Khổng Minh Gia Cát Lượng Đại Truyện

6. Gửi con ở thành Bạch Đế, vua tôi bàn việc quốc gia.



Chiến dịch Hồ Đình, đối với Lưu Bị có tiếng là anh hùng, cơ hồ là một đòn chí mạng, làm tổn thất lớn đến uy tín của Thục Hán mới kiến lập, chí lớn bắc phạt Tào Ngụy, khôi phục nhà Hán cơ hồ đã tuột khỏi tầm tay, bi thống có thừa, tình hình sức khoẻ xấu đi nghiêm trọng.

Thành Đô lại truyền đến những tin xấu, đầu tiên là Tư đồ Hứa Tĩnh tuổi già đã mất. Tiếp đến là Kiêu kỵ tướng quân Mã Siêu nổi tiếng ở xứ Tây Lương cũng bệnh mà mất lúc 47 tuổi, bốn tướng lĩnh quân đoàn của Hán Trung Vương nối nhau từ trần, kể về hàng đại tướng có danh tiếng đảm đương được một vùng chỉ còn Triệu Vân và Ngụy Diên.
Đến như Thượng thư Lưu Ba mới đến Vĩnh An thăm hỏi, trở về Thành Đô không bao lâu cũng bị bệnh mà mất, Lưu Bị vạn phần thương tâm, bèn bổ nhiệm Kiện Vy Thái thú Lý Nghiêm thay thế chức vụ của Lưu Ba.
Có thể ông ta cũng cảm thấy mệnh vận sắp hết, chẳng thể đoạt lại Kinh Châu, liền hạ lệnh chuyển phần mộ Cam phu nhân về đất Thục. Đến mùa xuân năm thứ hai (tức là năm Hoàng Sơ thứ tư), bệnh tình nhanh chóng xấu đi, bèn phái người đến Thành Đô mời Gia Cát Lượng mau chóng đến Vĩnh An.

Lại nói từ lúc tin chiến bại ở Hồ Đình truyền đi, Thục Trung đã có không ít chấn động. Cao Định, một thủ lĩnh dân tộc thiểu số ở quận Việt Huề đã xâm phạm huyện Tân Đạo, bị Lý Nghiêm đánh bại. Hán Gia Thái thú Hoàng Nguyên vốn bất hoà với Gia Cát Lượng, có ý đồ chờ thời làm loạn, đây cũng là nguyên nhân chủ yếu khiến Gia Cát Lượng vẫn không dám rời Thành Đô, song Lưu Bị đã cho mời gấp, không thể không đi, ông ta để tòng sự Dương Hồng vẫn có hiểu biết rộng phụ tá Thái tử Lưu Thiện giữ Thành Đô, tự mình dẫn hai hoàng tử Lưu Vĩnh, Lưu Lý đến Vĩnh An.
Từ tháng 2 đến tháng 4 năm Hoàng Sơ thứ tư, Gia Cát Lượng đợi ở Vĩnh An, cùng với Lưu Bị lập quy hoạch tương lai ở Thục Hán, Thượng thư Lý Nghiêm mới được bổ nhiệm, bởi Lưu Bị bệnh nặng cũng vẫn chầu trực ở Vĩnh An, do ông ta là lão thần Thục Trung, bởi thế là đối tượng hỏi han rất tốt của Lưu Bị và Gia Cát Lượng.
Sau chiến dịch Hồ Đình, tình thế chung có biến hoá rất lớn, Ngụy Ngô liên hợp mà lại phân chia, quan hệ Tôn -Lưu lại có dấu hiệu hoà hiệu, thế ba chân đỉnh trong thiên hạ tựa hồ đã thành hình hoàn toàn. Song tình hình Thục Hán lại rất không ổn. Về quốc phòng, bốn đại tướng có uy tín với Hoa Hạ là Quan Vũ, Trương Phi, Mã Siêu, Hoàng Trung nối nhau từ trần, lại thêm đạo quân Hồ Đình mất đi, sức tác chiến của vương triều Thục Hán gần như tan rã, sau này việc đối kháng với Tào Ngụy và Tôn Ngô, sẽ ngày mỗi khó khăn.
