Khoảng trời mênh mông

Chương 11



Ngày tháng Tư năm 1918

Cách Vida ba dặm về phía Tây Bắc, Montana.

Cậu Holt kính mến!

Cháu biết cảm ơn cậu thế nào cho đủ đây? Chẳng khác nào đồng lúa mì sắp gieo hạt sẽ phát triển đều đặn, khoản tiền nhuận bút cũng sẽ đến đều với cháu mỗi tháng. Thử nghĩ mà xem: Cô Simpson biết đâu lại đọc bài báo đầu tiên của cháu cho cả lớp nghe. Chắc chắn cô sẽ sớm tìm ra lỗi từ không rõ nghĩa và kiểu viết câu lạ lùng của cháu. Nhưng cháu mặc kệ, dù người ta nêu tên mình như nêu gương xấu cũng chẳng sao!

Khi nghe cháu kể về nghiên cứu khoa học trình bày trong cuốn Cẩm Nang Canh Tác của Mr. Campbell, anh Karl lắc đầu. Theo sách đó, cháu chỉ cần bảy giạ hạt giống cho bốn mươi mẫu đất. Anh bảo cháu nên đặt mua hai mươi giạ! Chênh nhau những mười ba giạ. Trước nay, không có anh Karl hướng dẫn, cháu cứ lung túng, không biết phải làm sao. Nhưng Mr. Campbell là khoa học gia. Với giá lúa mì giống 2.5 đô la một giạ như hiện nay, làm theo Karl cháu sẽ mất thêm 33 đô la nữa. Nếu được cậu góp ý, cháu xin đa tạ.

Cuối tuần này, trường học ở Vidacó tổ chức một sự kiện lớn; vũ hội quyên tiền mua Trái phiếu Tự do. Ngoài đi lễ nhà thờ, đây là dịp hoạt động xã hội đầu tiên của cháu. Chị Perilee đang nướng bánh mang theo, còn cháu nên mang bánh kẹp cho an toàn. Bánh mì cháu làm giờ hơn xa thứ bánh đầu tay vừa cứng vừa khô lúc trước.

Cháu của cậu

Hattie Inez Brooks

Đêm trước vũ hội, tôi bày hai bộ áo lên bàn:

– Theo mày, tao nên mặc bộ nào? Váy liền áo bằng vải bông kẻ màu vàng hay váy rời bằng len màu xanh biển và áo riêng?

“Ngài” Whiskers ngửi ngửi cả hai bộ. Rồi nó hắt xì khinh bỉ vào váy len rời. Tôi chọn bộ vàng:

– Tao cũng nghĩ thế. Đã đến lúc thêm chút sắc màu cho khung cảnh quanh đây rồi

Chọn quần áo màu nổi không phải ý hay. Nhưng sự ngang bướng của tôi không chỉ dừng ở đó. Tôi còn chăm sóc của cái tổ quạ trên đầu mình nữa kìa. Trước tiên, tôi gội đầu và xả lần cuối bằng nước đường. Sau đó, tôi quấn khăn thật nhiều để ủ. Tôi cứ quấn khăn như thế cho tới thứ bảy, lúc gần lên đường mới tháo ra. Chỉ cần chải chỗ này một tí, vuốt chỗ kia một tí là trông tóc đã khá chỉnh tề. Để tóc hai bên má không xõa xuống, tôi dùng mấy chiếc lược đồi mồi của mẹ cài lại cẩn thận. Sau một hồi nghiêng ngó, “Ngài” Whiskers vừa ý kêu meo meo.

Vừa chuẩn bị xong đống bánh kẹp, tôi đã nghe tiếng vó ngựa của Jim Gà Trống gõ lộc cộc ngoài sân. Tôi xếp bánh vào chiếc đĩa men ít sứt mẻ nhất, lấy khăn sạch phủ lên rồi vơ vội áo khoác và khăn choàng.

