Kafka bên bờ biển

Chương 25



Tôi ngủ thiếp đi một lúc, tỉnh dậy, rồi lại ngủ tiếp, cứ thế mấy lần. Tôi không muốn bỏ lỡ cái lúc cô xuất hiện. Thế nhưng tôi đã bỏ lỡ thật – khi tôi ngước lên thì cô đã ngồi ở bàn giấy y như đêm hôm trước. Chiếc đồng hồ cạnh giường tôi chỉ hơn ba giờ một chút. Rõ ràng trước khi đi nằm, tôi đã kéo rèm, vậy mà giờ đây nó lại mở toang. đêm nay không có trăng – đó là điểm khác biệt duy nhất. Trời đầy mây và có thể bên ngoài đang mưa bụi. Bên trong phòng, tối hơn đêm qua nhiều, những ngọn đèn thưa thớt ngoài vườn chỉ hắt vào một ánh sáng yếu ớt qua lá cây. Phải mất một lúc mắt tôi mới quen được với bóng tối.

Cô gái ngồi ở bàn, tì má vào lòng bàn tay, nhìn bức tranh treo trên tường. Cô vẫn mặc bộ đồ như hôm qua. Lần này, mặc dù căng mắt ra nhìn, tôi vẫn không thấy rõ được nét mặt cô vì tối quá. Nhưng kỳ lạ thay, đường nét thân hình cô lại nổi bật lên bồng bềnh trong bóng tối. Không nghi ngờ gì nữa, đây đúng là Miss Saeki hồi trẻ.

Cô có vẻ như đang trầm ngâm suy nghĩ. Hoặc đang đắm mình trong một giấc mơ dài. Dù thế nào, tôi vẫn cố thở thật nhẹ để khỏi khuấy động cảnh tượng trước mắt tôi đây. Tôi không động đậy một ly, chỉ thỉnh thoảng đưa mắt nhìn đồng hồ xem giờ. Thời gian đều đặn, chậm chạp trôi.

Bất chợt, tim tôi bắt đầu rộn lên. Và cái âm thanh giống như tiếng gõ cửa ấy vang lên trong đêm khuya tịch lặng của căn phòng làm tôi ật mình đến nỗi suýt nhảy ra khỏi giường.

Cái bóng đen của cô gái thoáng động đậy. Cô ngước lên và lắng tai nghe. Cô nghe thấy tiếng tim tôi đập. Cô hơi nghiêng đầu, kiểu như một con thú trong rừng tập trung chú ý vào một tiếng động bất thường. Rồi cô quay về phía giường tôi đang nằm. Nhưng tôi biết hình ảnh của tôi không được ghi nhận trong mắt cô: tôi không ở trong giấc mơ của cô. Cô và tôi thuộc về hai thế giới khác nhau, ngăn cách bởi một ranh giới vô hình.

Hồi trống trong ngực tôi lắng xuống cũng nhanh chóng như khi nó bắt đầu. Cả nhịp thở của tôi cũng vậy. Tôi lại thôi không hiện hữu và cô không lắng tai nghe nữa. Cô lại hướng mắt về bức tranh Kafka bên bờ biển, trong tư thế tay chống cằm như cũ. Một lần nữa, trái tim cô lại bị hút về cậu thiếu niên trong cái quang cảnh mùa hè ấy.

Cô ngồi đó khoảng hai mươi phút rồi đi khỏi. Y như đêm trước, cô đứng dậy, đôi chân trần lướt đi không một tiếng động về phía cửa và không cần mở, cứ thế biến ra ngoài. Tôi tiếp tục nằm yên một lúc, rồi cuối cùng trở dậy. Vẫn để đèn tắt, tôi đi trong bóng tối, tới ngồi vào chỗ cô vừa bỏ đi. Tôi đặt cả hai tay lên bàn và cố hấp thụ chút gì còn lại từ sự hiện diện của cô. Tôi nhắm mắt lại, níu đón nhịp tin run rẩy của cô cho nó thẩm thấu vào tim tôi.

Tôi phát hiện ra một điểm chung giữa cô gái và tôi: cả hai chúng tôi đều yêu một người không còn ở trên đời này nữa.

Lát sau, tôi chìm vào một giấc ngủ bất an. Tôi chao đảo như quả lắc đồng hồ một bên là cơ thể cần được nghỉ ngơi và bên kia là tâm trí không thuận theo. Thế rồi sau đó – thậm chi tôi cũng không biết chắc là đã sáng hay chưa – chim hót rộn lên ngoài vườn, làm tôi thức giấc hoàn toàn.

