Hồi Ức Của Một Geisha - Đời Kỹ Nữ

Chương 9



Vào dịp lễ sinh nhật thứ 65 của tôi, một người gởi đến cho tôi một bài báo mà bà ta đã tìm thấy ở đâu đó, bài báo có nhan đề “Hai mươi nàng geisha vĩ đại nhất trước đây ở Gion”. Hay có lẽ là ba mươi nàng geisha gì đấy, tôi không nhớ rõ. Nhưng tôi có tên trong danh sách đó với một dòng ngắn viết về tôi, trong đó cho rằng tôi sinh ra ở Kyoto – dĩ nhiên điểm này là sai. Tôi còn xin cam đoan với anh rằng tôi không phải là một người trong số hai mươi geisha vĩ đại nhất nữa, có người sai lầm giữa cái vĩ đại với cái họ nghe nói đến. Nhưng dù sao, nếu ông Tanaka không viết thư báo cho tôi biết bố mẹ tôi đã mất và có lẽ không bao giờ tôi gặp lại chị tôi nữa, thì chắc tôi đã may mắn không trở thành nàng geisha không có gì đáng hãnh diện vì nàng là nàng geisha không được hạnh phúc.

Chắc anh còn nhớ có lần tôi đã nói với anh rằng khi tôi gặp ông Tanaka lần đầu là buổi chiều tuyệt nhất của đời tôi, mà cũng là buổi chiều tệ hại nhất. Có lẽ không cần giải thích tại sao lại là một buổi chiều tệ hại nhất, nhưng chắc anh thắc mắc tại sao tôi có thể nghĩ rằng đã có điều tuyệt vời xảy đến. Quả đúng là cho đến khi ấy, ông Tanaka chỉ mang lại cho đời tôi đau khổ mà thôi, thế nhưng ông ta đã làm thay đổi chân trời của tôi. Chúng ta sống trên đời giống như nước chảy xuống một ngọn đồi, đều chảy theo một hướng cho đến khi chúng ta gặp phải cái gì đấy buộc chúng ta phải rẽ sang một hướng khác. Nếu tôi không gặp ông Tanaka, thì đời tôi chỉ là một dòng nước chảy từ ngôi nhà ngà say cho đến biển. Khi ông ta xô tôi về chỗ xa lạ, ông đã thay đổi tất cả. Nhưng bị đẩy vào thế giới xa lạ không giống hẳn như rời bỏ gia đình của mình. Khi nhận được thư của ông Tanaka, tôi đã sống ở Gion hơn sáu tháng, thế mà trong thời gian ấy, tôi chưa bao giờ từ bỏ lòng tin rằng một ngày nào đó tôi sẽ có cuộc sống ở đâu đó tốt đẹp hơn, với người thân yêu trong gia đình. Tôi chỉ sống ở Gion một nửa, còn nửa kia tôi sống trong các giấc mơ sẽ về lại nhà. Cho nên có thể nói những giấc mơ nhiều khi rất nguy hiểm, chúng như ngọn lửa âm ỉ, và nhiều khi thiêu rụi hoàn toàn chúng ta.

Suốt những ngày còn lại của mùa xuân, và cả mùa hè sau ngày tôi nhận được bức thư, tôi thấy mình như đứa trẻ lạc trong cái hồ bị sương mù bao phủ.
Ngày nối ngày trôi qua trong một cảnh vô vị. Tôi chỉ nhớ cái được cái mất, nỗi khổ và lòng lo sợ triền miên ngự trị trong tôi. Khi mùa đông tới, tôi chỉ biết ngồi trong phòng gia nhân để nhìn tuyết rơi lặng lẽ ngòai sân. Tôi tưởng tượng ra cảnh bố tôi ho nơi chiếc bàn đơn độc trong ngôi nhà lạnh lẽo của chúng tôi, và mẹ tôi quá gầy trên chiếc nệm đến nỗi thân hình của bà không làm cho chiếc nệm xẹp xuống được tí nào. Tôi đi ra ngòai sân để giải sầu, nhưng sao khó quá.