Người như Jim mà còn trèo từ thùng xe xuống để đỡ tôi lên:

– Trời, hôm nay cô đẹp dễ sợ.

– Nhìn anh xem, bớt khắt khe với mình chút đi.

Tôi trêu chọc. Từ khi thành bạn chơi cờ với tôi, Jim Gà Trống bớt nặng mùi hẳn. Chắc anh có tiến bộ về mặt vệ sinh. Hoặc do tôi đã dần quen với cái mùi bốc lên từ người anh ta.

– Mong là cô có đôi giầy thoải mái, tiện lợi. Cô sẽ khiêu vũ cả đêm đấy.

Tôi thẹn đỏ cả mặt nhưng vẫn tìm cách chuyển chủ đề của mọi câu bình phẩm về tôi sang tình hình chiến sự. Quân Đức vừa tấn công Pháp dữ dội. Mục tiêu của chúng là vùng đất nằm giữa hai con sông Somme và Arve. Chúng rêu rao đã bắt được chín ngàn tù binh. Nghe tin ấy, tôi không thể không lo cho Charlie.

– Cô đã đoán được bạn mình đang ở đâu chưa?

– Chưa. Có thư, anh ấy nhắc đến tên một thị trấn, nhưng đội kiểm duyệt cắt đi mất. (Tôi bất chợt trầm tư) Tôi hay tự an ủi là khi có sự cố, người ta sẽ cố giữ các sân bay không để bị thiệt hại nặng, có thế máy bay mới an toàn được.

– Nói chung, mình cũng chỉ hy vọng thế thôi, cô ạ.

– Vâng, tôi hy vọng thế và cầu trời được như thế.

Tôi cố xua đi cảm giác kinh hãi. Tuần trước, vùng này đã có con số thương vong đầu tiên, anh Kirkpatric ở Terrace. Dù không quen biết nh, nhưng tin anh hy sinh đã đưa chiến tranh đến sát vách nhà tôi. Suốt quãng đường còn lại, cả Jim và tôi đều đắm mình trong im lặng.

Cô Leafie đứng ngay ngưỡng cửa vẫy chúng tôi vào:

– Trong này ấm, dễ chịu lắm.

Hai chúng tôi nhanh chóng vào trong, cởi áo khoác, giúp bày bánh kẹp, bánh ngọt, súp đậu và phomai làm từ sữa đã gạn kem… ra bàn. Tôi giúp mọi người chuẩn bị cà phê, còn chị Perilee khẩn trương mang bánh ra.

Cô Leafie reo lên:

– Thơm quá! Làm sao em làm được bánh ngon như vậy? Hồi này, nguyên liệu làm bánhcó đầy đủ như trước đâu?

– Từ nhỏ em đã mê làm bánh. Bà em thường làm bánh rất ngon, dù nguyên liệu rất nghèo nàn. Chắc em giống bà ở điểm ấy. (Chị cười bẽn lẽn) Mình nấu nho khô lên trước chị ạ. Mẹo ấy giúp bánh mềm, ngọt hơn.

Mattie chạy đến ôm chân tôi:

– Nhà em có mèo con. (Cô bé buông chân tôi để chải nhúm tóc ít ỏi còn trên đầu Mullie). Em, Chase và Mullie, mỗi người phải đặt tên cho một con mèo. (Cô bé ghé sát lại, thì thầm). Mullie nghĩ mãi không ra, nên em phải chọn hộ đấy.

Trước khi tôi kịp hỏi mèo tên gì, Mattie đã chạy biến, tìm một cô bé khác tôi không biết tên gì để cùng chơi đuổi bắt.

Chẳng bao lâu sau, căn phòng đã chật ních người. Rất nhiều người lạ mà tôi chưa hề gặp và biết tên. Tôi vẫy Grace Robbins, đang cùng anh Wayne, chồng chị cùng hai con bước vào. Olive, con gái chị, nhảy chân sáo đến bên Mattie và cô bạn. Hai anh em nhà Schillinger dạo thử vài bản bằng vĩ cầm. Còn nhóm trẻ lớn đuổi nhau chạy vòng quanh lớp học. Tôi phát hiện Chase trong góc phòng, ngồi núp sau dãy bàn, mải mê đọc sách. Bà con đến dự cười nói vui vẻ. Nhìn quanh nãy giờ, tôi vẫn không thấy Traft đâu.