Tôi xỏ chân vào chiếc quần jeans, mặc sơ mi dài tay ra ngoài áo phông, và ra ngoài. Mới hơn năm giờ sáng, chưa có ai khác ra đường. Tôi bỏ lại sau lưng dãy nhà ngoại ô cũ kỹ, đi qua khu rừng thông được trồng để chắn gió, qua con đê chắn sóng và ra tới bãi biển. Một làn gió thoảng mơn man da tôi. Bầu trời giăng một lớp mây xám, nhưng không có vẻ gì là sắp mưa. Một buổi sáng tĩnh lặng, yên bình. Như một lớp cách âm, những đám mây hút kiệt mọi âm thanh từ mặt đất vọng lên.

Tôi dạo bước trên một con đường nhỏ dọc biển, hình dung chàng trai trong bức tranh, tay xách chiếc ghế vải dạo bước cũng trên con đường này, rồi ngồi bên bờ biển. Tuy nhiên, tôi không dám chắc bức tranh mô tả cụ thể quãng nào của bờ biển. Trên tranh, ta chỉ thấy bãi biển, chân trời, bầu trời và mây. Và một hòn đảo. Mà dọc bờ biển thì có nhiều đảo và tôi không nhớ rõ hình thù hòn đảo được thể hiện trong tranh. Tôi ngồi xuống bãi cát, nhìn ra biển và khum tay thành một thứ khung tranh. Tôi hình dung chàng trai đang ngồi đó. Một con hải âu đơn lẻ vật vờ bay ngang bầu trời lặng gió. Những con sóng nhỏ xô bờ, đều đặn từng đợt, để lại trên cát một đường lượn mềm mại li ti những chấm bọt.

Đột nhiên tôi hiểu ra là mình ghen với gã thiếu niên trong tranh.

“Cậu ghen với chàng trai trong tranh,” thằng cu tên là Quạ thì thầm vào tai tôi.

Cậu ghen với gã trai hai mươi tuổi tội nghiệp bị tưởng nhầm là một kẻ khác, do đó bị giết uổng vào thời kỳ… ba mươi năm trước đây, phải không nhỉ? Ghen điên cuồng đến phát đau. Đây là lần đầu tiên trong đời, cậu ghen. Giờ thì cậu biết thế nào là một cơn ghen. Nó như một đám cháy rừng thiêu đốt tim ta.

Cả đời, cậu chưa bao giờ ghen tị ai hoặc muốn được như ai – nhưng giờ đây thì cậu thèm muốn địa vị của gã trai ấy hơn hết thảy. Thậm chí, dù biết là năm hai mươi tuổi, gã đã bị nện vào đầu bằng một cái ống sắt rồi đánh đến chết, cậu vẫn sẵn sàng đánh đổi số phận với gã. Cậu bằng lòng làm vậy để có thể yêu Saeki trong năm năm còn lại của đời mình. Và được nàng yêu với tất cả tấm lòng. Được tha hồ ôm nàng trong tay bao lâu tùy thích, làm tình với nàng hết ngày này sang ngày khác. Được vuốt ve mọi bộ phận trên cơ thể nàng và để nàng cũng làm như thế đối với cậu. Và để sau khi cậu chết, mối tình ấy sẽ trở thành một câu chuyện được khắc ghi mãi mãi trong tim nàng. Từng đêm, từng đêm, nàng sẽ yêu cậu trong kỷ niệm.

Phải, cậu đang ở trong một tình huống kỳ lạ. Cậu yêu một cô gái không còn tồn tại và ghen với một chàng trai đã vĩnh viễn ra đi. Mặc dù thế, niềm xúc cảm đang xâm chiếm con tim cậu lại thực hơn, đau đớn hơn bất cứ những gì cậu từng trải nghiệm trước đây. Và không có một lối thoát nào. Không có cơ may nào tìm được đường ra. Cậu đã lạc vào một mê cung của thời gian và điều rắc rối nhất là cậu tuyệt nhiên không mong muốn ra khỏi đó. Có đúng thế không?

Oshima đến muộn hơn hôm qua một chút. Trước khi anh tới, tôi đã kịp hút bụi cả tầng trên lẫn tầng dưới, lau chùi tất cả bàn ghế, mở và lau các cửa sổ, cọ rửa nhà vệ sinh, đổ rác, thay nước các bình hoa. Rồi tôi bật tất cả các đền và hiển thị danh mục trên các máy vi tính. Chỉ còn việc mở cửa nữa thôi.

Oshima kiểm tra công việc của tôi và gật đầu hài lòng. “Em học nhanh đấy, không để phí thời gian.”

Tôi đun nước, pha cà phê cho anh. Còn tôi làm một táchy trà Earl Grey như hôm qua. Bên ngoài trời bắt đầu mưa khá nặng hạt. Có tiếng sấm ở đằng xa. Chưa trưa mà đã tối sầm như xế chiều.

“Oshima, em muốn nhờ anh một việc.”

“Việc gì?”

