Khổng Minh Gia Cát Lượng Đại Truyện

2. Đối kháng – Hoà đàm – Mỹ nhân kế.



Vào giai đoạn này, ở những dinh sở cũ của Lưu Biểu tại bắc Kinh Châu, theo lời hiệu triệu của Hoàng Trung và Ngụy Diên, theo nhau ly khai Tào Nhân ở Tương Dương thành, vượt qua vùng Giang Lăng thuộc Chu Du, về nam đi theo Lưu Bị, khiến cho quân thế của Lưu Bị mạnh lên không ít.

Để tăng cường quan hệ Tôn – Lưu, Lỗ Túc chủ trương hai bên qua hôn nhân mà thêm gắn bó. Bởi vợ cả của Lưu Bị là Cam phu nhân mới từ trần, Ngô Quyền được sự đồng ý của Thái phu nhân, đem người em gái chưa đến 20 tuổi gả cho Lưu Bị đã 49 tuổi, để ổn định quan hệ chính trị giữa hai bên. Tam quốc chí có chép về việc này: “Tôn Quyền có ý giao hảo, đem em gái gả cho Lưu Bị”.

Em gái của Tôn Quyền, “Tam quốc diễn nghĩa” gọi là Tôn Nhân, có khi còn gọi là Tôn Thượng Hương. Nghe nói người con gái ấy cũng di truyền tinh thần thượng võ của phụ huynh. Tuy lớn lên khá xinh đẹp, song cá tính cứng cỏi, năm gần 20 tuổi vẫn chưa xuất giá (ở xã hội cổ đại Trung Quốc đã kể là cao số) gặp được Lưu Bị là khách anh hùng, kể như là sự phối hợp tuyệt đẹp, song cuộc hôn nhân chính trị này lại không có hạnh phúc. Sau thời gian Lưu Bị vào đất Thục, Tôn Quyền mang Tôn phu nhân về đất Ngô, còn chuẩn bị mang theo A Đẩu là con trưởng của Lưu Bị, may mà Triệu Vân, Trương Phi chặn đường thủy, cứu được A Đẩu. Song quan hệ liên minh Tôn – Lưu đến đây cơ hồ như chấm dứt.
Bởi ổn định việc điểu hành ở nam Kinh Châu, Lưu Bị bổ nhiệm Gia Cát Lượng là Trung lang tướng, đốc lý các quận Linh Lăng, Quế Dương, Trường Sa. Gia Cát Lượng chỉ huy ở trung tâm, đặt đại bản doanh ở Lâm Trưng (nay thuộc tỉnh Hồ Nam), Lâm Trưng ở giữa ba quận, thuận tiện giao thông qua lại. Vai diễn của Gia Cát Lượng lúc ấy, cũng giống như Tiêu Hà thời kỳ ở Hán Trung và Quan Trung, chủ yếu ở việc lo liệu tích trữ lương thảo, đáp ứng nhu cầu của Lưu Bị.
Ở phía nam bốn quận này, có một số dân tộc thiểu số sinh sống, ghi chép của quan phủ thường gọi là Man tộc. Từ thời Tần Hán trở lại, triều đình đặt quận huyện thống trị ở đó; bởi “trời thì cao mà hoàng đế thì xa”, các quan lại ở đây đã bóc lột dân lành một cách tàn khốc thậm chí còn tàn sát hàng loạt khi họ chống lại. Thù hận chất chồng, những dân tộc thiểu số này thường đứng lên đấu tranh vũ trang, tạo thành sự bất bình.

Các quan lại hành chính cũ thường nói đến pháp trị, nghiêm khắc trừng trị bạo loạn, song nhìn chung vẫn loạn lạc triền miên, chỉ trấn áp được nhất thời mà không thể chữa được gốc bệnh. Gia Cát Lượng sau khi tiếp quản ba quận phía nam đã thay đổi tác phong; “Tam quốc chí” có chép, ông ta lấy thái độ khoan dung, dùng chính sách “phủ dụ” đối với “Man tộc”, làm cho cục diện hỗn loạn mau chóng được bình ổn lại. Trong “Long Trung Sách” có nhắc đến “Nam phủ di việt”, chính sách đó bưốc đầu được thực hiện cụ thể ở đây.