Rồi mùa xuân lại về. Lúc ấy là tháng tư, hoa anh đào lại nở, chuyện lạ xảy đến đúng một năm sau ngày tôi nhận được thư của ông Tanaka. Tôi đã được 12 tuổi, đã bắt đầu trổ mã, mặc dù Bí Ngô vẫn còn vẻ bé bỏng. Người tôi phát triển theo chiều cao nhiều hơn. Thân hình vẫn còn gầy và thẳng đuột như cái que thêm một hai năm nữa, nhưng mặt tôi đã mất vẻ con nít. Cằm và gò má đã rõ nét trên khuôn mặt nở nang và cặp mắt có hình trái hạnh đào.
Trước đây, mỗi khi ra đường, đàn ông không nhìn tôi, nhưng bây giờ mỗi khi tôi đi qua họ, họ đều nhìn tôi.

Không hiểu sao mà vào một buổi sáng sớm tháng tư, tôi thức dậy sau một giấc mơ kỳ lạ nhất, trong giấc mơ tôi đã gặp một người đàn ông có râu. Râu của ông ta rất rậm như thể ông ta muốn che dấu nét mặt của ông ta đi. Ông ta đứng trước mặt tôi, nói cái gì đấy mà tôi không nhớ được, rồi thình lình ông ta kéo cái màn giấy trên cửa sổ bên cạnh ông, làm phát ra một tiếng cạch lớn. Tôi giật mình thức dậy, nghĩ rằng tôi đã nghe có tiếng động trong phòng.
Những người giúp việc thở dài trong giấc ngủ. Bí Ngô nằm yên lặng, cái mặt tròn vạnh lún xuống trên gối. Tôi thấy mọi vật không có gì thay đổi nhưng tôi có một cảm giác khác lạ. Tôi cảm thấy như thể tôi chìm vào một thế giới đã thay đổi phần nào so với thế giới mà tôi đã thấy vào đêm trước – nhất là khi nhìn ra ngòai qua chính cái cửa cổ đã được mở ra trong giấc mộng.

Tôi không lý giải được ý nghĩa của hiện tượng này. Sáng hôm ấy tôi cứ nghĩ mãi về giấc mơ đến nỗi đầu óc tôi kêu ù ù như con ong bị nhốt trong cái thẩu. Và rồi chuyện ấy hiện ra trong trí óc tôi, chuyện mà tôi không bao giờ nghĩ đến kể từ khi tôi đặt chân tới Kyoto.

Sau khi chia tay chị tôi vài hôm, vào một buổi chiều, người ta sai tôi đi giặt giẻ lau nhà. Bỗng một con bướm bay đến đậu vào tay tôi, tôi hất nó đi, nghĩ rằng nó sẽ bay di, nhưng thay vì bay đi, nó lại văng ra như hòn đá rồi rớt xuống sân, nằm trên mặt đất. Tôi không biết nó đã chết khi từ trên rơi xuống hay là tôi đã giết nó, nhưng hình ảnh con vật bé nhỏ nằm chết làm tôi xúc động. Tôi ngắm hình hoa văn xinh đẹp trên hai cánh của nó rồi tôi gói nó vào miếng giẻ và giấu nó dưới móng nhà.

Từ đó tôi không nghĩ đến con bướm này nữa, nhưng một hôm tôi nhớ đến nó, tôi đến quỳ xuống nhìn dưới móng nhà tìm nó. Rất nhiều chuyện trong đời tôi đã thay đổi, ngay cả thái độ tôi nhìn đời, nhưng khi tôi mở miếng giẻ gói con bướm ra, nó vẫn còn hình hài một con bướm rất đẹp y như cái ngày mà tôi chôn nó xuống mộ. Giá mà đời tôi y như những ngày tôi mới đến Kyoto.

