Hồi Ức Về Những Cô Gái Điếm Buồn Của Tôi

Chương 1 – Phần 2



Từ khi được nhận bằng tú tài loại giỏi, tôi đã bắt đầu đi dạy môn ngữ pháp tiếng Tây Ban Nha và tiếng La Tinh ở ba trường công một lúc. Tôi là thầy giáo tồi, không được đào tạo, không có đam mê nghề nghiệp và cũng chẳng có chút tình thương nào đối với những đứa bé khốn khổ coi việc đến trường là cách dễ nhất để chốn chạy khỏi sự tàn bạo của bố mẹ. Điều duy nhất mà tôi có thể làm được là vây hãm lũ trẻ con trong nỗi khiếp sợ chiếc thước gỗ khiến tối thiểu chúng phải nhớ bài thơ mà tôi ưa thích: Fabio ơi, sao đớn đau, lúc này trước mắt anh, chỉ còn những cánh đồng đơn côi, ngọn đồi khô héo, vốn đã một thời là xứ Ý rạng rỡ. Mãi khi đã về già tôi mới vô tình biết rằng bọn học trò đã lén đặt cho tôi biệt hiệu Giáo sư Đồi khô héo.

Đấy là tất cả những gì cuộc đời đã dành cho tôi và tôi cũng không làm gì để buộc nó phải cho thêm. Tôi dùng bữa trưa một mình giữa hai giờ lên lớp và sáu giờ chiều thì đến tòa soạn báo để săn lùng các tín hiệu từ khoảng không trên trời. Mười một giờ đêm, khi báo đã lên khuôn, mới là lúc bắt đầu cuộc sống thực của tôi. Mỗi tuần lễ tôi qua đêm trong Khu phố người Hoa hai hoặc ba lần với những người đẹp khác nhau, đến mức tôi đã từng hai lần được chọn là khách hàng mẫu mực của năm. Sau khi ăn tối ở quán café Roma gần chỗ làm việc, tôi chọn bất cứ nhà chứa nào và lén lút đi vào bằng cửa sau. Lúc đầu tôi làm việc này theo ý thích nhưng cuối cùng nó lại trở thành một phần của công việc báo chí nhờ vào tính mau mồm mau miệng của các vị chính khách vốn thường hay thổ lộ bí mật quốc gia cho các người tình một đêm mà không biết rằng ngay sát vách bìa các tông có đôi tai của đại diện báo chí đang dỏng lên nghe hết lời của họ. Đương nhiên qua con đường này, tôi cũng đã phát hiện ra rằng thiên hạ đã cho tôi thích sống độc thân là để tối tối được đi hành lạc với trẻ em mồ côi ở phố Tội phạm. Tôi có cái may mắn là quên nhanh chuyện đàm tiếu này, bời vì tôi cũng đã từng được người ta nói nhiều điều tốt đẹp về mình, và tôi coi trọng mọi điều người ta bàn tán về mình nếu có có giá trị.

Tôi không bao giờ có những người bạn lớn, và số ít người gần gũi thì lại ở New York. Nói cách khác: là họ đều đã chết, bởi vì tôi quan niệm New York là nơi mà những linh hồn khốn khổ sẽ đến để khỏi tiêu hóa hết sự thật về cuộc sống nặng nề của mình. Từ khi về hưu, tôi ít việc phải làm ngoại trừ việc cứ chiều chiều thứ sáu hàng tuần phải đến tòa báo đưa bài viết cho số chủ nhật, hoặc một vài việc lặt vặt khác: Các buổi hòa nhạc ở Viện nghệ thuật, các buổi khai mạc triển lãm tranh ở Trung tâm nghệ thuật mà tôi vốn là một thành viên sáng lập, dăm ba buổi nói chuyện về các vấn đề xã hội ở Hiệp hội cải thiện công cộng, hoặc là một sự kiện trọng đại nào đó ví như mùa biểu diễn tác phẩm Fabregas ở nhà hát Apolo. Hồi trẻ tôi thường đi xem phim ở các rạp không có mái che, nơi chúng tôi có thể bất ngờ được chiêm ngưỡng cảnh nguyệt thực hoặc bị cảm mạo vì những cơn mưa rào bất chợt. Nhưng cái làm tôi thích thú hơn cả không phải là những cuốn phim mà là những con chim đêm có thể cùng ngủ với mình với cái giá của một vé vào cửa hoặc cho ngủ mà không lấy tiền hoặc cho nợ. Bởi vì điện ảnh không phải là loại hình nghệ thuật của tôi. Sự sùng bái tục tĩu đối với Shirley Temple là giọt nước tràn ly.

