Kẻ Hùn Vốn

CHƯƠNG 14



Tragg đưa ô- tô sắp hàng trước khu nhà Molay Arms.
– Chúng ta bấm chuông chứ? – Ông hỏi Mason.
Mason mở cửa sau xe, giúp Mildreth và Della bước ra:
– Tốt nhất, ta nên bấm chuông buồng bà quản lý. – Ông nói.
– Tôi có thể không cần việc đó. – Tragg nói.
Ông rút từ túi ra một vòng chìa khóa, chọn một chiếc, thử mở, lắc đầu, rồi thử một chiếc khác. Cửa mở.
– Chùm chìa khóa này chủ yếu là để trang trí. – Ông giải thích, khi họ đi qua phòng lớn – Đích xác là ông muốn gì ở Esther Dilmeyer?
– Hỏi cô ta vài câu.
– Vậy thì ông nói đi, nếu ông muốn được cái gì gấp gáp, thì Loring Churchill cần phải có mặt…
– Có lẽ chỉ vừa vừa thôi. – Mason nói.
– Được. Tôi luôn luôn bám sát ông để xem ông muốn đi đến đâu.
Bây giờ họ đang đi trên một tấm thảm cũ ở tầng ba. Cửa sổ trên cửa ra vào của phòng Esther có ánh sáng.
Mason nói nhỏ với Mildreth Faulkner:
– Cô gõ cửa đi. Khi cô ta hỏi thì trả lời.
– Rồi sao nữa?
– Tôi tin rằng thế là đủ. Nếu cô ta hỏi cô muốn gì thì hãy nói rằng cô sẽ nói về việc đã xảy ra chiều nay.
Tragg mưu sự lần cuối cùng:
– Này, ông Mason, nếu ông chơi thẳng thắn thật thà và nói cho tôi những gì ông biết thì Cục sẽ có thể….
– Cục sẽ có thể lúng túng cho tới khi có chứng cứ, và bà khách hàng của tôi đủ thì giờ để chết trước…
Mildreth gõ cửa nhè nhẹ.
– Ai đấy? – Esther hỏi.
– Mildreth Faulkner.
– À, chị đấy à…
Có tiếng giày pantúp đi trên sàn gỗ, rồi chốt cửa được rút ra. Cửa mở. Esther xuất hiện, mặc bộ áo liền quần.
– Tôi muốn đến thăm chị, hy vọng rằng chị hiểu… – Cô dừng lại vì thấy những người trong hành lang, và bắt đầu cười.
– Ồ, xin lỗi. Đáng lẽ chị phải báo cho tôi biết là có đàn ông đi cùng. Xin vui lòng chờ một phút.
Cô lẩn đi để mặc một chiếc áo ngủ dài, đang vắt trên lưng ghế.
– Bây giờ xin mời vào. Nhưng chị phải giới thiệu với tôi có những ai đi cùng…
Mason bước tới.
– Cô biết trung úy Tragg không?
– Có chứ. Tôi đã gặp ông ta trước khi rời bệnh viện. Ông ta đã từ chối không cho tôi ra vì chưa được cảnh sát cho phép.
Không khí yên lặng đến khó chịu. Tragg chỉ nhìn Mason.
Cuối cùng Mason đột ngột nói:
– Cô Dilmeyer này, tôi tin rằng cô đang lâm nguy.
– Tôi à?
– Vâng, cô có nguy cơ bị giết chết. Để không thể làm chứng vào ngày mai.
– Điều gì làm cho ông tin như vậy.
– Cô chớ quên rằng người ta đã thử… Người đã làm điều đó cách đây bốn mươi tám giờ cũng rất muốn trừ khử cô hôm nay.
Cô gái cười.
– Nói thực là tôi không tin điều đó nhiều lắm.
– Nếu người nào đó muốn giết cô từ bốn mươi tám giờ trước thì tôi không thấy có dấu hiệu nào chứng tỏ hắn sẽ thay đổi ý kiến.
Esther gõ đầu điếu thuốc lá vào tay ghế.
– Ông lo lắng về việc đó hơn tôi?…
– Có lẽ thế… Vì tôi tin rằng người đã gửi sô- cô- la cho cô cũng là người đã giết Lynk.
Cô gái rướn mày.
