Khổng Minh Gia Cát Lượng Đại Truyện

l. Hình thái ba nước thời kỳ sau Gia Cát Lượng



Sau khi Gia Cát Lượng mất, nhân dân Thục Trung nhớ ân đức, râm ran yêu cầu lập miếu thờ Gia Cát Lượng, song Lưu Thiện cho rằng Gia Cát Lượng không phải hoàng tộc, lập miếu thờ không hợp với phép tắc, không nghe theo. Song trăm họ vẫn nhớ ngày mất, tế cúng riêng cho Gia Cát Lượng ở bên đường, quan lại cũng không quản lý được, chỉ mắt nhắm mắt mở mà thôi. Thế rồi phong trào tế riêng ngày càng thịnh, lại vượt quá tế tự đối với Lưu Bị.

Bộ binh hiệu uý Tập Long dâng thư xin lập một ngôi miếu ở gần mộ Gia Cát Lượng tại Miện Dương để chặn phong trào tế riêng, tránh được ảnh hưởng phạm đến lễ phép quốc gia, Lưu Thiện đành phải nghe theo.
Lưu Thiện lệnh cho Tả tướng quân Ngô Ý thay Nguỵ Diên chỉ huy phòng vệ Hán Trung, lại lệnh cho Vương Bình mang quân bảo hộ giúp đỡ. Lại lấy Trưởng sử Tưởng Uyển làm Thượng thư lệnh, tổng quản việc quốc sự, kiêm Thứ sử Ích Châu.
Năm sau Dương Nghi bởi tội phỉ báng nên bị giam giữ, tự sát mà chết. Tưởng Uyển được thăng làm Đại tướng quân, Lục thượng thư, Phí Vỹ thay Tưởng Uyển làm Thượng thư lệnh, chính thức thành lập lại chính quyền Thục Hán sau thời kỳ Gia Cát Lượng.
Lúc đấy là năm Thanh Long thứ 3 đời Ngụy Minh đế, tức là năm 235 sau Công Nguyên.
Viễn chinh nhiều năm, lại thêm chủ tướng từ trần, tình hình trong nước không ổn định, Tưởng Uyển nghĩ muốn chinh phạt bên ngoài ắt phải sớm yên được bên trong, ngoài việc phái Khương Duy tăng cường phía bắc và phòng vệ tây bắc, vào giai đoạn này, Thục Hán không có hành động quy mô lớn nào về chinh phạt.
Cho đến ba năm sau, vào năm 238 sau Công Nguyên, Tưởng Uyển được thăng làm Đại Tư mã, lấy Khương Duy là Tư mã, đến đóng ở Hán Trung, tích cực trù bị khôi phục việc bắc phạt.
Năm sau Ngụy Minh đế Tào Tuấn từ trần, dặn lại lấy con nuôi là Tào Phương kế thừa đại quyền, và lệnh cho con Tào Chân là Tào Sảng cùng với Tư Mã Ý làm đại thần phụ tá.
Bởi Tào Phương mới 8 tuổi, Đông Ngô và Thục Hán đều cho rằng đây là cơ hội tốt, Đông Ngô phái chủ tướng đông chiến tướng Toàn Tông đánh Hoài Nam, còn Khương Duy của Thục Hán thì từ Kỳ Sơn quấy nhiễu biên giới, song không được gì mà đều phải rút quân.

Năm 241 sau Công Nguyên, năm thứ 3, Tưởng Uyển đóng ở Hán Trung, ông ta đánh giá kỹ lưỡng đến cuộc bắc phạt của Gia Cát Lượng từ năm Kiến Hưng thứ 6 về sau, đưa lên hậu chủ Lưu Thiện chiến thuật mới của mình.
Ông ta cho rằng Gia Cát Lượng phần lớn lấy Tần Lĩnh ở phía bắc và Kỳ Sơn ở tây bắc làm đường tiến công, đường xá hiểm trở, vận chuyển bổ sung rất khó khăn. Chẳng bằng làm nhiều chiến thuyền, từ sông Hán Thủy và Miện Thủy đánh sang phía đông, trực tiếp theo đường thủy tập kích các vùng Ngụy Hưng, Thượng Dong, nếu lại phối hợp hành động với chiến tuyến ở phía đông của Đông Ngô, ắt sẽ tạo ra áp lực rất lớn với Tào Ngụy. Tưởng Uyển có ý giao phó mọi hành động, bèn phái Khương Duy về Thành Đô báo cáo với Lưu Thiện cùng đánh giá tính khả thi của chiến lược này, gặp phải bệnh cũ tái phát, hành động khó khăn, Tưởng Uyển phải tạm thời cho dừng kế hoạch lại.