Những chuyến đi duy nhất của tôi là bốn lần đến Hội chợ hoa ở thành phố Cartagena, trước khi tôi tròn hai mươi tuổi, và một chuyến đi mệt mỏi suốt đêm trên tàu thủy theo lời mời của Sacracmento Montiel để dự khai trương hộp đêm của anh ta ở thành phố Santa Marta. Về sinh hoạt gia đình, tôi là người ăn ít và dễ ăn. Khi Damiana già cả không nấu nướng được nữa, thì món ăn thông thường của tôi là trứng tráng với khoai tây ở quán café Roma sau khi báo đã lên khuôn.

Như vậy, là hôm trước ngày sinh nhật thứ chín mươi, tôi không ăn bữa trưa và cũng không thể tập trung tư tưởng cho việc đọc sách mà cứ ngong ngóng chờ tin tức của bà Rosa Cabarcas. Tiếng ve kêu ra rả trong cái nóng oi ả lúc hai giờ chiều và ánh nắng gay gắt lần lượt chiếu qua các cửa sổ mở toang làm tôi phải thay đổi vị trí chiếc võng ba lần. Tôi luôn cảm thấy sinh nhật của mình là ngày nóng nhất trong năm, và tôi đã học được cách chịu đựng, nhưng ngày hôm đó thì không thể chịu đựng nổi. Lúc bốn giờ chiều, tôi cố làm nguôi ngoai cái nóng bằng sau bản nhạc dành cho xêlô của Jean Sabastien Bach qua diễn tấu của nhạc sĩ Pablo Casals. Tôi vốn coi các bản này là những tác phẩm âm nhạc uyên bác nhất, nhưng hôm đó thay vì làm cho tôi thư giãn những bản nhạc này lại càng làm mệt mỏi thêm. Tôi ngủ thiếp đi ngay bản nhạc thứ hai mà tôi thấy có vẻ hơi chậm rãi, và trong giấc mơ chập chờn tôi hình dung tiếng đàn xêlô rền rĩ như cảnh chiếc tàu buồn bã ra đi. Và ngay lập tức tiếng chuông điện thoại làm tôi bừng tỉnh, rồi tiếng nói khàn đục của bà Rosa Cabarcas đã trả lại cuộc sống cho tôi. Ông có vận may của thằng ngốc, bà ta nói. Tôi tìm được một ả khá hơn cả điều ông mong muốn, nhưng có một điều nguy hiểm: nó chỉ mới chưa đầy mười bốn tuổi. Tôi không quan tâm đến việc nó vừa thay tã lót, tôi nói đùa tuy chưa hiểu bà ta nói nguy hiểm là vì lý do gì. Không phải tai họa đối với ông, bà ta nói, mà ai sẽ chịu trả công cho tôi trong ba năm ngồi tù đây?

Tất nhiên sẽ chẳng ai trả cả, nhất là lại cho bà ta. Người đàn bà này đã thu hoạch những mùa bội thu bằng món hàng độc là thân xác các em gái nhỏ tuổi, dẫn dắt vào nghề và vắt kiệt chúng cho đến khi đẩy sang cuộc sống tàn tạ của những cô gái điếm mạt hạng trong nhà chứa lâu đời của mụ da đen Eufemia. Không bao giờ bà ta phải trả một xu tiền phạt nào, bởi vì sân vườn của bà ta là miền khoái lạc[4] của quan chức địa phương từ viên tỉnh trưởng đến nhân viên quèn của tòa thị chính, và chẳng có gì là khó hiểu nếu biết rằng bà chủ có đủ mọi quyền năng để được phạm tội thỏa thích. Vẻ thận trọng vào giờ chót của bà ta chẳng qua chỉ là cách moi thêm tiền của khách, vì việc làm dễ bị trừng phạt bao nhiêu thì càng phải trả tiền cao hơn bấy nhiêu. Mức độ nguy hiểm của dịch vụ đã được ngã giá tăng thêm hai đồng peso nữa, và chúng tôi thỏa thuận với nhau là tôi sẽ đến nhà bà ta vào lúc mười giờ đêm với năm đồng peso tiền mặt đặt cọc trước. Không thể sớm hơn một phút vì đứa bé gái còn phải cho các em ăn, ngủ và đưa bà mẹ bị thấp khớp liệt chân tay lên giường ngủ xong đã.