Khi nghĩ thế, đầu óc tôi quay cuồng như cơn lốc. Tôi nghĩ rằng con bướm và tôi như hai thái cực. Cuộc đời tôi biến hóa như dòng suối, thay đổi hoài; nhưng con bướm trông không thay đổi gì hết. Trong lúc suy nghĩ, tôi đưa tay đụng vào thân hình mượt mà của nó, lập tức nó biến thành một nhúm tro mà không gây ra một tiếng động, thậm chí không thấy được cảnh nó sụm xuống thành một đống tro. Tôi quá sửng sốt đến độ thốt ra một tiếng kêu ngạc nhiên. Trí óc tôi quay cuồng, tôi cảm thấy mình đang ở trung tâm của cơn bão. Tôi thả tay cho miếng vải liệm bé xíu và nhúm tro rơi xuống đất. Bây giờ tôi đã hiểu điều gì làm cho tôi hoang mang cả buổi sáng. Mùi xú uế trong không khí đã hết, quá khứ đã qua rồi, bố mẹ tôi đã chết, tôi không thể làm gì được để thay đổi tình thế này. Nhưng tôi cứ tưởng tôi không đi tiếp được.
Tôi không biết chuyện này đối với anh có ý nghĩa gì không, nhưng tôi thấy tôi đã quay một vòng nhìn sang hướng khác, hướng về phía tương lai. Và bây giờ vấn đề đặt ra cho tôi là cái tương lai ấy sẽ như thế nào.

Ngay khi câu hỏi ấy hiện ra trong óc tôi, tôi biết chắc chắn một điều là nội trong ngày hôm ấy thôi, thế nào tôi cũng thấy dấu hiệu lạ. Vì thế mà trong giấc mơ tôi thấy người đàn ông râu rậm mở cửa sổ. Ông ta như nói với tôi rằng “Hãy đợi điều xảy ra cho cô. Vì cái điều mà cô thấy sẽ là tương lai của cô.”

Tôi đang loay hoay như chưa kịp suy nghĩ điều gì thêm thì có tiếng bà Dì gọi tôi:

– Này Chiyo, lại đây.

Tôi đi trên hành lang đất như người mộng du. Khi ấy chắc tôi sẽ không ngạc nhiên nếu bà Dì nói với tôi như thế này “Cháu muốn biết về tương lại của cháu như thế nào phải không? Được rồi, hãy lắng tai nghe cho kỹ…” Nhưng thay vì nói thế, bà đưa cho tôi hai vật trang sức trên tóc gói trong một miếng lụa vuông màu trắng, bà nói:

– Đem các thứ này đến cho Hatsumono. Có trời mà biết đêm qua có chuyện gì xảy đến cho cô ta. Cô ta về nhà với đồ trang sức của người khác. Chắc cô ta say quá vì uống nhiều sake hơn mọi khi. Đến trường hỏi cô ta và của ai thì trả lại cho họ.

Khi tôi lấy các món nữ trang, bà Dì đưa thêm cho tôi một mẩu giấy ghi những việc lặt vặt khác phải làm. Bà bảo tôi làm xong việc là phải về nhà ngay.

Mang đồ trang sức của người khác về nhà có lẽ không có gì kỳ cục, nhưng thực ra mang những thứ ấy cũng giống như mang đồ lót của người khác về nhà vậy. Giới geisha không gội đầu hàng ngày, chắc anh biết, vì họ sợ hư mái tóc. Cho nên vật trang sức trên tóc rất kiêng kỵ, ngay cả bà Dì mà cũng không muốn đụng đến những thứ ấy. Cho nên bà phải lấy một miếng lụa vuông để lót tay. Bà gói các thứ ấy rồi đưa cho tôi, cho nên nó giống như cái gói đựng xác con bướm đêm mà tôi cầm cách đấy mấy phút. Dĩ nhiên điềm báo hiệu nào rõ ràng quá cũng làm cho ta sửng sốt. Tôi đứng yên nhìn gói đồ trên tay bà Dì mãi cho đến lúc bà nói:

– Trời ơi! Cầm lấy mà đi đi chứ!

