Sau khi nghe tiếng kêu của Harbert, Pencroff bỏ súng lao đến chỗ chú bé.
– Chúng giết thằng bé rồi! – anh kêu lên – Chúng giết thằng em trai bé bỏng của tôi rồi! Chúng nó giết rồi! Giết rồi!
Cyrus Smith và Gédéon Spilett cũng lao đến chỗ Harbert. Nhà báo áp tai vào ngực chú, hi vọng bắt được nhịp đập con tim.
– Còn sống! – ông kêu lên – Phải đưa chú bé đi… – Về Lâu đài Đá hoa cương ư? Như thế không được đâu. – viên kỹ sư lên tiếng.
– Vậy thì đưa chú bé vào khu chăn nuôi! – Pencroff kêu lên.
– Đợi chút đã! – Cyrus Smith trả lời.
Và ông lao về bên trái, định vòng qua hàng rào. Tại đây ông giáp mặt một tên cướp, hấn lẩy cò súng, viên đạn trượt qua mũi kỹ sư. Nhưng chưa kịp bắn viên thứ hai thì tên cướp đã ngã lăn ra đất bởi một nhát dao găm cắm vào tim. Cyrus Smith sử dụng gươm đao thành thạo hơn sử dụng súng.
Trong khi đó, Gédéon Spilett và chàng thuỷ thủ nhảy qua rào, xông thẳng vào nhà, nhưng ở đấy vắng tanh. Chẳng mấy chốc, chú Harbert bất hạnh được đặt nằm trên giường của Ayrton. Lát sau, Cyrus Smith vào với họ.
Sang ngày hôm sau, 11 tháng mười một, những người ngụ cư thấy hi vọng chút ít. Harbert đã tỉnh dậy sau cơn ngất kéo dài. Chú đã mở mắt và nhận ra Cyrus Smith, nhà báo và Pencroff đang cúi trên người chú. Thậm chí chú đã nói được vài lời. Mọi chuyện xảy ra chú không nhớ gì hết. Gédéon Spilett kể lại tóm tắt sự việc xảy ra cho chú nghe và năn nỉ chú phải hết sức nằm yên. Bởi vì, mặc dù nguy hiểm đã qua nhưng cần phải làm sao cho vết thương sớm thành sẹo. Tuy vậy, Harbert hầu như đã không cảm thấy đau, còn nước lạnh được đắp vào thường xuyên đã ngăn chặn được quá trình viêm nhiễm. Mủ được trích ra đều đặn, thân nhiệt không tăng nữa, vì vậy họ có thể hi vọng rằng vết thương đáng sợ sẽ khỏi mà không có biến chứng phức tạp gì. Pencroff lần đầu tiên thở phào nhẹ nhõm. Chàng biến thành “cô hộ lí” thật sự, chàng chăm sóc cho thằng bé cưng của mình, y như người mẹ hiền vậy.
Harbert lại thiếp đi, nhưng lần này giấc ngủ của chú thật bình yên.
Ngày 12 tháng mười một, trong lúc Pencroff trực bên giường bệnh nhân, Cyrus Smith và nhà báo đã bàn về tình hình xảy ra và quyết định bắt tay hành động.
Công việc đầu tiên của họ là đi tuần tra toàn bộ khu vực chăn nuôi, nhưng họ không thấy dấu vết gì của Ayrton.
– Chắc Ayrton tội nghiệp đã bị bọn chúng bắt. – Cyrus Smith nói – Nhưng anh ta đâu phải là người chịu buông súng đầu hàng dễ dàng, có lẽ anh ta đã bị chúng giết rồi.
– Vâng, tôi cũng sợ như vậy đó! – nhà báo đáp lại – Hiển nhiên bây giờ Ayrton dù sống hay chết cũng đã ở nơi xa rồi.
– Cho dù thế nào đi nữa, – viên kỹ sư nói – chúng ta cũng cần phải ở lại trại chăn nuôi cho đến khi nào có thể đưa được Harbert về Lâu đài Đá hoa cương.
– Nhỡ đột nhiên sự vắng mặt của chúng ta làm cho Nab lo lắng, không chịu ngồi yên ở Lâu đài Đá hoa cương và quyết định ra đây thì sao? – Ôi, nếu như đường dây điện báo không bị đứt thì chúng ta báo tin cho chú ấy biết ngay rồi! Nhưng bây giờ không thể thực hiện được việc ấy nữa! Mặt khác, chúng ta không thể để Pencroff và Harbert ở lại đây một mình. Các bạn, tôi sẽ đi về Lâu đài Đá hoa cương báo tin cho Nab.
