Kafka bên bờ biển

Chương 45



Như đã báo trước, từ ” trở đi, đường rất khó đi. Thực tế, nó không còn là một con đường nữa. Càng vào sâu, rừng càng rậm, càng đồ sộ. Những quãng dốc càng dựng đứng và mặt đất càng chi chít những bụi cây thấp. Bầu trời hầu như bị khuất hẳn, tưởng như đã sẩm tối. Chỗ nào cũng thấy mạng nhện ken dày và đang ra sức đẩy lùi sự xâm lấn của con người vào lãnh thổ của nó. Thế mà hai người lính, súng khoác vai, vẫn coi như không, dễ dàng băng qua những khe hở giữa vòm lá ken dày. Họ thoăn thoắt luồn dưới những cành lá thấp, leo lên những tảng đá, nhảy qua hố, nhanh lạ lùng, hầu như không mắc phải gai.

Tôi lật đật bám theo họ, cố không rời mắt khỏi họ. Họ thậm chí không hề ngoái lại xem tôi có theo kịp không. Cứ như là họ thử sức tôi, xem tôi chịu đựng được đến đâu vậy. Thậm chí tôi có cảm giác như họ đang cáu giận tôi – không biết vì lý do gì. Họ không nói một lời, không chỉ riêng với tôi mà cả giữa họ với nhau nữa. Họ hoàn toàn tập trung vào việc tiến bước. Không một lời trao đổi, họ luân phiên dẫn đầu. Những nòng đen bắt tréo trên lưng họ lắc qua lắc lại trước mặt tôi, đều đặn như một chiếc âm thoa kế, dần dà khiến tôi đâm buồn ngủ. Đầu óc tôi bắt đầu lãng đãng như trượt trên băng, tới một nơi nào khác. Nhưng vì phải tập trung để theo kịp nhịp bước thoăn thoắt không ngừng của họ, nên tôi vẫn cắm cúi đi, mồ hôi túa ra.

“Bọn anh đi quá nhanh đối với chú em, phải không?” cuối cùng, anh lính to con cũng ngoái lại, hỏi. Anh ta không hề thở gấp.

“Không sao,” tôi đáp, “em theo được mà.”

“Chú em trẻ và coi bộ rất khỏe đấy,” anh cao bình luận, không quay đầu lại.

“Bọn anh quá thuộc đường nên đôi khi tăng tốc quá đà,” anh to con giải thích. “Vậy nếu bọn anh đi quá nhanh, chú em cứ bảo anh, đừng e ngại, hiểu không? Chỉ cần nóiếng, bọn anh sẽ hãm chậm lại. Nhưng hãy thông cảm, bọn anh không muốn đi chậm dưới mức cần thiết. Chú em hiểu ý anh chứ?”

“Nếu em theo không kịp, em sẽ nói để các anh biết,” tôi nói, cố không thở dốc để họ khỏi biết là mình đã mệt lử. “Còn xa không?”

“Không, không xa lắm đâu,” anh cao trả lời.

“Gần đến rồi,” anh to con nói thêm.

Tôi không chắc là mình có tin anh ta hay không. Như họ đã nói, ở đây, thời gian không phải là một nhân tố đáng kể.

Cứ thế, chúng tôi tiếp tục đi một hồi, không nói không rằng, với một nhịp độ đỡ gấp gáp hơn trước. Có vẻ như họ thôi không thử sức tôi nữa.

“Rừng này có rắn độc không?” tôi hỏi. Từ đầu đến giờ, điều đó vẫn khiến tôi lo sợ.

“Rắn độc ư?” anh cao đeo kính nói, vẫn không ngoái lại. Anh không bao giờ quay đầu lại khi nói chuyện, lúc nào cũng nhìn thẳng phía trước như thể đề phòng một bất trắc ghê gớm có thể xảy ra bất cứ lúc nào. “Anh chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện ấy.”

“Có thể có,” anh to con nói và quay lại nhìn tôi. “Anh chưa thấy con nào, nhưng có thể có một số. Mà dù có đi nữa, thì cũng chả quan trọng gì.”

“Bọn anh muốn nói là rừng không nhăm nhe hãm hại chú em đâu,” anh cao xuề xòa nói thêm.

“Cho nên chú em khỏi phải lo chuyện rắn độc,” anh to con nói. “Yên tâm rồi chứ?”

“Vâng,” tôi đáp.