Khương Duy ở Thành Đô cùng với Phí Vỹ nghiên cứu tỉ mỉ, đều cho rằng theo đường thủy tiến sang phía đông, nếu rút lui không dễ, hoặc không thuận lợi một chút, quân viễn chinh dễ bị đánh bại. Được Lưu Thiện đồng ý, Thượng thư lệnh Phí Vỹ đi cùng với Khương Duy trở về Hán Trung, để cùng Tưởng Uyển xem xét lại toàn diện kế hoạch trên.
Lúc này tình hình sức khoẻ của Tưởng Uyển đã xấu đi, lại thêm khó khăn về phối hợp với Đông Ngô, cũng phải huỷ bỏ kế hoạch tiến sang phía đông bằng đường thủy, bèn lấy Khương Duy làm Thứ sử Lương Châu, đến đóng ở Phù Thành, tăng cường việc sửa sang chiến tuyến phía bắc.
Tháng 10 đã vào mùa đông, Tưởng Uyển đến Phù Thành để thị sát, bệnh tình càng xấu đi, bèn hạ lệnh cho Thái thú Hán Trung là Vương Bình làm Tiền giám quân, lại phong Trấn bắc Đại tướng quân thay ông ta đôn đốc các đạo quân tiền tuyến.
Người cháu của Gia Cát Lượng, con của Gia Cát Cẩn là Gia Cát Khác thống lĩnh quân đoàn chiến tuyến phía đông của Đông Ngô, bắt đầu tiến hành công việc bắc phạt Tào Ngụy.
Tư Mã Ý rất chú ý đến sự uy hiếp của Đông Ngô, tự dẫn đại quân đến quận Thư vùng Lư Giang, Tôn Quyền lệnh cho Gia Cát Khác rút về Sài Tang, đề phòng đại quân Tào Ngụy tiến về phía nam.

Bởi Tưởng Uyển bệnh nặng, Lưu Thiện lệnh cho Phí Vỹ làm Đại tướng quân, Lục thượng thư, tiếp quản đại quyền quân chinh Thục Hán.
Năm 244 sau Công Nguyên, Tôn Quyền lấy Đại tướng quân Lục Tốn làm tể tướng, vẫn giữ chức Kinh Châu mục, đôn đốc việc phòng vệ ở chiến tuyến phía tây.
Đại tướng quân Tào Ngụy là Tào Sảng, muốn lập uy danh với thiên hạ, đưa ra kế hoạch quân sự với qui mô lớn nam chinh thảo phạt Thục Hán, Thái phó Tư Mã Ý khuyên mãi không nghe, khoảng tháng 3, Tào Sảng đến Tràng An, hợp quân với đô đôc Hạ Hầu Huyền, dẫn 10 vạn binh mã, từ Lạc Côc tiến vào Hán Trung.
Lúc này, Tưởng Uyển và Khương Duy đều ở Phù Thành, quân giữ Hán Trung không đến 3 vạn người, các tướng lĩnh quân đoàn thảy đều kinh hãi, đã chủ trương đóng cửa thành để đợi viện quân đến từ Phù Thành đến.
Vương Bình một mình một ý, ông ta nói: “Hán Trung cách Phù Thành nghìn dặm đường xa, nếu như để đợi quân Tào Ngụy vào cửa ải, sẽ tạo ra uy hiếp rất lớn. Chẳng bằng chủ động, xuất kích, hậu quân Lưu Mẫn cậy hiểm cố thủ ở Hưng Thế Sơn, tôi tự mình bố phòng ở sau cửa ải, để biểu thị quyết tâm chiến đấu của chúng ta trước kẻ địch, tuy binh lực rất ít, song ta có địa lợi, trong thời gian ngắn khó đánh bại được chúng ta, như vậy, quân tiếp viện của Phù Thành mới đến kịp được”.
Triều đình Thục Hán ở Thành Đô, cũng được tin khẩn cấp từ tiển tuyến, Đại tướng quân Phí Vỹ tự mình dẫn quân đến chi viện.
Đại quân của Tào Sảng bị chặn ngoài cửa ải Hưng Thế Sơn, lại thêm khó khăn về vận chuyển bổ sung, quân nam chinh lại rơi vào nguy cơ.Tham mưu Dương Tuấn đề nghị lập tức rút quân, song các tướng lĩnh quân đoàn như Đặng Dương, Lý Thắng đều cương quyết phản đối. Dương Tuấn nói lớn: “Dương, Thắng làm hỏng việc quốc gia, khá chém đi!”. Tào Sảng ngần ngừ không quyết.