– Ý kiến xuất sắc thật.
– Chúng tôi nhận được nhiều dấu hiệu. Không biết trung úy Tragg đã liệt kê cho cô chưa…
– Chưa. – Tragg nói.
– Đầu tiên, địa chỉ của gói kẹo đã được đánh máy bằng máy chữ của Lynk trong văn phòng của Golden Horn. – Mason nói tiếp trong khi Esther châm thuốc…
Esther lắc mạnh que diêm, mắt lộ vẻ choáng váng:
– Quỷ quái nào đã khiến ông biết được điều đó? Nếu không có người nào trông thấy…
– Nhiều người không biết rằng chữ đánh máy còn có cá tính hơn cả chữ viết tay – Mason giải thích – Tất cả máy chữ kể cả cái mới đem dùng được ít lâu đều có cá tính riêng. Các chữ đánh máy nhảy dòng nhiều, ít, khoảng cách đều hay không… Đem so sánh hai mẫu chữ, một chuyên gia có thể nói chắc chắn rằng chúng được đánh máy trên cùng một máy chữ.
– Tôi không biết. – Esther nói.
– Còn việc khác? Giấy dùng làm nhãn cũng lấy ở văn phòng Lynk…
– Làm sao ông biết điều đó?
– Cấu tạo của giấy không thay đổi. Nhãn chế tạo cũng vậy. Nó thường được in bóng chìm trong tờ giấy.
– Còn gì nữa?
– Còn dán nhãn cũng là loại cồn mà người ta thường dùng ở Golden Horn. Hay hơn nữa là cồn này đã cứng và cảnh sát có thể chứng minh nhãn đã được dán ít nhất hai mươi bốn giờ trước khi gửi gói đồ.
– Hừm. Tôi thấy cảnh sát thông minh hơn mình tưởng. – Esther nói.
– Họ thông minh. – Mason bình luận ngắn, gọn.
– Còn gì khác nữa không?
– Có. Cô đã làm việc trong một xưởng kẹo phải không? Vậy thì cô hãy thử hình dung những việc cần làm để trộn một vật lạ vào kẹo làm cho nó có thể vô hại để không thể ai có thể nghi ngờ…
– Vâng, tôi có thể hình dung được. Việc đó không có gì ghê gớm nếu người ta biết làm như thế nào, nhưng đấy không phải là việc làm của người tài tử.
– Mặt khác, cô chớ quên rằng cái thiếp đính theo hộp kẹo chính là cái thiếp trước đó đã đính theo phong lan.
– Chắc là chị em sinh đôi. – Esther vừa nói vừa tránh ánh mắt Mildreth.
Mildreth mỉm cười.
– Hy vọng rằng chị sẽ không nghi tôi đã gửi sô- cô- la với một cái thiếp khác.
Không nhìn Mildreth, Esther nói với Mason.
– Tôi chỉ trả lời các câu hỏi của ông để giúp làm sáng tỏ vụ này.
Mildreth thôi không cười nữa.
– Như vậy, chị thực sự tin rằng tôi đã gửi sô- cô- la?
– Tôi muốn sống và để người khác sống – Cô vừa nói vừa ngoảnh lại đối mặt với Mildreth – Tôi không buộc tội ai và cũng không nói bóng gió gì cả. Tuy nhiên chữ viết trên tấm thiếp này hình như là của chị.
– Không bao giờ tôi…
– Thong thả, cô Faulkner – Mason khuyên – Chúng ta hãy xem xét một chút các sự kiện trước khi tìm tác giả của chúng. Này, cô Dilmeyer, lúc nhận kẹo và thấy tấm thiếp, cô không hề băn khoăn chút nào sao?
– Tất nhiên. Tôi vừa làm quen với chị Faulkner. Tôi thấy chị ấy có duyên và dễ thông cảm, mặc dụ có đủ lý do để không như vậy. Faulkner có thể buộc tôi chia trách nhiệm về những việc hoàn toàn ngoài sự kiểm soát của tôi.
– Tôi hiểu. Nhưng cô không nghĩ đến điều đó, khi nhận sô- cô- la hay sao?
– Không, tôi nghĩ rằng chị ấy thực sự tử tế. Chị ấy sắp cho tôi việc làm. Tôi tự cảm thấy mình rất hữu nghị và trung thực với chị ấy.