[4] Nguyên văn: xứ Arcadia – một vùng quê của Hi Lạp mà các nhà thơ cổ biến thành xứ sở của thơ ngây và hạnh phúc.

Còn bốn giờ nữa. Thời gian trôi đi thì tim tôi lại càng hồi hộp đến ngộp thở. Tôi cố công vô ích làm thời gian trôi chậm lại bằng việc kéo dài chuyện ăn vận quần áo. Tất nhiên chẳng có đồ gì mới cả vì chính Damiana còn nói tôi ăn vận như vị cha cố. Tôi dùng dao cạo lại bộ râu, rồi phải chờ cho nước bị nắng hâm nóng trong hệ thống ống nước ngoài trời nguội đi mới vào tắm được. Chỉ có việc cố dùng khăn lau khô người cũng đã lại làm tôi toát mồ hôi. Tôi chọn mặc quấn áo phù hợp với cuộc phiêu lưu buổi tối: bộ veston bằng vải lanh màu trắng, áo sơ mi sọc xanh cổ cồn và cravat bằng lụa Trung Hoa, đôi giày có thêm gót bằng kẽm và chiếc đồng hồ mạ vàng có dây đeo bằng kim loại gắn vào ve áo. Cuối cùng tôi phải gập hai ống quần vào phía trong để mọi người không nhận ra là chân tôi co lại cả một gang tay.

Tôi nổi tiếng là người tằn tiện bởi vì không ai có thể hình dung ra khu vực nơi tôi đang cư ngụ lại có người nghèo nàn đến thế, nhưng sự thật là một đêm vui chơi như hôm nay quả đã vượt rất xa tiềm lực của tôi. Tôi móc hai đồng peso trong hộc tủ giấu ở dưới giường để thuê phòng, bốn đồng cho bà chủ, ba đồng cho đứa bé gái và năm đồng dự trữ cho bữa ăn tối và một vài chi phí nhỏ nhặt khác. Tức là, mười bốn đồng mà tòa báo trả cho những bài báo đăng trên phụ trương chủ nhật của cả tháng. Tôi giấu số tiền sau dây lưng rồi xức dầu thơm của hãng Lanman & Kemp-Barclay & Co. Tôi bỗng cảm thấy tim như thắt lại vì nỗi lo lắng và khi chuông đồng hồ điểm tám tiếng, tôi dò dẫm đi xuống cầu thang mờ tối, toát mồ hôi vì lo, và ra khỏi nhà, lao vào ánh sáng của đêm trước ngày sinh của chính mình.

Trời mát mẻ. Những nhóm toàn đàn ông đang gào thét bình luận về bóng đá trên phố đi bộ Colon, giữa những chiếc xe taxi đang chờ khách ở giữa đường lát gạch. Một đội kèn đồng đang chơi những bài valse nhè nhẹ dưới hàng cây đầy hoa. Một cô điếm nghèo đang đón khách trên đường Los Notarios xin tôi điếu thuốc lá như mọi lần, và tôi trả lời: Tôi đã bỏ thuốc lá cho đến hôm nay là ba mươi ba năm, hai tháng và mười bảy ngày rồi. Khi đi ngang qua cửa hàng Vàng, tôi nhìn vào những khung kính rực rỡ và thấy rõ cái mà tôi không cảm thấy đuợc là mình đã già khụ và ăn mặc thì quá tệ.

Gần đến mười giờ, tôi lên xe taxi và yêu cầu tài xế đưa tôi đến nghĩa trang Hoàn Cầu để anh ta không biết tôi sẽ đi đâu. Anh ta vui vẻ nhìn tôi qua kính chiếu hậu và nói: Đừng làm tôi giật mình kiểu đó, thưa ngài thông thái, cầu Chúa cho tôi cũng được sống như ngài. Chúng tôi cùng xuống trước nghĩa trang và vì anh ta không có tiền lẻ thối lại nên chúng tôi phải đổi ở một cửa hàng ăn của thổ dân, nơi vào các buổi sáng sớm những kẻ say rượu bét nhè thường khóc thương những người đã chết. Khi tính tiền xong, tay lái xe nghiêm nghị nói với tôi: Ngài phải cẩn thận đấy nhé, vì bây giờ nhà của bà Rosa Cabarcas không được bảo kê như ngày xưa đâu. Tôi chỉ còn biết cảm ơn anh ta, và cũng như tất cả mọi người, tôi hoàn toàn tin chắc rằng không có một bí mật nào dưới bầu trời này mà cánh lái xe taxi ở phố đi bộ Colon không tỏ tường.