Tôi hỏi cô Leafie:

– Theo cô, nhà Martin có đến không?

Mới nghe nhắc đến tên, cô đã nhăn mặt khó chịu:

– Đời nào họ bỏ qua màn diễn Trái phiếu Tự do.

– Cháu tưởng mua trái phiếu là đóng góp vào s nghiệp chung chứ ạ?

Cô Leafie nhíu mày:

– Này Hattie, chừng nào cháu mới hiểu gã đó chỉ chuyên gây rắc rối?

– Cháu tưởng con ngựa của Traft mới thế chứ.

Tôi cố tình nói đùa. Cô Leafie cười, phát mạnh vào tay tôi:

– Đừng đùa nữa. Ngày xưa, mẹ cô thường dạy: Tốt gỗ hơn…

– … tốt nước sơn. Mợ cháu cũng bảo thế.

– Vừa nhắc rời miệng xong.

Cô hất hàm ra cửa. Traft Martin cùng một nhóm cao bồi bước vào.

Chỉ vài người gật đầu chào nhóm nhân vật đến muộn. Vừa lúc ấy, nhạc nổi lên hướng sự chú ý của mọi người vào sàn nhảy.

– Nhà Schillinger có chơi nhạc clacket không nhỉ?

Cô Leafie thúc nhẹ khuỷu tay vào sườn tôi. Lúc đầu, hai cô cháu chỉ đứng xem người khác nhảy, rồi cùng vỗ tay hò reo thật sôi nổi.

Sau điệu nhảy nhịp hai bốn, có ngườivỗ nhẹ vai tôi. Tôi quay ngoắt lại vào đối mặtvới Traft Martin.

– Chào cô Brooks.

Tóc anh ta bóng mượt, mùi sáp chải tóc Packer’s Scalptone thoảng bay. Charlie cũng dùng đúng loại này; hồi ấy, anh lén dùng trộm của bố.

– Chào anh.

Tôi vuốt lọn tóc nhỏ ướp đường cứng đơ. Traft giang tay mời:

– Cho phép tôi mời cô một bài.

Tôi ngoái nhìn cô Leafie. Cô cau mày, xoay lưng lại. Tôi kiếm cớ thoái thác:

– Chẳng biết tôi có trụ nổi đến hết bài không nữa. Traft mỉm cười, giống lúc anh nhặt đá hộ tôi.

– Nếu cứ đứng mộtchỗ thì làm sao tiến bộ được.

Dù biết ánh mắtcô Leafie đang khoan thủng lưng mình, tôi vẫn cầm tay Traft cùng bước ra sàn nhảy.

Anh em Schillinger chuyển sangchơi một bản tươi vui.

– Tôi đã cảnh báo trước rồi, anh đau chân thì đừng có trách.

Tôi bước vào hàng nữ. Hóa ra, khiêu vũ cũng không khó lắm. Schillinger “cha” xướng lên, hàng ria mép quặp của ông nhún nhảy:

– Quý cô cúi đầu chào, quý ôngcúi thấp hơn đi nào. Tiến sát vào nhau, cùng xoay vòng thật nhanh. Rồi buông tay, quý ông vềchỗ cũ.

Sàn nhảy quá đông, không còn chỗ để bước lỗi. Nếu có nhầm, người ta chỉ cười, nắm tay bạn nhảy và bắt đầu lại.

Tiếp theo là điệu van. Traft hỏi:

– Bài nữa nhé?