“Không gì ở đây: rắn độc, nấm độc, nhện độc hay sâu độc, sẽ làm tổn thương đến chú em,” anh cao nói, vẫn không quay đầu lại.

“Không gì?” tôi hỏi. Tôi không hình dung được cụ thể những gì anh nói. Hẳn là vì tôi đã mệt.

“Không một thứ gì, vật gì,” anh nói. “Không một vật gì ở đây sẽ gây tổn thương cho chú em. Thực tế, chúng ta đang ở chỗ sâu nhất của rừng. Không kẻ nào, vật nào – kể cả chính chú em – có thể gây tổn thương cho chú em.”

Tôi cố hiểu cho ra anh định nói gì. Nhưng biết bao thứ – nào là kiệt sức, nào là mồ hôi, nào là buồn ngủ bởi sự lặp đi lặp lại đơn điệu của hành trình xuyên rừng – khiến đầu óc tôi không thể suy nghĩ mạch lạc.

“Hồi bọn anh còn là lính, họ bắt bọn anh tập đâm lê, rạch toang bụng quân địch,” anh to con đáp. “Chú em biết cách tốt nhất để đâm ai bằng lưỡi lê là như thế nào không?”

“Không,” tôi đáp.

“Này nhé, trước hết xọc mũi lê vào sâu trong bụng kẻ địch, rồi vặn xoắn sang bên cạnh. Như vậy sẽ cứa nát ruột thành từng mảnh và hắn sẽ chết một cái chết khủng khiếp: từ từ, đau đớn. Nhưng nếu chỉ đâm mà không vặn xoắn, kẻ địch sẽ có thể vùng dậy và chính hắn sẽ băm nát ruột anh. Ấy, cái thế giới chúng ta đang sống nó như thế đấy.”

Ruột. Oshima có lần nói với tôi ruột là một ẩn dụ về mê cung. Đầu tôi đầy ắp những ý nghĩ các kiểu, xoắn xuýt vào nhau, rối tung, không sao tách bạch nổi.

“Chú em có biết tại sao người ta lại làm những điều tàn như thế với người khác không?” anh lính cao kều hỏi.

“Em không biết,” tôi đáp.

“Anh đây cũng chịu không sao hiểu nổi,” anh nói. “Anh bất cần kẻ địch là ai: lính Tàu, Nga hay Mỹ. Anh không bao giờ muốn băm ruột họ. Nhưng cái thế giới mà chúng ta đang sống nó là như thế và chính vì vậy mà bọn anh đã đào ngũ. Xin đừng hiểu lầm anh, hai đứa anh đây không phải là những kẻ hèn nhát. Thực ra, bọn anh là những người lính xuất sắc. Có điều bọn anh không chịu nổi cơn xoáy lốc bạo lực ấy. Anh cũng không nghĩ chú em là một kẻ hèn nhát.”

“Em thực sự không biết,” tôi thành thật trả lời. “Nhưng em luôn cố gắng để trở nên mạnh hơn.”

“Điều đó rất quan trọng,” anh to con nói, lại quay về phía tôi. “Rất quan trọng đấy – làm hết sức mình để trở nên mạnh hơn.”

“Anh có thể nói chú em khá mạnh đấy,” anh cao kều nói. “Hầu hết thiếu niên ở tuổi chú em ắt không thể băng rừng theo bọn anh tới tận đây.”

“Phải, thế là oách đấy,” anh to con chen vào.

Hai anh dừng lại ở một điểm. Anh lính cao kều bỏ kính ra, xoa cánh mũi vài cái, rồi lại đeo kính vào. Không anh nào thở dốc hoặc đổ mồ hôi.

“Khát không?” anh cao hỏi.

“Hơi thôi,” tôi đáp. Thực ra, tôi khát muốn chết – tôi đã vứt bi-đông cùng với chiếc ba lô. Anh tháo chiếc bi-đông đeo ngang lưng đưa cho tôi. Tôi uống vài ngụm nước âm ấm trong đó, cảm thấy nó ngấm đên từng lỗ chân lông trên cơ thể. Tôi lau sạch miệng bi-đông rồi đưa trả anh

“Cám ơn,” tôi nói.

Anh lính cao lặng lẽ gật đầu.

“Chúng ta đã tới đỉnh,” anh lính to con nói.

“Chúng ta sẽ đi thẳng một mạch xuống đáy, chú em phải chú ý đừng để sẩy chân đấy,” anh lính cao cảnh báo.