Tôi đi vào khu phố nghèo chẳng còn giống tí gì nơi trước đây tôi đã từng quen thuộc. Vẫn là những đường phố rộng đầy cát bỏng với những ngôi nhà cửa rộng mở, những bức tường bằng gỗ thô mộc, mái bằng lá cọ và những sân vườn đầy đá sỏi. Nhưng cư dân thì không còn được yên tĩnh nữa. Ở phần lớn các nhà đều có những đám khiêu vũ ngày thứ sáu ầm ĩ từ trong ra ngoài. Với năm mươi xu, ai cũng có thể mua vé vào đám khiêu vũ mà mình thích nhất, nhưng cũng có thể lẻn theo ai đó vào nhảy cùng. Trong bộ đồ quái dị, vừa đi tôi vừa muốn chui xuống đất, nhưng không có ai để ý đến tôi, trừ một tay người lai da nâu gầy còm đang ngồi ngái ngủ trên bậu cửa nhà hàng xóm.

– Vĩnh biệt ngài tiến sĩ – hắn ta thành thật hét to với tôi. – chúc hạnh phúc trong cát bụi nhé.

Còn có thể làm gì hơn là cảm ơn anh ta? Tôi phải dừng lại ba lần để lấy hơi mới lên được cái dốc cuối cùng. Từ đó có thể nhìn thấy mặt trăng to như chiếc dĩa bằng đồng đang chiếu sáng từ chân trời, và một cơn đau bụng bất thường khiến tôi lo lắng cho số phận của mình, nhưng cuối cùng thì cũng qua khỏi. Cuối con đường nơi khu phố chìm trong khu vườn cây ăn trái, tôi đi vào tiệm của bà Rosa Cabarcas.

Hình như nó không còn như trước. Hồi xưa nó vốn là nhà chứa kín đáo nhất và cũng nổi tiếng nhất. Một người đàn bà to béo mà chúng tôi phong là thượng sĩ chữa cháy, không chỉ vì to xác mà còn vì tính hiệu quả trong việc dập tắt rất nhanh ngọn lửa trong lòng đám khách hàng. Nhưng nỗi cô đơn đã làm héo mòn thân xác bà ta, làm da nhăn nheo và làm cho giọng nói sắc gọn hơn như tiếng của đứa bé già cả. Người đàn bà trước đây chỉ còn giữ lại được hàm răng chắc khoẻ, duy nhất có một chiếc được bọc vàng để làm duyên. Bà ta vẫn để tang người chồng bị chết lúc mới có năm mươi tuổi đời tầm thuờng, và rồi phải đeo tang thêm một lần nữa cho người con trai duy nhất. Bà ta chỉ còn ánh mắt sáng, sống động, nhưng đầy vẻ độc ác và, nhìn qua ánh mắt ấy, tôi nghiệm ra rằng tính khí bà ta không hề thay đổi.

