Khổng Minh Gia Cát Lượng Đại Truyện

7. Lấy nhu khắc cương, đóng trại luyện lính.



Lục Tốn tuy có ưu thế về binh lực, lại có địa lợi hiểm trở, song ông ta cho rằng lòng quân chưa thuần, bởi thế vẫn cẩn thận giữ Di Lăng, không muốn chủ động xuất kích.

Lúc ấy đang là mùa đông, Lưu Bị ở Tỉ Qui nửa năm, đến tháng 2 năm sau, vùng Hoa Trung vào lúc xuân ấm hoa nở, Lưu Bị dự định dẫn quân đánh vào Di Lăng của Đông Ngô.
Hoàng Quyền đang làm Trị trung tòng sự trong ban tham mưu, cố sức khuyên can rằng: “Người Đông Ngô rất có sở trường về thủy chiến, nếu quân ta cũng dựa vào đội thuyền xuôi dòng mà xuống, sợ sẽ dễ tiến mà khó rút vậy. Hai là để Hoàng Quyền này làm tiên phong, đến đối trận với bọn giặc cỏ Đông Ngô! Bệ hạ nên ngồi ở hậu phương chỉ huy, thống lĩnh đại cục”.
Lưu Bị bởi muôn quán xuyến hết, nóng vội nghĩ đến đối trận với Tôn Quyền nên không nghe, lại lệnh cho Hoàng Quyền làm Trấn bắc tướng quân, đôn đốc đạo quân ở Giang Bắc, tự mình theo Trường Giang xuôi dòng, tiến sát Di Lăng.
Lục Tốn thấy Lưu Bị đang hăng hái, khí thế hùng dũng, không muốn cứng rắn đối đầu tạo thành thương vong không cần thiết, bèn hạ lệnh cho tiền quân vứt bỏ Di Lăng, rút về Hồ Đình củng cố phòng tuyến, tự mình thì đặt sở chỉ huy ở Di Đạo phía nam Trường Giang, tạm dùng sách lược cậy hiểm cố thủ.

Lưu Bị thấy Lục Tốn rút quân, bèn nhân đó chiếm Di Lăng, đặt sở chỉ huy tiền tuyến, lại chia quân làm hai đường, cánh trái do Phùng Tập chỉ huy, vượt qua vị trí Hồ Đình của Đông Ngô, bầy trận ở bờ bắc Di Đạo, Lục Tốn thấy quân chủ lực của Lưu Bị ở Giang Bắc, lại cũng tự mình đóng trại ở bờ bắc với quân tiên phong của Lưu Bị đối trận.

Cánh phải quân Lưu Bị vượt sông ở Hồ Đình, đánh vào trại chính của Đông Ngô ở Di Đạo, Lục Tốn phái quân dự bị của Tôn Hoàn giữ Di Đạo. Bởi binh lực rất ít, bị Ngô Ban dẫn quân cánh phải của Lưu Bị giữ chân ở đấy, quân hậu bị của Lưu Bị đóng ở Tỉ Qui, còn quân tùy tùng đóng ở phía tây Vu Huyện. Quân tiên phong của Lưu Bị đã áp sát Hồ Đình và vùng Di Đạo, đóng trại kéo dài đến sáu, bảy trăm dặm, về vận chuyển và thông tin đều hoàn toàn dựa vào sông Trường Giang cả.