Tôi thận trọng theo họ xuống con dốc trơn tuột xảo trá. Đến nửa đường, chúng tôi quành một góc rộng, xuyên qua một lùm cây và đột nhiên một thế giới khác mở ra bên dưới chúng tôi. Hai anh lính dừng bước vào quay lại nhìn tôi. Họ lặng thinh nhưng mắt họ nói nhiều. Đến nơi rồi, chúng nói với tôi. Đây là nơi chú em sắp bước chân vào. Tôi đứng đó với họ và ngắm nhìn cái thế giới ấy.

Đó là một thung lũng, một thứ lòng chảo được khoét gọn ghẽ nương theo những đường viền tự nhiên của dải đất. Tôi không biết bao nhiêu người có thể sống ở đây, nhưng chắc là không nhiều vì con thung không lớn lắm. Có vài đường phố với những ngôi nhà đây đó hai bên. Phố nhỏ, nhà cũng nhỏ. Không thấy ai ngoài đường. Tất cả các nhà đều không có gì đặc sắc, dựng lên cốt để che mưa nắng chứ không nhằm làm đẹp. Toàn bộ nơi này không đủ lớn để có thể gọi là một thị trấn. Không có cửa hàng, biển báo hay panô quảng cáo gì cả. Chỉ là một dúm nhà, tất cả đều cùng một cỡ, một dạng, tình cờ tụ lại thành một cộng đồng nhỏ. Không nhà nào có vườn và đường phố chẳng có lấy một bóng cây. Dường như vì bốn bề đã có rừng bao quanh nên chả cần có thêm cây cối làm gì.

Một làn gió nhẹ thổi qua rừng làm rung những lá cây quanh tôi. Cái tiếng lào xào vô danh ấy tạo nên những gợn sóng lăn tăn trên những nếp cuộn của tâm trí tôi. Tôi đặt tay lên một thân cây và nhắm mắt lại. Những gợn sóng kia như là một tín hiệu, một thứ báo hiệu nào đó, nhưng nó thuộc một ngôn ngữ lạ lẫm mà tôi không giải mã nổi. Tôi bỏ cuộc, mở mắt ra và lại đăm đăm nhìn cái thế giới mới toanh trứoc mặt. Đứng ở lưng chừng dốc, cùng với hai người lính ngó xuống thung lũng, tôi cảm thấy những gợn sóng nọ chuyển động trong tôi. Những tín hiệu ấy tự cấu tạo lại, những ẩn dụ biến đổi và tôi trôi đi, trôi xa khỏi bản thân. Tôi thành một com bướm dập dờn dọc theo đường biên của tạo hóa. Bên kia đường biên của thế giới, có một khoảng không gian ở đó trống rỗng và thực chất hầu như gối lên nhau, ở đó quá khứ và tương lai họp thành một đường vòng liên tục, bất tận. Và bay lượn quanh đó là những tín hiệu chưa ai từng giải mã, những hòa thanh chưa ai từng nghe thấy.

Tôi cố thở bình thường trở lại. Tâm trí tôi chưa trấn tĩnh hoàn toàn, nhưng ít nhất thì tôi cũng không sợ nữa.

Không một lời, hai người lính lại bắt đầu đi và tôi lặng lẽ theo sau. “Thị trấn” mỗi lúc một gần. Tôi nhìn thấy một dòng suối nhỏ có kè đá chảy dọc theo một con đường. Làn nước đẹp, trong vắt, tiếng róc rách thật dễ chịu. Mọi thứ ở đây đều đơn sơ và ấm cúng. Lác đác những cột cao mảnh chăng dây nối liền nhau, có nghĩa vùng này chắc có điện. Điện ở nơi thẳm cùng này ư?

Xung quanh khu này là một hàng rào cây xanh cao vút. Bầu trời vẫn đầy mây xám. Hai anh lính và tôi đi dọc phố nhưng không gặp một ai. Tất cả hoàn toàn tĩnh lặng, không một tiếng động. Có lẽ mọi người đều đóng kín cửa, ở trong nhà, nín thở chờ chúng tôi đi khỏi.