“Anh có kiếm đâu được tổng phổ của Kafka bên bờ biển không?”

Oshima nghĩ một thoáng.”Nếu có trên trang mạng của một nhà xuất bản âm nhạc nào đó, mình nghĩ cậu có thể trả phí để tải xuống. Để mình kiểm tra rồi sẽ báo cho cậu.”

“Cám ơn anh.”

Anh ngồi xuống ở một góc quầy, bỏ một viên đường nhỏ xíu vào tách cà phê và lấy thìa khuấy. “Vậy là cậu thích bài hát ấy?”

“Vâng, rất thích.”

“Mình cũng mê luôn. Một giai điệu đẹp, độc nhất vô nhị. Đơn giản mà sâu lắng. Nó nói lên nhiều điều về con người đã sáng tác ra nó.”

“Tuy nhiên, ca từ lại quá tượng trưng,” tôi đánh bạo nhận xét.

“Từ xửa từ xưa, tính tượng trưng và thơ vốn không thể tách rời nhau. Như hải tặc với rượu rhum vậy.”

“Theo anh Miss Saeki có hiểu hết ý nghĩa của ca từ không?”

Oshima ngước lên, lắng nghe tiếng sấm như thể đang ước tính xem nó ở bao xa. Rồi quay về phía tôi và lắc đầu. “Không nhất thiết. Tính tượng trưng và ý nghĩa là hai điều riêng rẽ. Mình nghĩ bà tìm ra những từ thật đắt bằn cách vượt qua ý nghĩa và lô gích. Bà “bắt” chữ trong một giấc mơ, như kiểu người ta rón tay túm nhẹ đôi cánh một con bướm dập dờn quanh mình. Nghệ sĩ là những kẻ có khả năng tránh được thói dài dòng văn tự.”

“Vậy theo anh, có thể Miss Saeki đã tìm thấy những từ đó ở một không gian khác như trong mơ?

“Đa phần những bài thơ lớn đều như vậy. Nếu những con chữ không tạo nổi một sấm truyền liên thông tới người đọc qua một thứ đường hầm, thì toàn bài không còn là thơ nữa.”

“Nhưng khối bài thơ đều chỉ làm ra vẻ thế.”

“Đúng vậy. Đó là một thứ thủ thuật và một khi biết cách, thì chẳng có gì là khó. Chỉ cần dùng một số từ nghe có vẻ tượng trưng là toàn bộ mang dáng dấp một bài thơ rồi.”

“Em cảm thấy trong Kafka bên bờ biển có một cái gì khẩn cấp và nghiêm trọng.”

“Mình cũng thế,” Oshima nói. “Lời ca không chỉ là một cái gì hời hợt trên bề mặt. Nhưng trong tâm trí mình, lời ca và giai điệu không tách rời nhau, mình không thể xem xét lời ca như là thơ thuần túy và quyết định là tự thân nó có sức thuyết phục đến mức nào. (Anh khẽ lắc đầu). “Dù sao đi nữa, rành là bà có tài trời phú và khả năng âm nhạc đích thực. Bà cũng có đầu óc khá thực tế để nắm bắt thời cơ. Nếu cái sự kiện khủng k hiếp kia không khiến bà rút khỏi thế sự, mình dám chắc bà đã phát triển tài năng tiến xa hơn nữa. Thật đáng tiếc…”

“Vậy tài năng đó đi đâu mất rồi?”

Oshima nhìn tôi. “Cậu hỏi tài năng của Miss Saeki biến đi đâu sau khi bạn trai của bà chết?”

Tôi gật đầu. “Nếu tài năng là một năng lượng tự nhiên thì nó phải tự thể hiện ra bằng cách này hay cách khác chứ?”

“Mình không biết,” anh đáp. “Không ai có thể tiên đoán hướng đi của tài năng. Có khi nó biến mất hẳn. Hoặc giả nó lặn sâu xuống như một dòng nước ngầm và chảy đi đâu có trời biết.”

“Có thể Miss Saeki tập trung tài năng của mình vào một lĩnh vực khác ngoài âm nhạc chăng?” tôi đoán.

“Vào một lĩnh vực khác?” Oshima nhíu mày, quan tâm ra mặt. “Cụ thể là thế nào?”

Tôi không tìm ra lời để diễn đạt. “Em không biết… Em chỉ cảm thấy là có thể như thế thôi. Có thể là vào một cái gì đó vô hình.”

“Vô hình?”

“Một cái gì người khác không nhìn thấy, một thứ gì đó mà người ta theo đuổi cho riêng mình. Một quá trình nội tâm.”