Bởi quân Thục phân tán, các tướng lĩnh Đông Ngô đều chủ trương mau chóng phản kích, Lục Tốn lại cho rằng: “Lưu Bị dẫn quân đông chinh, khí thế đang mạnh, hơn nữa địa thế phía tây khá cao, ngửa mặt mà đánh không dễ, nếu muốn đánh bại được họ, sợ cũng phải trả giá lớn, nhỡ bị thất bại, như vậy sẽ làm khí thế quân ta bị tổn thất nghiêm trọng. Bởi thế trước mắt nên cẩn thận giữ trận địa, khích lệ binh sĩ, lấy quân nhàn đợi kẻ địch mỏi mệt, chờ tình hình biến đổi.
Lại nữa, nếu như ở đây đều là bình nguyên, chúng ta có thể dựa vào ưu thế đông người mà triển khai quyết chiến. Song từ Di Lăng đến Di Đạo, đều là núi cao vực sâu, hành quân không dễ, ưu thế về binh lực khó thi thố. Về chiến thuật mà nói trước nên đứng vững để cố thủ, đợi quân địch suy yếu mới là thích hợp”.
Các lão tướng Từ Thịnh, Phan Chương, Hàn Đương cùng cho rằng Lục Tốn sợ giao chiến, đều rất không vừa lòng, song Lục Tốn lại cố ý làm ra mắt nhắm mắt mở, giả vờ không biết.
Hai bên giằng co từ tháng 2 tới tháng 6, đến một trận đánh nhỏ cũng chưa xảy ra. Đối với việc không giao chiến của Lục Tốn , Lưu Bị cũng vô kế khả thi, chỉ biết lệnh cho Phùng Tập làm Đại đô đốc, Trương Nam làm Tiền bộ đô đốc nắm quân tình ở vùng Di Đạo, còn tự mình đến đóng ở khoảng giữaTỉ Qui và Hồ Đình đế chỉ huy toàn cục.
Trung lang tướng Tôn Hoàn, bị Ngô Ban bao vây dày đặc, từ Di Đạo báo tin khẩn cấp cho Lục Tốn , Lục Tốn lại ra lệnh phải cố thủ, dứt khoát cự tuyệt việc mang quân đến cứu trợ.
Từ Thịnh đang ở đấy đề nghị rằng “Tướng quân Tôn Hoàn là họ nhà vua, dứt khoát không thể để bị bắt, nay đang nguy khốn sao lại không đi cứu ông ta nhỉ?”.
Lục Tốn nói: “Tôn Hoàn vẫn được lòng binh sĩ thành Di Đạo vốn là đại bản doanh của chúng ta, thành vững mà lương thực đủ, chẳng có gì đáng lo. Đợi kế hoạch của ta phát động, ví như không đi cứu họ, tự nhiên cũng được giải vây”.
Từ Thịnh tuy không phục, song đang ở tiền tuyến, quân lệnh như sơn, cũng chẳng thể nói gì hơn.
Các tướng lĩnh trong trại Đông Ngô, cho rằng về số người đã chiếm ưu thế, nóng nẩy muốn đánh thắng nhanh, song Lục Tốn lại kiên trì chiến thuật kéo dài tránh mũi nhọn của quân địch. Những tướng lĩnh ở đây có người là lão tướng thê hệ thứ nhất của Tôn Sách, như Hàn Đương. Không ít người là danh tướng thê hệ thứ hai như Từ Thịnh, Phan Chương, cũng có người là vương thân quốc thích như Chu Nhiên, Tôn Hoàn, đối với vị thống soái trẻ tuổi thực ra thì mỗi người một ý chẳng chịu nghe theo, đặc biệt lại còn nói bóng nói gió, ảnh hưởng lòng quân không ít.
Ban tham mưu đề nghị với Lục Tốn phản ánh với Tôn Quyền, song Lục Tốn không nghe theo. Để duy trì kỷ luật trong quân, Lục Tốn triệu tập hội nghị các tướng lĩnh, tuốt kiếm tại chỗ mà nói: “Lưu Bị là anh hùng nổi tiếng trong thiên hạ, đến cả Tào Tháo cũng phải nhường nhịn ông ta vài phần, nay ông ta dẫn đại quân đến đáy, là kẻ địch mạnh chẳng thể xem thường. Các vị tướng quân đều có nhiệm vụ của mình, ắt nên phối hợp với ta, há lại chối từ? Quân lệnh như sơn, chẩng thể sai phạm!”. Lục Tổn nói như vậy, trong mềm có cứng, lời lẽ có hợp lý, các tướng lĩnh cũng không thể xem thường. Nếu không vị thống soái đang nắm quân lệnh nhỡ ra trở mặt, thì tuổi tác và địa vị cao của các tướng lĩnh cũng chẳng đáng kể gì. Thôi thì chỉ biết tạm thời để suy nghĩ trong lòng, y theo quân lệnh mà làm tròn phần việc của mình.

Kéo dài như vậy, lại làm cho Lưu Bị phải bận tâm suy nghĩ, quân viễn chinh vào sâu, vận chuyển khó khăn tuy thuận theo dòng Trường Giang mà xuống, giảm được không ít nhân lực vật lực, song cứ tổn hao như thế, sự trang trải của Thục Hán ắt nảy sinh vấn đề. Bởi thế ông ta chẳng thể chờ đợi mãi.

