Ánh đèn chói chang tràn ngập gian phòng mổ nhỏ trông như một căn nhà sát sinh kiểu tối tân. Đây đó có mấy cái xô đầy những mảnh bông vấy máu, xung quanh vương vãi những dải băng và những miếng tăm-pông. Những vật đỏ lòm tương phản gay gắt với màu trắng tinh của phần lớn các vật trong phòng. Ngồi trước một cái bàn bằng thép đánh bóng đặt ở phòng ngoài, Veber đang ghi chép. Một cô y tá đang khử trùng các dụng cụ. Nước sôi sùng sục. Ánh đèn sáng gắt đến nỗi có thể tưởng chừng như nó đang kêu ong ong bên tai. Chỉ riêng cái thân hình người nằm trên bàn mổ là có vẻ cách vời và siêu việt, không còn liên quan đến bất cứ thứ gì nữa.
Ravic cho xà phòng loãng chảy lên hai bàn tay; anh rửa tay một cách giận dữ như muốn lột cả lớp da tay. “Thật như c…! Chó má quá!”
Cô y tá ngừng tay nhìn Ravic, vẻ khó chịu. Veber ngẩng dầu lên.
– Bác sĩ phẫu thuật nào cũng văng tục hết chị Eugénie ạ. Nhất là khi có chuyện chẳng hay. Lẽ ra chị phải quen đi mới đúng.
Cô y tá nhúng một nắm y cụ vào nước sôi.
– Giáo sư Perrier có bao giờ chửi tục đâu – Cô đáp, giọng chững chạc – Thế mà giáo sư vẫn cứu sống được khối người.
– Giáo sư Perrier là một chuyên gia mổ óc. Công việc cực kỳ tinh tế, Eugénie ạ. Còn chúng ta làm cái việc mổ bụng, nó khác.
Veber gấp sổ ghi đứng dậy.
– Anh đã làm hết sức mình, Ravic ạ. Nhưng biết làm thế nào được? Không có cách gì đối phó với bọn lang băm hết.
Ravic lau tay rồi châm một điếu thuốc. Cô y tá liền mở cửa sổ ra, để tỏ ý phản kháng một cách im lặng.
– Hoan hô Eugénie – Veber nói – Quy chế trên hết!
– Tôi có phần trách nhiệm của tôi chứ. Tôi không muốn nhà này nổ tung.
– Rất đáng khen, Eugénie ạ, và rất đáng yên tâm.
– Có những người không có trách nhiệm… và cũng có những người không muốn có.
– Kìa bắt lấy, Ravic, cú ấy nhằm vào anh đây – Veber vừa nói vừa cười hà hà – Thôi chúng mình đi đi thì hơn. Gần sáng bao giờ Eugénie cũng cáu kỉnh, vả lại ta cũng hết việc ở đây rồi.
Ravic quay về phía cô y tá. Cô ta đón cái nhìn của anh một cách vững vàng. Cặp kính gọng kền làm cho gương mặt cô có được một vẻ bất khả trách cứ. Cô ta cũng là một con người như anh, nhưng lại có vẻ xa lạ hơn cả một thực vật.
– Xin chị bỏ qua cho, – Anh nói – chị hoàn toàn đúng.
Trên mặt bàn trắng tinh, cái thân hình ban nãy còn phập phồng hy vọng, khổ đau, còn thở, còn sống, giờ đây chỉ còn là một tử thi cứng đờ. Eugénie, con người máy không hề biết lầm lỗi, lấy một tấm drap phủ lên thi thể và mang nó đi. Những kẻ còn sống sót lại qua mọi cuộc đổi đời bao giờ cũng là những con người như thế – Ravic nghĩ thầm. Cuộc đời không ưa những linh hồn đã hóa đá, nó quên họ đi và vì thế mà nó để cho họ trường tồn.
– Tạm biệt Eugénie nhé – Veber nói – Hôm nay cô nghỉ đi cho thật khỏe.
– Cám ơn bác sĩ. Xin tạm biệt bác sĩ Veber.
– Chào chị – Ravic nói – Chị bỏ qua cho cách ăn nói thô bỉ của tôi.