Tiệm chỉ có một đốm sáng nhạt hắt từ trên trần xuống và trong các tủ không hề bày bán bất cứ thứ gì dù chỉ là để làm bình phong cho thứ dịch vụ không được rao to mà ai cũng biết. Rosa Cabarcas đang sắp xếp phòng cho một khách hàng khi tôi rón rén đi vào. Tôi không biết là thực sự bà ta không nhật ra mình hay giả vờ như thế để giữ đúng thủ tục. Tôi ngồi xuống ghế chờ bà ta làm xong việc và cố dựng lại trong kí ức hình ảnh người đàn bà này trước đây. Hơn hai lần, khi chúng tôi còn khỏe mạnh, bà ta đã từng kéo tôi ra khỏi cơn hoảng sợ. Tôi tin là bà ta đã đọc được ý nghĩ của tôi nên quay lại nháy mắt với tôi. Thời gian như không đi qua người đàn ông, bà ta buồn bã thở dài. Tôi muốn nịnh khéo bà ta: Với bà thì có đấy, nhưng lại làm bà trẻ lại. Nói thật nhé, bà ta nói, cái mặt ngựa chết của ông cũng đã sống lại rồi đấy. Có lẽ là vì tôi thay đổi chỗ ăn cũng nên, tôi nói đùa với bà ta. Bà ấy tỏ ra phấn chấn. Nếu tôi nhớ đúng thì ông đã từng có nữ hầu hạ đầu tắt mặt tối, bà ta nói với tôi. Thế cô ta thế nào rồi? Tôi cố tình lảng tránh. Kể từ khi chúng ta không gặp nhau, điểm khác duy nhất là thỉnh thoảng tôi thấy nóng đít. Bà ta có ngay lời chuẩn đoán: Vì ít dùng đến đấy mà. Tôi chỉ dùng nó như Chúa đã tạo ra mà thôi, tôi nói với bà ta, nhưng đúng là trước đây tôi thấy nóng cháy ở đó, và luôn luôn vào những ngày trăng tròn. Rosa tìm trong hòm kim chỉ và lấy ra một lọ dầu mày xanh có mùi dầu xoa bóp làm từ cây kim sa. Ông bảo con bé dùng ngón tay bôi dầu này cho ông, bà ta vừa nói vừa xoay xoay ngón tay trỏ một cách thành thạo.Tôi đáp lại là nhờ Đức Chúa tôi vẫn còn đủ khả năng tự bảo vệ được mình, không cần bôi cái thứ vớ vẫn đó. Bà ta chế nhạo: Ái chà, thưa thầy, xin tha mạng sống cho con. Thôi tùy ông.

Con bé ở trong phòng từ lúc mười giờ, bà ta nói với tôi; nó đẹp, sạch sẽ và ngoan nhưng đang sợ chết khiếp, bởi vì con bạn gái của nó trốn đi cùng một tay bốc vác ở Gayra đã chảy máu suốt hai giờ liền. Nhưng, bà Rosa thừa nhận, người ta phải hiểu rằng bọn người ở Gayra có tiếng là thô bạo. Rồi bà ta nói tiếp: Tội nghiệp con bé, nó phải làm việc đơm cúc suốt ngày ở nhà máy. Tôi thấy việc này đâu có gì nặng nhọc. Đàn ông cứ nghĩ vậy, bà ta đáo lại, nhưng việc này còn nặng nhọc hơn đèo đá nữa đấy. Ngoài ra bà ta còn thú nhận đã cho con bé uống một hợp chất đồng với kim loại pha và rễ cây nữ lang và giờ này nó đang ngủ say. Tôi sợ bà ta kể những chuyện thương tâm đó như một mánh để nâng giá, nhưng không phải như vậy, bà ta nói, lời của tôi là lời vàng. Với một quy tắc bất di bất dịch: việc gì thêm là phải trả thêm tiền, tiền mặt trả trước. Và đúng như thế.

Tôi đi theo bà ta qua khu vườn, mà lòng thấy xót xa cho nước da khô héo và kiểu đi khó nhọc với đôi chân sưng phồng trong đôi tất bằng bông thô của bà ấy. Mặt trăng rằm đã lên cao giữa bầu trời và thế giới như chìm đắm trong biển nước xanh. Bên cạnh tiệm có một căn nhà mái lợp bằng lá cọ dùng cho các buổi lễ hội của giới công chức, có nhiều ghế bằng da và võng treo trên cọc. Cuối vườn nơi bắt đầu rừng cây ăn quả có một dãy sáu căn phòng ngủ xây bằng gạch không nung, các cửa sổ có lưới chắn muỗi. Phòng duy nhất có người ở chìm trong ánh đèn mờ và vọng tiếng hát của Tona, cô gái da đen đang hát bài ca thất tình qua đài phát thanh. Rosa Cabarcas thở mạnh: Điệu hát bolero chính là cuộc sống. Tôi đồng ý với bà ta, nhưng cho đến tận bây giờ tôi vẫn chưa dám viết ca từ cho loại nhạc bolero. Bà ta đẩy cửa, vào trong phòng một lát rồi quay trở ra. Con bé vẫn ngủ say, bà ta nói. Có lẽ nên để cho nó nghĩ ngơi tất cả thời gian mà cơ thể yêu cầu, đêm của ông sẽ bài hơn đêm của con bé nữa đấy. Tôi bực bội: Thế bà bảo tôi cần phải làm gì nào? Ông tự biết, bà ta nói với giọng hồ hởi không đúng chỗ, dù gì chăng nữa ông cũng là người thông thái mà. Bà ta xoay người và để tôi đứng một mình với nỗi bất an trong lòng.