– Hãy xem điều đó dẫn chúng ta đến đâu – Mason cười – Gửi sô- cô- la là một người nào đó có thể đi lạỉ dễ dàng trong mọi ngóc ngách của Golden Horn. Người đó đã nhiều lần vào văn phòng của Lynk, có thể dùng máy chữ, giấy viết thư và cồn dán của ông ta, người đó biết rõ dịch vụ cung cấp hoạt động như thế nào vào giờ đông khách. Cuối cùng, có thể người đó đã kiếm được tấm thiếp đính theo hoa phong lan để đặt nó vào hộp sô- cô- la trước khi gửi đi. Tất cả mọi việc được thực hiện trong khoảng nửa giờ. Công việc cực kỳ nhanh chóng…
– Trừ phi. – Esther bắt đầu nói…
– Trừ phi cái gì?
– Trừ phi không phải cô Faulkner gửi sô- cô- la. Trong trường hợp đó, phải có hai tấm thiếp, và… và… việc đó không khó hơn việc kia…
– Tôi đã điều tra tỉ mỉ về cô Faulkner – Mason nói – Cô ấy cũng không làm nổi chuyện đó, ngay cả khi muốn.
– Tại sao?
– Cô ấy không biết các thao tác sản xuất sô- cô- la để có thể tẩm thuốc vào. Cô ấy không hề vào Golden Horn bốn mươi tám giờ trước khi gửi gói hàng đó. Không… chỉ có một người duy nhất có thể đáp ứng được tất cả mọi điều kiện cần thiết ấy.
– Ai? – Esther hỏi.
– Cô. – Mason trả lời nhỏ nhẹ.
– Tôi ư! Ông không muốn nói rằng…
– Tôi muốn nói rằng cô là người duy nhất đã gửi kẹo sô- cô- la. Cô đã gửi kẹo cho chính cô.
– Và tôi đã tự đầu độc vì cái thú vào bệnh viện hay sao? – Cô gái mỉa mai cay độc nói.
Tragg cúi xuống định nói với Mason.
– Khoan đã, Tragg – Mason nói mắt không rời Esther và đáp lại – Cô không ăn kẹo sô- cô- la tẩm độc.
– Không à? Tôi giả vờ ngủ và đánh lừa bác sĩ hay sao?
– Không, cô đã dùng một liều vêrôna đậm, nhưng không phải trong kẹo sô- cô- la.
Cô gái bực dọc.
– Ông nghe đây, tôi biết rằng ông đã cứu mạng tôi và trả chi phí bệnh viện cho tôi. Tôi rất biết ơn ông, nhưng không đến mức phải ngồi suốt đêm để nghe ông nói những điều ngu ngốc.
– Cô hãy xem, – Mason vẫn điềm tĩnh – mỗi cái kẹo sô- cô- la được bao bằng tờ giấy bọc kẹo màu hạt dẻ, gập lại và có khía răng cưa.
– Rồi sao nữa?
– Trong cái hộp đặt trên bàn, thiếu nhiều thỏi kẹo… Nhưng cũng thiếu cả các tờ giấy bọc kẹo tương ứng, và không tìm thấy chúng ở chỗ nào trong phòng cả… Cô không thể nuốt cả giấy bọc kẹo, cùng kẹo sô- cô- la…
Trong giây tiếp theo. Esther tỏ vẻ rụng rời, Mason nhân đấy nói:
– Nhưng cô đã thực sự bị lộ ra khi nói với tôi rằng cái thiếp đính theo kẹo bảo đảm cho cô… Bởi vì cái thiếp ấy, trái lại phải làm cho cô cảnh giác, chính vì không đầy nửa giờ trước đó, cô đã nhận một cái tương tự kèm theo phong lan. Cái thiếp của hộp kẹo sô- cô- la cũng bị chọc thủng hai lỗ nhỏ, điều đó chứng tỏ trước đây nó đã được ghim vào phong lan. Cô không thể không nhận thấy.
– Ông điên rồi. Tại sao tôi lại gửi kẹo sô- cô- la tẩm độc.
– Vi cô cần một chứng cớ ngoại phạm.
– Chứng cớ ngoại phạm? Để làm gì?