– Xin chào – Eugénie nói, giọng lạnh lùng băng giá. Veber mỉm cười. “Nói chứ, thật là một tính cách chết tiệt!”
Bên ngoài, một ngày ảm đạm đang bắt đầu. Những chiếc xe tải chở rác chạy ầm ầm trên các phố. Veber xốc cổ áo lên.
– Thật là một thời tiết khả ố! Tôi đưa anh về Ravic nhé?
– Thôi, cám ơn, tôi thích đi bộ hơn.
– Trời thế này mà thích đi bộ? Đưa anh về chẳng có gì phiền cho tôi cả đâu. Tiện đường lắm mà.
Ravic lắc đầu. “Thôi, Veber ạ, cám ơn anh”.
– Tôi lấy làm lạ, – Veber nói – sao cứ mỗi lần có một bệnh nhân chết dưới con dao mổ anh lại xúc động dữ dội như vậy. Anh làm nghề này đã hơn mười lăm năm rồi chứ có ít đâu. Lẽ ra anh phải quen đi chứ?
Bên cạnh Ravic, Veber có vẻ thỏa mãn và sung túc. Khuôn mặt tròn trặn của ông bóng lộn lên như quả táo. Bộ ria mép tỉa tót của ông lấp lánh dưới mưa. Chiếc Bulck của ông, cũng bóng lộn lên, đang chờ ông bên vệ đường. Lát nữa nó sẽ đưa Veber về ngôi biệt thự ngoại ô ấm cúng của ông, một ngôi nhà búp bê trong đó một người vợ sạch sẽ, tinh tươm, đang chờ ông. Làm sao có thể cho Veber hiểu được mà chia sẻ cái cảm giác căng thẳng hừng hực như lên cơn sốt của giây phút mà mũi dao xẻ đôi làn da ra, rạch một đường chỉ đỏ mảnh dưới sức ấn nhẹ của bàn tay, cái giây phút mà thân thể con người, dưới mớ cặp và banh, mở dần ra như một cái sân khấu có nhiều lớp màn phông, bên trong có những cơ quan chưa từng bao giờ thấy ánh sáng, bỗng bị phơi trần ra dưới đèn mổ? Người làm phẫu thuật như một người đi săn lần theo con đường rừng để rồi mặt giáp mặt với cái chết như một con ác thú nằm phục sẵn trong những nếp mô băng hoại, trong những cái hạch, trong những khối u, trong những bộ phận thương tổn. Lúc bấy giờ, trận chiến đấu bắt đầu, cuộc vật lộn lặng lẽ mà điên cuồng của người thầy thuốc, với con dao mổ sắc như nước cầm chắc trong một bàn tay kiên nghị. Làm sao có thể giảng giải cho Veber hiểu những gì diễn ra khi một bóng đen bỗng trùm lên màu trắng muốt của bàn mổ, một cái bóng ngạo nghễ một cách hung ác tưởng chừng như trong khoảnh khắc làm cho dao cùn, kim gãy, và làm cho bàn tay mình nặng trĩu xuống? Khi sự phập phồng lặng lẽ được gọi là sự sống ấy như chảy tuột qua mấy ngón tay bất lực, rồi biến dần, bị cuốn theo một luồng nước xoáy huyền bí mà không ai có thể thấu tới, không ai có thể chặn lại?
Khi một gương mặt người trong nháy mắt bỗng chuyển thành một cái mặt nạ cứng đơ, không tên? Cuộc nổi loạn dữ dội, bất lực, điên rồ của tâm hồn trước cái cơ sự gớm ghiếc đó, làm sao Veber có thể biết được?
Ravic châm một điếu thuốc nữa.
– Hai mươi mốt năm. – Anh chỉ nói gọn.
Verber lấy mùi-soa lau mấy giọt mưa bám trên hàng ria.
– Vừa rồi anh làm việc tuyệt diệu quá, Ravic ạ. Tôi không tài nào làm được như anh đâu. Nhưng ta không có cách gì cứu chữa được những thương tổn do bọn lang băm gây ra. Nếu ta cứ để tâm quá nhiều đến những chuyện như thế, ta sẽ đi đến đâu?
Ông bỏ chiếc khăn mùi soa vào túi.