– Không, sao lại hành động liều lĩnh như thế, ngài Cyrus! – nhà báo kêu lên – Ngài không có quyền liều mạng. Lòng dũng cảm trong trong trường hợp này không giúp gì cho người khác. Bởi vì, quân đê tiện đang theo dõi chúng ta, chúng quẩn quanh đâu đó trong rừng, nếu ngài đi về Lâu đài Đá hoa cương là chúng tôi sẽ phải khóc than không phải cho một mà là cho hai người nữa đó.
– Chẳng lẽ không thể làm gì được để báo tin cho chú ấy biết sao?
Ánh mắt của viên kỹ sư chợt dừng nơi con Top. Trong suốt thời gian họ nói chuyện, con chó trung thành cứ chạy trong phòng với một vẻ lo lắng, như muốn nói rằng: “Thế còn tôi thì sao?”
– Top! – Cyrus Smith kêu to.
Con Top lao về phía chủ.
– Đúng, nên cho con Top đi, – nhà báo đoán được ý nghĩ của viên kỹ sư – Con Top sẽ dễ dàng đi qua nơi mà chúng ta không qua nổi! Nó sẽ mang thư về Lâu đài Đá hoa cương và đem câu trả lời từ đó về đây.
– Đừng để mất phút giây nào nữa! – viên kỹ sư kêu lên – Nhanh lên nào!
Gédéon Spilett nhanh chóng xé một tờ giấy ở cuốn sổ nhỏ dùng để ghi chép và viết mấy dòng:
“Harbert bị thương. Chúng tôi tạm thời ở lại khu chăn nuôi. Hãy cẩn thận. Không được rời Lâu đài Đá hoa cương. Có thấy bọn cướp biển xuất hiện ở ngoại vi Lâu đài không? Gởi trả lời cho con Top mang theo”.
Nhà báo gấp thư lại và nhét vào vòng cổ con Top, cố ý để cho một góc tờ giấy ló ra ngoài.
– Top! Con chó bé nhỏ của ta! – viên kỹ sư vuốt ve con Top – Nab! Mày hiểu không Top, Nab! Đi đi nào! Trao lá thư này cho Nab.
Viên kỹ sư ra mở cổng.
– Nab! Top hiểu không, Nab! – ông nhắc lại, chỉ tay về hướng Lâu đài Đá hoa cương.
Con Top lao ra ngoài hàng rào và trong nháy mắt đã biến mất. Lúc ấy là mười giờ… Những người ngụ cư lo lắng đợi con Top trở về. Gần mười một giờ, Cyrus Smith và nhà báo đứng sẵn chờ đợi mở cổng khi nghe vẳng lại tiếng chó sủa từ xa. Họ biết chắc con Top đã an toàn về đến Lâu đài Đá hoa cương và Nab phải cho nó về lại đây để trao lá thư trả lời của anh ta cho họ.
Họ cứ đứng như vậy chừng mười phút, bỗng có tiếng súng vang lên, sau đó là tiếng sủa dài.
Viên kỹ sư mở toang cổng và nhận thấy cách đó chừng 100 bước có khói thuốc súng, ông bắn về hướng đó.
Hầu như ngay tức khắc con Top lao vụt qua hàng rào khu chăn nuôi và cánh cổng đóng sập ngay lại.
– Top! Top! – viên kỹ sư kêu to, hai tay túm lấy mõm con chó dễ thương. Trên vòng cổ của con Top có buộc một mảnh thư, Cyrus Smith đọc lướt qua mấy chữ Nab viết nguệch ngoạc:
“Ở ngoại vi Lâu đài Đá hoa cương không có tên cướp biển nào. Con sẽ không bao giờ rời vị trí của mình. Tội nghiệp Harbert”.