– Để giết Lynk.
– Chính tôi giết ông ấy?
Mason phác một cử chỉ khẳng định.
– Cô đã hoàn toàn lộ chân tướng vào chiều hôm ấy, tại phiên tòa, khi cô định làm hại thanh danh của Magard, Peavis và Irma Radine. Cô đã rất khéo léo gợi ý rằng họ biết cách ăn kẹo sô- cô- la của cô.
– Thú vị thật đấy. – Cô gái nói mỉa.
– Cô cần có một chứng cớ ngoại phạm – Mason lặp lại – Cô đã nảy sinh ra ý nghĩ là: nếu cô uống thuốc cho đến khi bất tỉnh nhân sự vào lúc xảy ra tội ác thì sẽ rất hoàn hảo. Cô đã tự gửi kẹo sô- cô- la cho mình; cô đã thay áo dài buổi tối bằng bộ quần áo tiện lợi hơn; ít lòe loẹt hơn và đã đến Lilac Canyon, có lẽ cô đã gọi điện thoại cho Lynk để bảo đảm rằng ông ta còn ở đấy. Sau đó cô dừng lại ở dọc đường để gọi điện thoại cho tôi. Cô cần phải gọi cho tôi khá sớm để tạo chứng cớ vắng mặt – Nhưng không quá sớm để tôi không phát hiện ra nhà cô, trước khi cô từ cuộc viễn chinh tội ác trở về. Nơi tốt nhất để cô gọi điện thoại cho tôi hình như là nhà Coll; cô biết rằng trong phòng rộng có một buông điện ttioại mà ở đấy không ai có thể trông thấy cô và nghe được cô nói gì.
– Vậy thì tại sao tôi lại gọi điện cho ông?
– Ồ, vì một lý do rất tốt: Cô cần lời nói của một nhân chứng mà cảnh sát có thể tin. Một nhân chứng có biết cô chút ít, nhưng không biết địa chỉ của cô và không biết làm thế nào để tìm thấy nó. Cô đã trù tính tất cả: chứng cớ ngoại phạm và việc giết người trước hai hoặc ba ngày. Vấn đề là làm sao cho người ta phát hiện ra cô trước khi cô bất tỉnh nhân sự quá lâu – nhưng không quá sớm, để có thể phương hại đến chứng cớ ngoại phạm của cô. Cô biết rằng tôi cần phải chinh phục cô Faulkner để có thể gắn cô với Golden Horn và tôi ít có may mắn gặp được Faulkner trước cuộc hẹn của chúng ta vào một giờ sáng. Ngay khi trên đường tìm tới Golden Horn, vì không ai biết địa chỉ của cô, tôi còn phải mất một thời gian nữa mới tìm được nó. Vả lại tôi đã đến trước giờ mà cô dự tính: nhờ tài trinh thám của cô Street, thư ký của tôi, tôi gần như nắm được cô ngay khi vào Golden Horn.
Esther cười khẩy.
– Ông thực là tài giỏi!
Mason tiếp tục:
– Sau khi gọi điện thoại cho tôi, cô đã rời nhà Coll, đến Lilac Canyon cô đã giết Lynk và dùng một liều vêrônan khá lớn. Sau đó cô về nhà, cô đã đặt ống nói lên sàn gõ tại một vị trí – có lẽ thực và cô đã thả mình cho tác dụng của thuốc. Tôi đến đúng vào lúc cô vừa mới rơi vào giấc ngủ say.
– Chuyện của ông chỉ có thế thôi à?
Mason gật đầu.
– Vậy thì hạ màn đi. Tôi hiểu rất rõ rằng ông cần một kẻ làrn bung xung để có thể kéo bà khách sộp của ông ra khỏi cảnh lúng túng, nhưng khốn thay, tôi không thuận, ông sẽ phải tìm một bung xung khác, nam hoặc nữ….
Căn phòng im lặng. Tragg nhìn Esther, rồi ngoảnh đi và bắt đầu nghiên cứu những hình vẽ trên tấm thảm.
– Thế nào? – Esther nói – Kiểu gì thế? Có thật đây là một lối hỏi cung mới không? Hay chúng ta chỉ ở đây để ngắm cảnh.
– Chúng tôi chờ cô nói về vụ giết người. – Mason nói.