Oshima vuốt lại mớ tóc xõa xuống trán, những sợi mềm như chảy giữa những ngón tay thanh mảnh. “Đó là một ý hay. Sau khi trở lại thành phố, có thể Miss Saeki đã dùng tài năng của mình vào một điều gì đó mà ta không biết, hay để dùng chữ của cậu, vào một cái gì đó vô hình. Nhưng xin nhớ là bà đã biến mất khoảng hai mươi lăm năm, cho nên không cách nào biết chắc được trừ phi ta trực tiếp hỏi bà.”

Tôi lưỡng lự một chút rồi quyết định cứ hỏi. “Em có thể hỏi anh một điều thật sự ngớ ngẩn được không?”

“Thật sự ngớ ngẩn ư?”

Tôi đỏ mặt. “Hoàn toàn phi lý.”

“Không sao. Mình không nhất thiết phản đối những gì ngớ ngẩn hay phi lý.”

“Em thậm chí không thể tin là mình dám mở miệng nói điều này với ai.”

Oshima hơi nghiêng đầu, đợi tôi nói tiếp.

“Liệu có khả năng Miss Saeki là… là mẹ em được không?”

Oshima ngả người dựa vào quầy, ngẫm nghĩ tìm lời chữ cho chính xác. Chiếc đồng hồ trên tường trên tường tích tắc đếm từng giây trong khi tôi chờ đợi.

Cuối cùng, anh lên tiếng. “Vậy điều cậu muốn nói là thế này: năm Miss Saeki hai mươi tuổi, tuyệt vọng, rời khỏi Takamatsu đến sống một mình ở một nơi nào đó, bà tình cờ gặp cha cậu, ông Koichi Tamura, và hai người lấy nhau, đẻ ra cậu. Rồi bốn năm sau, xảy ra chuyện gì đó khiến bà bỏ nhà đi, để cậu lại. Sau đó là một khoảng trống mù mịt cho đến khi bà xuất hiện trở lại ở Shikoku. Mình hiểu như thế có đúng không?”

“Vâng.”

“Điều đó không phải là bất khả. Mình muốn nói: cho đến giờ, không có bằng cứ nào để bác bỏ giả thuyết của cậu. Quá nhiều điều trong cuộc đời bà vẫn còn là một bí mật hoàn toàn. Người ta đồn là bà đã từng sống ở Tokyo. Hơn nữa, bà lại trạc tuổi cha cậu. Tuy nhiên, khi trở về Takamatsu, bà chỉ có một mình. Cậu nói chị gái cậu bao nhiêu tuổi?”

“Hăm mốt.”

“Bằng tuổi mình,” Oshima nói. “Nhưng mình không phải là chị cậu, cái đó thì mình biết chắc. Mình có cha mẹ và anh trai – tất cả cùng máu mủ ruột rà. Một gia cảnh quá tốt đối với mình.” Anh khoanh tay lại và nhìn tôi một lúc. “Mình cũng có một điều muốn hỏi cậu. Cậu có bao giờ xem giấy khai sinh của mình không? Nếu có, ắt cậu phải biết tên tuổi của mẹ cậu chứ?”

“Dĩ nhiên là em có xem.”

“Vậy trong đó ghi tên mẹ cậu là gì?”

“Người ta không ghi tên mẹ em

Oshima có vẻ kinh ngạc. “Không ghi? Sao lại có thể thế được?”

“Không có tên mẹ em. Không đùa đâu. Em không hiểu tại sao lại thế. Theo giấy khai sinh thì em không có mẹ. Cũng chẳng có chị gái. Chỉ có tên cha em và tên em trong giấy khai sinh. Về phương diện pháp lý, em là một đứa con hoang. Một đứa con ngoài giá thú.”

“Nhưng thực tế, cậu đã từng có một người mẹ và một chị gái mà.”

Tôi gật đầu. “Đúng vậy, cho đến năm em lên bốn. Một gia đình bốn người chung sống, đó không phải chỉ là tưởng tượng. Em còn nhớ rất rõ mà. Ít lâu sau khi em tròn bốn tuổi, mẹ em bỏ đi mang theo chị em.”

Tôi rút ví, đưa cho Oshima xem tấm ảnh hai chị em tôi chơi trên bãi biển. Anh ngắm một lúc, mỉm cười rồi trả lại tôi.

“Kafka bên bờ biển,” anh nói.

Tôi gật đầu và cất ấm ảnh trở vào ví. Bên ngoài, gió xoáy lộn, táp mưa vào cửa kính lộp độp. Ngọn đèn trần hắt bóng tôi và Oshima trên sàn nhà, khiến chúng tôi nom giống như hai kẻ đang bàn bạc một âm mưu tăm tối nào đó ở một thế giới nghịch đảo.

“Em không nhớ mặt mẹ mình ư?” Oshima hỏi. “Em sống với mẹ đến năm lên bốn, chắc phải nhớ mang máng dáng nét của bà chứ?”