Sau đó khi trên đường đến trường, tôi mở cái gói ra xem một lần nữa. Một vật là cái lược sơn mài đen có hình như hình mặt trời lặn, chung quanh mặt trời là những đóa hoa bằng vàng, vật kia là một thanh gỗ vàng, hai đầu có hai hột ngọc được đính vào một quả cầu nhỏ màu hổ phách.

Tôi đứng đợi ngoài cổng trường cho đến khi tiếng chuông reo lên báo hiệu giờ tan học. Các cô mặc áo màu xanh trắng ào ra khỏi lớp. Hatsumono thấy tôi trước khi tôi kịp nhìn thấy cô ta, cô cùng đi với một geisha khác, cả hai tiến về phía tôi. Chắc anh thắc mắc tại sao cô ta còn đến trường, cô ta là một vũ công thành thạo và biết hết các môn cần thiết mà một geisha phải biết.
Nhưng ngay cả những geisha có tiếng tăm cũng vẫn tiếp tục học những bài học nâng cao về bộ môn múa để áp dụng trong nghề, thậm chí có những geisha năm sáu chục tuổi vẫn đến trường để học hỏi thêm.

– Này chị, nhìn kìa – Hatsumono nói với bạn – tôi tưởng đấy là cây sậy. Cây sậy cao lêu đêu! – Đấy là kiểu cô ta chọc quê tôi, vì tôi cao hơn cô ta đến một lóng tay.

– Bà Dì sai tôi đến đây, thưa cô – tôi nói – để hỏi đêm qua cô đã cầm nhầm những thứ này của ai.

Nụ cười tắt trên môi Hatsumono, cô ta giật cái gói trên tay tôi và mở ra xem.

– Trời đất! Đồ này không phải của tôi! Cô lấy các thứ này ở đâu?

– Ồ chị Hatsumono – cô geisha kia nói – chị không nhớ à? Trong lúc chị và Kanako giỡn cợt với ông Chánh án Uwazumi, hai người đã tháo nữ trang trên tóc ra. Chắc Kanako đã mang đồ nữ trang của chị, còn chị thì mang đồ của cô ta về nhà.

– Tởm quá – Hatsumono nói – chị có biết Kanako gội đầu khi nào không? Vả lại nhà của cô ấy gần nhà chị, nhờ chị đem về cho cô ta giúp tôi, được không? Nhờ chị nói với cô ta rằng tôi sẽ đến lấy các món đồ của tôi và cô ta chớ có xài các thứ ấy.

Cô geisha kia lấy các thứ trang sức và bỏ đi. Hatsumono nói với tôi:
– Này Chiyo, khoan hãy đi đã. Có chuyện này tôi muốn nói với cô, hãy nhìn cô gái đàng kia kìa, cô gái đang đi qua cổng đấy. Tên cô ta là Ichikimi.

Tôi nhìn Ichikimi, nhưng Hatsumono có vẻ như không có gì thêm để nói về cô ta, tôi bèn nói:

– Nhưng tôi không biết cô ấy.

– Dĩ nhiên là không, cô ta không có gì đặc biệt đáng chú ý, chỉ là đồ ngu ngốc vụng về như con què. Nhưng cô sẽ rất ngạc nhiên khi biết cô ta sắp thành geisha còn cô thì không bao giờ.