Việc điều hành ở Ích Châu và Hán Trung chưa hoàn toàn ổn định lại nối tiếp phát sinh hai nguy kịch mất Kinh Châu và đại bại trong cuộc đông chinh, đối với tài chính và kinh tế nước Thục ắt tạo thành một gánh nặng nghiêm trọng, như thời khắc then chốt này với Lưu Bị, nếu tình hình lộn xộn, sự ổn định nội chính có thể sẽ lập tức nẩy sinh nguy cơ.
Đúng như Gia Cát Lượng sau này trong Xuất Sư Biểu có viết: “Tiên đế sáng nghiệp chưa lâu, giữa đường đứt gánh, đang lúc thiên hạ chia ba, Ích Châu mỏi mệt, đúng là nguy cơ còn mất đã ở trước mắt…”.

Lưu Bị đương nhiên cũng biết rất rõ nguy cơ rất lớn, ông ta khẩn cấp cho vời Gia Cát Lượng, chính là nghĩ lợi dụng những ngày giờ cuối cùng của đời mình cùng với người thực chất kế nhiệm, triệt để trao đổi ý kiến, cùng đề ra kế hoạch ứng phó của mình sau này.

Quả nhiên, Gia Cát Lượng vừa rời Thành Đô, Hoàng Nguyên đã phát động chính biến quân sự ở Hán Gia, ông ta thiêu hủy lâm cung, cướp lấy bản doanh chẳng chút sợ hãi. Dương Hồng lập tức phái tướng quân Trần Vẫn, Trịnh Sước đến trừng phạt.
Tại hội nghị quân sự, không ít tướng lĩnh cho rằng Hoàng Nguyên nếu lực lượng không đủ tấn công Thành Đô sẽ từ Việt Huê rút về Nam Trung, chiến đấu lâu dài.
Song Dương Hồng lại có cách nhìn khác, ông ta cho rằng: “Hoàng Nguyên vốn là người hung bạo, đối với nhân dân không có ơn huệ, không thế có lực lựơng như thế. Ông ta nhất định sẽ cưỡi thuyền xuôi dòng, đến Vĩnh An gặp Hoàng Thượng xưng tội, hoặc tự trói chịu bắt. Nếu làm không được sẽ đầu hàng Đông Ngô, để giữ mạng sống”. Bởi thế ông lệnh cho Trần Vẫn và Trịnh Sước, mai phục ở Nam An, đợi Hoàng Nguyên tự mình chui đầu vào lưới.
Quả nhiên Hoàng Nguyên không dám ở lại Việt Huề muốn cưỡi thuyền xuôi dòng, cuối cùng bị Trần Vẫn bắt sống đưa về Thành Đô chém đầu.
Dương Hồng mau chóng phái người báo cáo về Thành Đô về chuyện Hoàng Nguyên, đối với Gia Cát Lượng mà nói, nhìn chung bớt được một mối lo.
Do nhân tài ở Thục Hán mau chóng tàn lụi, Gia Cát Lượng cũng đã chú ý đề bạt những thanh niên tài giỏi. Ông ta đối với người em trai của Mã Lương là Mã Tắc rất đỗi cảm mến, lấy làm tham mưu, thường cho theo bên mình, lần này đến Vĩnh An, do có thể cần thảo luận nhiều việc, bởi thế đặc biệt mang theo Mã Tắc từ Thành Đô đến, giúp đỡ việc chỉnh lý và thảo luận ý kiến.
Mã Tắc tên chữ là Ấu Thường, là em trai của Đại lão Kinh Châu Mã Lương, đầu óc rất sáng suốt, ăn nói giỏi giang hơn hẳn người anh, vốn lại đa tài rộng học, hay nghị luận binh thư và mưu lược, quan sát kỹ lưỡng, phân tích tinh tế, nói đâu ra đấy, rất được Gia Cát Lượng tán thưởng.