– Sau bấy nhiêu gian truân, lẽ ra anh phải dạn dày hơn.
Ravic nhìn Veber, trong khóe mắt thoáng hiện một tia mai mỉa.
– Không bao giờ dạn dày được đâu. Chẳng qua chỉ có thể quen đi nhiều điều.
– Thì tôi cũng muốn nói thế.
– Nhưng có những điều không thể nào quen được.
Anh thấy điều đó không thể hiểu được phải không? Thế thì cứ cho là tại cà-phê. Phải, chắc mấy chén cà-phê đã kích thích tôi quá mạnh. Ta đừng lẫn lộn chuyện đó với nỗi xúc động.
– Cà phê ngon đấy chứ nhỉ?
– Ngon tuyệt.
– Chính tay tôi pha mà. Tôi biết thừa là anh sẽ cần đến. So với cái thứ nước đen mà Eugénie thường cho ta uống thì thật là một trời một vực!
– So thế quái nào được. Anh là bậc thầy trong nghệ thuật pha cà-phê đấy.
Veber lên xe, Ông đặt chân lên đê-ma-rơ và nghiêng người ra cửa.
– Thế anh nhất định không muốn quá giang? Anh mệt lả ra rồi còn gì?
Ông ta như con hải cẩu ấy – Ravic nghĩ thầm. Một con hải cẩu tràn trề thể lực và sức khỏe.
– Tôi không còn thấy mệt nữa rồi – Ravic nói – Cà-phê đã làm cho tôi tỉnh như sáo. Chúc anh ngủ ngon nhé!
Verber cười hà hà. Hàm răng ông lấp lánh dưới bộ ria mép đen.
– Tôi sẽ không đi ngủ bây giờ đâu. Tôi sẽ làm vườn chút đỉnh. Phải trồng mấy khóm uất kim hương và mấy, khóm vạn thọ.
Trồng hoa: uất kim hương và vạn thọ – Ravic nghĩ thầm – Trên những bồn hoa thẳng thớm xen kẽ với những lối đi rải đá cuội, những khóm hoa uất kim hương và vạn thọ… Cơn mưa giông mùa xuân màu đỏ và màu hoàng kim.
– Tạm biệt Veber. Anh sẽ lo hết mọi việc chứ?
– Dĩ nhiên. Tối nay tôi sẽ gọi dây nói cho anh. Tôi rất tiếc, nhưng thù lao sẽ thấp lắm. Chẳng nước non gì. Gia đình bệnh nhân rất nghèo. Hình như cô ta lại không có gia đình nữa thì phải. Thôi để rồi xem.
Ravic phác một cử chỉ tỏ ý không quan tâm.
– Cô ta có đưa một trăm quan cho Eugénie. Hình như vốn liếng của cô ta chỉ có thế, vị chi anh sẽ được hai mươi lăm quan.
– Không sao – Ravic sốt ruột nói – Thôi anh về trước đi.
– Tôi về nhé. Sáng mai, tám giờ.
Ravic chậm rãi đi ngược phố Lauriston. Giá là mùa hè, anh sẽ đến ngồi ở rừng Boulogne để mải mê ngắm cảnh nước hồ in bóng những hàng cây xanh cho đến khi nào tình trạng thần kinh căng thẳng tan biến đi. Rồi anh sẽ về khách sạn ngủ một giấc.
Anh vào một quán rượu ở góc phố Boissiére. Mấy người thợ và mấy anh lái xe tải đang ngồi quanh quầy. Họ uống cà phê nóng nhúng bánh nướng. Trong giây lất, Ravic thấy thèm cuộc giản dị, lành mạnh của họ, nếp sinh hoạt ngăn nắp của họ, ban ngày đi làm, đến tối mệt nhoài về ăn với vợ con, rồi sau đó là giấc ngủ nặng nề, không mộng mị.
– Cho ly Kirsch. – Anh gọi.