Sức khoẻ của Harbert ngày một khá hơn. Những người ngụ cư bây giờ chỉ mong muốn một điều: Hễ chú bé khoẻ là đưa chú về Lâu đài Đá hoa cương… Bởi vậy họ sốt ruột đợi đến ngày có thể đưa Harbert về nhà và không có biến chứng nào gây nguy hiểm cho sức khoẻ của chú. Họ đã quyết định dù thế nào đi nữa cũng phải thực hiện kế hoạch của mình, mặc dù họ hình dung rất rõ rằng đi qua rừng Jacamar sẽ rất khó khăn.
Trưa 29 tháng mười một, tranh thủ lúc Harbert ngủ, Cyrus Smith, Gédéon Spilett và Pencroff đã phác thảo kế hoạch hành động chống lại bọn cướp biển.
Đã một, hai lần chàng nhà báo ra khỏi khu chăn nuôi và tuần tra quanh hàng rào. Cùng đi có Top, Gédéon Spilett lăm lăm trong tay khẩu súng cacbin sẵn sàng đối phó với bất kì cuộc đụng nào.
Do vậy, Gédéon Spilett liền mạnh dạn đi sâu hơn vào khu rừng rậm chừng một phần tư dặm. Bỗng ông thấy con Top bắt đầu lo lắng.
Con Top lùng sục trong rừng chừng năm phút, còn nhà báo thì thận trọng theo dõi nó. Bỗng con chó lao vào bụi rậm nhỏ và tha trong đó ra một mảnh vải. Đấy là một tấm áo lem luốc, bị rách tơi tả. Gédéon Spilett lập tức mang vật tìm thấy về khu chăn nuôi. Những người ngụ cư chăm chú xem xét mảnh vải và nhận ra đó là một phần thuộc chiếc áo bludong của Ayrton.
Niềm hi vọng gặp bạn lại nhen lên trong lòng những người ngụ cư. Trước đây họ nghĩ rằng một viên đạn của bọn cướp biển đã bất ngờ giết chết Ayrton, giống như đã bắn Harbert bị thương. Nhưng nếu bọn tội phạm không giết anh ta ngay, mà chúng đưa anh ta đến nơi nào đó trên đảo thì có lẽ bây giờ anh ta đang là tù binh của chúng.
Họ quyết định đưa Harbert về Lâu đài Đá hoa cương và sau đó tiến hành cuộc tìm kiếm Ayrton.
… Việc quan trọng bây giờ là sức khoẻ của Harbert. Mười phút sau, chiếc xe được đấy tới sát bức tường thành đá hoa cương. Thang máy được khởi động và chẳng bao lâu Harbert đã nằm trên giường của mình trong Lâu đài Đá hoa cương.
Chú bé sốt li bì, hết cơn nọ đến cơn kia.
– Thuốc chống sốt rét!… – viên kỹ sư nhắc lại – Lấy đâu ra được thứ đó? Ở nơi ta không có vỏ cây quynin, không có sunfat quynin! Cũng cần nhận xét rằng, sau những cơn sốt Harbert phờ phạc hẳn đi, đầu chú nặng trĩu, mắt tối sầm. Lại thêm một triệu chứng làm cho Gédéon Spilett hoảng sợ là: gan của Harbert bị sưng to quá, và chẳng bao lâu, cơn mê sảng đã tăng lên, chứng tỏ bệnh đã ảnh hưởng đến não.
Tình trạng phức tạp mới ấy khiến Gédéon Spilett xúc động. Ông dẫn viên kỹ sư ra một nơi và nói:
– Đây là sốt rét ác tính!
– Sốt rét ác tính ư? – Cyrus Smith kêu lên – Anh có nhầm không đấy, Spilett? Sốt rét ác tính không thể phát ra ngay như thế được. Vậy là trong cơ thể Harbert phải có mầm bệnh sốt rét từ trước kia rồi.
– Không, tôi không nhầm đâu. – nhà báo nói – Harbert chắc chắn đã bị nhiễm bệnh ấy ở vùng sình lầy này đây. Chúng ta đã chứng kiến cơn sốt rét. Có lẽ sẽ đến cơn thứ hai, mà nếu không kịp phòng ngừa cơn thứ ba thì Harbert sẽ chết mất.
– Thế vỏ cây liễu có thay được vỏ cây quynin không?
– Nó sẽ không giúp gì được trong trường hợp này. – Gédéon Spilett trả lời – Một khi bị sốt rét ác tính mà không cắt được cơn thứ ba thì không tránh khỏi tử vong.
