Kafka bên bờ biển

Chương 46



Sau khi Nakata chết, Hoshino không thể rời khỏi căn hộ. Với phiến đá cửa vào còn ở đó, một điều gì đó có thể xảy ra và khi nó xảy ra, gã muốn có mặt để xử lý kịp thời. Giờ đây, gã phải kế thừa nhiệm vụ canh chừng phiến đá của Nakata. Gã bật điều hòa nhiệt độ trong phòng Nakata ở mức thấp nhất có thể và mở quạt gió hết cỡ, đóng thật chặt các cửa sổ. Không khí trong phòng có cái mật độ đặc biệt chỉ thấy ở nơi có xác chết.

“Ông không lạnh quá đấy chứ?” gã nói với Nakata. Đương nhiên là ông lão chẳng có ý kiến thuận, nghịch gì.

Hoshino ngồi phịch xuống chiếc sofa trong phòng khác, để mặc cho thời gian trôi qua. Gã chẳng thiết nghe nhạc hay đọc sách. Hoàng hôn xuống, căn phòng tối dần, nhưng gã cũng chẳng buồn đứng dậy bật đèn. Gã cảm thấy hoàn toàn kiệt lực và một khi đã yên vị trên sofa, gã không đủ ý chí để đứng lên nữa. Thời gian chầm chậm đến và chầm chậm qua, đủng đỉnh đến nỗi đôi khi gã ngỡ như nó đi lộn lại.

Khi ông nội mình mất, gã nghĩ, đó là một cú nặng nề, nhưng không như thế này. Ông đã trải qua bao ngày đau bệnh và mọi người đều biết kết cục ấy chỉ là vấn đề thời gian. Cho nên khi ông chết, mọi người đã được chuẩn bị. Có hay không có được cơ may tự rèn luyện mình để đón nhận điều tất yếu là cả một sự khác nhau lớn. Nhưng đó không phải là điểm khác duy nhất, Hoshino kết luận. Cái chết của Nakata còn có một cái gì buộc phải suy nghĩ thật sâu.

Chợt thấy đói, gã vào bếp hâm một ít cơm rang bằng lò vi sóng và ăn hết một nửa cùng với bia. Sau đó, gã trở lại xem Nakata thế nào. Ngộ nhỡ ông ấy sống lại thì sao? gã nghĩ. Nhưng không, ông già vẫn chết thẳng cẳng. Căn phòng giống như một nhà đông lạnh, lạnh đến mức có thể bảo quản kem trong đó.

Đây là lần đầu tiên Hoshino qua đêm trong cùng nhà với một xác chết và gã không thể yên tâm được. Không phải là mình sợ, gã tự nhủ. Điều đó không làm mình sởn gai ốc. Mình chỉ không biết nên ứng xử thế nào với một người chết bên cạnh thôi. Sự trôi chảy của thời gian đối với người chết khác xa đối với người sống. Cả âm thanh cũng vậy. Vì thế mình không thể trấn tĩnh được, gã kết luận. Nhưng mình có thể làm gì được? Ông Nakata đã đi sang thế giới của người chết, mà mình thì còn ở cõi của người sống. Cố nhiên là có một khoảng trống ngăn cách. Gã đứng dậy khỏi sofa và đến ngồi cạnh phiến đá. Gã bắt đầu đưa tay vuốt nhẹ mặt đá như nựng một con mèo.

“Tớ phải làm gì” gã nói với phiến đá. “Tớ muốn bàn giao ông Nakata cho ai đó lo liệu, nhưng tớ không thể làm thế chừng nào chưa lo xong với cậu. Cậu có kế gì mách cho tớ không?”

Nhưng đá chẳng trả lời. Lúc này, nó chỉ là một phiến đá, và Hoshino hiểu thế nào. Gã có hỏi đến rã họng cũng chẳng thể moi được một lời giải đáp. Mặc dù thế, gã vẫn ngồi đó xoa mặt đá. Gã hỏi tiếp mấy câu, trình bày lý lẽ và cố hết sức tranh thủ sự cảm thông. Tuy biết là vô ích, nhưng gã không nghĩ ra cách nào khác. Ông Nakata đã ngồi nói chuyện với phiến đá suốt, vật thì tại sao lại không nhỉ?