Để sớm kết thúc đối đầu, Lưu Bị hạ lệnh Ngô Ban bao vây Di Đạo, dẫn một số quân vượt sang bờ bắc, từ hai phía nam bắc đánh vào hậu phương của Lục Tốn. Các tướng Đông Ngô thấy Ngô Ban ít quân, đều rõ là hành vi khiêu khích, cùng chủ trương mở trại để giao chiến. Song Lục Tốn nói rằng: “Đấy là kế xảo trá, nếu các vị không tin, cứ đợi mấy ngày sẽ rõ”.
Quả nhiên Lưu Bị thấy kế ấy không nghiệm, hạ lệnh cho Ngô Ban rút về bờ nam, tám nghìn binh sĩ mai phục ở trong khe núi cuối cùng cũng lộ rõ, cùng theo về bờ nam. Lục Tốn đứng ở trên thành chỉ tay nói: “Sở dĩ không lệnh cho các ông đuổi đánh bọn Ngô Ban, cũng là bởi bọn phục binh này!”.

Lưu Bị thấy Lục Tốn kiên trì đối đầu, bèn hạ lệnh cho thủy quân rút cả lên bờ, bỏ thuyền lên bộ, kết trại liên tiếp.
Đến cuối tháng 6, Lục Tốn thấy quân đông chinh của Lưu Bị đã dần dần mỏi mệt, nhiệt tình phục thù rửa hận đã mất, bèn ngầm dâng lên một bức mật thư cho Tôn Quyền đang đóng trại ở Vũ Xương. Trong thư viết:
Di Lăng tuy là vị trí quân sự quan trọng của quốc gia, song gần với cửa khẩu Tam Hiệp, thời dễ đánh mà khó giữ, để bảo toàn quân lực, vứt bỏ Di Lăng là mang tính sách lược tuyệt đối chẳng phải thực sự sợ hãi áp lực của Lưu Bị vậy!
Nay Lưu Bị làm trái lẽ thường, không cậy hiểm mà giữ, lại nóng nẩy muốn giao chiến là ông ta tự tìm lấy cái chết. Thần tuy bất tài, phụng thờ uy linh của chúa công, thuận thời mà trừ nghịch tặc, sắp tới sẽ đánh bại quân Lưu Bị, xin chớ lo lắng. Thần lúc đầu lo lắng là bởi Lưu Bị có nhiệt tình báo thù rửa hận, quân thủy bộ cùng tiến, gây áp lực khá lớn cho chúng ta, nay lại bỏ thuyền lên bộ, kết trại liên tiếp, lại tự mình rơi vào định hình, cảnh tượng thất bại của Lưu Bị đã hiện rõ. Ngô Vương có thể kê cao gối nằm mà đợi tin thắng trận vậy!
Cuộc đối kháng Thục Ngô giằng co nửa năm, cuối cùng bởi sự chủ động xuất kích của Lục Tốn , rất mau chóng triển khai cuộc quyết chiến lần đầu mà cũng là lần sau cùng.

Lời bình của Trần Văn

Việc binh chẳng lành vậy, đã rằng nước tuy lớn, hiếu chiến ắt suy vong, đã chỉ rõ trí tuệ cao nhất của các nhà binh pháp là ở chỗ biết dừng cuộc chiến, thậm chí không giao chiến, nên Tôn Tử lấy không chiến đấu mà thắng được người là chỗ tinh túy của kẻ thiện chiến vậy. Úy Lạo Tử, một nhà binh pháp theo chủ nghĩa thực dụng nổi tiếng bởi câu nói “việc quan không gì bằng việc nhân sự”, trong thiên “binh đàm”, đã đề cập cụ thể phép tắc cơ bản về chiến tranh và dùng binh. Ông ta nói: “Khởi binh chẳng thể bởi giận dữ, thấy thắng thì đẩy mạnh, thấy không thắng thì dừng lại; tai họa ở trong trăm dặm, không khởi binh quá một ngày; tai họa ở trong nghìn dặm, không khởi binh quá một tháng; tai họa ở trong bốn biển, không khởi binh quá một năm”.