Tôi lắc đầu. “Em hoàn toàn không nhớ nổi. Em không biết tại sao, nhưng trong bộ nhớ của em, cái chỗ đáng lẽ phải lưu giữ gương mặt mẹ lại là một vệt tối đen, một khoảng trống.”

Oshima ngẫm nghĩ một lúc. “Hãy nói thêm cho anh nghe tại sao em lại nghĩ Miss Saeki có thể là

“Thôi, chừng nấy là đủ rồi,” tôi nói. “Ta hãy quên chuyện đó đi. Em đã tưởng tượng quá nhiều, thế thôi.”

“Không sao, em cứ nói tiếp tất cả những gì em nghĩ trong đầu đi,” anh nói. “Rồi hai anh em mình sẽ có thể xác định đó có phải tại em tưởng tượng quá nhiều hay không?”

Cái bóng của Oshima trên sàn chuyển động theo những cử chỉ của anh, tuy có hơi phóng đại lên một tí.

“Có rất nhiều sự trùng hợp giữa em và Miss Saeki,” tôi nói. “Y như những miếng trong trò chơi ghép hình chắp vừa khít vào nhau vậy. Em hiểu ra điều đó khi nghe bài Kafka bên bờ biển. Trước hết là việc em ị hút đến cái thư viện này như thể do số phận đưa đẩy. Thẳng một mạch từ Nakano đến Takamatsu. Ngẫm ra thì rất kỳ lạ.”

“Như tình tiết của một bi kịch Hy Lạp vậy.”

“Thế rồi, em đâm yêu,” tôi nói thêm.

“Yêu Miss Saeki?”

“Vâng, có lẽ thế.”

“Có lẽ?” Oshima cau mày nhắc lại. “Cậu muốn nói có lẽ cậu đang yêu? Hay có lẽ cậu yêu Miss Saeki?”

Tôi đỏ mặt. “Em thực sự không thể giải thích được rõ ràng,” tôi đáp. “Thật phức tạp và có nhiều điều chính em cũng không hiểu.”

“Nhưng cậu nghĩ có lẽ cậu đang yêu, có lẽ cậu yêu Miss Saeki?”

“Đúng,” tôi nói. “Rất yêu

“Có lẽ, mà lại là rất yêu.”

Tôi gật đầu.

“Đồng thời lại cũng có thể Miss Saeki là mẹ cậu?”

Lại một cái gật đầu đặc trưng của tôi.

“Với một thiếu niên mười lăm tuổi thậm chí chưa cần đến dao cạo râu, hành trang cậu mang theo quả là nặng nề,” Oshima nhấp một ngụm cà phê và thận trọng đặt tách lên đĩa. “Mình không nói thế là dở, mà chỉ nhận xét rằng cái gì cũng có giới hạn của nó.”

Tôi không nói gì.

Oshima đưa tay lên bóp thái dương và trầm ngâm. Rồi chắp tay trước ngực, nói “Mình sẽ cố tìm bản tổng phổ ấy trong thời gian sớm nhất có thể. Những việc còn lại ở đây, mình có thể tự làm nốt, vậy cậu về phòng nghỉ đi.”

Đến giờ ăn trưa, tôi ra thay Oshima ở quầy trước. Hôm nay ít khách hơn mọi khi, có lẽ vì mưa liên tục. Khi trở lại sau giờ nghỉ, Oshima đưa cho tôi một chiếc phong bì lớn đựng bản tổng phổ của Kafka bên bờ biển in ra từ máy vi tính.

“Chúng ta đang sống trong một thế giới tiện lợi thật,” anh nói.

“Cám ơn anh,” tôi nói.

“Nếu không phiền, cậu có thể pha một tách cà phê mang lên gác được không? Đen, không kem, không đường. Cậu pha cà phê ngon lắm.”

Tôi pha một tách mới, đặt vào khay, mang lên tầng hai. Như mọi khi, phòng Miss Saeki để mở và bà đang ngồi bên bàn làm việc. Khi tôi đặt cà phê lên bàn, bà ngước mắt nhìn tôi, mỉm cười, rồi đậy nắp chiếc bút máy lại, đặt lên chồng giấy.

“Thế nào, cháu đã quen với mọi thứ ở đây chưa?”

“Dần dần ạ,” tôi trả lời.

“Giờ cháu có rảnh không?”

“Thưa có ạ,” tôi nói.

“Vậy thì cháu ngồi xuống đi,” Miss Saeki chỉ chiếc ghế gỗ cạnh bàn. “Chúng ta nói chuyện một lúc.”

Trời lại bắt đầu nổi sấm ở đằng xa, rồi mỗi lúc một gần lại. Tôi làm theo lời bà và ngồi xuống ghế.

“Nhắc lại xem, cháu bao nhiêu tuổi? Mười sáu?”