Tuy nhiên, nói với một phiến đá, xin nó rủ lòng thương – nghe mới lâm ly làm sao, gã nghĩ thầm. Chả trách có cái thành ngữ trái tim đá.

Gã đứng dậy, toan mở tivi xem tin thời sự song nghĩ thế nào lại thôi và lại ngồi xuống bên cạnh phiến đá. Bây giờ, im lặng là tốt nhất, gã quyết định. Cần phải lắng tai nghe cho kỹ, chờ xem cái gì sắp xảy đến. “Nhưng chờ đợi lại không phải là điểm mạnh của tớ,” Hoshino nói với phiến đá. Xét cho cùng, tớ thuộc loại nôn nóng và đã nhiều lần phải trả giá vì thế. Bao giờ cũng hấp ấp, nhanh nhẩu đoảng và làm hỏng việc. Mày cứ ngúng ngoắng như con mèo cái động đực, dạo xưa ông nội tớ thường bảo tớ thế. Nhưng giờ tớ phải ngồi im và chờ đợi. Hãy kiên nhẫn nào!

Tất cả đều im ắng, ngoại trừ tiếng ro ro của máy điều hòa nhiệt độ mở hết cỡ ở phòng bên. Đồng hồ chỉ chín giờ, rồi mười giờ, mà chẳng thấy có gì xảy đến. Thời gian qua, đêm sâu thêm, vẫn chẳng có gì khác. Hoshino mang mền ra phòng khách, nằm xuống sofa, đắp mền lên người. Gã nghĩ tốt nhất là cứ ở gần kề phiến đá, kể cả trong khi ngủ, phòng khi có chuyện gì xảy đến. Gã tắt đèn và nhắm mắt lại.

“Này, phiến đá! Tớ đi ngủ đây,” gã gọi to. “Mai chúng mình sẽ lại nóiiếp. Hôm nay là một ngày dài, tớ cần chợp mắt một tí.”

Chà, nói ngày dài còn là nhẹ, chưa lột tả được hết, gã nghĩ.

“Ông nội,” gã gọi to hơn. “Ông Nakata! Ông có nghe thấy cháu không?” Không có trả lời.

Hoshino thở dài, nhắm mắt lại, chỉnh lại chiếc gối rồi ngủ thiếp đi. Gã ngủ một mạch đến hết đêm, chẳng mộng mị gì cả. Ở phòng bên, Nakata tiếp tục giấc ngủ như đá của mình, hẳn cũng không mộng mị gì.

Bảy giờ sáng hôm sau, vừa trở dậy, Hoshino sang ngay xem Nakata ra sao. Máy điều hòa nhiệt độ vẫn ro ro chạy hết công suất, thổi khí lạnh vào phòng. Vào giữa căn phòng lạnh giá ấy, Nakata vẫn chết cứng. Thậm chí, so với đêm trước, cái chết dường như còn túm chặt lão hơn. Da lão đã sạm màu tro, đôi mắt nhắm nghiền đờ đẫn một cách trịnh trọng. Chẳng có chuyện lão sống lại, đột ngột ngồi dậy và nói, Xin lỗi, cậu Hoshino. Nakata này chỉ ngủ thôi. Xin thứ lỗi. Cậu khỏi lo, lão sẽ mang nó đi đây – rồi quay sang xử lý với phiến đá. Điều đó sẽ không bao giờ xảy ra nữa. Nakata đã chết hẳn rồi, sự thật là vậy.

Bắt đầu thấy rét run, Hoshino vội bước ra khỏi phòng và đóng cửa lại rồi vào bếp, chế cà phê, uống liền hai tách, ăn mấy lát bánh mì nướng với bơ và mứt. Ăn xong, gã ngồi trong bếp, hút vài điếu thuốc và nhìn qua cửa sổ ra ngoài. Mây đã bay đi từ lúc nào trong đêm, để lại một bầu trời đầy nắng hạ. Phiến đá vẫn ở chỗ mọi khi, bên cạnh sofa. Nó không ngủ, nên không thức giấc, chỉ nằm đó thôi, cả đêm không động đậy. Gã bê thử và nhấc nó lên ngon ơ.

“Này,” Hoshino cất giọng vui vẻ nói, “tớ đây mà. Bạn cũ Hoshino đây mà, nhớ chứ? Có vẻ như hôm nay chỉ có mình cậu với tớ.”