Năm Kiến An thứ 15, Lưu Bị đã ổn định được chính quyền ở Công An, song Chu Du đóng đồn ở Giang Lăng gần đó, không nghi ngờ gì là một áp lực lớn đối với Lưu Bị; phát triển lên bắc thì chẳng thể được, về phía nam hoặc tây thì đều vấp phải Chu Du; bởi thế muốn đến Giang Đông thương lượng với Tôn Quyền, hy vọng sát nhập Giang Lăng vào vùng đất mà Lưu Bị cai quản, đấy chính là sự kiện lịch sử gọi là “mượn Kinh Châu”.
Gia Cát Lượng thấy tâm lý Lưu Bị bất an, thể hiện rất rõ ràng, huống chi quy hoạch của “Long Trung Sách” bước tiếptheo là tây tiến sang Ích Châu. Song vướng nỗi Chu Du đang trấn thủ ở Giang Lăng, tất cả kế hoạch về căn bản không có khả năng thực hành. Lưu Bị phải đích thân đến Đông Ngô đàm phán, tựa hồ rất chi nguy hiểm song ông ta cũng chưa tìm thấy phương pháp gì cụ thể để giải quyết, Lưu Bị và Tôn Quyền ít ra cũng là chỗ thân thiết, nếu như việc giao thiệp có thành công ở mức nào, Gia Cát Lượng cũng chưa lường hết, cho nên ông ta chỉ có thể “khuyến cáo” về phương thức, hy vọng Lưu Bị sẽ xem xét cẩn thận.
Thái độ của Lưu Bị lại là khá cương quyết; ông ta cho rằng Tôn Quyền thực ra vẫn đau đầu với phương bắc, bị Tào Tháo uy hiếp, Tôn Quyền vẫn muôn có sự viện trợ, cho nên không cho rằng Đông Ngô sẽ đưa ra những điều “bất lợi” cho hành động của mình. Gia Cát Lượng tuy trong bụng không yên tâm, cũng không thể cản trở nổi ông ta, đành gửi gắm cả ở viên tùy tùng, dặn có chuyện gì phải tìm ngay Lỗ Túc, đối với sự phản ứng của Chu Du, phải luôn đặc biệt chú ý.
Lưu Bị một mình hội kiến với Tôn Quyền ở Kinh Khẩu (thuộc tỉnh Giang Tô) tuy đã thành thân thích song hai vị hào kiệt này mới lần đầu giáp mặt, đều không tránh khỏi có ý ngưỡng mộ nhau; Tôn Quyền lấy lễ thủ trưởng châu quận mà khoản đãi Lưu Bị.
Không như Gia Cát Lượng trù liệu, khi Lưu Bị đề xuất vấn đề mượn Kinh Châu, Tôn Quyền sẽ lập tức phản ứng; ông ta không dễ từ chối trước mắt, đành đẩy vấn đề về phía Chu Du. Giang Lăng là nơi mà Chu Du đã liều mình cướp được, nên để ông ta chuyển giao Giang Lăng, ít ra cũng phải để ông ta đồng ý một cách tình nguyện. Bởi thế đáp lại yêu cầu mà Lưu Bị đưa ra, Tôn Quyền đã ủy thác cả cho Chu Du.
Chu Du khi nghe Tôn Quyền nói về việc ấy tự nhiên kiên quyết phản đối; ông ta còn lập tức đề nghị với Tôn Quyền rằng:
“Lưu Bị có tư thế kiêu hùng, mà lại có Quan Vũ, Trương Phi như hổ như gấu, ắt chẳng thể ở vị trí luồn cúi người khác lâu dài. Bởi thế, tôi cho rằng tốt nhất là cầm chân Lưu Bị ở Đông Ngô, ban cho ông ta cung thất đẹp nhất, cấp cho ông ta nhiều mỹ nữ giỏi múa hát để làm vui tai mắt. Lưu Bị lâu ngày xa cách Quan Vũ và Trương Phi khiến những người ấy không gắn bó nữa, Chu Du tôi có thể nhân cơ hội ấy thu lại bốn quận phía nam. Nếu như đưa Giang Lăng cho Lưu Bị để ba người này tụ họp ở đấy, sợ rằng giống như Giao Long gặp mưa lành, cuối cùng chẳng chịu ở trong ao nữa”.
“Tam quốc diễn nghĩa” miêu tả Chu Du dùng em gái Tôn Quyền để giam lỏng Lưu Bị, kỳ thực đại khái là phong tỏa mà dần dần làm cho hủ bại. Tôn phu nhân khi theo chồng về đất Công An, Chu Du về căn bản không thể hiện ý kiến gì; “Tam quốc chí” có chép, việc đem em gái ra để củng cố tình thân đôi bên và Chu Du có đề nghị ra sao, chẳng qua là khẩu khí của phái Diều Hâu mà thôi, còn trong bụng ông ta cũng đã rõ, Tôn Quyền nặng về nhìn nhận đại cục chẳng thể nhân khả năng này mà phá hoại sách lược “đoàn kết”.

Song Tôn Quyền cho rằng liệu định của Chu Du cũng cao kiến; ông ta triệu tập đại diện của phái Diều Hâu là Thái thú Lã Phạm và đại diện phái Bồ Chu là Lỗ Túc cùng thương nghị. Lã Phạm chủ trương giam lỏng Lưu Bị cũng giống như đề nghị của Chu Du. Lỗ Túc thì lấy đại cục “cùng chống Tào Tháo” làm xuất phát điểm, cho rằng có thể đưa Giang Lăng cho Lưu Bị, để cùng hợp lực mà phòng ngự tốt hơn với phương Bắc”.

Lỗ Túc lại nói với Tôn Quyền rằng: “Tướng quân là bậc anh hùng cái thế, song thực lực của Đông Ngô chúng ta về căn bản chẳng thể so với Tào Tháo, huống chi Kinh Châu vừa mới chiếm được, chúng ta còn chưa có ân huệ gì với trăm họ Kinh Châu, chẳng bằng cứ để cho Lưu Bị vỗ yên họ, ổn định tình thế Kinh Châu, cộng đồng đế kháng Tào Tháo, đấy chẳng phải là có lợi lắm ư?”.

Sau đó không lâu, Lưu Bị khẩn khoản xin về Công An, Tôn Quyền không thể giữ mãi, phải chuẩn bị tiệc lớn đưa chân; còn về chuyện mượn Kinh Châu, cứ tạm thời gác lại sau. Cuốn “Sơn dương công tải ký” có chép:
Lưu Bị sau khi giáp mặt với Tôn Quyền, trở về nói với tùy tùng rằng: “Xa kỵ tướng quân Tôn Quyền khoảng thân mình thì dài mà chân thì ngắn loại người như thế thì khó một mình mà thuyết phục nổi ông ta, chúng ta hãy mau chân mà chạy cho thoát thôi!”.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.