– Các ông có thể chờ cho đến ngày phán xét cuối cùng. Tôi đi đây. Xin phép các ông, tôi đi mặc áo dài.
– Cô không đi đâu cả. – Tragg nói.
– Không được à?
– Không.
– Tại sao?
– Lập luận của Mason hoàn toàn vững chắc.
– Các ông hành động như thế à? Ông là đồ điên. Các ông là đồ điên tất cả. Các ông là đồ điên!
Sự im lặng mới dài hơn; làm cho Esther phẫn nộ hơn khi bị buộc tội giết người.
– Trời ơi! – Cô thét lên – Đừng ngồi dương mắt ếch nhìn tôi trừng trừng như vậy! Đây là nhà tôi! Tôi đi mặc quần áo…
– Không được – Tragg nói – Cô có thể tự coi như trong tình trạng bị bắt giữ.
– Được. Tôi đang trong tình trạng bị bất giữ. Nhưng điều đó không có nghĩa là tôi phải ở đây trước mặt mấy ông phu phường đòn. Tôi nghĩ rằng nếu bắt giữ tôi, các ông phải đưa tôi đi chỗ khác.
– Đúng thế.
Thình lình cô gái cởi áo dài ngủ ra.
– Mặc áo liền quần hả?
– Không. Cô có thể mặc quần áo.
– Trong khi cả hai người ngắm thỏa thích phải không?
– Không. Xin cảm ơn.
Mason châm một điếu thuốc.
– Cuối cùng, vì Chúa trời, các ông hãy nói gì đi chứ! – Cô gái kêu lên.
– Cô nói đi – Mason nói – Đối với kẹo sô- cô- la, những bằng chứng cô đã được xác định. Còn vụ giết Lynk, cô có thể có những tình tiết giảm tội. Cô cần nói cho chúng tôi biết những tình tiết nào…
– Các ông tới và định buộc tôi nói. Vì các ông thiết tha muốn nghe tôi nói, thì tôi sẽ nói một điều thú vị: Con bé Esther biết quyền của nó. Nó sẽ rất khôn ngoan, không trả lời một chút xíu nào những câu hỏi chết tiệt của các ông. Nếu cảnh sát thấy đã có bằng chứng buộc tội tôi, thì cứ việc lôi tôi ra trước một ban Hội thẩm; lúc đó tôi sẽ nhờ một thầy cãi, ông này không phải là người giả dối và người ta sẽ thấy những gì cần thấy.
– Nếu cô giết Lynk một cách bình tĩnh thì đã rõ… Nhưng nếu cô giết ông ta ngẫu nhiên hoặc trong tình trạng phòng vệ chính đáng, thì tốt nhất là cô phải nói cho chúng tôi ngay bây giờ.
– Tại sao lại bây giờ?
– Bởi vì, nếu cô không nói gì bây giờ, mà chờ ra trước ban Hội thẩm mới nói thì ban Hội thẩm sẽ suy diễn rằng cô chỉ lặp lại một câu chuyện do thầy cãi tưởng tượng ra…
– Ông thật tử tế khi báo cho tôi biết trước điều đó…
– Đúng thế! Vì trong mưu đồ của cô, có vài điểm yếu mà sớm hay muộn cảnh sát cũng nhằm vào.
– Ồ, thực thế à? Những điểm nào?
– Những miếng giấy bọc kẹo sô- cô- la… Những tấm thiếp giống hệt nhau… Máy nói trên sàn nhà với ống nghe đặt đúng chỗ và các việc khác tương tự.
– Những việc khác nào?
Mason mỉm cười.
– Cô hãy suy nghĩ về điều cô đã làm và nhớ lại xem cảnh sát biết chuyện gì đã xảy ra, họ chỉ cần một sự xác nhận nữa thôi.
– Ồ, cứ để cho họ tìm. – Esther nói, giọng thách thức.
– Khi họ tìm thấy rồi, thì sẽ quá muộn để cô thuật lại các việc…
– Tại sao lại quá muộn?
– Bởi vì báo chí cũng như Ban Hội thẩm sẽ cho đấy là sự bịa đặt của thầy cãi bảo vệ cô.
Cô gái nhìn Mason do dự rõ ràng.
– Thế nếu tôi nói bây giờ?