Đến giữa trưa thì cơn sốt rét thứ hai bắt đầu. Bệnh biến chứng thật đáng sợ. Harbert đã cảm thấy mình gần cõi chết. Chú chìa tay về phía Cyrus Smith, Gédéon Spilett, Pencroff với vẻ cầu khẩn. Chú không muốn chết! Thật là một cảnh tượng đau xé lòng. Đành phải đưa Pencroff ra khỏi phòng.
Cơn sốt thứ hai kéo dài suốt năm giờ. Chắc chắn là bệnh nhân không chịu đựng nổi cơn sốt thứ ba.
Khoảng ba giờ sáng, Harbert la hét điên dại và co giật y như đang hấp hối. Nab trực bên giường chú, hoảng hốt chạy bổ sang phòng bên cầu cứu các bạn của anh đang ngồi đó. Lúc ấy con Top cất tiếng sủa với một vẻ lạ lùng mà thỉnh thoảng người ta vẫn gặp. Một bóng người lao vào phòng ngủ và kịp đỡ chú bé đang hấp hối đúng lúc trong phòng không có ai trực ban. Trong cơn mê sảng chú suýt lăn từ trên giường xuống sàn nhà. Một lát sau Nab cùng mọi người trở lại phòng với Harbert. Gédéon Spilett cầm tay Harbert, thấy mạch của chú dần dần trở nên đều hơn.
Đã năm giờ sáng. Những tia nắng ban mai lọt vào cánh cửa sổ nhỏ của Lâu đài Đá hoa cương. Một tia nắng rọi trên chiếc bàn nhỏ kê cạnh giường bệnh nhân đang hấp hối. Và bỗng Pencroff kêu to lên, chỉ vào một cái hộp nhỏ hình thoi không biết tự bao giờ đã xuất hiện trên chiếc bàn con. Trên nắp hộp có hàng chữ: sunfat quynin.
Gédéon Spilett chộp lấy cái hộp nhỏ và mở ra. Trong đó có khoảng hai trăm gram chất bột trắng. Nhà báo lấy vài hạt bột mịn ấy bỏ vào mồm. Vị đắng khủng khiếp của nó khẳng định rằng dòng chữ viết trên nắp hộp không nhằm mục đích đánh lừa ai. Thật vậy, đó là chất quý từ vỏ cây quynin, một loại thuốc tốt nhất để đặc trị sốt rét.
Không cần phải suy nghĩ lâu la gì nữa, cần phải cho Harbert uống bột thuốc quynin.
– Cà phê! – Gédéon Spilett yêu cầu.
Ngay lập tức, Nab mang đến một tách cà phê nóng, Gédéon Spilett bỏ vào đó khoảng mười tám gram quynin và cho Harbert uống.
Vẫn còn chưa muộn – cơn sốt rét thứ ba chưa bắt đầu!… Ít nhất bây giờ nó cũng không thể phát ra được nữa.
Mấy giờ sau Harbert ngủ yên giấc hơn.
Trong ngày, cứ cách ba giờ, những người ngụ cư lại cho Harbert uống quynin một lần. Sang ngày hôm sau, chú thấy khá hơn. Tất nhiên, chú chưa khoẻ hẳn. Ai nấy trong tim đều ấm niềm hi vọng. Và niềm hi vọng đó không phải là hão huyền. Mười ngày sau, 20 tháng mười hai, Harbert bắt đầu bình phục.
Harbert đã 17 tuổi, cơ thể phát triển rắn chắc. Những ngày cuối tháng giêng, chú đã đi dạo quanh cao nguyên Tầm nhìn và khắp bờ biển. Nhiều lần chú đã tắm biển cùng với Pencroff và Nab, và những lần tắm ấy rất có lợi cho chú. Cyrus Smith thấy đã có thể ấn định ngày lên đường đi thám hiểm hòn đảo. Như mọi khi, vào thời gian ấy trong năm, ban đêm trời rất sáng, điều kiện ấy rất thuận lợi cho việc trinh sát mà họ định tiến hành trên toàn đảo, nhằm hai mục đích: Thứ nhất, tiêu diệt bọn cướp biển và tìm cho được Ayrton, nếu anh ta còn sống. Thứ hai, tìm ra con người bí ẩn đã bí mật giúp đỡ cuộc sống của những người ngụ cư…
Họ lên đường vào một ngày đẹp trời.