Anh nhớ lại rằng người đàn bà vừa qua đời đeo trên cổ chân một sợi dây chuyền nhỏ dát vàng, một vật trang sức vô nghĩa chỉ có sức hấp dẫn khi người ta còn trẻ, còn đa cảm và còn thiếu óc thẩm mỹ. Một sợi dây chuyền có đính một cái lập lắc nhỏ khắc dòng chữ “vĩnh viễn yêu Charles” chốt bí lại quanh cổ chân để đừng bao giờ có thể tháo ra được. Món tư trang nhỏ ngây ngô ấy đã cho anh biết rõ hết cả thiên tình sử: những ngày Chủ nhật vui tươi ở ngoại thành, tuổi trẻ si mê và dốt nát, ông chủ hiệu kim hoàn nhỏ trên một phố nào đó ở quận Neuilly, những buổi tối tháng Chín mát trời trong căn buồng xép sát mái nhà, rồi đột nhiện, sự vắng mặt của chàng trai, nỗi mong đợi, nỗi lo âu, sợ hãi… Vì cái anh chàng Charles được yêu vĩnh viễn kia chẳng còn thấy quay trở lại. Rồi đến đoạn kết đột ngột: một người bạn gái mách cho một địa chỉ quý báu, một bà đỡ trong căn buồng không tên, cái bàn phủ vải sơn, cái cảm giác đau xé ruột, và máu, máu… rồi gương mặt đột nhiên hoảng hốt của bà đỡ, mấy cánh tay lùa cô gái lên chiếc taxi, rồi những ngày lén lút khổ sở, rồi cuối cùng là bệnh viện, là món tiền trạm quan cuối cùng nhầu nát nắm trong lòng bàn tay nhớp nháp mồ hôi… muộn mất rồi.
Máy thu thanh bắt đầu tuôn ra một điệu tăngo trong đó một giọng mũi lè nhè hòa với những tiếng kèn nghe như bò rống, hát lên những câu ngu xuẩn. Ravic hồi tưởng lại quá trình phẫu thuật. Anh soát lại từng động tác một. Giá mổ sớm được mấy giờ trước đó, có lẽ cô ta may ra có cơ sống được. Veber có gọi điện, nhưng lúc ấy anh không có ở khách sạn. Rốt cục cô ta chết là vì Ravic đi lang thang ở cầu Alma. Sự ngu xuẩn của ngẫu nhiên! Anh hồi tưởng sợi dây chuyền dát vàng và cái bàn chân lỏng lẻo quay gập vào phía trong. “Hãy đến thuyền anh, trăng sáng quá em ơi…” giọng anh ca sĩ sướt mướt van nài…
Ravic trả tiền, rồi ra khỏi quán. Anh chặn một chiếc taxi.
– Cho tôi đến nhà hàng Osiris.
Đó là một nhà chứa dành cho tiểu tư sản, có một gian bar rộng thênh thang bài trí theo kiểu Ai Cập. Người gác cửa nói:
– Chúng tôi đóng cửa đây. Chẳng còn ai.
– Chẳng còn ai sao?
– Chỉ có cô Rolande. Còn các cô gái đi hết rồi.
– Không sao.
Người gác cửa lầu bầu, vẻ cáu kỉnh:
– Ông nên giữ taxi lại thì hơn. Giờ này khó kiếm lắm. Vả lại tôi đã bảo là đóng cửa rồi mà!
– Vâng, anh đã nói một lần rồi. Anh đừng lo, tôi sẽ tìm được xe khác.
Ravic đút một bao thuốc lá vào túi người gác cửa và đi qua cái cửa hẹp gần phòng mắc áo của gian đại sảnh. Cũng như mọi khi, ở đây vẫn còn để lại những dấu vết của một cuộc truy hoan trưởng giả: những vũng rượu vang đổ trên khăn bàn, vài ba chiếc ghế ngã lổng chổng, những mẩu thuốc lá trên sàn nhà, và những mùi pha tạp của nước hoa găn gắt lẫn với mùi da thịt.
– Rolande! – Ravic gọi.
Cô Rolande đang đứng trước một cái bàn, trên có một đống đồ lót bằng lụa hồng.
– Ravic đấy ư? – Cô ta nói, không hề ngạc nhiên -Muộn rồi. Anh muốn gì? Một cô gái nhé? Hay muốn uống rượu? Hay cả hai?
– Một cốc vodka.