Lưu Bị khi ở Kinh Châu, đã có quan hệ thân thiết với Mã Lương, tự nhiên biết rất rõ về Mã Tắc, song ông lại không thích Mã Tắc chỉ giỏi ăn nói, tuy bàn đến những việc cao xa song nhìn chung không có thực tế. Đối với Lưu Bị là người dầu dãi phong sương, thì những mưu sĩ như Mã Lương, Hoàng Quyền, Mã Trung nhiều kinh nghiệm tuyệt đối hơn hẳn Mã Tắc giỏi nói lý luận mà thiếu kinh nghiệm thực tế. Bởi thế, đối với ý kiến của Gia Cát Lượng đề bạt Mã Tắc thì không vừa ý, ông ta nhắc nhở rằng với Gia Cát Lượng: “Mã Tắc nói quá sự thực, chẳng thể dùng vào việc lớn, thừa tướng nên từ nhiều phương diện quan sát tinh tế ông ta mới phải vậy!”.
Song Gia Cát Lượng nhìn chung lại cho rằng về quan hệ tuổi tác, có thể có chỗ câu nệ, cho nên Lưu Bị đã không vừa ý.
Trung tuần tháng 4, Lưu Bị bệnh tình nguy kịch, lập tức viết di chiếu cho Thái tử Lưu Thiện ở Thành Đô, cùng đưa trước cho Gia Cát Lượng và Lý Nghiêm xem. Toàn văn như sau:
“Trẫm lúc đầu mắc bệnh lị, sau chuyển bệnh khác, xem tình hình bệnh không khỏi. Người ta 50 tuổi đã không gọi là chết yểu, nay ta đã hơn 60, chẳng có gì ân hận, bởi thế chẳng lo lắng cho mình chỉ nghĩ đến tương lai của anh em các ngươi (chỉ Lưu Thiện).
Nghe thừa tướng Gia Cát Lượng nói, ngươi có khí chất lớn, tiến bộ rất nhanh, vượt quá mong mỏi của ông ta, nếu như thực sự như thế ta còn phải lo gì, hy vọng ngươi cũng phải nỗ lực, chớ làm một điều ác nhỏ, cũng chớ không làm một điều thiện nhỏ.
Tất cả phải lấy cầu hiền, cầu đức làm mục tiêu, khiến cho thần dân có thể đối với ngươi tâm phục hoàn toàn. Phụ thân, của ngươi vẫn bạc đức, không nên phỏng theo.
Hy vọng rằng ngươi chăm đọc nhiều sách, đặc biệt là “Hán Thư” và “LễKý” nhất định phải đọc kỹ, khi thong thả cũng cần nghiên cứu thêm “Lục Thao” và “Thương Quân Thứ” (Thương Ưởng), có thể tăng cường được trí tuệ và ý chí.

Nghe nói thừa tướng Gia Cát Lượng có chỉnh lý những sách “Thân Bại Hại”, “Hàn Phi Tử”, “Quản Tử”, “Lục Thao”, rất nên thỉnh giáo ông ta nhiều”.
Gia Cát Lượng xem rồi đỏ mặt nói rằng: “Xin bệ hạ yên tâm, phụ tá Thái tử vốn là trách nhiệm của thần, xin cứ yên lòng dưỡng bệnh, sớm phục hồi sức khoẻ để đáp lại trông mong của thiên hạ”.

Lưu Bị nhìn chăm chăm vào Gia Cát Lượng, hồi lâu buông một tiếng thở dài, đinh ninh dặn dò rằng: “Ông mới gấp 10 Tào Phi, ắt có thể yên được việc nước, định được đại sự. Nếu ấu chúa có thể giúp được thì giúp; nếu có bất tài, ông có thể đảm nhiệm”.
