đại ánh sáng có sẵn từ mặt trăng và các vì sao, chuyển hình ảnh thành màu xanh và xanh trắng thay vì màu đen trắng. Nhờ đó, lính bắn tỉa có thể nhìn được vào ban đêm.

Sau đó, chúng tôi được đưa đến Fort Bragg, Bắc Carolina học cách sử dụng súng bắn tỉa có lắp ống giảm thanh CAR-15 trong khi vẫn ngồi trên trực thăng.

Casanova, Gã Mập lùn, Sourpuss và tôi còn bay sang Australia tập huấn cùng đơn vị đặc biệt của Lực lượng Không quân (SAS) nước này. Chúng tôi mua vé máy bay hạng nhất và đi hàng không dân dụng từ bờ Đông nước Mỹ đến bờ Tây nước Mỹ. Sau đó, chúng tôi bay đến Hawaii. Từ Hawaii, chúng tôi hạ cánh xuống sân bay Sydney ở bờ phía Đông của Australia. Từ đó, chúng tôi bay qua lục địa để đến Perth, nằm trên bờ phía Tây. Đó là chuyến bay dài nhất trong đời tôi.

Tại Perth, phía ngoài trụ sở chính của đơn vị đặc biệt thuộc lực lượng Không quân Australia có một tượng đài vinh danh những binh lính của đơn vị này thiệt mạng trong quá trình huấn luyện hoặc chiến đấu. Có khoảng 40 lính được vinh danh ở đây, chủ yếu là thiệt mạng trong quá trình huấn luyện. Sau khi vào doanh trại, chúng tôi để vũ khí vào kho và họ đưa chúng tôi đi tham quan đơn vị. Buổi tối, chúng tôi nghỉ tại một khách sạn bên bờ sông Swan. Perth không nổi tiếng như Sydney, nhưng chi phí rẻ hơn và phong cảnh ở đây đẹp hơn.

Việc thành lập lực lượng SAS của Australia và Anh đều chịu ảnh hưởng của lực lượng SEAL và Delta. SAS có nhiệm vụ chống khủng bố và do thám cả trên biển, trên không và trên bộ. SEAL bắt đầu hợp tác với SAS của Australia từ thời chiến tranh Việt Nam.

Khi chúng tôi ra thao trường tập bắn, lính Australia chủ yếu được huấn luyện hạ gục các mục tiêu di chuyển nhanh ở cự ly 200m. Chúng tôi được huấn luyện hạ gục các mục tiêu cố định ở cự ly xa hơn. Lính Australia sử dụng súng bắn tỉa bán tự động còn chúng tôi sử dụng súng bắn tỉa phát một Win Mag. Khi bộ bốn mục tiêu bay qua, chúng tôi vận hành bằng tay khẩu Win Mag phát một cho mỗi mục tiêu và kết quả chúng tôi chỉ hạ gục được một nửa số mục tiêu cần tiêu diệt. Trong khi đó, lực lượng SAS liên tục bóp cò và hạ gục tất cả các mục tiêu. Chúng tôi đã rút ra bài học quý báu ở nội dung này. Tôi nhận ra rằng, trong môi trường phải cơ động nhanh như tác chiến trong thành phố, tốt nhất nên sử dụng loại súng bán tự động đối với các cự ly từ 200 đến 400m. Khẩu CAR-15 tự động của chúng tôi chỉ bắn chính xác tối đa ở cự ly 200m.

Khi chúng tôi đi ra bắn mục tiêu ở cự ly 500m và 700 m, lực lượng SAS lại rút ra bài học quý giá cho mình. Bởi khẩu súng trường bán tự động của họ không còn chính xác ở cự ly xa hơn 200 m, trong khi đó những khẩu súng trường bắn phát một của chúng tôi vẫn bảo đảm được độ chính xác cao.

Tôi thử bắn mục tiêu ở cự ly 725m. Một lính SAS gọi qua vô tuyến điện: “Phát đó, anh ta bắn có trúng không?”.

“Có.”

Tôi bắn thêm một lần nữa. “Anh ta bắn có trúng không?” “Có”.
Quá trình này lặp đi lặp lại thêm một vài lần nữa và kết quả đều giống những lần trước đó. Tay lính này lắc đầu thè lưỡi tỏ vẻ thán phục. Tối hôm đó, chúng tôi đến một quán bar, cậu lính này mua cho tôi một chai bia Red Back. Đây là loại bia làm từ lúa mạch của Australia. Loại bia này được đặt tên theo tên loài nhện độc ở Australia. Nhện cái ăn thịt nhện đực sau khi giao phối. Loài nhện này còn cắn người và tiêm nọc độc gây ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương của người. Đây là loại bia được lực lượng SAS rất ưa dùng. “Một lính bắn tỉa cừ khôi, anh bạn”, anh ta nói với tôi trong sự ngưỡng mộ.