Rolande đem chai rượu và cốc ra.
– Đây, anh tự tiếp lấy nhé. Tôi còn phải đếm cho xong mớ đồ lót này. Xe thợ giặt sắp đến lấy ngay bây giờ. Nếu không làm danh sách đầy đủ, sẽ mất gần hết. Mấy gã lái xe ấy, anh hiểu không? Họ lấy để tặng bồ.
Ravic gật đầu.
– Chị cho nhạc đi.
Rolande mở radio. Tiếng trống và tiếng kền đồng tràn ngập gian phòng trống trải.
– Có to quá không? – Cô hỏi.
– Không.
Dù là thứ nhạc gì cũng con hơn sự im lặng. Cái im lặng khiến cho người ta cảm thấy mình nổ tung ra… Như nổ trong chân không…
– Xong rồi. Tôi đã đếm hết.
Rolande trở về bàn Ravic. Người cô hơi cân đối, tuy hơi vạm vỡ một chút. Nước da trắng, đôi mắt tối xẩm, rất điềm đạm. Chiếc áo dài đen khắc khổ cho biết cô là người “cai quản”, phân biệt cô giữa đám gái chơi hầu như lúc nào cũng hở hang.
– Uống với tôi một cốc chứ, Rolande?
– Nào thì uống.
Ravic đến quầy rượu lấy một cái cốc, và rót rượu vào. Khi đã đầy nửa cốc, Rolande cổ chai ngăn lại:
– Thế này đủ rồi.
– Tôi chúa ghét những cái cốc voi. Chị không muốn uống hết thì cứ bỏ lại.
– Để làm gì? Làm như thế là lãng phí.
Ravic nhìn kỹ gương mặt nghiêm trang, thông minh của Rolande, rồi mỉm cười.
– Lãng phí! Mối lo sợ vĩnh cửu của người Pháp. Thế còn tiết kiệm thì để làm gì? Ở đây chị có tiết kiệm sức mình đâu?
– Đó là chuyện công việc. Công việc là khác.
Ravic cười khe khẽ.
– Nào tôi mời chị nâng cốc mừng cho lương tâm nghề ngiệp: nếu thiếu nó, thế giới sẽ chỉ còn là một mớ những kẻ tội phạm, những kẻ không tưởng, những kẻ lười biếng!
– Anh thì rõ ràng là đang cần đàn bà – Rolande tuyên bố – Anh có muốn con Kiki không? – Nó khá lắm đấy… hai mươi mốt tuổi.
– Hai mươi mốt tuổi… Cô ấy mà cũng… Thôi để khi khác…
Ravic lại rót rượu đầy cốc mình.
– Rolande, chị thường nghĩ gì trước khi ngủ.
– Phần nhiều là chẳng nghĩ gì sốt. Tôi quá mệt.
– Thế những khi không mệt?
– Những lúc ấy tôi nghĩ đến thành phố Tours.
– Tours ư? Tại sao?
– Ở đấy tôi có một bà cô có một ngôi nhà và một cửa hiệu nhỏ. Cô tôi năm nay đã bảy sáu rồi. Đến khi cô mất, tất cả sẽ về tôi. Tôi tính dọn lại cái cửa hiệu thành một quán cà-phê. Tôi đã dự kiến đâu vào đấy rồi: một tấm thảm màu sáng thêu hoa, một giàn nhạc ba người: một piano, một violon, một celio, phía sau là một quầy rượu. Không lớn, nhưng chững chạc. Ngôi nhà ấy ở vào một khu phố tử tế. Tôi tin chắc chín ngàn năm trăm quan là đủ bày biện sắm sửa, kể cả rèm và đèn đóm. Tôi sẽ có năm ngàn dự trữ để dùng vào thời kỳ đầu. Và dĩ nhiên là tôi còn được hưởng tiền thuê lầu một và lầu hai. Đấy, tôi nghĩ chuyện ấy đấy.
– Chị ra đời ở đấy phải không?
– Phải, nhưng chẳng ai biết tôi đã ở những đâu. Và nếu tôi làm ăn khấm khá thì cũng chẳng ai thắc mắc chuyện ấy làm gì. Có tiền là che được tất cả, anh cũng thừa biết đấy.