Tới gật đầu không chút do dự. Anh vòng tay ôm ngang eo tôi, tay phải tôi nằm gọn trong bàn tay trái anh. Có ông già Nôen chứng giám, tôi thề lúc ấy có một dòng điện chạy từ đầu đến chân tôi. Tôi giật phắt tay lại.

– Ối!

Anh ta chùi tay vào ống quần Jeans:

– Tay tôi có chai à? Hay ướt mồ hôi?

Tôi không đời nào thú nhận:

– Không phải đâu. Tay tôi… vẫn còn đau vì mới đóng xong hàng rào.

Hy vọng tôi ăn nói trôi chảy để Traft tin lời nói dối vô hại ấy.

– Thế thì đau lắm, tôi biết mà. Tôi sẽ cố hết sức nhẹ nhàng.

Rồi anh lại nắm tay tôi, dịu dàng và thận trọng như đang nâng chiếc ly sứ đẹp nhất của bà Martin vậy.

Cứ thế, hai chúng tôi xoay khắp căn phòng. Tôi chưa khiêu vũ với ai như với Traft cả. Hồi còn học lớp tám, Charlie và tôi có cùng nhảy một lần, nhưng anh còn vụng về hơn cả tôi. Nói hồi ấy hai chúng tôi thi nhau giẫm lên chân nhau thì đúng hơn. Còn lần này, Traft cho tôi cảm giác là công chúa trong chuyện cổ tích đang xoay vòng trong lâu đài lộng lẫy. Thật tiếc là bản nhạc kết thúc quá nh

– Mời các vị vào bàn!

Cô Leafie gõ bình nước, miệng gọi lớn. Traft cảm ơn rồi bỏ đi, còn tôi bị cuốn vào đám đông xếp hàng chờ lấy bánh. Tiết mục khiêu vũ đã kết thúc, một cảm giác tiếc nuối đang len lỏi trong tôi.

Grace bước nhẹ đến xếp hàng phía sau tôi. Ngón tay chị chọc vào lưng tôi đau điếng:

– “Chàng” của Hattie đẹp trai chưa kìa!

Chị chòng ghẹo. Hai má tôi đỏ bừng, nhưng không phải do phòng ngột ngạt. Cô Leafie giơ tay lên trời:

– Lạy Thượng Đế đoái thương!

Tôi lúng búng:

– Làm gì có.

Schillinger cha gọi lớn:

– Bà con láng giềng chú ý. Hãy ăn chút lót dạ rồi chúng ta cùng bàn mục đích chính của buổi tiệc hôm nay.

Mọi người lấy thức ăn đầy dĩa, cà phê đầy ly. Ông Saboe bắt đầu vận động mọi người tham gia mua trái phiếu. Dù nói năng không trôi chảy lắm, nhưng quan trọng là ông rất nhiệt tâm. Ông mào đầu:

– Như bà con cũng biết, mấy thằng con trai tôi giờ đang ngoài mặt trận.

Có tiếng phụ nữ nói lớn (có phải bà Ervick không nhỉ?):

– Cả con tôi nữa, ông chớ có quên đấy. Ông Saboe gật đầu:

– Tôi nghe nói trong Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, bang Montana ta có nhiều con em tham chiến nhất.

Đám đông hò reo hưởng ứng. Ông Saboe vẫy tay yêu cầu mọi người trật tự:

– Không ai dám bảo bang này không hỗ trợ tiền tuyến (lại reo hò). Tuy nhiên, vẫn còn một cách hỗ trợ khác mà tất cả mọi người đều có thể tham gia. Đó là mua Trái phiếu Tự do. Chỉ tiêu của cuộc vận động Cho Vay Vì Tự Do Lần thứ Ba cho bang Montana là ba triệu đô la.

Có tiếng huýt sáo nghe chói tai. Ông Saboe

– Tưởng chừng như bất khả thi, phải không ạ? Nhưng tôi tính trong bang ta, bất kể đàn ông, đàn bà hay trẻ em, chỉ cần mỗi người đóng góp năm mươi đô la là đủ. Để đổi lấy tự do giá ấy quá rẻ. Tôi biết quý vị sẽ ủng hộ hết mình. Tôi ở phía sau kia chờ các vị tiến lên góp phần đánh bại quân Đức. Mỗi đô la của quý vị đều là đóng góp quý báu vào chiến thắng của ta.