Vài ngày sau, mang theo súng CAR-15, chúng tôi đi thám hiểm vùng xa xôi hẻo lánh ở Australia khoảng 10 ngày. Một đêm, tại một trang trại rộng 8.000 héc ta, chúng tôi leo lên xe tấn công Rang Rover của lực lượng SAS. Mỗi chiếc xe có một chiếc pít tông đặc biệt ở phía trước lưới tản nhiệt. Ở đó, người ta gắn một gói thuốc nổ để sẵn sàng cho nổ tung chiếc cửa khi cần. Sau đó, các đặc nhiệm có thể nhảy ra khỏi xe và tấn công tòa nhà − một cách thức tấn công thật ấn tượng. Chiếc xe Rang Rover còn có thể phụt khói ra phía sau để cản đối tượng đuổi theo trên đường rút chạy. Trong quá trình lái xe, chúng tôi bắn các mục tiêu di động: các con chuột túi. Chuột túi thường ăn cỏ trên vùng đất ở các nông trang, đe dọa sẽ làm hỏng cây trồng và chỉ để lại rất ít thức ăn cho gia súc và còn lây lan bệnh dịch. Ngược lại với hình ảnh một chú chuột túi nhồi bông, đặc biệt khi bị chọc tức hoặc bị dồn vào đường cùng, một con chuột túi hoang dã có thể vồ người bằng bộ móng vuốt trước và phanh bụng kẻ xấu số bằng bộ móng sau cứng chắc.

Casanova, Gã Mập lùn, Sourpuss và tôi đều sử dụng thiết bị cảm quang nhìn đêm và thiết bị laze gắn trên khẩu CAR-15. Bắn mục tiêu di động trên xe đang chạy vô cùng khó khăn. Tôi di tia laze vào những con chuột túi. Trên xe chở các đặc nhiệm SEAL, súng của chúng tôi nổ pằng-pằng-pằng-pằng-pằng-pằng.

Bốn lính thuộc lực lượng SAS đi trên xe của họ chỉ nổ có một phát súng duy nhất: Pằng.

Cứ mỗi lần chúng tôi bắn sáu phát, phía lính Australia chỉ bắn một phát.

Lực lượng SAS nghĩ rằng chúng tôi đã quá lãng phí đạn khi bắn sáu viên đạn cho một con chuột túi. Chỉ đến khi đi kiểm tra số chuột túi chết và khi họ nhìn thấy xác chuột túi nằm ngổn ngang quanh chúng tôi, họ mới hiểu số chuột túi chúng tôi bắn chết nhiều gấp sáu lần họ. Họ thốt lên: “Chà, các anh có các thiết bị hỗ trợ xịn thật.”

Ngày hôm sau, chủ trang trại đi ra và nhìn thấy xác chết của đám chuột túi, họ tỏ vẻ biết ơn: “Các anh đã làm một công việc vô cùng hữu ích. Cám ơn các anh!”

Trở về doanh trại, chúng tôi ngồi trong một phòng họp khang trang. Các đặc nhiệm rót cho chúng tôi một loại rượu dán nhãn của Trung đoàn SAS lấy từ dưới hầm rượu lên. Khi đã ngà ngà, một người lính thuộc lực lượng SAS nói với chúng tôi anh ta từng tham gia cuộc chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất với nhiệm vụ giống đơn vị Bravo 20 thuộc lực lượng SAS của Anh. Nhóm Bravo 20 là một nhóm gồm tám người được phái đến hoạt động trong lãnh thổ đối phương, có nhiệm vụ phát hiện, báo cáo các vị trí đồn trú của đối phương, phá hủy các mục tiêu như các tuyến thông tin liên lạc cáp quang. Ngày thứ hai của chiến dịch, một người nông dân lái chiếc xe ủi đã phát hiện ra họ. Nhóm này đã để cho người nông dân đi thay vì bắt giữ hay giết chết ông ta.

Một vài ngày sau, nhóm Bravo 20 sống sót sau một vài cuộc giao tranh trước khi tan rã. Lực lượng dân quân của Iraq giết chết Robert Consiglio. Vincent Phillips và Steven Lane chết vì bị hạ thân nhiệt. Binh lính Iraq bắt giữ Andy McNab, Ian Pring, Malcolm MacGown và Mike Coburn (lực lượng SAS của New Zealand), người sau này được trả tự do. Chris Ryan lẩn trốn quân Iraq khoảng tám ngày, đi bộ chặng đường hơn 300 km để đến Syria. Sau 30 phút nói chuyện, các đặc nhiệm SAS rơm rớm nước mắt. Thông điệp họ gửi tới chúng tôi là “Nếu bạn bị lộ, tốt nhất hãy giết hoặc bắt giữ người đã nhìn thấy bạn chứ đừng để người đó đi.”

Binh lính SAS đối xử với chúng tôi rất tốt. Họ dạy chúng tôi cách sử dụng một số trang thiết bị và chúng tôi cũng làm vậy với họ. Chúng tôi đều tiến bộ hơn nhiều sau đợt huấn luyện này. Tướng George Patton từng nói: “Chuẩn bị kỹ lưỡng chính là tự mang lại may mắn cho mình.”


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.