Hai người bạn đường đưa tôi đến một ngôi nhà. Lạ thay, nó giống hệt căn nhà gỗ của Oshima, cả về kích thước lẫn hình dáng. Như thể cái nọ được dùng làm mẫu cho cái kia vậy. Có một hàng hiên bên ngoài với một chiếc ghế. Mái bằng với một ống khói thò lên. Trong phòng ngủ, một chiếc giường một đơn sơ sắp xếp gọn gàng tinh tươm. Điểm khác biệt duy nhất: phòng ngủ và phòng khách riêng biệt, có toa-lét trong nhà và có điện. Lại có cả một tủ lạnh nhỏ trong bếp, đời cổ. Một ngọn đèn ròng xuống từ trên trần. Và một chiếc tivi nữa. Một chiếc tivi?

“Tạm thời, chú em phải ở đây đến khi nào ổn định,” anh lính to con nói. “Sẽ không lâu đâu. Tạm thời thôi.”

“Một nhân tố không đáng kể,” anh kia gật đầu nhấn mạnh thêm.

“Điện ở đây lấy từ nguồn nào vậy?”

Hai anh nhìn nhau.

“Từ một trạm phong điện nhỏ ở sâu nữa trong rừng, chỗ ấy lúc nào cũng có gió,” anh cao giải thích. “Chúng ta phải có điện chứ, phải không nào?” “Không có điện thì không dùng được tủ lạnh,” anh to con nói. “Không chạy được tủ lạnh thì không giữ thức ăn được lâu.”

“Không có nó, ta vẫn khắc phục được bằng cách nào đó,” anh cao nói, “nhưng có nó thì vẫn tiện hơn.”

“Nếu chú em đói, cứ mở tủ lạnh ra, có gì ăn nấy,” anh to con nói. “Nhưng anh sợ là cũng chẳng nhiều nhặn gì.”

“Ở đây không có thịt, cá, cà phê hoặc rượu,” anh cao nói. “Thoạt đầu cũng gay, nhưng rồi sẽ quen dần.”

“Nhưng lại có trứng, sữa và phó mát. Cần phải có prôtêin chứ, phải không?”

“Ở đây, người ta không làm những thứ ấy,” anh cao giải thích, nên phải kiếm ở nơi khác. “Đem một thứ gì đó đến trao đổ

“Nơi khác?”

“Phải,” anh cao gật đầu. “Ở đây chúng ta đâu có cách biệt khỏi thế giới. Vẫn có một nơi khác. Có thể phải mất một thời gian nữa, nhưng rồi chú em sẽ hiểu.”

“Chiều nay, sẽ có người đến làm bữa tối cho chú em,” anh lính to con nói. “Từ giờ đến lúc đó, nếu buồn thì bật tivi lên mà xem.”

“Có show gì trên tivi không?”

“Anh cũng không biết có những gì,” anh cao đáp, hơi lúng túng. Anh nghiêng nghiêng đầu nhìn bạn mình.

Anh to con cũng nghiêng nghiêng đầu, băn khoăn ra mặt. “Nói thật với chú em, anh chả biết gì mấy về tivi. Anh chả bao giờ xem cả.”

“Họ đặt tivi ở đây là dành những ai mới đến,” anh cao nói.

“Nhưng chắc phải có chương trình gì đó cho chú em xem chứ.”

“Thôi hẵng cứ nghỉ một lúc đã,” anh cao nói. “Bọn anh phải trở về vị trí đây.”

“Cám ơn các anh đã đưa em tới đây.”

“Không có gì. Chú em khỏe chân hơn nhiều so với những người khác mà bọn anh đã đưa đến đây. Khối người không theo kịp. Thậm chí có một số bọn anh phải cõng trên lưng. Với chú là nhẹ nhàng nhất đấy.”

“Nếu anh nhớ không lầm,” anh cao nói, “thì chú đã nói là chú muốn gặp ai đó ở đây.”

“Đúng thế

“Anh dám chắc không bao lâu chú em sẽ gặp được thôi, bất kể người ấy là ai,” anh vừa nói vừa gật đầu liền mấy cái để nhấn mạnh. “Cái thế giới này nhỏ xíu ấy mà.”

“Anh hy vọng chú em sẽ sớm quen với nó,” anh lính to con nói.

“Một khi đã quen, thì mọi sự sẽ dễ dàng thôi,” anh lính cao nói thêm.

“Em thành thật cảm tạ.”

Hai anh lính đứng nghiêm chào, khoác súng lên vai rồi quay đi, thoăn thoắt bước trên con đường trở về vị trí của mình. Họ phải canh gác cửa vào cả ngày lẫn đêm.