Cô Leafie nói lớn:

– Mời bà con ra mua trái phiếu rồi quay lại dùng thêm bánh… Schillinger cha tiếp lời:

– Để có sức khiêu vũ thêm vài bài nữa.

Tôi bước thấp bước cao đều bên bàn ông Saboe, mang theo tờ giấy bạc năm đô la. Ông viết tên tôi vào sổ:

– Đây mới là tiền mặt cho lần đầu tiên. Thêm bốn tờ mười đô la nữa, cháu sẽ có trong tay Trái phiếu Tự do có đảm bảo. Lần trả tiền kế tiếp sẽ nhằm vào ngày hai mươi mốt tháng Mười một. (Ông đưa cho tôi cây viết) Cháu ký vào đây.

Khi ký tên mình vào sổ, tôi nhớ đến Charlie. Khoản đóng góp của tôi tuy nhỏ, nhưng nếu mỗi người dân Mỹ đều góp phần nhỏ nhoi ấy, cộng lại sẽ thành con số đáng lể. Góp phần vào thắng lợi, như ông Saboe nói. Ơn trời vì tôi mới nhận nhuận bút. Không có nó, tôi chẳng thể mua nổi vài con tem, chưa nói gì đến trái phiếu.

Ông Saboe trao cho tôi một huy hiệu màu xanh:

– Cầm đi Hattie. Nó chứng tỏ cháu đã mua trái phiếu của chính phủ liên bang.

Cúi xuống gắn huy hiệu lên ngực áo, tôi thấy có người bước lên. Traft.

– Ông Saboe, đưa tôi xem tên mấy người trong đó. Ông Saboe gấp sổ ký nhận lại:

– Không liên quan tới cậu.

– Thế à. Tôi lại nghĩ khác.

Anh ta nhìn bao quát căn phòng rộng như nhìn bãi chăn thả gia súc nhà mình:

– Là thành viên Hội đồng Tự vệ hạt Dawson, tôi thề sẽ chỉ mặt vạch tên những ai chểnh mảng, đồng thời nỗ lực khích lệ họ thực hiện nghĩa vụ với đất

Giọng oang oang của anh ta khiến mấy đứa trẻ đang nô đùa phải im bặt. Chị Perilee hối hả kéo Mattie về. Còn tôi tìm mãi vẫn không thấy Chase đâu.

Ông Saboe nghiêm mặt đáp trả:

– Trong hai lần vận động cho nhà nước vay tiền đầu tiên, hạt ta đã hoàn thành chỉ tiêu. Không có lý gì lần này lại khác.

Traft trợn mắt nhìn xuống bàn anh Karl:

– Hình như nếu vận động không thành, có kẻ sẽ hả hê lắm.

Tôi nín thở. Hai bàn tay hộ pháp của Karl nắm chặt. Ánh mắt tôi nhìn anh van vỉ. Tôi biết làm cho kẻ chuyên đi bắt nạt nổi xung dễ như thế nào. Đó là kinh nghiệm xương máu của tôi học được trong những ngày đầu mới chuyển đến nhà mợ Ivy. Khi biết tôi mồ côi, Frannie Thompson luôn giở trò tai ác. Cho đến một ngày nọ, tôi nhất định không để hắn giở trò. Nếu Charlie không bước vào can thiệp, có lẽ giờ này mỗi khi thấy nhau, tôi và hắn vẫn sẽ nhảy xổ vào nhau như hai con gà chọi.

Karl sấn lên một bước. Lập tức, Traft cũng bước lên. Cô Leafie phá vỡ bầu khôngkhí căng thẳng:

– Bác Schillinger, nổi nhạc đi thôi.