Gia Cát Lượng nghe nói thế, biến cả sắc mặt, kinh hoàng và cảm động cùng lúc, nước mắt lại lã chã rơi, lập tức quỳ ở bên giường nói rằng: “Thần đâu dám không tận tâm tận lực, giữ mực trung chính, dẫu đến chết mới thôi!”.
Lưu Bị lệnh cho quan hầu nâng Gia Cát Lượng dậy, gọi Lý Nghiêm đến trước mặt, dặn dò ông ta giúp đỡ thừa tướng cùng phò tá Thái tử. Lại gọi hai hoàng tử Lưu Vĩnh, Lưu Lý, dặn họ nói lại với Thái tử Lưu Thiện: “Anh em các ngươi sau này phải xem thừa tướng giống như phụ thân, đồng tâm cộng sự, không được sai trái”.
Nói xong, lệ tuôn như mưa.
Cùng ngày, Lưu Bị nói với các quan cận thần ở Vĩnh An, tuyên bố việc gửi ấu chúa cho Gia Cát Lượng, lấy Thượng thư Lý Nghiêm làm phó, cùng phụ chính.
Năm Ngụy Văn đế Hoàng Sơ thứ 4, tức là năm Thục Hán Chương Vũ thứ 3, vào ngày 24 tháng 4, Lưu Bị ngã bệnh từ trần ở cung Vĩnh An, thọ 63 tuổi, đặt tên thụy là Chiêu Liệt Hoàng đế.
Tuy là việc đã có dự liệu, song sự ra đi của Lưu Bị vẫn dẫn đến chấn động lớn với vương triều Thục Hán, Gia Cát Lượng không dám vội về Thành Đô, tạm thời ở lại Vĩnh An, để sắp đặt công việc phía đông và việc quốc phòng phía bắc. Bởi Triệu Vân đang trấn thủ thành Bạch Đế, trong thời gian ngắn tạm thời không có vấn đề. Việc phòng thủ phía bắc bởi Trương Phi và Mã Siêu nối nhau từ trần, tướng lĩnh mới bổ nhiệm uy tín quốc tế không đủ, những tham vọng lớn lao của quân Tào ở Quan Trung chẳng thể xem thường, chỉ dựa vào Ngụy Diên giữ bồn địa Hán Trung đích xác là chịu không ít áp lực. Lưu Bị vừa mới mất, các quận ở nước Thục khó tránh khỏi hiện tượng bất ổn. Tào Ngụy và Đông Ngô đều có thế nhân cơ hội quấy nhiễu, bởi thế việc ổn định biên cương là rất cấp bách.

Đến tháng thứ 2, Gia Cát Lượng mới cho phát tang, trở về Thành Đô, lại lệnh cho Lý Nghiêm làm Trung đô hộ ở lại giữ Vĩnh An.
Tháng 5, Thái tử Lưu Thiện lên ngôi, tôn hoàng hậu Ngô Thị làm Hoàng thái hậu, đại xá thiên hạ, đổi niên hiệu là Kiến Hưng.
Lịch sử gọi Lưu Bị là tiên chủ của Thục Hán, còn gọi Lưu Thiện là hậu chủ.
Linh cữu mẫu thân Lưu Thiện là Cam Phu nhân cũng từ Nam Quận chuyển về Thành Đô, tháng 8 hợp táng với Lưu Bị ở Huệ Lăng phía nam Thành Đô.
Lúc đó, Lưu Thiện mới 17 tuổi, cá tính ôn hoà, lại có chút nhút nhát, thực tại chẳng phải là một lãnh tụ chính trị thích hợp, sở trường duy nhất là giống phụ thân của ông ta, rất có nhân duyên, quần thần nói chung đều thích ông ta.
Bởi thiếu kinh nghiệm, chỉ biết làm theo di chiếu của phụ thân, phong Gia Cát Lượng làm Vũ hương hầu, giữ chức Ích Châu mục, còn mọi việc quốc gia đại sự chẳng kể lớn bé đều uỷ thác cả cho Gia Cát Lượng.