Nói cách khách, chiến tranh là đại sự của quốc gia, không nên hành động theo cảm tính, phải lấy lý tính mà phán đoán, chỉ khi nào tuyệt đối cần thiết mới phát động chiến tranh. Có nắm chắc phần thắng thì mới duy trì chiến sự, nếu không nắm chắc phần thắng thì nên đình chỉ.
Hơn nữa chiến tranh cần đánh nhanh thắng nhanh, chẳng thể kéo dài việc chiến sự, trong vòng trăm dặm, nên mau chóng bình định trong vòng một ngày. Khi tình huống phát sinh xa xôi nghìn dặm, chẳng thể kéo dài quá một tháng, khi tình huống phát sinh ờ nơi biên cương xa xôi, chiến sự cũng chẳng thể kéo dài quá một năm vậy.

Quân đông chinh phục thù của Lưu Bị, cơ hồ đã phạm phải sai lầm với những điều mà Úy Lạo Tử chỉ ra, cho nên từ lúc cuộc chiến tranh chưa bắt đầu đã mất đi viên tướng của quân đoàn quan trọng là Trương Phi. Trương Phi chưa xuất quân mà thân đã mất, bản thân bởi tức giận mà xuất quân, trong công việc chuẩn bị chiến tranh bận rộn và khẩn trương, do vẫn nóng giận, thậm chí có chỗ vô cớ huyên náo, bộc lộ tình cảm quá mức, cuối cùng uy hiếp nghiêm trọng đến sinh mệnh của kẻ dưới mà bị đối phương sát hại; khiến cuộc chiến tranh còn chưa bắt đầu đã bị một bóng đen nặng nề bao phủ.
Trước khó khăn như thế Lưu Bị vẫn giữ ý chí báo thù, miễn cưỡng xuất thân, về kế hoạch và chuẩn bị đều làm chưa đầy đủ. Trong khi đó ở chiến tuyến phía tây của Đông Ngô, bởi Lã Mông mới từ trần mà chưa ổn định, những tác động quân sự lúc đầu vẫn có thể chiếm được ưu thế. Song khi đến Đông Ngô gặp phải đội quân do Lục Tốn chỉ huy, sự tấn công của Lưu Bị cũng lập tức bị trở ngại.

Chính sách cố thủ chiến đấu của Lục Tốn khiến hành động viễn chinh của Lưu Bị rơi vào đông cứng. Song Lưu Bị vẫn chưa có thể kịp thời phản tỉnh, tu bổ lại qui hoạch chỉnh thể, trái lại bởi vấn đề “tâm tính” và“thể diện”, khiến đạo quân to lớn đình trệ bất động, thậm chí rời thuyền lên bờ, lại dự định trường kỳ đối trận. Đối với một đội quân viễn chinh như vậy là rất bất lợi, huống chi về qui hoạch chung Lưu Bị chưa có suy nghĩ tường tận, tự nhiên đẩy mình vào cạm bẫy rất nguy hiểm.
Rõ ràng những nhà kinh doanh nói chung cũng thường rơi vào cạm bẫy như vậy, không muốn hao phí thời gian, chấp nhận vất vả, khiến kinh doanh dần dần đi vào quĩ đạo, chỉ muốn một bước thành công. Bởi thế nghĩ thì nhiều, làm thì ít, thực tế trong việc làm ra sản phẩm mới, hoạt động quảng cáo hao phí nhân lực, vật lực, giống như một cuộc chiến tranh không ngừng, chính phủ thời chiến chưa được thừa nhận.
Chế độ hoá, binh thường hoá, lợi nhuận chân chính, thường sản sinh ở chỗ người khác nhìn không thấy, chế độ phải đi kèm với sự nỗ lực không ngừng, đổ mồ hôi xương máu, thậm chí còn phải đầu tư tiền tài vật lực, mới có thể dần dần thành hiện thực. Nếu sản phẩm mới kế hoạch mới, đều cứ sản sinh tự nhiên như cũ, mà không ra sức cải tiến, thì sản phẩm làm ra số phận không biết thế nào mà nói. Luận điểm thắng địch đầu tiên ở hậu phương của binh pháp Tôn Tử, đã đề cập đến công phu chuẩn bị chu đáo. Nếu chỉ biết cầu may mắn, một bước thành công, chỉ có thể làm một kẻ bại trận ảo tưởng mà thôi.
Then chốt của sự thắng bại, nói là rất dễ hiểu, chỉ là mộng tưởng của những nhà kình doanh dễ gặp may, thiếu hiểu biết điều kiện của mình và đánh mất mình.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.