– Không phải là tất cả, nhưng cũng được nhiều điều.
Phía sau đôi mi mắt, Ravic cảm thấy cái mệt nặng trĩu dần.
– Tôi thấy hình như uống thế là đủ.
Anh rút mấy tờ giấy bạc.
– Về Tours chị sẽ lấy chồng chứ, Rolande?
– Không phải ngay khi về. Phải sau đó một thời gian. Tôi có một bạn trai ở đấy.
– Chị thỉnh thoảng cũng vẫn gặp người ấy chứ?
– Cũng ít gặp lắm. Thỉnh thoảng anh ta có viết thư. Dĩ nhiên không gửi về địa chỉ này. Anh ta có vợ, nhưng bà ấy nằm bệnh viện. Ho lao. Các bác sĩ cho bà ấy được một mùa mưa, hai năm là cùng. Sau đó, anh ta sẽ tự do.
– Cầu trời phù hộ cho chị. Ít ra chị cũng có lương tri.
Rolande mỉm cười. Cô biết là Ravic nói thật. Mặt cô không hề có chút dấu hiệu gì mệt mỏi. Cô vẫn tươi tắn như khi mới ngủ dậy. Cô biết rõ cô muốn gì. Đối với cô, cuộc sống không có gì bí ẩn.
Bên ngoài trời đã sáng. Mưa đã tạnh, ở các góc phố, những nhà vệ sinh công cộng trông như những cái lô-cốt bọc sắt. Người gác cửa đã tan theo bóng đêm. Một ngày mới bắt đầu. Một đám đông tất tưởi đi vội về phía các cửa dẫn xuống đường xe điện ngầm… trông như thể họ lao xuống mấy cái miệng hầm ấy để làm tế vật cho một vị thần nào ở âm cung.
Khi Ravic bước vào phòng, người thiếu phụ nằm trên đi-văng giật mình, khẽ kêu lên một tiếng ngắc ngứ, rồi vẫn nằm chống hai khủy tay, dáng co ro rét mướt.
– Cô đừng sợ, – Ravic nói – tôi đây mà: người đã đưa cô về cách đây mấy giờ.
Cô thở phào một tiếng. Ravic không trông thấy rõ cô ta. Ánh sáng của mấy ngọn đèn điện pha lẫn ánh ban ngay lọt qua mấy tấm rèm làm thành một thứ ánh sáng nhợt nhạt, vàng bủng.
– Bây giờ chắc là có thể tắt đèn được rồi. – Ravic vừa nói vừa làm.
Anh cảm biết được cái say đang nện đều đều trong thái dương. Anh đã quên khuấy người đàn bà đi, và đến khi lấy chìa khóa phòng ở phòng dưới, anh đã nghĩ là cô ta đi rồi. Giá được như vậy anh sẽ hài lòng lắm.
Ravic đã uống khá nhiều, giới hạn của ký ức đã xê dịch đi, dòng thời gian bị gián đoạn, và những hồi niệm cùng những mộng tưởng cứ dồn dập đến quấy rầy anh.
– Cô uống cà phê nhé – Anh nói – Ở đây chỉ có cà phê là tạm uống được.
Người thiếu phụ lắc đầu từ chối, Ravic nhìn cô kỹ hơn.
– Có việc gì không? Có ai đến đây à?
– Không.
– Nhưng tôi thấy hình như có chuyện gì… Cô nhìn tôi như thể tôi là một bóng ma!
Cô ta nói mà môi gần như không động đậy:
– Cái mùi ấy.
Ravic không hiểu.
– Phải, chính cái mùi ấy…
– À! Chắc là mùi éther. Đúng không, cô ngửi thấy mùi éther chứ gì?
Cô gật đầu.
– Cô đã có lần bị mổ ư?
– Không… Đó là…
Ravic chẳng buồn nghe cô nói nữa. Anh ra mở cửa sổ.
– Sẽ bay hết ngay. Trong khi chờ đợi, cô hút điếu thuốc đi.