Đã nhận sự ủy thác của Lưu Bị, Gia Cát Lượng cũng chẳng hề do dự với trách nhiệm gánh vác hoàn toàn.
Thục Hán kể từ lúc kiến quốc đến nay chiến tranh liên miên, cho nên chưa chỉnh đốn được chế độ, tuy Lưu Bị mất đi, song nói chung vào giai đoạn này, vẫn có thể duy trì được hoà bình. Gia Cát Lượng bèn ra sức chỉnh đốn tham nhũng, tu bổ pháp chế, sửa sang lại biên chế hành chính và quy tắc chính trị.

Gia Cát Lượng đầu tiên họp các đại thần Thục Hán, công bố quan niệm chính trị điều hành quốc gia từ nay vềsau: “Khi vạch kế sách chính trị, nên cố gắng tập hợp trí tuệ nhiều người, cùng những đề nghị thẳng thắn. Nếu xử lý sợ đắc tội người ta hoặc bởi ý riêng mà xa lánh người khác, thì chẳng thể giành được các ý kiến bất đồng, kéo dài như thế, sẽ có tổn thất rất nhiều. Có quan điểm từ những bất đồng mà xem xét sự việc, thì quyết sách như vậy mới là thích hợp nhất.
Phải nỗi người ta rất khó tận tâm đưa ra cách nhìn bất đồng, chỉ có Từ Thứ ngày xưa, từ nhiều vấn đề ông ta đều nghiên cứu tường tận mọi mặt. Đổng Hoà, làm công tác tham mưu bảy năm, khi rút ra kết luận từ sự việc, có mười cách nhìn khác nhau, cũng không ngại phiền mà đề xuất, nếu mọi người đều có tinh thần của hai người ấy, trung với quốc gia, không ngừng đề xuất ý kiến bất đồng, như vậy sẽ giúp đỡ ta trong lúc quyết định giảm bớt được những sai lầm.
Tiếp đó lại nói đến thời ở Long Trung, những chuyện về quan hệ bạn bè: “Thời trẻ đã có qua lại với Thôi Châu Bình, bởi ông ta nhiều tuổi hơn, kiến thức sâu rộng nênhọc được ở ông rất nhiều. Sau này biết Từ Nguyên Trực lại mở mang thêm được trí tuệ. Tham mưu Đổng Ấu Tể mỗi lần đề nghị đều nói đâu ra đấy, lời lẽ không dài dòng, sau nàv lại được Hồ Vĩ Độ (phó tướng của Gia Cát Lượng) giúp đỡ, thường cho ta, không ít những lời can ngăn trực tiếp. Tuy ta thiên bẩm tối tăm chẳng thể hoàn toàn hiểu đượcý tứ của bốn tiên sinh kia, có lúc cũng không thu nạp hết, song ta với bốn vị ấy mãi mãi là bạn tốt, tuyệt đối chẳng bởi họ đã phê bình ta mà không vừa lòng, đối với sự chân thành của họ cũng chẳng bao giờ nghi kỵ. Xin các vị sau này chớ khách khí, hết sức bày tỏ cách nhìn của riêng mình!”. “Tư trị thông giám” có chép:
“Gia Cát Lượng lúc mới làm thừa tướng, thường tự mình hiệu đính các công văn giấy tờ. Phó tướng Dương Ngung thấy thế trực tiếp can rằng: “Thúc đẩy việc chính sự, điều rất quan trọng là phải dựa vào chế độ, trên dưới có phân quyền, không nên giẫm chân lên nhau. Tôi nay lấy công việc về nghề nông để đưa một ví dụ thử ngẫm xem. Nay có một hộ nông nghiệp, người chủ phái nông nô cày bừa, tỳ nữ xử lý việc bếp núc, gà trông trông coi việc báo sáng, chó thì trông coi việc canh trộm, bò thì trông coi việc kéo cày, ngựa thì trông coi việc kéo xe.