Tôi vào bếp và kiểm tra xem trong tủ lạnh có những gì. Có cà chua, cà rốt, củ cải đỏ, một khoanh phó-mát và một bình sứ lớn đầy sữa. Cả bơ nữa. Trên giá có một ổ bánh mì, tôi bẻ một miếng ăn thử. Hơi rắn nhưng không tồi.

Bếp có một bồn rửa và một vòi nước. Tôi vặn vòi và nước chảy ra, trong mát. Chắc là được bơm từ một cái giếng vì ở đây có điện mà. Tôi hứng đầy một cốc và uống.

Tôi đến bên cửa sổ, nhìn ra ngoài. Trời vẫn đầy mây xám, tuy nhiên không có vẻ gì là sắp mưa. Tôi đăm đăm nhìn ra ngoài cửa sổ hồi lâu nhưng vẫn không thấy bóng người nào khác. Như thể một thị trấn chết vậy. Hoặc giả vì một lý do nào đó, mọi người đang cố tránh tôi.

Tôi rời cửa sổ và ngồi xuống một cái ghế gỗ cứng lưng thẳng. Có tất cả ba chiếc ghế và một bàn ăn vuông đã được đánh véc-ni nhiều lần. Trên tường không treo gì cả – không tranh, không ảnh, lịch cũng không. Chỉ trơ tường trắng. ột ngọn đèn đơn rủ xuống từ trần nhà, với một cái chao thủy tinh đơn giản đã bạc phếch vì sức nóng.

Căn phòng được quét dọn lau chùi sạch sẽ. Tôi lướt ngón tay trên mặt bàn và bậu cửa sổ – không một chút bụi. Cửa sổ cũng bóng loáng. Bát đĩa, xoong nồi trong bếp không mới, nhưng rõ ràng đã được giữ gìn cẩn thận và rất sạch. Cạnh bàn bếp có hai bếp điện cũ. Tôi bật thử một cái, dây xoắn đỏ liền.

Chiếc tivi màu cũ kỹ – tôi đoán khoảng mười lăm đến hai mươi năm tuổi – được lồng khít vào một tủ gỗ nặng nề. Không có điều khiển từ xa. Nó giống như một thứ đồ nhặt về từ bãi rác. Cũng có thể nói vậy về tất cả các đồ điện khác trong nhà. Không phải là chúng bẩn thỉu hay không dùng được, mà chỉ vì nom chúng cũ kỹ và lỗi thời.

Tôi bật tivi. Đài đang phát một phim cũ – Giai điệu hạnh phúc [15]. Hồi tôi học cấp một, thầy giáo đã đưa cả lớp đi xem phim này ở một rạp chiếu bóng màn ảnh rộng. Trong nhà, không có người lớn nào quan tâm đưa tôi đi xem phim hay coi kịch, nên đó là một trong số những phim hiếm hoi tôi được xem hồi bé. Trên màn ảnh nhỏ lúc này là đoạn người cha nghiêm khắc và cứng nhắc, Đại úy von Trapp, đang đi công tác ở Viên và ở nhà, cô gia sư Maria đưa bọn trẻ lên núi chơi. Tất cả ngồi trên bãi cỏ, Maria đệm ghi-ta cho bọn trẻ hát mấy ca khúc hồn nhiên. Đó là một đoạn rất nổi tiếng. Tôi ngồi ngây trước tivi, dán mắt vào màn ảnh. Hệt như khi xem lần đầu, tôi lại tự hỏi liệu mọi sự sẽ xoay ra thế nào nếu như tôi có một người như cô Maria ở bên. Khỏi phải nói, chẳng có ai như thế xuất hiện trong đời tôi.

Tôi quay trở về thực tại. Tại sao đúng lúc này, tôi lại vớ phải phim Giai điệu hạnh phúc? Có thể những người ở đây đã bắt được tín hiệu từ một trạm vệ tinh. Hay chỉ là một băng video họ dùng để phát vào chương trình này. Tôi đoán đó là băng video vì khi tôi chuyển kênh thì các k khác chẳng có gì, ngoại trừ tiếng lạo xạo vô cớ và những chấm li ti trên nền trắng tĩnh tại gợi lên hình ảnh một cơn bão cát dữ dội.