Tôi thấy Hatsumono không thể tìm ra được điều gì để nói với tôi độc ác hơn điều cô đã nói. Từ một năm rưỡi nay tôi đã bị giao công việc nặng nhọc như một con ở. Tôi cảm thấy đời tôi đang đi theo một con đường vô định. Tôi không muốn thành geisha, nhưng tôi cũng không muốn làm tôi tớ mãi. Tôi đứng trong vườn của trường học một lúc lâu, nhìn các cô gái cùng tuổi với tôi chuyện trò vui vẻ với nhau khi họ đi qua trước mặt tôi. Chắc họ trở về nhà ăn trưa, nhưng đối với tôi, họ đi từ một công việc quan trọng này đến một việc quan trọng khác trong một cuộc sống có mục đích, còn tôi thì trái lại, tôi phải quay về với công việc lau chùi các viên đá trong sân, làm những công việc quá hèn hạ. Khi trong vườn hết người, tôi lo sợ nghĩ rằng đây là cái điềm báo trước mà tôi chờ đợi – nó báo cho biết các cô gái kia ở Gion sẽ tiến lên và để tôi lại đàng sau. Cái ý nghĩ này khiến tôi khiếp sợ, làm cho tôi không thể ở lại trong vườn một mình được nữa. Tôi đi vào đại lộ Shijo, rồi đi qua con sông Kamo. Những tấm bích chương khổng lồ nơi nhà hát Minamiza, quảng cáo buổi trình diễn vở kịch của Kabuki vào chiều ấy có tên Shirabaku. Đây là vở kịch nổi tiếng nhất của chúng tôi mặc dù lúc ấy tôi không biết gì về Kabuki hết. Từng đoàn người bước lên thềm vào rạp hát. Ở đây, tôi thấy cuộc sống sôi động diễn ra quanh tôi. Tôi vội vã đi ra khỏi đại lộ, rẽ vào một con đường khác chạy dọc bờ sông Shirakawa, nhưng ngay ở đây, các ông và các nàng geisha cũng đi tấp nập, cuộc đời của họ có mục đích để hướng đến. Để khỏi đau đớn khi nhìn thấy cảnh tượng này, tôi đi ra phía bờ suối Shirakawa, nhưng độc ác thay, ngay cả nước trong dòng suối cũng đang chảy đến một nơi nào đấy có mục đích – nó chảy về phía sông Kamo rồi từ đó đổ ra vịnh Osaka và vào Nội hải. Hình như ở đâu cũng có điều mách bảo có điều gì đó đang chờ đợi tôi. Tôi đứng tựa lưng vào bức tường đá nhỏ bên dòng suối mà khóc. Tôi là hòn đảo bị bỏ rơi ở giữa đại dương, không quá khứ cũng không tương lai. Tôi cứ nghĩ ở đây không có bóng người, bỗng tôi nghe có tiếng đàn ông cất lên:

– Trời ơi ai lại đau khổ khi cuộc đời tươi đẹp như thế này.

Thường thường đàn ông đi trên phố Gion không có ai thèm để ý đến tôi, nhất là khi tôi đang khóc như một kẻ điên khùng như thế này. Nếu ông ta thấy, chắc không đời nào ông ta nói với tôi, trừ phi ra lệnh cho tôi tránh đường cho ông ta đi, hay đại lọai như thế. Thế nhưng ông ta đã nói với tôi, mà còn nói một cách rất tử tế. Ông ta nói với tôi như người thân quen – có lẽ như nói với con gái của một người bạn tốt. Bỗng dưng tôi thấy trước mắt tôi như có một thế giới khác hiện ra, khác với thế giới mà tôi đang sống, một thế giới mà nơi đó tôi được đối xử công bằng, thậm chí với lòng tốt nữa – một thế giới mà người cha không đem bán đứa con gái đi. Tiếng ồn ào huyên náo của những người đang sống có mục đích bỗng nhiên dừng lại, hay ít ra tôi không quan tâm đến. Và khi tôi ngước mắt nhìn người đàn ông đã nói với tôi, tôi có cảm giác sự khổ đau của tôi biến đâu mất.

Tôi rất sung sướng miêu tả ông ta cho anh nghe, nhưng tôi chỉ nói một cách đơn giản thôi – bằng cách nói cho anh nghe về một cái cây mọc trên bờ núi đá ven biển ở Yoroido. Thân cây này trơn láng vì gió, vì mưa, và khi tôi lên bốn hay năm gì đấy, một hôm tôi thấy trên thân cây có hình thù giống khuôn mặt một người đàn ông. Khuôn mặt hơi nghiêng về một bên nhìn tôi đăm chiêu. Khuôn mặt nhìn tôi như người đàn ông tự tin về vị trí của ông ta trên cõi đời này, như cái cây rất tự tin về vị trí của nó vậy. Đường nét trên khuôn mặt ấy có vẻ trầm tư, tôi mường tượng ra đấy là khuôn mặt của Đức Phật.