Như vậy công việc của họ nhất định điều hành rất tốt, đều có người phụ trách, chủ nhân của họ nói chung rất thoải mái, kê cao gối mà ngủ chẳng lo nghĩ mọi việc.
Nếu như, có một ngày đột nhiên ông ta nghĩ khác, việc gì cũng đều muốn tự mình làm không chịu giao phó cho người khác, như vậy nhất định sẽ vất vả muốn chết, bởi những việc này phức tạp, mỏi mệt về thể xác lẫn tinh thần, cuối cùng vẫn không xong được một việc.
Ở đây không phải muôn nói trí tuệ của sáu người không bằng nô tì gà chó, mà muốn nói ông đánh mất chức trách người chủ cần có là chỉ huy đại cục! Câu châm ngôn xưa có nói, ngồi mà luận đạo, đã rằng chúa công, thi hành công việc đã rằng sĩ đại phu. Thời Hán Tuyên đế, tể tướng Bích Cát chẳng qua nhầm lẫn mà chết người, trái lại lo việc cày bừa lúc đầu xuân chưa bận rộn, thì không gấp gáp. Tể tướng Trần Bình thời Hán Văn đế, chẳng phải xem xét tiền tài trong kho tàng, mà nói “đã có người chủ sự”, đạo lý ấy là chia thang bậc mà phụ trách.
Nay minh công tự mình rà soát giấy má văn thư, lo từ việc nhỏ hành chính, mồ hôi mồ kê suốt ngày, phải chăng phải quá vất vả như thế!”.
Gia Cát Lượng lập tức đứng lên cảm tạ, tiếp thu kiến nghị của ông ta. Sau này Dương Ngung từ trần, Gia Cát Lượng còn nghĩ đến ông ta khóc lóc bi thương suốt ba ngày ròng rã.
Qua đoạn văn trên có thể thấy thái độ chân thành và sự cố gắng trong công việc của Gia Cát Lượng. Hơn nữa cũng cho thấy một nhà chính trị tiếp thu được những ý kiến bất đồng, lời nói và việc làm đều nhất quán. Ví như thái độ của Lưu Bị khi nói rằng: “Ông có thể tự đảm nhiệm” đích xác là một việc xưa nay chưa từng có trong lịch sử. Đại đa số những tiên chủ gửi con côi đều nghĩ mọi cách sau này gìn giữ cho hậu duệ của mình, đặt ra những phương pháp ràng buộc, để đề phòng khả năng người phụ chính đoạt mất vương triều. Ví như những phụ chính Chu Công Đán, Hoắc Quang rất có khí tiết cuối cùng chỉ sai một chút là xảy ra bi kịch. Ví như sự tín nhiệm của Lưu Bị với Gia Cát Lượng ở đây, cơ hồ không gì so sánh nổi.

Không ít người đọc sử sách cho rằng, Lưu Bị ở cung Vĩnh An khi gửi con có nói như vậy, ít nhiều là cách khích tướng theo kiểu chính trị. Thời Tam quốc, đạo đức chính trị suy vong, phần nhiều là sự dối trá, bởi thế Lưu Bị muốn nói trắng ra như thế, để Gia Cát Lượng không dám công nhiên đoạt quyền, chỉ lo một lòng phò tá Lưu Thiện.
Nhìn trên bề mặt, cách nói này tựa hồ rất hợp lý, song chỉ cần hiểu sâu tình thế nước Thục lúc ấy, phân tích tinh tế cá tính của Lưu Bị và Gia Cát Lượng, sẽ thấy được phỏng đoán sai lạc trên bề mặt, ít nhiều là thiên kiến, lấy lòng của kẻ tiểu nhân để đo lòng quân tử vậy.