Phiến đá chẳng nói chẳng rằng – điều đó cũng không quá bất ngờ.

“À, được thôi. Cậu không nhớ cũng chả sao. Chúng ta có ối thì giờ để làm quen với nhau, đâu cần phải vội.”

Gã ngồi xuống cạnh phiến đá, bắt đầu xoa nó và tự hỏi: trò chuyện với một phiến đá thì nên nói về cái gì nhỉ? Bởi đây là lần đầu tiên có dịp nói chuyện với một hòn đá, nên gã không thể nghĩ ra một đề tài nào phù hợp. Tốt nhất là nên tránh bất kỳ cái gì phức tạp vào cái giờ sáng sớm này, gã nghĩ. Ngày còn dài, lo gì chả có ý tứ nảy ra trong đầu.

Gã nghĩ một thôi và chọn đề tài ưa thích: gái. Gã điểm lại từng em đã cùng gã chung chăn gối. Nếu chỉ kể những em gã còn nhớ tên thì chả được bao nhiêu. Gã đếm nhẩm trên đầu ngón tay: tất cả có sáu. Nếu cộng cả những em không biết tên thì phong phú hơn nhiều, gã nghĩ, nhưng hãy tạm ngưng ở mức đó đã.

“Tớ nghĩ kể với một phiến đá về những mẻng đã ngủ với tớ thì chả ích gì,” gã nói. “Và tớ đồ rằng cậu cũng không khoái mới sáng ra đã phải nghe tớ khoe chiến tích. Nhưng tớ chưa nghĩ ra chuyện gì khác, Ô-kê? Biết đâu một đề tài nhẹ nhàng tươi mát để đổi món lại tốt cho cậu. Cung cấp thông tin mà.”

Hoshino kể một số đoạn với những chi tiết cụ thể nhất mà gã có thể nhớ. Lần đầu tiên là khi gã còn là học sinh trung học, giao du với một băng chơi môtô và vướng vài chuyện rắc rối. Cô gái hơn gã ba tuổi, làm ở một quán bar ở Gifu. Họ sống với nhau một thời gian. Cô gái rất nghiêm túc trong mối quan hệ ấy, cô nói cô không thể sống thiếu gã. Thậm chí cô còn gọi điện thoại nói chuyện với bố mẹ mình, gã nhớ lại, nhưng ông bà chả khoái gì chuyện ấy. Sự tình đâm ra quá căng, cho nên tốt nghiệp trung học một cái là mình xung vào Lực l Tự vệ liền. Ngay sau đó, mình được đưa đi đóng quân ở một căn cứ thuộc tỉnh Yamanashi và mối quan hệ ấy chấm dứt. Mình chẳng bao giờ gặp lại cô ta nữa.

“Có lẽ cái nét độc đáo của tớ là lười nhác,” Hoshino giải thích với phiến đá. “Và khi nào sự tình trở nên phiền phức là tớ đánh bài chuồn. Không phải nói khoác chứ tớ nhanh chân lắm. Tớ chả bao giờ theo cái gì đến cùng cả. Có lẽ vấn đề của tớ là ở chỗ ấy.”

Gã gặp cô bồ thứ hai ở gần căn cứ tại Yamanashi. Vào một hôm nghỉ phép, thấy cô hỏng xe giữa đường, gã đã giúp cô thay lốp chiếc Suzuki Alto. Cô hơn gã một tuổi và đang theo học ở một trường nữ y tá.

“Cô ta thật dễ thương,” Hoshino kể với phiến đá. “Vú to, con người rất nồng nhiệt. Chà, cô ta mới máu làm sao! Hồi ấy, tớ mới mười chín và ngày nào chúng tớ cũng ở trên giường với nhau. Vấn đề là cô ta ghen không thể tưởng tượng nổi. Hễ ngày nghỉ nào không thấy tớ đến là y như rằng cô ta tra khảo tớ tới số, hỏi đủ thứ: đi đâu, làm gì, đi với ai… Tớ nói thật, cô ta cũng không thỏa mãn. Vì thế nên chúng tớ chia tay. Hai đứa đi lại với nhau được độ một năm. Không biết cậu thấy thế nào, chứ tớ thì không chịu nổi ai hỏi vặn vẹo mình. Tớ cảm tôi hấy như không thở được và đâm chán. Thế là tớ chạy làng. Cái hay của LLTV là anh có thể nằm lì không thò mặt ra khỏi căn cứ cho đến khi mọi sự êm xuôi. Và cô ta chẳng làm gì được. Muốn bỏ một em mà không bị lôi thôi gì, tốt nhất là xung vào LLTV. Cậu nên ghi nhớ điều đó. Nhưng ngoài cái ấy ra cũng cực lắm: nào đào hầm đào hố, nào đắp bao cát, đủ tội.”