– Điều đó sẽ tỏ ra thực hơn nhiều…
– Có lẽ ông có lý. – Cô gái vừa nói vừa xem xét mẩu thuốc hút dở.
Tragg muốn tham gia nhưng Mason phác một cử chỉ đã bắt ông ta im lặng.
– Có phải Coll có một chiếc chìa khóa của buồng cô không? – Mason nói.
– Vâng.
– Như vậy hắn đã giữ Bob Lawley ở đây ngày hôm sau vụ ám sát, trong lúc cô ở bệnh viện phải không?
– Tôi chỉ đoán chứ không biết tí gì về việc đó.
– Cô là người tình của Coll?
– Bây giờ thì không. Tôi đã từng say mê hắn, thực thế! Nhưng tôi sẽ tự an ủi… Điều đó đã xảy ra với tôi.
Mason nhìn đồng hồ.
– Thôi được. Này, tôi tin rằng sẽ đến lúc…
– Được – Cô gái nói, vẻ nhẫn nhục – Ở Golden Horn tôi làm nhiệm vụ mồi chài. Công việc của tôi là làm cho khách mê đánh bạc, ngăn họ bỏ về khi thua. Tôi được hưởng phăn trăm. Cách đây không lâu, Coll và Lynk đã giới thiệu tôi với Bob Lawley như là một tay ăn chơi, bị đè nặng bởi một khối tiền lớn. Và tôi phải giúp họ đỡ gánh cho ông ấy… Tôi đã làm theo lệ thường. Ngày thanh toán đến, họ định quỵt phần của tôi, xóa tên tôi khỏi danh sách những người làm việc và đặt vào đó một người tình mới của Coll. Khi ấy, tôi đã chán ngấy hộp đêm rồi nhưng tôi nghĩ rằng sẽ không để cho họ vặt lông như một con gà mái. Tôi quyết định nấu cho họ một món ăn theo kiểu của tôi.
Bob Lawley giữ khẩu súng ngắn trong hộp xe. Khi tôi xoáy khẩu súng đó, anh ta không biết. Nhưng tôi biết rằng sẽ bị nghi nên cần phải có một chứng cớ ngoại phạm kín kẽ: chính lúc đó tôi nghĩ đến kẹo sô- cô- la. Cách đây bốn hôm, tôi lấy vài miếng ra khỏi hộp và cho vào một chiếc túi giấy dễ mang theo người. Tôi đã đem tẩm thuốc độc số kẹo còn lại và làm cho cái hộp trở thành một kiện hàng sẵn sàng gửi đi khi có dịp chiếm các cổ phần. Tôi chỉ còn việc rình thời cơ. Trong đêm Lynk đến Lilac Canyon, tôi biết rằng hắn ta mang cổ phần theo người. Tôi quyết định hành động. Ngay lúc đó tôi làm quen với cô Faulkner và cô ta đã cho tôi biết hàng đống sự việc mà tôi không hề biết, và mời tôi đến cuộc hẹn ở văn phòng ông vào lúc một giờ. Để tạo chứng cớ ngoại phạm, trước hết, tôi nghĩ đến việc gọi điện thoại cho cảnh sát… Nhưng tôi nghĩ rằng gọi điện thoại cho ông thì bảo đảm hơn. Coll có một chiếc chìa khóa buồng tôi. Tôi muốn chắc chắn rằng hắn không có ở nhà. Tôi biết rằng hắn phải gặp Lynk ở Lilac Canyon. Bởi vậy tôi đã giám sát căn buồng của hắn cho tới khi thấy hắn đi ra. Lúc ấy, tôi đã vào trong phòng lớn gọi điện thoại cho ông. Sau đó, tôi đến Lilac Canyon. Tôi đã ăn kẹo sô- cô- la không tẩm thuốc độc để người ta tìm thấy chúng trong dạ dày tôi. Đúng là lúc vào nhà Lynk, tôi đã nuốt một liều lớn vêrôna, mang một chiếc, mặt nạ và choàng áo mưa. Tôi gõ cửa. Theo cách Lynk trả lời tôi hiểu rằng hắn đang chờ một người đàn bà. Khi thấy tôi xuất hiện mang mặt nạ, tay cầm súng ngắn, hắn sắp ngất đi. Tôi bảo hắn đưa chứng thư ra và đặt lên bàn.