Lưu Bị trước lúc lâm chung, đã có với Gia Cát Lượng 16 năm gắn bó, Gia Cát Lượng là người như thế nào, trong lòng Lưu Bị cũng đã rõ ràng. Huống chi, trong tập đoàn của Lưu Bị, Gia Cát Lượng tuy là người phụ tá thứ nhất song người được tín phục nhất vẫn là Lưu Bị, nếu chưa được Lưu Bị trao quyền rõ ràng, Gia Cát Lượng muốn nhân cơ hội đoạt lấy vương quyền, không thể giành được sự ủng hộ đầy đủ, Lưu Bị đối với việc ấy chẳng cần lo lắng quá. Trái lại câu nói “ông có thể đảm nhiệm”, càng dễ giúp cho Gia Cát Lượng cơ sở hợp pháp để đoạt lấy vương quyền. Lưu Bị về việc này đã nói rõ ràng vậy.
Cũng giống như Lưu Bị đối với ấu chúa Lưu Thiện đã hiểu rất rõ, Lưu Thiện là người như thế nào, Lưu Bị đã thấy trước. Ông ta cho phép Gia Cát Lượng đoạt lấy vương quyền, ít nhiều là nghĩ đến cơ nghiệp mà mình đã sáng tạo, để Gia Cát Lượng có đủ căn cứ pháp lý, vào lúc cần thiết, sẽ có thủ đoạn phi thường để ứng biến. Trong Tam quốc chí, Trần Thọ có nhận định:
“Tiên chủ là người cương nghị mà khoan hậu, chiêu hiền đãi sĩ lại có phong độ của Hán Cao tổ, khí chất của bậc anh hùng, đến khi gửi ấu chúa, trao việc nước cho Gia Cát Lượng mà lòng không hồ nghi, đúng là vua tôi đều chí công vô tư, là gương sáng xưa nay chưa từng có”.
Trần Thọ là người sống gần thời bấy giờ, phán đoán theo những điều nghe được, vấn đề mà Lưu Bị thực sự lo lắng lại chẳng phải là Gia Cát Lượng sẽ đoạt lấy vương quyền mà là vấn đề Lưu Thiện điều hành quốc gia trong lúc rất nhiều nguy cơ như vậy, phải chăng có thể đảm nhiệm được.
Sau này trong Xuất Sư Biểu, Gia Cát Lượng có viết: “Tiên đế biết thần là người cẩn thận, nên trước lúc lâm chung có ủy thác cho thần việc đại sự, từ lúc nhận lệnh đên nay, sớm tối lo lắng, sợ không đáp ứng được lòng mong mỏi, phụ lại tiên đế cao minh”, đúng là những lời nói từ tâm can.
Vua tôi cách nhau 20 tuổi như vậy, đích xác trong lịch sử Trung Quốc khó thấy được một quan hệ tốt đẹp hơn. Lưu Bị năm xưa gặp được Gia Cát Lượng “như cá gặp nước”, tin rằng đấy chẳng phải là lời nói khách sáo, câu nói của Trần Thọ: “vua tôi thực chí công vô tư” cũng chẳng phải không có căn cứ. Ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai cùng chân thành với nhau như thể lịch sử cổ kim kể ra chỉ có một. Song, Gia Cát Lượng đảm đang một mình điểu hành các viên quan chính, có được thực quyền tổng chỉ huy, là việc mà Lưu Bị từng quan tâm trước lúc lâm chung.

Lời bình của Trần Văn

Cuối Binh thư “Lục Thao” đượccông nhận rất giàu chất trí tuệ Trung Quốc, ở phần mở đầu, có chép hỏi đáp giữa Chu Văn Vương và Khương Thái Công về cai trị thiên hạ, như sau: Chu Văn Vương hỏi:“Phải làm thế nào mới có thể khiến trăm họ thiên hạ theo về?”.