“Mười lăm. Cháu vừa tròn mười lăm.”

“Cháu bỏ nhà đi, phải không?”

“Vâng.”

“Có lý do gì khiến cháu phải làm thế không?”

Tôi lắc đầu. Tôi biết nói gì đây?

Miss Saeki nhấc tách cà phê lên, nhấp một ngụm trong khi chờ tôi trả lời.

“Cháu cảm thấy nếu ở lại đó, cháu sẽ hỏng không cách chi cứu chữa nổi.”

“Hỏng ư?” Miss Saeki nheo mắt, nói.

“Vâng,” tôi nói.

Ngừng một lát, Miss Saeki lại nói. “Một cậu bé ở tuổi của cháu mà dùng cái từ hỏng, nghe cũng kỳ lạ. Có phải nói là cháu làm cô tò mò đấy. Chính xác ra, cháu nỏi hỏng theo nghĩa nào?”

Tôi tìm chữ để diễn giải cho đúng. Trước hết, tôi tìm gã thanh niên tên là Quạ, nhưng chẳng thấy gã đâu. Thành thử tôi phải tự túc lựa chọn chữ lựa lời và như vậy phải mất thời gian. Nhưng Miss Saeki vẫn kiên nhẫn chờ. Ngoài trời, chớp lóe lên và lát sau, sấm vang rền ở đằng xa.

“Cháu muốn nói là cháu sẽ có nguy cơ biến chất thành một thứ mà cháu không muốn là thế.”

Miss Saeki nhìn tôi với vẻ quan tâm đặc biệt. “Với thời gian, rốt cuộc, tất cả mọi người đều sẽ hỏng, sẽ biến thành một cái gì khác. Sớm muộn, điều đó tất sẽ xảy ra thôi.”

“Nhưng ngay cả nếu điều đó xảy ra, người ta vẫn cần có một chốn để quay về.”

“Một chốn để quay về?”

“Một chốn đáng để quay về.”

Miss Saeki nhìn thẳng vào mặt tôi.

Tôi đỏ mặt, rồi lấy hết can đảm ngước lên nhìn lại bà. Bà mặc một chiếc áo liền váy ngắn tay màu xanh nước biển. Chắc bà phải có cả một tủ đầy những áo váy màu xanh với những sắc độ khác nhau. Ngoài trang phục chính, bà chỉ đeo thêm một vòng cổ mảnh bằng bạc và một đồng hồ tay nhỏ xíu với dây da màu đen. Tôi tìm cô gái mười lăm tuổi ở nơi bà và thấy ngay lập tức. Cô đang thiêm thiếp náu mình trong khu rừng của hình ảnh trong phim nổi. Nhưng nhìn thật kỹ là phát hiện được thôi. Tim tôi lại bắt đầu đập rộn lên như có ai đóng cái đinh dài vào thành ngực bao quanh nó.

“So với tuổi mười lăm, cháu quả là rất biết lẽ đúng sai.”

Tôi không biết trả lời ra sao.

“Hồi cô mười lăm,” Miss Saeki nói với một nụ cười, “cô chỉ muốn đi biệt đến một thế giới khác, đến một nơi ngoài tầm của tất cả mọi người. Một nơi ngoài dòng chảy của thời gian.”

“Nhưng làm gì có nơi nào như thế.”

“Đúng. Vì thế mà cô đành sống ở đây, trong cái thế gian này, nơi mà mọi thứ cứ liên tục hỏng đi, lòng người luôn thay đổi và thời gian thì cứ trôi chảy không ngừng.” Bà im lặng một lát như để ám chỉ sự trôi chảy của thời gian. “Nhưng cháu biết đấy,” bà nói tiếp, “khi cô mười lăm tuổi, cô nghĩ là hẳn phải có một nơi như vậy trên thế gian này. Cô tin chắc ở đâu đó, mình sẽ tìm thấy cửa vào cái thế giới kia.”

“Hồi mười lăm tuổi, cô có cảm thấy cô đơn không?”

“Có, theo một nghĩa nào đó. Cô không trơ trọi một mình, nhưng cô cảm thấy cô đơn ghê gớm. Bởi vì cô biết mình sẽ không bao giờ hạnh phúc hơn lúc đó. Cô biết chắc thế. Vì vậy nên cô mới muốn đi đến một nơi nào đó không có thời gian để có thể mãi mãi giữ nguyên trạng thái hạnh phúc đó.”

“Cháu thì lại muốn lớn lên nhanh thôi.”

Miss Saeki ngả người ra sau để nhìn cho kỹ sắc diện của tôi. “Cháu hẳn là mạnh mẽ và độc lập hơn cô hồi ấy. Ở tuổi cháu, cô mang đ̐ tưởng rằng mình có thể trốn thoát thực tại, còn cháu thì đứng thẳng đối mặt với thực tại, đương đầu với nó. Thật khác xa nhau.”