Vào phòng tắm, Ravic mở vòi nước. Anh trông thấy mặt mình trong gương. Cách đây mấy giờ, anh cũng đã nhìn mình trong gương như thế này đây. Trong khoảng thời gian ấy, một con người đã chết. Có gì quan trọng đâu? Mỗi phút có hàng ngàn người chết: các bản thông kê cho biết như vậy. Không, chẳng có gì quan trọng cả… nhưng đối với người đang chết thì điều đó quan trọng hơn hết thảy phần còn lại của cái thế giới vẫn tiếp tục tồn tại một cách dửng dưng.
Ravic ngồi xuống thành bồn tắm, cởi giày. Sự lặp đi lặp lại vĩnh cửu. Những đồ vật và mối ràng buộc câm lặng của nó. Sự tầm thường nhàm chán, thói quen hàng ngày, và sức lôi cuốn điên rồ của sinh hoạt. Bên bờ phồn vinh của trái tim bên dòng sông tình ái. Phải, dù người ta có là nhà thơ, là á thần hay là kẻ đần độn, thì vào những khoảng thời gian đều đặn người ta cũng cứ phải rời bỏ những áng mây thượng giới để trở về chốn trần tục mà đi đái. Không ai thoát được ra ngoài cái lệ này. Sự mỉa mai của tự nhiên! Ở phía dưới cái cầu vòng ngũ sắc lãng mạn bắc qua bầu trời là những phản xạ của các hạch tuyến và những co bóp của tiêu hóa và bài tiết. Chính những cơ quan của trạng thái xuất thần cực điểm trong tình yêu lại bị tự nhiên quái ác giao phó những chức năng ô uế nhất. Ravic ném đôi tất vào một xó. Cái thói quen khó chịu phải cởi áo quần. Người ta cũng không thoát được nó. Phải sống độc thân mới hiểu được điều này. Người ta phục tòng nó với một thứ nhẫn nhục bỉ ổi. Đã bao lần anh cứ để nguyên quần áo khi đi ngủ; nhưng đó chỉ là một lối trì hoãn tạm thời. Không sao thoát ra khỏi cái lệ ấy được!
Ravic mở gương sen. Mấy phút liền anh để dòng nước giá lạnh phun xuống làn da. Anh thở thật sâu trước khi lau khô mình. Những niềm an ủi nhỏ nhoi của cuộc sống. Nước, không khí, cơn mưa chiều, cả những cái này nữa cũng phải sống một mình mới hiểu được. Cảm giác biết ơn của làn da, của dòng máu được tuần hoàn thoải mái hơn trong các huyết mạch tối tăm. Mùa hè được nằm dài ra trên một cánh đồng cỏ dưới bóng rạp của rặng bạch dương, ngắm những áng mây bay, ngắm bầu trời của thời thơ ấu… Được sống lại những ảo giác của trái tim mà những nỗi trớ trêu ảm đạm của cuộc đời đã làm tan vỡ…
Ravic trở về phòng. Anh thấy người thiếu phụ ngồi co ro ở một góc đi-văng, chăn kéo lên đến tận cằm.
– Cô lạnh lắm à?
Người thiếu phụ lắc đầu.
– Cô sợ ư?
Người thiếu phụ gật đầu.
– Sợ tôi sao?
– Không.
– Sợ bên ngoài?
– Phải.
– Cảm ơn. – Cô nói.
Ravic ngắm đôi vai, khoảng gáy của cô. Một cái gì đang thở. Một mảnh đời xa lạ đang sống: xa lạ, nhưng dù sao cũng đang sống. Một chút hơi ấm, chứ không phải một thân thể đã cứng lạnh trong cái chết. Người ta có thể cho nhau được gì, nếu không phải là một chút hơi ấm?
Người thiếu phụ quay về phía Ravic. Cô rùng mình Ravic chợt thấy làn sóng biển lùi nhanh. Một cảm giác mát rượi thấm vào người anh. Dường như anh trở về nhà sau một đêm sống ở một hành tinh khác. Mọi sự đều trở lại đơn giản như cũ… buổi sáng sớm… người thiếu phụ… bây giờ không cần phải nghĩ ngợi nữa.
– Em! – Ravic nói.
Người thiếu phụ nhìn anh chăm chăm.
– Lại đây em! – Ravic sốt ruột nhắc lại.