Càng kể, Hoshino càng nhận ra đời mình thật vô bổ biết bao. Bốn trong sáu cô gái đã đi lại với gã đều tốt cả. (Hai cô còn lại, xét một cách khách quan, thì hơi có vấn đề, gã nhận định). Hầu hết đều đối xử với gã khá tốt. Không có em nào đổ quán xiêu đình, nhưng mỗi em xinh theo kiểu riêng của mình và sẵn sàng chiều gã bất cứ lúc nào gã thích. Không bao giờ phàn nàn khi gã bỏ qua thao tác khai mào và huỵch luôn vào cuộc. Họ nấu ăn cho gã vào những ngày nghỉ, mua quà tặng gã vào dịp sinh nhật, cho gã vay tiền khi gã cháy túi mà chưa tới kỳ phát lương (gã không nhớ là mình có trả sòng phẳng hay không) và không bao giờ đòi hỏi gã phải đáp trả lại. Tất cả những ân cần ấy, thế mà mình rõ là thằng vô ơn, gã kết luận. Mình cứ coi mọi sự là đương nhiên.

Cũng phải công nhận rằng gã không lừa dối một ai trong số đó. Nhưng một khi em bắt đầu phàn nàn, cố giành phần thắng khi tranh luận, ghen tuông ra mặt, khuyên gã để dành tiền, quá khích động khi thấy tháng hoặc chỉ hơi tỏ ra lo lắng về tương lai, là gã “gút-bai” liền. Gã luôn cho rằng điều quan trọng nhất khi quan hệ với một cô gái là tránh mọi tình huống phức tạp, cho nên chỉ cần một con sóng nhỏ làm chao thuyền là gã biến ngay, tìm một em khác và bắt đầu lại từ đầu. Gã chắc mọi người ai cũng làm như thế.

“Nếu tớ là con gái,” gã nói tiếp với phiến đá, “và đi chơi với một thằng cha ích kỷ như tớ đây, hẳn tớ sẽ mất kiên nhẫn. Giờ đây, khi nhìn lại, tớ dám chắc thế. Tớ không hiểu làm sao họ có thể chịu được tớ lâu đến thé. Thật lạ lùng. (Gã châm một điếu Marlboro và từ từ nhả khói, một tay vuốt ve phiến đá). Tớ nói đúng không? Tớ không đẹp trai, cũng chẳng phải là kiện tướng trên giường. Không nhiều tiền, không thông minh, không thuộc loại tai to mặt lớn. Đầy nhược điểm. Con trai một nông dân nghèo ở miền quê, cựu binh quèn trong LLTV chuyển ngành làm lái xe. Nhưng nghĩ lại, tớ thấy mình thực sự may mắn với phụ nữ. Tớ không thành công lắm, nhưng bao giờ cũng có một bạn gái. Một em nào đó cho tớ ngủ cùng, cho tớ ăn, cho tớ vay tiền. Nhưng cậu biết gì không? Những điều tốt lành không kéo dài mãi mãi. Thời gian qua đi, tớ càng cảm thấy thấm thía điều đó. Như thể có ai đang bảo, Này Hoshino, rồi sẽ có ngày mày phải trả giá đấy.”

Gã vừa kể những cuộc phiêu lưui của mình vừa vuốt ve phiến đá. Quá quen tay với động tác đó rồi, gã không muốn dừng lại nữa. Đến trưa, tiếng kẻng ở một trường học vang lên và gã vào bếp nấu một bát udon với một ít hành và đập thêm quả trứng. Ăn trưa xong, gã lại nghe Tam tấu Archduke.