Mạnh mẽ và độc lập ư? Cả hai phẩm chất ấy, tôi đều không có. Tôi chỉ bị thực tại xô đẩy về phía trước, dù tôi muốn hay không. Nhưng tôi không nói gì.

“Cháu biết không, cháu là cô nhớ đến một thiếu niên mười lăm tuổi cô quen hồi xưa.”

“Cậu ấy nom có giống cháu không?” tôi hỏi.

“Cháu cao hơn và lực lưỡng hơn cậu ấy, nhưng có một nét giống. Cậu ấy không thích trò chuyện với đám trẻ cùng tuổi – không đồng cảm mà – cho nên phần lớn thời gian, cậu ta cứ ru rú trong phòng đọc sách hoặc nghe nhạc. Khi gặp những đề tài khó, cậu ta cũng cau mày, y hệt cháu. Cháu cũng ham đọc, đúng không?”

Tôi gật đầu.

Miss Saeki liếc nhìn đồng hồ. “Cám ơn cháu về tách cà phê.”

Hiểu ý bà muốn bảo tôi lui, tôi đứng dậy và đi ra cửa. Miss Saeki cầm chiếc bút máy lên, chậm rãi xoáy nắp ra và lại cắm cúi viết. Lại một tia chớp lóe bên ngoài, nhuộm đẫm căn phòng một màu kỳ lạ trong thoáng chốc. Tiếng sấm đến sau một lát, lần này nghe gần hơn.

“Kafka,” Miss Saeki gọi.

Tôi dừng bước ở cửa và quay lại.

“Cô chợt nhớ có lần cô đã viết một cuốn sách về sét.”

Tôi không nói gì. Một cuốn sách về sét”Cô đã đi khắp nước phỏng vấn những người sống sót sau khi bị sét đánh. Cô bỏ mấy năm để làm việc ấy. Hầu hết các cuộc phỏng vấn đều rất lý thú. Một nhà xuất bản nhỏ đã ấn hành, nhưng chả bán được mấy. Cuốn sách không đưa ra một kết luận nào và không ai muốn đọc một cuốn sách không kết luận. Tuy nhiên, cô nghĩ, không có kết luận là chuyện hoàn toàn bình thường.”

Trong đầu tôi, một cái búa nhỏ xíu gõ vào một ngăn kéo của bộ nhớ, riết róng. Tôi cố nhớ lại một điều gì đó, một điều rất quan trọng, nhưng tôi không biết đó là gì. Lúc này, Miss Saeki đã trở lại với bài viết của mình và tôi quay về phòng riêng.

Cơn mưa giông tiếp tục khủng bố chúng tôi khoảng một giờ nữa. Sấm dồn dập liên hồi đến nỗi tôi sợ các cửa kính của thư viện đến vỡ tan tành mất. Mỗi lần một tia sét rạch ngang bầu trời, cửa sổ kính mờ ở chiếu nghỉ cầu thang lại phóng chiếu lên bức tường trắng đối diện một hình ảnh tựa như bóng ma của quá khứ. Khoảng hai giờ chiều, cơn giông ngớt và ánh sáng vàng vọt bắt đầu lách mây rọi xuống, như thể cuối cùng, đất trời đã đi đến hòa giải. Nước mưa vẫn tí tách nhỏ xuống trong nắng nhạt.

Xế chiều, tôi bắt đầu đóng cửa thư viện. Miss Saeki chào tạm biệt tôi và Oshima rồi lên xe về nhà. Tôi nghe thấy tiếng động cơ chiếc Golf của bà và hình dung bà ngồi sau tay lái, vặn chìa khóa khởi động máy. Tôi bảo Oshima là tôi có thể khóa nốt các cửa một mình. Anh vào phòng vệ sinh, vừa rửa ráy vừa huýt sáo một aria trong ca kịch rồi ra về. Tôi lắng nghe chiếc Mazda Miata nổ máy lao đi, tiếng động cơ tắt dần ở đằng xa. Giờ thì thư viện hoàn toàn thuộc về tôi. Không gian lại tĩnh mịch hơn bao giờ hết.

Tôi về phòng, nghiên cứu bản tổng phổ của Kafka bên bờ biển. Như tôi đoán, phần lớn các hợp âm đều đơn giản. Tuy nhiên, đoạn điệp khúc có một ố hợp âm hắc búa. Tôi ra phòng đọc và thử chơi trên chiếc piano đứng. Ngón bấm quả là rất khó, tôi tập đi tập lại, cố luyện tay cho thuần và cuối cùng, cũng đánh được tàm tạm. Thoạt đầu, các hợp âm nghe rất “phô”, tôi tưởng là do lỗi nhà in hoặc đàn sai dây. Nhưng rồi càng nghe kỹ hai hợp âm đó nối tiếp nhau cộng hưởng như thế nào, tôi càng vỡ lẽ ra: toàn bộ bài hát dựa trên hai hợp âm đó. Chúng giữ cho Kafka bên bờ biển khỏi xuống cấp thành một ca khúc pop tầm thường, đem lại cho nó một chiều sâu và tố chất đặc biệt. Nhưng làm thế nào Miss Saeki tìm ra được những hợp kỳ diệu đó?