Sau khi khảo sát cánh rừng ven biển kéo dài từ mũi Rắn đến suối Thác nước. Chẳng mấy chốc họ đến khu chăn nuôi. Ở đó không có ai. Đội quân nhỏ nhanh chóng băng qua “khu vực nguy hiểm” và dũng cảm tiến sát hàng rào. Chiếc xe kéo cũng dừng lại ở đó. Không một phát súng nào phá tan sự im lặng. Viên kỹ sư, nhà báo, Harbert và Pencroff đến xem cổng có bị khoá trái không.
Hoá ra có một cánh cổng để mở! Cả năm người lại gần cổng. Quả thật, ngay trước mắt họ, trong khung cửa sổ có ánh lửa mờ mờ nhấp nháy. Những người ngụ cư đã lẻn vào trong sân, sẵn sàng vũ khí trong tay. Chiếc xe kéo họ để ngoài hàng rào cho Jup và Top giữ, để cho chắc chắn, họ buộc chúng vào chiếc xe. Lát sau, cả năm người đều đến cạnh ngôi nhà. Sát bên cánh cửa khoá.
Cyrus Smith ra hiệu cho các bạn giữ yên lặng và ông ghé mắt nhìn vào cửa sổ mà ánh sáng từ bên trong hắt ra lờ mờ. Ông đưa mắt nhìn bao quát căn phòng. Trên bàn có ngọn đèn đang cháy. Cạnh bàn là cái giường mà trước đây Ayrton đã ngủ. Có ai đó nằm trên giường. Bỗng Cyrus Smith né khỏi cửa sổ và nói khé:
– Ayrton!
Ngay lập tức những người ngụ cư đã mở, đúng hơn là phá, cửa và lao vào phòng. Ayrton hình như đang ngủ. Nét mặt anh phờ phạc nói lên bao nỗi đau khổ kéo dài hơn cả tháng nay. Trên hai cổ tay và mắt cá chân anh thấy có những vết xây xát rớm máu.
– Ayrton! – Cyrus Smith cúi xuống gọi và nắm lấy tay người đang ngủ.
Cuộc gặp gỡ bất ngờ này đã diễn ra trong hoàn cảnh khác thường biết bao. Ayrton mở mắt ra và nhìn Cyrus Smith, sau đó, nhìn khắp lượt những người còn lại.
– Ngài? – anh ta kêu lên – Không lẽ đây là ngài sao?
– Ayrton! Ayrton! – Cyrus Smith nhắc lại.
– Tôi đang ở đâu thế này?
– Ở khu chăn nuôi của chúng ta.
– Một mình ư?
– Phải.
– Nhưng bọn chúng sẽ đến đây bây giờ đấy! – Ayrton kêu lên – Hãy đề phòng, các ông hãy đề phòng!
Và anh ta ngã xuống giường vì kiệt sức.
– Spilett! – viên kỹ sư – Bọn chúng có thể tấn công chúng ta bất kì lúc nào. Các bạn hãy cho xe vào trong sân. Sau đó, khoá cổng lại, rồi quay về đây.
Mọi người nhanh chóng làm theo lệnh của viên kỹ sư. Nhưng khi chạy ra khỏi hàng rào, họ đã nghe thấy tiếng gầm gừ khàn khàn của con Top. Vừa lúc ấy, trăng đã lên khỏi những lùm cây rậm rạp đen ngòm, khu chăn nuôi trở lên sáng trưng như ban ngày. Khi mọi người đẩy xe vào sân, con Top lại dứt dây, sủa dữ dội và lao sâu vào khu chăn nuôi, phía bên phải căn nhà.
– Hãy cẩn thận, các bạn! Nhắm vào mục tiêu. – Cyrus Smith kêu to. Những người ngụ cư tì súng và sẵn sàng nhả đạn. Con Top sủa hoài không dứt, còn chú Jup thì chạy lại chỗ Top và rít lên inh ỏi.
Những người ngụ cư lần theo tiếng chó sủa và ra đến một con suối chảy dưới những hàng cây cao.
Họ đã nhìn thấy gì bên bờ suối vằng vặc ánh trăng vậy? – Trước mắt họ là năm cái xác nằm trên cỏ.
Đó chính là những tên cướp biển mà bốn tháng trước đây đã đổ bộ lên đảo Lincoln.