“Này, phiến đá,” gã gọi ngay sau khi hết chương một, nhạc hay đấy chứ, nhỉ? “Cậu thấy không, nó làm cho trái tim mình mở ra.”

Phiến đá lặng thinh.

Gã không biết là phiến đá có nghe hay không (dù là nghe gã hay nghe nhạc), nhưng gã cứ dấn tới nói tiếp. “Như sáng nay tớ đã nói, tớ đã làm một số điều gớm ghiếc trong đời. Tớ là thằng rất ích kỷ. Và bây giờ đã quá muộn để tẩy rửa hết, cậu hiểu không? Nhưng khi tớ nghe bản nhạc này, thì như thể ông Beethoven đang ở ngay đây nói chuyện với tớ, bảo tớ thế này, Thôi này Hoshino, đừng băn khoăn về chuyện ấy nữa. Đời là thế mà. Ta cũng đã từng làm một số điều khá gớm ghiếc. Chẳng thể thay đổi được gì đâu. Sự thể cứ xảy ra. Chỉ cần cháu kiên trì làm tốt hơn thôi. Trên thực tế, người như Beethoven chắc chẳng nói như thế đâu. Nhưng tớ cứ có cảm giác đó khi nghe nhạc của ông, tựa hồ như nó nói thế với tớ. Cậu có cảm thấy thế không?”

Phiến đá vẫn câm lặng.

“Dù sao đi nữa, đó chỉ là ý kiến cá nhân của tớ,” Hoshino nói. “Tớ sẽ im miệng để chúng mình cùng nghe.”

Lúc hai giờ, gã nhìn ra ngoài cửa sổ và thấy một con mèo đen béo múp ngồi trên lan can ngoài hiên nhìn vào căn hộ. Chán ngán, gã mở cửa sổ, gọi với ra: “Này mèo con, hôm nay đẹp trời phết nhỉ?”

“Vâng, quả vậy, hôm nay đúng là một ngày đẹp trời, thưa cậu Hoshino,” mèo đá

“Lạ chưa kìa,” Hoshino lắc đầu, nói.

Cái thằng tên là Quạ

Cái thằng tên là Quạ trễ nải lượn những vòng rộng bên trên khu rừng. Sau mỗi vòng, nó lại bay đến một chỗ khác và thận trọng bắt đầu một vòng mới giống hệt như trước. Những vòng đó nối nhau vẽ trong không khí những đường vô hình để rồi biến mất ngay sau đó. Như một chiếc máy bay trinh sát, nó thám sát khu rừng bên dưới, tìm một người nào đó mà nó chưa định vị được. Như một đại dương bao la, khu rừng lượn sóng bên dưới nó và trải ra đến tận chân trời với những cành lá chằng chịt đan thành một tấm áo choàng vô danh. Trời phủ đầy mây xám, ắng gió và cũng chẳng có nắng. Vào lúc này, cái thằng tên là Quạ hẳn là con chim cô độc nhất trên thế giới, nhưng nó không rảnh rang để nghĩ về điều đó.

Cuối cùng, nó phát hiện ra một chỗ hổng giữa biển cây phía dưới và lao xuống đó tới một khoảng đất trống. Ánh sáng lấp lánh trên một vạt đất xanh rờn cỏ. Ở một góc của khoảng đất trống đó, có một tảng đá tròn và một người đàn ông mặc một bộ đồ thể dục màu đỏ tươi, đội một chiếc mũ lụa đen đang ngồi trên đó. Ông ta đi ủng leo núi đế dày và một chiếc túi vải kaki đặt dưới đất bên cạnh ông. Một kiểu trang phục kỳ lạ, nhưng thằng cu tên Quạ bất cần. Đó chính là người nó đang tìm. Ông ta ăn mặc thế nào chẳng mấy quan trọng.

Nghe tiếng vỗ cánh đột ngột, người đàn ông ngẩng lên và thấy Quạ đáp xuống một cành to.

“Xin chào,” ông ta vui vẻ nói.

Cái thằng tên là Quạ không trả lời. Đậu trên cành cây, nó thản nhiên nhìn người đàn ông không chớp mắt, thỉnh thoảng lại nghiêng đầu sang một bên.