Người đàn ông nói với tôi trên đường hôm ấy có khuôn mặt rộng và trầm tĩnh như thế, và có điểm đặc biệt hơn nữa là nét mặt ông ta rất hài hòa, thanh khiết. Tôi có cảm giác ông ta sẽ đứng đấy cho đến khi tôi hết đau khổ. Ông ta vào khoảng 45 tuổi, mái tóc muối tiêu chải ngược ra sau. Nhưng tôi không thể nhìn ông ta lâu được, ông ta có vẻ quá sang trọng đối với tôi, khiến cho tôi đỏ mặt, quay đi nhìn chỗ khác.

Hai thanh niên đứng một bên ông, bên kia là một cô geisha. Tôi nghe nàng geisha bình tĩnh nói với ông:

– Này, cô ta chỉ là con ở thôi! Có lẽ khi đi làm công việc, cô ta vấp ngón chân vào đá. Em nghĩ sẽ có người nào đấy đến giúp cô ta.

– Cô Izuko, – ông ta nói – ước gì cô có lòng nhân từ.

– Buổi trình diễn sắp bắt đầu rồi, ông Chủ tịch à. Ông không nên phí thời giờ…

Trong lúc đi làm các công việc lặt vặt ở Gion, tôi thường nghe đàn ông được gọi bằng chức phận như Trưởng phòng, hay thỉnh thoảng Phó giám đốc, nhưng hiếm có ai được gọi là ông Chủ tịch. Thường thì những ai được gọi là Chủ tịch đều có đầu hói, ra đường đi nghênh ngang và có cả đám nhân viên lau chau đi theo sau. Người đàn ông trước mặt tôi rất khác xa với các ông Chủ tịch thường thấy, ngay cả một cô gái ít kinh nghiệm về cuộc đời như tôi, tôi cũng còn thấy thế.

– Chắc cô nói nếu tôi dừng lại đây để giúp cô ta là phí thì giờ vô ích chứ gì?
– ông Chủ tịch nói.

– Ồ phải – cô geisha nói – ta đâu còn thì giờ nhiều để nói chuyện tầm phào. Chúng ta đã trễ xem màn đầu rồi.

– Này cô Izuko, chắc chắn có lúc cô đã lâm vào tình trạng như cô bé này. Cô đừng quả quyết cuộc đời của một geisha lúc nào cũng đơn giản. Tôi nghĩ giới các cô…

– Em mà lâm vào tình cảnh như cô gái này à? Ông Chủ tịch, bộ ông muốn nói em phải phơi mặt ra ngoài đường sao?

Nghe thế, ông Chủ tịch quay qua hai thanh niên đi bên cạnh yêu cầu họ đưa Izuko đến nhà hát trước. Họ chào ông rồi bước đi, còn ông nán lại với tôi.
Ông ta nhìn tôi một hồi lâu nhưng tôi không dám nhìn lại ông. Cuối cùng tôi nói:

– Thưa ngài, cô ấy nói thế đúng đấy. Tôi chỉ là một con điên. Xin ngài đừng vì tôi mà đến trễ.

– Cô hãy đứng yên một lát xem – ông ta nói.

Tôi không dám không vâng lời ông ta, nhưng tôi không biết ông muốn gì.

Thì ra ông chỉ lấy khăn trong túi áo lau để những hạt cát dính trên mặt tôi. Đứng gần bên ông, tôi ngửi thấy mùi phấn thơm trên làn da láng lẩy của ông, việc này khiến tôi nhớ lại ngày người cháu trai của Hoàng đế Taisho đến thăm làng đánh cá của chúng tôi. Ông ta chỉ có việc bước ra khỏi xe hơi, đi đến con vịnh nhỏ, rồi đi lui, gật đầu chào đám đông quỳ trước mặt ông ta, trên người mặc bộ âu phục, – bộ âu phục tôi thấy lần đầu – vì tôi đã nhìn vào ông, mặc dù không được phép. Tôi còn nhớ bộ râu mép của ông được chăm sóc rất kỹ, không giống tóc tai của dân trong làng, bờm xờm như cỏ dại mọc bên đường. Trước đó chưa có một nhân vật quan trọng nào đến làng chúng tôi hết. Tôi nghĩ lúc đó mọi người đều cảm thấy xúc động trước vẻ cao quý của người cháu của Hoàng đế.