Tôi tắt tivi ở đoạn họ đang hát bài Edelweiss. Im lặng trở lại trong căn phòng. Tôi thấy khát và vào bếp uống một ít sữa từ chiếc bình sứ. Sữa đậm đặc và tươi mát, vị ngon gấp trăm lần những bịch sữa ta thường mua ở những cửa hàng phục vụ 24/24. Trong khi nốc hết cốc này đến cốc khác, tôi chợt nhớ đến một cảnh trong phim Sống bừa bãi của Francois Truffaut kh Antoine bỏ nhà đi và một sáng sớm, bụng đói meo, đã lấy trộm một chai sữa do người giao hàng đặt trước cửa một nhà nào đó rồi vừa chạy trốn vừa uống. Chai sữa khá to, phải mất một lúc mới uống hết được. Một cảnh buồn não lòng – mặc dù thật khó mà tin rằng một cảnh uống sữa đơn thuần lại có thể buồn đến thế. Đó là một bộ khác trong số phim ít ỏi mà tôi được xem hồi còn bé. Hồi đó, tôi học lớp năm và cái tên phim làm tôi chú ý, nên tôi đi tàu một mình đến tận Ikebukuro để xem rồi lại đi tàu về. Vừa ra khỏi rạp, tôi liền mua sữa, uống ừng ực. Tôi không sao đừng được.

Sau khi uống ngần nấy sữa, giờ tôi đâm buồn ngủ. Một cơn buồn ngủ choáng ngợp, gần như lộn mửa, xâm chiếm tôi. Ý nghĩ của tôi chậm lại rồi dừng hẳn như con tàu vào ga. Tôi không thể nghĩ gì được nữa, tựa hồ cái cốt lõi của cơ thể tôi đã đông lại. Tôi vào phòng ngủ, lóng ngóng cởi quần, cởi giày, rồi gieo mình xuống giường, vùi mặt vào gối và nhắm mắt lại. Gối thơm mùi nắng, một mùi quý giá. Tôi hít lấy hít để và ngủ thiếp đi lúc nào không biết.

Khi tôi tỉnh dậy, xung quanh đã tối mịt. Tôi mở mắt ra và cố nghĩ xem mình đang ở đâu. Hai người lính dẫn mình qua rừng đến một thị trấn nhỏ bên một bờ suối, phải không nhỉ? Trí nhớ tôi từ từ trở lại. Mắt nhìn rõ dần. Tôi nghe thấy một giai điệu quen quen. Edelweiss. Trong bếp, có tiếng xoong nồi khẽ lách cách, thân thuộc. Ánh điện lọt vào phòng ngủ qua kheẻ một vạch vàng, bụi bặm, cổ lỗ.

Tôi định ra khỏi giường nhưng toàn thân tôi tê cứng. Tôi hít một hơi thật sâu và nhìn lên trần nhà. Tôi nghe thấy tiếng bát đĩa, tiếng một người nào đó bận rộn chạy đi chạy lại trên sàn nhà bếp, chắc là làm bữa cho tôi. Cuối cùng, tôi cũng đứng dậy được. Phải mất một lúc tôi mới chật vật mặc được quần, xỏ được chân vào tất và giày. Tôi lặng lẽ xoay quả đấm, mở cửa.

Một cô gái đang đun nấu trong bếp. Quay lưng về phía tôi, cô đang cúi trên một cái nồi, dùng thìa nếm thức ăn, nhưng khi nghe thấy tiếng cửa mở, cô ngẩng lên và quay đầu lại. Chính là cô. Cô gái đã đến phòng tôi ở thư viện, ngồi ngắm bức tranh trên tường, Miss Saeki năm mười lăm tuổi. Cô vẫn mặc bộ đồ ấy, chiếc áo váy xanh nhạt dài tay. Điều khác duy nhất là hôm nay, cô cặp tóc ra sau gáy. Cô khẽ mỉm cười với tôi và nụ cười nồng nàn ấy khiến tôi ngập tràn một nỗi xúc động mãnh liệt đến mức tưởng như cả thế giới bỗng lộn tùng phèo. Như thể mọi vật cụ thể vỡ tan ròi lại chắp lại nguyên vẹn. Nhưng cô gái không phải ảo ảnh, chắc chắn không phải là ma. Cô là một cô gái đang sống, đang hít thở,một con người mà ta có thể chạm vào, đang đứng trong một căn bếp thật vào lúc chạng vạng hoàng hôn, nấu cho tôi bữa ăn thật. Cặp vú nhỏ của cô nhô lên dưới làn áo, cái cổ trắng mịn như sứ vừa ra lò. Tất cả đều thật.