“Ta biết con là ai,” người đàn ông nói. (Ông ta bỏ mũ ra rồi lại đội vào). “Ta đã linh cảm là chẳng bao lâu con sẽ đến thôi.” Ông ta hắng giọng, cau mày và nhổ xuống đất rồi lấy ủng di bãi nước bọt đó.

“Ta đang nghỉ ngơi và cảm thấy buồn chán vì chả có ai để trò chuyện. Sao con không lại đây? Chúng ta có thể chuyện gẫu một chút cho vui. Thế nào? Ta chưa từng gặp con, nhưng thế không có nghãi là chúng ta hoàn toàn xa lạ với nhau.”

Thằng cu tên là Quạ vẫn ngậm miệng, khép chặt đôi cánh vào người. Người đàn ông đọi mũ lụa khẽ lắc đầu. “À, ta hiểu. Con không nói được, phải không? Không sao. Ta sẽ nói cho cả hai, nếu con không phiền. Ta biết con sắp làm gì, cho dù con không nói nửa lời. Con không muốn ta đi sâu thêm, phải không? Cái đó rõ rành rành, ta có thể đoán thấy. Con không muốn ta đi sâu thêm nữa, nhưng đó lại đích thị là điều ta muốn làm. Bởi vì đây là một cơ hội vàng ta không thể để tuột – cơ hội ngàn năm có một.”

Ông ta vỗ mạnh vào ống ủng leo núi ở chỗ ngang mắt cá chân.

“Nói cho nhanh nhé, con không thể ngăn ta đâu. COn không đủ sức. Nói cho con biết nhé, khi ta thổi cây sáo của ta, điều gì sẽ xảy ra? Con sẽ không thể đến gần ta. Đó là ma lực nơi cây sáo của ta. Có thể con không biết, chứ đây là thứ sáo duy nhất, không phải sáo thường. Và thực tế, ta có mấy cây trong cái túi này.”

Ông ta với tay ra, thận trọng vỗ vỗ cái túi vải, rồi lại ngước nhìn thằng cu tên là Quạ vẫn đậu trên cành. “Ta làm cây sáo này bằng những hồn mèo mà ta thu thập được. Moi hồn chúng ra ngay khi chúng còn sống và luyện thành sáo này. Dĩ nhiên, moi hồn chúng ra như vậy, ta cũng thấy ái ngại, nhưng ta không đng được. Cây sáo này vượt ra ngoài mọi ti về thiện/ác, yêu/ghét của thế gian. Làm những cây sáo này, từ lâu, đã là nghiệp của ta và ta luôn luôn nghiêm chỉnh hoàn thành vai trò của mình. Ta không có điều gì phải xấu hổ. Ta có vợ, có con và số sáo ta đã làm ra là trên mức vừa đủ. Cho nên ta sẽ không làm thêm nữa. Nói riêng với con, ta định gộp tất cả những sáo ta đã làm để tạo thành một cây sáo lớn hơn nhiều, có uy lực hơn nhiều: một cây sáo siêu cường tự thân nó là một hệ thống. Ngay bây giờ, ta đang đi tới một nơi mà ở đó ta có thể chế tạo cây sáo đó. Không phải ta quyết định cây sáo này sẽ phục vụ cho cái thiện hay cái ác, và cũng không phải là con. Mọi sự tùy thuộc vào việc ta ở nơi nào và lúc nào. Theo nghĩa đó, ta là người tuyệt đối không có thành kiến, cũng như lịch sử hay thời tiết, hoàn toàn không thiên vị. Chính vì thế, ta có thể biến thành một hệ thống.”

Ông ta bỏ mũ ra, xoa dúm tóc thưa thớt trên đỉnh đầu, đội mũ tở lại, chỉnh nhanh vành mũ.

“Một khi ta thổi cây sáo này, ta có thể rũ bỏ con dễ như trở bàn tay. Có điều là ta không muốn thổi nó ngay lúc này. Phải vận dụng rất nhiều công lực và ta không muốn phí tí sức nào. Sau này, ta còn cần đến nó. Nhưng dù ta có thổi sáo hay không, con cũng không thể ngăn được ta. Nói thế là rõ ràng chứ.”