Không còn đường thối lui. Tôi bước vào phòng với trái tim vỡ tung, và thấy bé gái đang ngủ, trần trụi trên chiếc giường rộng mênh mông như khi mới được sinh ra. Nó nằm hơi nghiêng mặt quay ra phía cửa, toàn thân được ngọn đèn sáng chói từ trên trần chiếu thẳng xuống lộ rõ mọi chi tiết. Tôi ngồi xuống mép giường chiêm ngưỡng bằng cả năm giác quan. Nó có nước da nâu và nồng ấm. Người ta đã buộc nó theo chế độ vệ sinh và làm đẹp cẩn thận đến từng lông tơ của mu âm hộ. Họ đã uốn tóc và bôi sơn tự nhiên cho móng tay và móng chân của nó, nhưng làn da bánh mật vẫn còn thô rám và không hề được chăm chút. Cặp vú mới nhú như của đứa bé trai nhưng đã thấy ẩn chứa năng lượng bí ẩn sắp nổ bung ra. Nét xuất sắc nhất trên thân thể của nó chính là đôi chân to với những ngón dài và thuôn như ngón tay. Toàn thân ướt đẫm mồ hôi lóng lánh mặc dù trong phòng có quạt máy, và trời càng về khuya càng nóng hầm hập. Không thể nào tưởng tượng được gương mặt của bé gái này ra sao sau lớp phẩm phết dày, dưới lớp bột gạo quết đầy hai má, cặp lông mi giả, lông mày và mí mắt như bị hun khói đen và cặp môi được làm to thêm bằng kẹo sô-cô-la. Nhưng tất cả không thể làm sai lệch được đặc tính của nó: mũi cao, lông mày chụm, đôi môi mọng chín. Tôi nghĩ: Đúng là con bò cái tơ hiền lành.

Mười một giờ, tôi làm các thủ tục thường ngày ở trong buồng vệ sinh nơi y phục của cô bé nghèo được vắt rất cẩn thận như của người giàu có trên một chiếc ghế: bộ đồ in hoa bướm, một quần lót màu vàng rách và đôi dép bằng sợi cây xương rồng. Trên mớ y phục để chiếc vòng đeo tay loại bán hạ giá và một dây chuyền mảnh mai đeo tấm huy hiệu ảnh Đức Mẹ đồng trinh. Trên nắp lavabo có chiếc ví đựng bút tô môi, thỏi son, một chìa khóa và mấy đồng bạc lẻ. Tất cả đều rẻ tiền và cũ kĩ khiến tôi phải tưởng tượng xem còn có ai nghèo như cô bé này không.

Tôi cởi quần áo và treo thật cẩn thận trên từng mắc áo để khỏi nhàu chiếc áo sơ mi bằng lụa và mất nếp bộ veston. Tôi đi tiểu vào bồn cầu, ngồi đúng cách mà ngày bé mẹ Florina de Dios đã dạy để không ướt gỗ lót, và dù hết sức khiêm tốn, tôi cũng phải nói rằng dòng nước chảy vẫn ào ào và liên tục như của chú ngựa hoang vậy. Trước khi rời khỏi buồng, tôi còn quay lại nhìn trong gương. Con ngựa nhìn tôi qua gương không phải có nét của kẻ bị chết mà đầy nét buồn thảm, và cả có cái cằm như của Đức Giáo hoàng, đôi mi mắt sưng húp, bờm lưa thưa mà tôi coi là biểu tượng nhạc sĩ của mình.

– Đồ cứt đái – tôi nói với con bé – ta biết làm gì nếu em không yêu ta?

Cố không đánh thức con bé dậy, tôi ngồi trần như nhộng ngay mép giường và với cặp mắt vốn đã quá quen với ánh sáng ảo màu đỏ, tôi xem xét từng li từng tí thân thể nó. Tôi dùng lòng ngón tay trỏ lướt nhẹ dọc gáy đẫm mồ hôi của con bé và toàn thân nó run lên như dây đàn. Nó nằm quay lại, miệng rên ậm ừ và bao bọc tôi trong bầu không khí đầy hơi thở chua chua của nó. Tôi dùng ngón trỏ và ngón cái bóp mũi nó, toàn thân nó lại run lên, nghiêng đầu và quay lưng lại phía tôi mà không hề tỉnh ngủ. Bất chợt, tôi cố dùng đầu gối đẩy hai chân cô bé ra xa nhau. Trong hai lần đầu, cô bé gồng cơ bắp của cô bé như hơi chùng xuống. Một dòng nước ấm chảy râm ran trong huyết mạch của tôi và con thú hưu trí trong người tôi từ từ bừng tỉnh dậy sau giấc ngủ dài.