Tiếng vỗ tay của cô nghe như tiếng súng nổ. Cô đi ngang qua phòng, giơ tay mời Ông Saboe:

– Quý cô được quyền chọn bạn nhảy. Tôi chọn ông nhé, Ông Saboe.

Ông Schillinger vội giơ cây vĩ cầm, tấu lên một khúc nhạc vui. Traft chưa chịu thôi:

– Này, này, tôi đang hỏi mọi người đã đóng góp cả chưa?

Nhóm cao bồi đi cùng Traft bước lên đứng sau anh ta, không them đếm xỉa đến tiếng nhạc dành cho điệu cracket sôi động. Tôi thoáng thấy những giọt mồ hôi lấp lánh rịn phía dưới cánh mũi Ông Saboe. Cô Leafie xoay vòng đến chỗ trống giữa Traft và bàn ghi tên. Hai bàn tay tôi rịn mồ hôi nhớp nháp, hai chân như bị chôn chặt xuống đất từ lâu. Tôi hết liếc nhìn chị Perilee, (Mattie đang bíu chặt gấu váy mẹ) lại nhìn đôi bàn tay to bè của anh Karl đã từng đóng hàng trăm cây đinh trên hàng rào của tôi. Anh là hàng xóm. Là bạn tốt của tôi kia mà. Tôi hít thật sâu, lau khô tay vào váy và bước lên:

– A… anh M…Martin, lần này con gái chọn bạn nhảy. Mời anh khiêu vũ với tôi có được không?

Traft Martin sửng sốt. Ánh mắt anh ta như mũi khoan xuyên thủng từ trước mặt ra đến nút áo cài phía sau gáy tôi.

– Thưa cô Brooks, chưa có lời mời nào lịch lãm đến vậy.

Anh ta nắm tay tôi, dẫn tôi lướt đi trên sàn, hòa vào đám đông đang lả lướt theo tiếng nhạc. Tôi xoay vòng bên cạnh hai cặp Wayne và Grace Robbins, cô Leafie và ông Saboe. Cô thậm chí không thèm nhìn tôi.

Khi gần hết bản nhạc, Traft cầm tay tôi dẫn ra ngoài:

– Cảm ơn cô đã khiêu vũ cùng tôi. Xin hãy nghe tôi khuyên một lần.

Tôi vuốt lọn tóc bắt đầu dinh dính xõa xuống mặt:

– Thưa, gì vậy ạ?

Anh ta ngã mũ:

– Đừng bao giờ đùa với lửa.

Nói xong, Traft hất hàm với nhóm cao bồi rất cả bọn ra về. Ông Schillinger không bỏ lỡ một giây, tiếp tục chuyển sang giai điệu khác.

Đến lúc này, tôi mới dám thở mạnh. Đôi chân mềm nhũn dẫn tôi đến bên chị Perilee. Tôi đỡ lấy bé Fern trên tay chị:

– Nhảy vài bài với anh Karl đi chị. Thoải mái một chút cũng tốt mà.

– Anh ấy thích khiêu vũ lắm.

– Vậy chị ra đi thôi.

Tôi tìm ghế ngồi. Bé Fern dễ thương, khuôn mặt bầu bĩnh, hài lòng với cả bàn tay bế bé ít kinh nghiệm nhất. Nói chính xác thì tôi thuộc chuẩn đánh giá ấy.

Mattie đến bên tôi:

– Fern thích được ẵm thẳng người để bé nhìn được xung quanh. Thế này này!

Mattie xoay bé Fern trong tay tôi, để lưng bé áp vào ngực tôi, mặt bé hướng ra sàn nhảy. Khi ôm một hài nhi ấm áp trong tay, ta mang cảm giác dịu dàng khó tả. Bé Fern xoa dịu mọi cảm xúc khó chịu đang lên tới tột đỉnh trong tôi. Tôi bất giác mỉm cười. Hai bé con này đang là điểm tựa tinh thần của tôi mới lạ

Mattie kéo cái nơ trên tóc con búp bê:

– Hôm trước Mullie làm mẹ khóc đấy.