Trong cuộc sống, chúng ta thường gặp những việc mà chúng ta không hiểu, vì chúng ta chưa bao giờ thấy những việc giống như thế. Việc ông Chủ tịch tốt với tôi cũng là một chuyện như vậy. Sau khi lau cát và nước mắt trên mặt tôi, ông nâng cằm tôi lên và nói:

– Cô em xinh đẹp như thế này…chẳng có gì trên đời này làm cho cô phải xấu hổ hết. Thế mà cô sợ không dám nhìn vào tôi. Hẳn người ta đối xử với cô độc ác quá, hay là cuộc đời quá độc ác.

– Tôi không biết thưa ngài – tôi đáp, nhưng dĩ nhiên ông ta nói quá đúng.

– Chúng ta không mấy ai gặp được người tốt trên đời này như lòng mình mong muốn – ông ta nói rồi nheo mắt một lát như thể nói tôi hãy suy nghĩ về điều ông ta vừa nói.

Tôi chỉ muốn nhìn lâu vào làn da mặt mịn màng của ông ta một lần nữa, với bộ lông mày rậm, hàng lông mi mướt như nhung trên cặp mắt dịu dàng, nhưng giữa hai chúng tôi có một cái hố ngăn cách về xã hội thật lớn. Cuối cùng tôi nhìn lên, nhưng tôi thẹn thùng quay mặt đi chỗ khác rất nhanh, đến nỗi chắc ông không thể nào biết được tôi đã nhìn vào mắt ông. Nhưng làm sao tôi có thể miêu tả được những cái tôi đã thấy lúc ấy? Ông ta nhìn tôi như người nhạc sĩ nhìn nhạc cụ của mình trước khi bắt đầu chơi nhạc, với vẻ thành thạo và tự chủ. Tôi cảm thấy ông ta hiểu tôi như thể tôi là một phần thể của ông. Tôi ước ao được làm nhạc cụ cho ông biết bao!

Bỗng ông thọc tay vào túi lấy ra cái gì đấy.

– Cô em thích mận ngọt hay dâu? – ông ta hỏi.

– Ngài nói gì? Ngài muốn nói…ăn à?

– Hồi nãy tôi có gặp người bán hàng rong, bán xi rô đá bào. Hồi còn nhỏ tôi rất thích ăn thứ ấy, nhưng khi đã trưởng thành rồi mới được ăn. Cô hãy cầm lấy một đồng tiền để mua một ly mà ăn. Cô lấy luôn cái khăn của tôi để lau mặt sau khi ăn xong – ông ta nói xong, bỏ đồng tiền vào giữa cái khăn, gói lại thành một gói, và đưa cho tôi.

Từ lúc gặp ông Chủ tịch, tôi quên chuyện tôi đang chờ đợi dấu hiệu báo cho biết tương lai của tôi. Nhưng khi tôi thấy cái gói trong tay, nó giống gói vải liệm con bướm, tôi nghĩ cuối cùng tôi đã gặp dấu hiệu báo trước tương lai. Tôi cầm lấy cái gói, cúi người chào cám ơn ông ta, cố nói cho ông ta biết tôi rất biết ơn ông – nhưng tôi nghĩ những lời tôi nói ra không bộc lộ hết đầy đủ tình cảm biết ơn của tôi lúc ấy. Tôi không cám ơn vì ông ta cho tôi đồng tiền, cũng không cám ơn việc ông ta đứng lại để giúp tôi, mà tôi cám ơn là vì…ờ, vì việc mà tôi không biết bây giờ tôi có thể giải thích được không. Tôi nghĩ vì ông đã chỉ cho tôi thấy rằng bên cạnh sự độc ác vẫn còn cái gì đấy ta có thể tìm được trong thết gian này.