Khương Thái Công đáp: “Thiên hạ chẳng phải một người mà có vạn người mới thành thiên hạ. Cùng mối lợi với người thiên hạ thì được thiên hạ. Nếu độc chiếm mối lợi thiên hạ vào riêng một người, ắt sẽ mất thiên hạ. Nắm được biến hoá bốn mùa của trời đất không làm trái nông nghiệp, với những của cải tàng chứa trong lòng đất cùng hưởng với mọi người, là hiểu được đạo nhân ái của bậc quân vương, thì thiên hạ sẽ theo về. Khiến mọi nqười sống vui vẻ, có khó khăn thì kịp thời ra tay chi viện, lúc cấp bách cũng lập tức giúp đỡ họ, chính là hiểu được lẽ đức chính của bậc quân vương. Có thể với mọi người cùng lo, cùng vui, cùng hay, cùng dở là hiểu được nghĩa lý của bậc quân vương. Mọi người không thể không chán ghét chết chóc, thích được sông hạnh phúc, song cũng đều muốn theo đuổi tìm kiếm một không gian sinh tồn công bằng và no đủ, khiến mọi người đạt đến mục đích ấy, là hiểu được suy nghĩ lý tính của bậc quân vương, thiên hạ ắt sẽ theo về”.
Lấy một công ty mà nói, người sáng nghiệp trải qua nhiều vất vả, trong đó chua ngọt, chỉ có một mình hay biết. Bởi thế người sáng nghiệp khi thành công, mới có xu hướng độc tài.
Đối với một thống soái sáng nghiệp thuộc hạ nói chung đối với sự “hoành hành bá đạo” của ông ta, thường có khuynh hướng nhường nhịn. Ví như thế, viên thống soái này vẫn không thể cho rằng công ty này là “công ty của riêng tôi”. Đối với bản thân ông ta mà nói, điều ấy có thể xem là phải, song lại cũng là khá nguy hiểm.
Như vậy cán bộ có suy nghĩ độc lập, có thể một mình đảm đương một mặt, sẽ không chịu nổi cách nghĩ này của vị thống soái, thường bởi thế quay lưng lại với ông ta, khiến công ty mất đi không ít nhân tài.
Mỗi người mỗi ngày chỉ có 24 giờ, có cố gắng cũng không làm nổi được nhiều việc, hơn nữa đương lúc phát sinh sự cố khẩn cấp, nếu dựa vào sức một người thì chẳng được việc. Khi công ty có nguy cơ, ắt sẽ ảnh hưởng rất nhiều người: Viên chức, thân quyến, khách vãng lai, cơ sở liên quan, có thể khiến họ phát huy tâm lý cùng hội cùng thuyền, giúp đỡ công ty cùng vượt qua khó khăn, đấy mới là ông chủ có trí tuệ. Nếu không một mai có thất bại, chẳng những hại cho mình cũng hại cho người từ trước đến nay vẫn giúp đỡ. Vị thống soái hiểu được điều này, không thể nói “công ty là của tôi, tôi muốn làm gì cũng được”. Đã là một công ty, là tổ chức của nhiều người, về tư cách pháp nhân là có sinh mạng độc lập, người điều hành chỉ là được ủy thác để xử lý công việc của mọi người mà thôi. Khương Thái Công cũng đã chỉ rõ: “Thiên hạ đã thấy rõ, thì không thể không thấy, thiên hạ đã nghe thấy, thì không thể không biết”’. Trí tuệ có thể quy tụ mọi nhân tài vốn có năng lực, tập trung có chế độ, mới là bảo đảm tốt cho sự nghiệp thành công.
Lưu Bị có thể coi thiên hạ là của công, gửi con côi cho Gia Cát Lượng, Gia Cát Lượng cũng lập tức công bố thái độ tự tiếp thu phê bình, rộng chứa đề nghị của mọi người, đúng là đều có trí tuệ và tấm lòng quy tụ được người trong thiên hạ. Vua tôi như vậy, có thể trong tình thế ác liệt vẫn mau chóng đoạt được thành công, đích xác là hợp đạo lý vậy.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.