– Trời! Thật thế sao?

Mattie buồn bã gật đầu:

– Mullie hát em bài ngày xưa mẹ dượng Karl hay hát cho dượng nghe.

– Nghe hát mà mẹ em khóc ư?

Mới nhú một răng mà bé Fern đã hăm hở nắm lấy ngón trỏ của tôi mà ngặm. Tôi nhìn bao quát căn phòng. Có hai cặp cau có rời sàn, quyết tỏ thái độ đối đầu với chị Perilee và anh Karl. Không còn nghi ngờ gì nữa, họ bị lời nói và thái độ của Traft kích động. Tôi nín thở quan sát. Đúng lúc đó, Grace và Wayne Robbins rời khoảng sàn trống, xoay đến sát anh chị Karl với thái độ khiêu khích. Tôi lẩm bẩm:

– Cầu trời phù hộ!

Mattie kể tiếp:

– Nhưng anh Chase bảo tại hàng rào đổ. Chính vì thế mẹ mới khóc. Tôi quay sang nhìn Mattie:

– Hàng rào ư? Con bé gật đầu:

– Nhiều cọc hàng rào đổ lắm. Không phải do bão, cũng không bị bò húc, tự nhiên đổ thế thôi.

Mattie lau ngón tay bé Fern vào gấu váy mình, rồi ngước lên nhìn tôi:

– Chị Hattie ơi, có phải dượng Karl là giặc Đức không?

Nghe giọng ngây thơ của Mattie nói từ đó khiến lòng tôi như xát muối. Tôi ôm vai nó vỗ về:

– Đừng nghe mấy lời đó nghe em!

Mattie vân vê gấu áo rách bươm của Mullie:

– Dượng Karl đang đóng nôi cho Mullie. Mẹ bảo nôi đó của em bé, nhưng cả dượng và em đều biết nôi của Mullie. (Con bé vùng khỏi tay tôi) Cô Leafie nướng bánh qui giòn. Chị ăn không, em đi lấy cho?

– Chắc bánh ngon phải biết.

Bé Fern nặng trĩu trên tay tôi. Tôi nhẹ nhàng xoay em lại, để đầu bé tự vào vai tôi. Tôi vỗ về lưng bé, hít hà hơi thở thơm tho của hài nhi. Chị Perilee và anh Karl xoay vòng đến gần: Anh cao lớn, vững chãi; chị chất phác đôn hậu với cái bụng căng tròn. Tình cảm mãnh liệt trào dâng trong tim tôi, đe dọa tràn qua mí mắt tôi. Có thể Traft làm tôi xao xuyến, nhưng đó không phải điều tôi đang tìm kiếm. Tôi mong chờ một thứ vững chãi, đáng tin như 320 mẫu đất Montana này. Đáng tin như những người bạn tốt, chẳng hạn như anh chị Mueller đây..

Nửa đêm, một đợt bánh kẹp và cà phê nữa lại được dọn lên, mọi người say sưa khiêu vũ thêm vài bài nữa. Tôi nhảy thật nhiều với Jim Gà Trống, ông Saboe, thậm chí còn dành một bản cho Chase.

– Bản cuối cùng đây.

Ông Schillinger tuyên bố trước khi tấu lên bản van có tựa đề Ngôi Nhà Dấu Yêu.

Khi cùng mọi người rửa đĩa đựng bánh kẹp và ly cà phê, chị Perilee ngáp dài. Chúng tôi bày bát đĩa sạch lên bàn để ai mang gì đến sẽ lấy đúng thứ đó mang về, tránh nhầm lẫn.

Vầng đông hửng sáng khi mọi người rục rịch ra về. Anh Karl, chị Perilee và tôi mỗi người bế một đứa trẻ say giấc nồng ra thùng xe nhà Mueller.

– Ngủ ngon nhé, Hattie!