Tôi nhìn ông đi mà lòng đau như cắt – nhưng là một nỗi đau dễ chịu, nếu có loại đau như thế. Tôi muốn nói rằng nếu anh được sống một buổi tối thú vị hơn bất cứ buổi tối nào khác, thì chắc thế nào anh cũng thấy buồn khi buổi tối thú vị ấy chấm dứt. Trong cuộc gặp gỡ ngăn ngủi với ông Chủ tịch, tôi đã thay đổi từ một cô gái lạc lõng trước cuộc đời trống rỗng thành một cô gái có cuộc sống có mục đích. Điều này nghe có vẻ khó tin nhưng với tôi nó là sự thật.

Khi ông Chủ tịch đã đi khỏi tầm mắt của tôi, tôi chạy ra phố tìm người bán đá bào rong. Hôm ấy trời không nóng, và tôi cũng không thích đá bào, nhưng tôi muốn ăn để cuộc gặp gỡ của tôi với ông Chủ tịch được lâu bền. Vì thế tôi mua một ly giống hình nón có đá bào và xirô dâu và đến ngồi trên mặt tường để ăn. Hương vị xirô thơm tho, dịu ngọt, tôi nghĩ thế vì lòng tôi rất hưng phấn. Nếu tôi là nàng geisha Izuko, tôi nghĩ, có lẽ ông Chủ tịch đã ở với tôi. Tôi không nghĩ đến việc ganh tị với người geisha. Bây giờ tôi đã hiểu điều mà tôi không nhận thấy, tôi phải là geisha. Bây giờ tôi thấy điều này như là con đường dẫn đến một cái gì đấy. Nếu tôi nghĩ đúng về tuổi của ông Chủ tịch, thì có lẽ ông ta không quá 45. Nhiều geisha thành công rực rỡ vào tuổi 20, cô geisha Izuko có lẽ không quá 25. Tôi còn bé, gần 12…nhưng trong 12 năm nữa, tôi sẽ 24 tuổi. Và khi ấy ông Chủ tịch được bao nhiêu?
Chắc lúc ấy ông không già hơn ông Tanaka bây giờ.

Đồng bạc ông ta cho tôi uống một ly xirô không hết. Người bán hàng rong thối lại cho tôi ba đồng bạc loại khác. Thoạt tiên tôi định cất lại, để khi khác dùng, nhưng bỗng tôi nghĩ cách để dùng chúng vào việc quan trọng hơn.

Tôi ra đại lộ Shijo, đi về cuối đường nằm ở phía Nam của Gion, ở đấy có một ngôi đền thờ thần. Tôi bước lên bậc thềm, lòng quá lo sợ không dám bước dưới chiếc cổng đền xây hai tầng có mái đầu hồi, nhưng tôi cũng cứ đi. Qua một cái sân rải sỏi đi lên những bậc cấp khác, tôi đi qua cổng chính vào đền. Tôi đến thùng pháp sương ném mấy đồng bạc còn lại vào thùng – số tiền tôi có thể dùng để trốn khỏi Gion – và chắp tay vái ba lần trước các tượng thần, báo với các ngài tôi đến đây để cầu nguyện. Mắt nhắm nghiền, hai tay chắp vào nhau, tôi cầu nguyện thần phò hộ cho tôi trở thành geisha.
Tôi nguyện sẽ cố gắng khổ luyện, chịu đựng gian nan, để có cơ may lôi cuốn được sự chú ý của một người như ông Chủ tịch.

Khi tôi mở mắt ra, tôi nghe tiếng xe cộ chạy trên đại lộ Higashi Oji, gió vẫn thổi rì rào trong hàng cây. Không có gì thay đổi. Còn việc thần linh có nghe tôi cầu nguyện hay không, tôi không biết. Tôi nhét cái khăn của ông Chủ tịch vào trong áo, mang theo về nhà kỹ nữ.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.