“Ồ, anh dậy rồi đấy à?” cô hỏi.

Tôi không thốt nên lời. Tôi còn đang cố định thần lại.

“Anh ngủ tốt thật đấy,” cô nói và quay lại tiếp tục nếm món ăn. “Nếu anh không dậy, thì em sẽ cứ dọn bữa lên bàn rồi về.”

“Tôi không chủ định ngủ nhiều thế,” cuối cùng tôi cũng mở được miệng.

“Anh đã đi xuyên suốt khu rừng, vậy chắc là đói lắm,” cô nói.

“Tôi không biết. Nhưng chắc thế.”

“Tôi muốn vươn tay ra xem có thể thực sự chạm vào cô được không. Nhưng tôi không dám, chỉ đứng đực ra đấy, nhìn cô như muốn nuốt chửng. Tôi lắng nghe tiếng cô lăng xăng đi tới đi lui trong bếp.

Cô múc món hầm nóng sốt ra một cái đĩa trắng mộc mạc, đem đặt trên bàn. Ngoài ra còn có một bát nộm cà chua và rau xanh, và một ổ bánh mì lớn. Mùi thơm củ khoai tây và cà rốt trong món hầm khiến tôi nao nao nhớ. Tôi hít nó vào thật sâu và nhận ra rằng mình đang đói muốn chết. Tôi cần phải ăn đã. Trong khi tôi ăn bằng cặp thìa, dĩa cũ kỹ, cô gái ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh, theo dõi với vẻ mặt nghiêm túc, tựa hồ quan sát tôi ăn là một phần trọng yếu trong nhiệm vụ của cô vậy. Thi thoảng, cô đưa tay vuốt tóc ra đằng sau.

“Họ bảo em là anh mười lăm tuổi,” cô nói.

“Đúng,” tôi vừa đáp vừa phết bơ lên một lát bánh mì. “Tôi vừa tròn mười lăm”.

“Em cũng mười lăm,” cô nói.

Tôi gật đầu. Điều đó thì tôi đã biết, suýt nữa tôi buột miệng nói thế. Nhưng hãy còn quá sớm. Tôi cắn một miếng nữa.

“Em sẽ nấu ăn cho anh một thời gian,” cô nói. “Cả quét dọn, lau chùi, giặt giũ nữa. Quần áo ở trong tủ trong buồng ngủ ấy, anh cứ thoải mái dùng. Đồ thay ra, anh cứ để ở làn, em sẽ lo.”

“Ai giao cho cô công việc này?

Cô đăm đăm nhìn tôi không trả lời. Có vẻ như câu hỏi của tôi đi chệch hướng và bị hút thỏm vào một khoảng không vô danh.

“Cô tên gì?” tôi hỏi, thử một chiến thuật khác.

Cô lắc đầu. “Em không có tên. Mọi người ở đây không ai có tên cả.”

“Nhưng nếu cô không cso tên, tôi biết gọi cô thế nào đây?”

“Không cần phải gọi em,” cô nói. “Hễ anh cần là em sẽ đến ngay.”

“Tôi đồ rằng ở đây cả tôi cũng không cần đến tên của mình nữa?”

Cô gật đầu. “Anh là anh, chứ không phải là ai khác. Anh là anh, đúng không nào?”

“Có lẽ thế,” tôi nói.

Nhưng tôi không dám chắc lắm. Có thật tôi là tôi không?

Suốt từ nãy, cô cứ nhìn tôi không chớp mắt.

“Cô có nhớ thư viện ấy không?” tôi hỏi thẳng.

“Thư viện nào?” cô lắc đầu. “Không… Cách đây khá xa, có một thư viện, nhưng ngay đây thì không.”

“Vùng này có một thư viện?”

“Vâng, nhưng trong đó chẳng có sách gì cả.”

“Không có sách thì có gì?”

Cô nghiêng nghiêng đầả lời. Một lần nữa, câu hỏi của tôi đi lạc và mất tiêu.

“Cô đã đến đấy bao giờ chưa?”

“Đã lâu lắm rồi,” cô nói.

“Nhưng đó không phải là nơi để đọc sách ư?”

Cô gật đầu. “Ở đấy không có cuốn sách nào.”

Tôi lặng lẽ ăn một lúc. Món hầm, món nộm, bánh mì. Cô cũng chẳng nói gì, chỉ nghiêm trang quan sát tôi.