– Và ông ta đã ngoan ngoãn làm theo, phải không? – Mason hỏi.
– Hắn sợ hãi kinh khủng. Hai tay run đến mức khiến tôi nghĩ rằng hắn không thể mở ngăn kéo lấy chứng thư trong đó… Cuối cùng, khi hắn lấy được ra, tôi nghe thấy tiếng động và nhìn qua vai mình…
– Một phụ nữ khác, phải không?
– Tôi đã quên đóng cửa sau khi vào, phải nói rằng người ấy rất táo tợn. Tôi chĩa súng ngắn vào cô ta, và thử làm cho cô ấy sợ. Nhưng cô ta không chịu lùi bước và nhảy xổ vào tôi như một con hổ cái dùng hai bàn tay nắm lấy cổ tay tôi, hòng làm cho tôi buông súng ra. Tôi đã đặt ngón tay vào cò và bảo cô ấy dừng lại nhưng không được. Một phát đạn bắn ra. Cô ta hoảng sợ và buông tôi ra. Khẩu súng ngắn rơi xuống, Lynk cũng vậy… Tôi luôn đeo mặt nạ. Người phụ nữ ấy không biết tôi là ai, chúng tôi chạy ra cửa, cô ta bỏ lại cái xắc du lịch, còn tôi khẩu súng ngắn.
Tôi phải vất vả lắm mới về được đến nhà. Vêrôna bắt đầu tác dụng. Cuối hành trình tôi không còn ý niệm rõ rệt nữa. Hình như tôi bắt đầu mơ màng. Tôi đưa được xe vào ga- ra, trở về buồng mà tôi đã chuẩn bị hiện trường mà tôi muốn các ông thấy. Tôi đã ngủ khi ngã xuống đất. Các ông đã biết phần tiếp theo.
Chỉ ở bệnh viện, khi tỉnh lại, tôi mới nhớ ra là đã để lại mặt nạ và áo mưa ở trong xe. Sẽ liên lụy kinh khủng, nhất là cái mặt nạ. Tôi định hủy nó tối hôm ấy.
Mason ra hiệu cho Tragg.
– Phần ông đấy, trung úy.
Tragg hỏi:
– Cả hai người bỏ chạy mà không nhìn xem ông ta đã chết hay bị thương sao?
– Không cần nhìn nữa, hắn đã xỉu xuống như một chiếc lốp xe bẹp.
– Ông ta đã làm gì trong khi các cô giành nhau khẩu súng?
– Hắn định đặt lại các chứng thư vào ngăn kéo. Hắn quay lưng về phía chúng tôi, nhưng tôi thấy hắn sờ soạng ngăn kéo… Bây giờ tôi muốn các ông làm một việc…
– Việc gì?
– Đi tìm con đàn bà ấy và bắt thị kể lại việc đã xảy ra trước khi nó biết đấy là tôi và tôi đã nói với các ông…
– Nhưng đấy là ai? – Mason hỏi.
Esther cười cay đắng:
– Có khó gì đâu… một đứa còi cọc xấu xí, đần độn tưởng rằng làm gái bar hưởng phần trăm trong một sòng bạc hơn là có một việc làm đứng đắn. Một con đàn bà muốn chiếm chỗ của tôi trong khi tôi mơ chỗ làm của hắn.
– Ai thế? – Tragg lặp lại.
– Lois Carling… Con bán hoa. Chùm phong lan ấy! Đấy là trường hợp cần phải chú ý…
Mason nhắc ống nghe điện thoại và đưa cho Tragg:
– Ông hãy gọi về văn phòng trung tâm và bảo họ thả bà Lawley ra.
– Ông đã thắng, Mason, – Tragg khẽ cúi chào… – Còn cô Faulkner, lần sau nếu cô muốn đánh lạc hướng sự nghi ngờ của chúng tôi về chị cô, thì đừng nổ súng “một cách ngẫu nhiên” nữa nhé… Alô, văn phòng trung tâm đấy à, trung úy Tragg đây. Hãy thả Carlotta Lawley ra. Perry Mason sẽ chịu trách nhiệm chuyện bà ta đến một bệnh viện tư. Hãy giảm bớt thủ tục…

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.