Chị ngái ngủ, ngả đầu vào vai chồng. Chắc xe chưa kịp ra khỏi sân trường, chị đã ngủ khò. Jim Gà Trống và tôi im lặng suốt quãng thời gian bầu trời đêm chuyển từ màu xanh thẫm sang màu hồng.

Khi tôi rời ghế sau thùng xe xuống trước nhà, Jim dặn với tôi:

– Đi ngủ ngay nhé!

Tôi che miệng đáp:

– Tôi cũng mong thế. Khoảng hơn tiếng đồng hồ nữa đã phải vắt sữa bò rồi. Cảm ơn anh đã cho đi nhờ xe.

Tôi uể oải vẫy tay chào tạm biệt khi tiếng nhạc ngựa của Jim xa dần.

Tôi huých sườn phải vào cánh cửa. Cánh cửa mở toang, tôi mang giỏ bước vào. Đặt cái giỏ đánh rầm lên bàn, tôi ngồi ngáp. Mải mê khiêu vũ cả tối khiến bao tử tôi kêu đói. Tôi mở khăn phủ giỏ thức ăn, tìm chiếc bánh kẹp còn dư mang về từ buổi tiệc. Bàn tay tôi chạm phải vật gì đó. Mullie! Không thấy Mullie, Mattie sẽ kêu ca, càm ràm như bà lão sáu mươi mất thôi. Tôi cắn vội miếng bánh rồi hối hả quay ra cửa cần ngủ cơ chứ? Plug có thể đưa tôi đến nhà Mueller và trở về kịp giờ vắt sữa cho Violet. Sau đó, tôi tha hồ ngủ bù vào buổi trưa.

Mới đi được hai mươi bước, tôi đã lấy làm tiếc vì quyết định anh hùng rơm khi nãy. Không có gì đáng ngại bằng đồng cỏ trống trải lúc sáng sớm. Lộc cộc, lộc cộc! Vó con Plug nghiến trên nền đất lún phún cỏ xanh trải dài tít tắp, đây đó có thêm vài bụi xương rồng. Lộc cộc, lộc cộc! Gan ruột tôi nôn nao. Chắc tại bữa khuya quá trễ tràng. Tôi nổi da gà khi nhớ đến con sói xuất hiện hai tháng trước. Giờ này. Chắc cái đuôi của Violet đã được tiêu hóa kỹ lắm rồi. Chắc chắn con sói nọ đang tìm thứ thế vào chỗ cái đuôi bò ngày ấy. Một thứ cao khoảng 1,52 mét, nặng 48,5kg chẳng hạn. Tôi rùng mình, lấy làm mừng vì đang an tọa trên lưng Plug.

Chẳng ai thích cảnh đồng cỏ mênh mang, ngút tầm mắt bởi trên đó chẳng có chỗ nghỉ chân hoặc tránh thú hoang.

– Nhanh lên, Plug.

Tôi thúc gót chân vào sườn ngựa, giục nó đi nhanh hơn trên nền đất cứng. Chỉ có trời mới biết tại sao tôi luôn tin rằng con ngựa già này chạy nhanh nhất trên đời, có thể đưa tôi vượt mọi hiểm nguy. Quả thật, khi một mình trên đồng cỏ vào lúc bình minh, người ta khó có thể suy nghĩ sáng suốt được.

Nếu không sợ hãi, dỏng tai nghe âm thanh của đồng cỏ lúc trời chạng vạng, tôi đã nhận ra sự việc sớm hơn. Khi đến chân một gò đá, cách đích đến khoảng một dặm, tôi ngửi thấy mùi hiểm họa.

Khói.

Tôi thúc ngựa trèo lên. Tới đỉnh rồi, mùi khói khét lẹt xộc vào mũi tôi. Tôi bật ngửa người như vừa hứng một trái bóng chày bay đến với một lực cực kì mạnh. Khói.

Và khói ấy bay từ hướng nhà chị Perilee.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.