Tư Mã Ý vội gửi thư cho Hạ Hầu Huyền, phân tích tự mình đã từng tham dự chiến dịch Hán Trung cùng với Tào Tháo. Rất biết rõ thời cơ chưa chín, nếu từ Quan Trung tiến vào Hán Trung rất bất lợi, huống chi nay Thục Hán đã nắm được Hưng Thế Sơn hiểm trở, tùy lúc có thể chặt đứt đường về của quân ta, không mau chóng hạ quyết tâm là rất nguy hiểm.
Hạ Hầu Huyền cả kinh lập tức báo cáo với Tào Sảng, Tào Sảng mới lập tức rút quân, song Phí Vỹ đã đánh vào vùng Tam Lĩnh (Trầm Lĩnh, Nha Lĩnh, và Phân Thủy Lĩnh), chặn đứt đường rút của Tào Sảng, nhìn chung quân nam chinh bị tổn thất nghiêm trọng, tình hình Quan Trung bị ảnh hưởng rất lớn, địa vị của Tào Sảng cũng xuống thấp.
Tưởng Uyển bị bệnh nặng, nhường chức quyền cho đại tướng Phí Vỹ, Lưu Thiện lấy Phí Vỹ làm Thứ sử Ích Châu, cũng lấy Đổng Doãn làm Thượng thư lệnh để giúp đỡ.
Tháng 11 Tưởng Uyển từ trần, Phí Vỹ đến Hán Trung xem xét kỹ hệ thống phòng vệ.
Tháng 12, Đổng Doãn đang giữ Thành Đô ngã bệnh từ trần, trong lúc khẩn cấp Lưu Thiện đề bạt Thượng thư Lã Nghệ làm Thượng thư lệnh.
Đổng Doãn cá tính nghiêm nghị, hết lòng vì việc công, đến như Lưu Thiện cũng phải nể sợ. Lưu Thiện rất ái mộ hoạn quan Hoàng Hạo, song Đổng Doãn đang ở triều đình thì Hoàng Hạo không dám làm bừa, trong thời gian Đổng Doãn còn sống, Hoàng Hạo về quan chức không vượt qua chức Hoàng môn thừa.
Phí Vỹ cá tính ôn hoà, thiếu sự kiên quyết như Tưởng Uyển và Đổng Doãn, cứ theo yêu cầu của Lưu Thiện lấy Trần Chi thay Đổng Doãn làm Thị trung. Trần Chi bên ngoài có vẻ uy nghi, nhiều tài nghệ, có mưu trí nên Phí Vỹ ngộ nhận là Trần Chi có tài như Đổng Doãn. Song Trần Chi chỉ tốt mã mà thôi, ông ta với Hoàng Hạo đắp đổi trong ngoài, khiến Hoàng Hạo có cơ hội can thiệp vào triều chính, làm đến Trung thường thị.
Kể từ Gia Cát Lượng mất đến khi Tưởng Uyển mất là 11 năm (năm 234 đến năm 245) tình hình ba chân đỉnh Tam quốc không có biến động lớn, Thục Hán thực lực tuy yếu, song dựa vào địa lợi Tần Xuyên, lại thêm Gia Cát Lượng bồi dưỡng không ít nhân tài, về chính trị, quân sự, kinh tế đều có thực lực, nếu Tào Ngụy và Đông Ngô đều nhân cơ hội Gia Cát Lượng mất và muốn giành thắng lợi là không dễ dàng.
Tôn Quyền có danh tướng Lục Tốn phụ tá, thực lực lại càng mạnh. Người con của Gia Cát Cẩn là Gia Cát Thuộc sau khi nắm quyền ở đông chiến tuyến, tích cực sửa sang việc bắc phạt, khiến quan hệ hai bên mười mấy năm bình lặng trở nên đối đầu, ngày mỗi căng thẳng, Trái lại giữa Tương Dương – Giang Lăng do danh tướng Lục Tốn chỉ huy, lại chẳng hề có chiến sự gì.
Thực ra, biến đối lớn nhất là chính quyền Tào Ngụy có diện tích rất lớn, thực lực lại mạnh. Ngụy Minh đế Tào Tuấn mất lúc 35 tuổi, do không có con lấy con nuôi là Tào Phương kế thừa. Tuy có người con của Tào Chân là Tào Sảng phụ tá, song tính hợp pháp của việc Tào Phương kế thừa rất yếu, Tào Sảng lại quá trẻ thiếu kinh nghiệm, đại quyền quân chính dần dần rơi vào tay Tư Mã Ý cả.
Thế lực họ Tào bất mãn với sự khuếch đại lực lượng của họ Tư Mã, đấu tranh giữa hai bên càng thêm ác liệt, cũng ảnh hương đến sự thống nhất của Tào Ngụy không ít.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.