Delgadina, tâm hồn của tôi ơi, tôi thiết tha cầu khẩn cô ta. Nàng Delgadina. Cô bé cất tiếng rên sầu thảm, vuột khỏi cặp đùi của tôi, quay lưng lại và cuộn người như con ốc thu mình trong vỏ. Hợp chất đồng và kim loại pha với rễ cây nữ lang có lẽ cần tác dụng với tôi cũng như với cô bé, bởi vì đã chẳng có gì xảy ra với cô bé và với bất cứ ai. Nhưng tôi thấy việc ấy chả có gì quan trọng cả. Tôi tự hỏi đánh thức cô bé dậy làm gì khi bản thân mình cảm thấy nhục nhã, buồn bã, và nhất là quá lạnh lẽo.

Tôi nghe tiếng chuông điểm rõ ràng vào lúc mười hai giờ đêm, thế là bắt đầu sáng sớm ngày 29 tháng Tám, ngày Khổ hạnh của Thánh Juan Bautista. Ai đó khóc to ngoài đường phố nhưng chẳng ai để ý đến hắn. Tôi cầu nguyện cho hắn, nếu như hắn cần, và cầu nguyện cho chính mình để tạ ơn những gì mình đã nhận được: Đừng ai tự lừa dối mình, đừng nghĩ rằng điều ta chờ đợi sẽ kéo dài hơn những gì ta thấy. Bé gái rên rỉ trong giấc mơ, và tôi cũng cầu nguyện cho nó: Rằng mọi sự sẽ diễn ra như cách nó phải xảy ra. Sau đó tôi tắt radio và đèn để đi ngủ.

Sáng sớm tôi tỉnh dậy mà vẫn chưa nhớ là mình đang ở đâu. Bé gái vẫn ngủ say, quay lưng về phía tôi trong tư thế bào thai trong bụng mẹ. Tôi có cảm giác mơ hồ là trong đêm qua hình như cô bé đã trở dậy trong bóng tối và mình có nghe thấy tiếng nước chảy ào trong buồng tắm, nhưng đó cũng có thể chỉ là giấc mơ. Đây là chuyện mới đối với tôi. Tôi không biết các mẹo quyến rũ đàn bà, và thường chỉ biết chọn người yêu một đêm một cách tình cờ theo biểu giá hơn là theo sự hấp dẫn, và chúng tôi làm tình không chút tình yêu, nhiều lần chưa cởi bỏ hết xiêm y, và luôn luôn trong bóng tối để tưởng tượng mình khá hơn. Tối hôm đó tôi phát hiện ra niềm thích thú thực sự khi ngắm nhìn thân thể người phụ nữ ngủ say mà không bị áp lực của dục vọng hay bối rối vì ngượng ngùng.

Tôi trở dậy vào lúc năm giờ sáng, lo lắng vì phải giao bài báo chủ nhật cho tòa soạn trước mười hai giờ trưa. Tôi làm vệ sinh thường nhật vẫn với nỗi đau bỏng rát của tuổi dậy thì, và khi giật nước xả tôi cảm thấy bao nỗi hận thù trước đây của mình đều bị cuốn vào cống hết. Khi cảm thấy sảng khoái và đã ăn vận chỉnh tề xong, tôi quay lại phòng ngủ thì bé gái vẫn nằm ngửa ngủ say dưới ánh sáng dịu dàng của buổi sớm mai chiếu xuyên qua giường, hai cánh tay rộng mở bắt chéo nhau và vẫn hoàn toàn làm chủ trinh tiết của mình. Tất cả tiền bạc còn lại, của tôi bà của nó, tôi để cả trên gối và tôi vĩnh biệt mãi mãi bé gái bằng một nụ hôn trên trán. Vào buổi sáng sớm, căn nhà, cũng như mọi hộp đêm khác, gần với thiên đường hơn cả. Tôi rời khỏi nơi đó bằng cửa sau vườn nhưng không gặp ai. dưới ánh nắng chói chang ngoài phố, tôi bắt đầu cảm thấy sức nặng của chín mươi năm đè lên mình, và bắt đầu đếm từng phút một số phút giây ban đêm còn lại để đến với cái chết.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.