“Thức ăn thế nào?” Cô hỏi vậy khi tôi ăn xong.

“Rất ngon.”

“Mặc dù không có thịt hay cá?”

Tôi chỉ cái đĩa sạch trơn. “Cô thấy không, tôi chả để sót tí gì.”

“Em nấu đấy.”

“Rất ngon,” tôi nhắc lại. Tôi nói thành thực mà.

Ngồi đây với cô mà tôi cảm thấy đau nhói như có một lưỡi dao giá băng đâm vào ngực. Nhưng kỳ lạ thay, tôi lại biết ơn nỗi đau ghê gớm ấy vì nó chứng tỏ rằng tôi tồn tại. Nỗi đau giá băng ấy là cái neo neo tôi lại đây. Cô gái đứng dậy đun nước, pha trà. Trong khi tôi ngồi uống trà tại bàn, cô mang bát đĩa bẩn vào bếp và bắt đầu rửa. Tôi ngắm nhìn cô làm mọi việc đó. Tôi muốn nói một điều gì đó, nhưng dường như lời lẽ khước từ chức năng của nó khi tôi ở bên cô. Hoặc giả ý nghĩa liên kết các chữ vớin hau đã biến mất? Tôi nhìn trân trân vào hai bàn tay mình và nghĩ đến cây sơn thù du ngoài cửa sổ, lấp lánh dưới ánh trăng. Cái lưỡi dao đâm vào tim tôi chính là ở đó.

“Rồi tôi có gặp lại cô nữa không?” tôi hỏi.

“Tất nhiên là có chứ,” cô đáp. “Như em đã nói, hễ anh cần là em sẽ đến ngay.”

“Cô sẽ không đột ngột biến mất chứ?”

Cô lặng thinh, chỉ nhìn tôi với một vẻ kỳ lạ trên gương mặt như muốn nói: Anh nghĩ em biến đi đâu mới được chứ?

“Tôi đã gặp cô trước đây,” tôi đánh bạo nói. “Ở một vùng đất khác, trong một thư viện khác.”

“Nếu anh nói thế thì là thế,” cô vừa nói vừa đưa tay lên xem cặp tóc còn chặt không. Giọng cô hoàn toàn vô cảm, như thể cô muốn tỏ cho tôi biết là cô không hề quan tâm đến chuyện ấy.

“Tôi nghĩ mình đến đây là để gặp cô một lần nữa. Cô và một người đàn bà khác.”

Cô ngước lên nhìn tôi và nghiêm trang gật đầu. “Xuyên suốt khu rừng sâu để tới đây.”

“Đúng. Tôi nhất định phải gặp lại cô và người phụ nữ kia.”

“Và anh đã gặp em.”

Tôi gật đầu.

“Như em đã nói với anh,” cô nói, “hễ anh cần là em sẽ đến ngay.”

Rửa ráy xong, cô để nồi xoong, bát đĩa lên giá rồi khoác cái túi bạt lên vai.

“Sáng mai, em sẽ trở lại,” cô nói. “Hy vọng anh sẽ sớm quen với nơi này.”

Tôi đứng ở cửa, nhìn cô đi khuất vào màn đêm. Tôi lại một mình trong căn nhà nhỏ, bên trong một vòng tròn khép kín. Ở đây, thời gian không phải là một nhân tố. Ở đây, không ai có tên. Cô sẽ đến khi nào tôi cần. Cô mười lăm tuổi. Mãi mãi mười lăm, tôi nghĩ. Nhưng điều gì sẽ đến với tôi? Ở đây, liệu rồi tôi có vĩnh viễn dừng lại ở tuổi mười lăm? Phải chăng ở đây, tuổi tác cũng không phải là một nhân tố?

Tôi đứng ở cửa hồi lâu sau khi cô đi khuất, lơ đãng nhìn quanh cảnh bên ngoài. Trời vắng trăng sao. Ở một số ngôi nhà khác, đèn đã bật, hắt sáng qua cửa sổ. Cũng cái ánh sáng vàng khè cổ lỗ như trong căn phòng này. Nhưng tôi vẫn không nhìn thấy người nào. Chỉ thấy sáng đèn thôi. Bên ngoài, bóng tối mỗi lúc một lan rộng. Xa nữa, đen hơn cả bóng đên, chỏm núi sừng sững nhô lên và khu rừng bao quanh thị trấn này như một bức trường thành.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.