Tôi trở về phòng, đun nước trong chiếc siêu điện, pha trà. Tôi lấy ra những chiếc đĩa cũ lấy ở buồng kho và lần lượt đặt lên máy quay đĩa: Blonde on Blonde của Bob Dylan, White Album của nhóm Beatles, Dock of the Bay của Otis Redding, Getz/Gilberto của Stan Getz, tất cả đều là những album nổi bật của hồi cuối những năm 1960. Chàng trai dạo xưa (cùng với Miss Saeki kề bên) hẳn cũng đã làm như tôi bây giờ: đặt đĩa lên máy, hạ cần kim xuống, lắng nghe nhạc phát ra từ bộ loa nhỏ này. Tiếng nhạc như đưa tôi và cả gian phòng tới một thời nào khác, tới một thế giới trước khi tôi ra đời. Trong khi thưởng thức âm nhạc, tôi ôn lại cuộc trò chuyện chiều nay, cố nhớ chính xác từng lời từng chữ.

“Khi cô mười lăm tuổi, cô nghĩ là hẳn phải có một nơi như vậy trên thế gian này. Cô tin chắc ở đâu đó, mình sẽ tìm thấy cửa vào cái thế giới kia.”

Tôi có thể nghe thấy tiếng bà ngay bên cạnh. Trong tim tôi, có cái gì đang gõ vào một cánh cửa, một tiếng gõ nặng nề, riết róng.

Một cửa vào.

Tôi nhấc kim lên khỏi đĩa album của Stan Getz, lấy đĩa Kafka bên bờ biển ra khỏi bao, đặt lên máy, hạ kim xuống. Và lăng nghe tiếng hát của Miss Saeki.

Cô gái chết đuối huơ tay tìm

Phiến đá cửa vào

Nâng gấu váy màu thiên thanh

Và đăm đăm nhìn

Kafka bên bờ biển

Rất có thể là cô gái mấy đêm nay đến phòng tôi đã tìm ra phiến đá cửa vào. Cô vẫn ở một thế giới khác, cũng như lúc cô còn tuổi mười lăm và hằng đêm cô tới thăm căn phòng này. Trong chiếc áo váy màu thiên thanh, cô đến đăm đăm nhìn Kafka bên bờ biển.

Đột nhiên, không biết do đâu, tôi bỗng nhớ là cha tôi từng kể rằng ông đã có lần bị sét đánh. Không phải ông trực tiếp kể cho tôi nghe mà là tôi đọc được trong một bài phỏng vấn ông trên một tạp chí. Hồi còn là sinh viên trường mỹ thuật, ông đi làm nửa thời gian ở một sân golf, mang gậy cho các đấu thủ. Một hôm, đang mang gậy cho người khách chơi trên sân, trời bỗng tối sầm lại và nổi cơn giông lớn. Họ vừa nấp vào dưới một cây to thì cây đó bị sét đánh nứt đôi. Tay chơi golf chết ngay, nhưng cha tôi, nhờ một linh tính nào đó, đã kịp thời nhảy ra khỏi cây. Ông chỉ bị cháy sém tóc và vài vết bỏng nhẹ, đồng thời hơi sét đã hất ông văng vào một tảng đá. Đầu bị va mạnh, ông ngất đi, nhưng qua khỏi cơn nguy biến với chỉ một vết sẹo trên trán. Đó chính là điều tôi đã cố nhớ lại hồi chiều lúc đứng ở khung cửa phòng Miss Saeki, lắng nghe tiếng sấm dồn. Chính sau khi bình phục khỏi những vết thương, cha tôi mới nghiêm túc chuyên tâm vào sự nghiệp điêu khắc của mình.

Có lẽ trong khi đi khắp n phỏng vấn những người bị sét đánh để hoàn thành cuốn sách của mình, Miss Saeki đã gặp cha tôi. Đó là điều hoàn toàn có thể. Những người sống sót sau khi bị sét đánh chắc hẳn không nhiều lắm.

Tôi thở rất nhẹ nhàng, chờ bình minh. Ánh trăng rẽ mây rọi xuống đám cây trong vườn. Có quá nhiều sự trùng hợp. Dường như tất cả đang tăng tốc, đồng quy tới một nơi duy nhất.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.