Người đàn ông hắng giọng một lần nữa và xoa cái bụng bệu. “Con có biết cõi minh phủ là gì không? Đó là vùng trung lập giữa sống và chết. Một nơi buồn thảm, u ám. Nói cách khác, đó là nơi ta đang ở: khu rừng này. Ta đã chết ở ngay nhà mình, nhưng đã không đi sang thế giới bên kia. Ta là một linh hồn lang thang và một linh hồn lang thang thì không có hình thù. Ta khoác cái hình dạng này chỉ là tạm thời thôi. Vì thế con không thể làm gì được ta. Con hiểu chứ? Ngay cả nếu ta đổ máu tràn khắp chỗ này, thì đó cũng không phải là máu thật. Ngay cả nếu ta đau đớn ghê gớm, thì đó cũng chỉ là đau đớn giả. Kẻ duy nhất có thể tiêu diệt ta bây giờ là kẻ có đủ quyền lực để làm thế. Đáng buồn thay, con lại không đáp ứng tiêu chuẩn ấy. Con chẳng là cái gì hơn một ảo ảnh chưa đủ độ chíường thường bậc trung. Cho dù con quyết tâm đến đâu đi nữa, thì việc loại bỏ ta cũng là bất khả đối với những kẻ như con. (Ông ta nhìn thằng cu tên là Quạ và cười toét miệng). Thế nào? Có muốn thử không?

Như thể đó là hiệu lênh nó chờ đợi, cái thằng tên là Quạ xòe cánh, nhảy khỏi cành và lao thẳng đến ông ta. Nó giương móng quắp lấy ngực ông ta, ngửa đầu ra sau và vung mỏ như một cái cuốc chim nhằm ngực phải ông ta mà bổ tới tấp, vừa tấn công vừa đập cánh ầm ầm. Người đàn ông không hề chống cự, thậm chí không giơ một ngón tay phản đối. Không kêu, mà trái lại còn cười lớn. Mũ ông rơi xuống đất và con ngươi phải mau chóng nát bấy và lòng thòng lòi ra khỏi hố mắt. Bây giờ, thằng cu tên là Quạ ráo riết tấn công con mắt bên kia. Khi cả hai mắt chỉ còn là hai cái hốc trống không, nó chuyển ngay sang mổ túibụi vào mặt ông ta. Chẳng mấy chốc, mặt ông ta đã bị rách bươm, những mảng da bay tứ tung, máu trào ra, chỉ còn là một cục thịt đỏ lòm. Sau đó, Quạ tấn công đỉnh đầu ông ta, nơi tóc thưa nhất. Và ông ta vẫn tiếp tục cười rộ. Đòn càng ác hiểm, ông ta càng cười lớn, như thể tình tếh quá khôi hài khiến ông ta không nhịn được cười.

Ông ta không lúc nào rời mắt (lúc này chỉ còn là hai hốc trống) khỏi Quạ và thi thoảng, giữa hai nhịp cười, còn đế được vào vài câu: “Thấy không? Ta đã bảo mà. Đừng làm ta cười thế. Tha hồ cho con cố hết sức cũng không đả thương được ta đâu. Con không đủ khả năng ấy. Con chỉ là một ảo ảnh vật vờ, một tiếng vang mơ hồ. Bất kể con làm gì cũng vô ích thôi. Hiểu không?”

Cái thằng tên là Quạ bèn mổ vào cái mồm đang tuôn ra những lời ấy. Đôi cánh lớn của nó không ngừng đập, dăm chiếc lông đen bóng rụng ra, xoáy lộn trong không trung như những mảnh hồn. Quạ lấy mỏ cắp lấy lưỡi ông ta, tận lực kéo. Cái lưỡi dài và to tướng bị kéo ra từ cuống họng, nó giãy giụa như một con nhuyễn thể khổng lồ, thốt ra những lời tăm tối. Tuy nhiên, mất lưỡi, ông ta không cười đ7;c nữa. Có vẻ như cũng không thở được nữa, nhưng ông ta vẫn ôm bụng cười ngặt nghẽo, toàn thân rung lên theo những nhịp cười không ra tiếng. Cái thằng tên là Quạ lắng nghe và tiếng cười vô thanh ấy – rỗng huếch và đầy điềm gở như gió thổi trên một sa mạc xa xăm – cứ vang mãi trong tai nó, không dứt. Quả vậy, nghe như một tiếng sáo từ bên kia thế giới.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.