Kiếp Sau

CHƯƠNG 3



Một ngày bắt đầu trong ánh mặt trời lạnh lẽo . Cuộc tranh cãi hôm trước đã lắng dần qua một đêm . Jonathan thức dậy và chuẩn bị bữa sáng rồi mang tới cho Anna . Họ cùng ăn và tận hưởng một buổi sáng chủ nhật thật dài . Anna lên xưởng vẽ còn Jonathan tiếp tục ngồi thư giãn . Họ bỏ qua bữa trưa và lang thang cả buổi chiều dọc các phố nhỏ trong khu cảng cũ . Đến gần bốn giờ chiều, họ ghé vào một tiệm bán đồ ăn sẵn kiểu Ý và mua thật nhiều thức ăn cho bữa tối, rồi ghé vào cửa hàng cho thuê băng ở góc phố để chọn vài cuốn băng video .
Ở đầu kia thành phố, mái tóc bù xù của Peter ló ra khỏi một đống chăn nệm dày . Ánh sáng ban ngày đã lôi anh ra khỏi giấc ngủ mê mệt . Anh vươn vai rồi rồi liếc về phía chiếc đài có đồng hồ đặt trên bàn ngủ . Giấc ngủ quá trưa anh tự thưởng cho mình đã kéo dài hơn anh tưởng . Peter ngáp dài, quờ tay tìm chiếc điều khiển vô tuyến dưới những nếp gấp của lớp chăn dày . Khi tìm thấy, anh ấn bừa lên một nút . Trước mắt anh, màn hình được gắn vào tường bắt đầu bật sáng, anh liền nhấn nút chuyển kênh . Hình một chiếc phong bì nhỏ nhấp nháy ở góc dưới màn hình báo tin anh có thư điện tử . Anh chọn chế độ đọc thư và bức thư hiện lên . Ngày tháng trong thư cho thấy nó vừa được gửi trong ngày do một người quen của nhà đấu giá Christie s tại Luân- đôn . Bây giờ là ba giờ chiều ở miền Đông nước Mỹ nhưng đã là tám giờ tối tại bên kia bờ đại dương .
– Không phải cả họ cũng đọc báo rồi chứ ! Peter càu nhàu .
Bức thư điện tử được viết bằng phông chữ nhỏ . Peter căm ghét cặp kính lão mà anh buộc phải đeo từ nhiếu tháng nay . Không muốn chấp nhận mình đang già đi, anh thà tự hành hạ mình bằng những bài tập căn bản trông vào những động tác nhăn mặt mà người ta quảng cáo là sẽ có tác dụng cải thiện thị lực . Những dòng chữ buộc anh phải căng mắt để đọc . Vừa đọc lại đến lần thứ ba bức thư điện tử của người đồng nghiệp ở Luân- đôn, anh vừa với tay lấy chiếc điện thoại và không cần nhìn vào các nút, anh bấm số rồi nóng ruột chờ chuông reo . Sau mười hồi chuông, anh dập máy rồi bấm lại số . Sau ba lượt, anh cáu kỉnh mở ngăn kéo tủ đầu giường và lấy ra chiếc điện thoại di động . Anh gọi cho tổng đài và đề nghị nối máy với phòng vé của hãng hàng không British Airways . Anh ngoẹo cổ kẹp lấy điện thoại và đi về phía tủ treo quần áo . Anh phải kiễng chân mới nhìn thấy chiếc va- li để tận ngăn trên cùng rồi với tay chộp lấy chiếc quai kéo mạnh khiến nó trượt về phía anh, kéo theo một mớ túi du lịch rơi thẳng xuống người . Cuối cùng thì phía đầu dây bên kia cũng có một nhân viên phòng vé bắt máy, anh vừa càu nhàu vừa xỏ chân vào ống quần .
– Vương miện của Nữ hoàng bị đánh cắp, và toàn bộ nhân viên hãng các anh đều bận truy lùng nên không thể nghe điện của khách hàng phải không ?
Lúc này là sáu giờ tối, bầu trời thoắt sập tối báo hiệu cơn dông đang bao trùm thành phố . Các đám mây dày lên, cuộn lại như những tấm vải bạt quấn chặt lấy nhau, mọng nước đến nỗi như được nhuộm màu xám xịt hoặc đen thẫm . Một vài giọt nước trĩu nặng xuyên qua bức màn mây dày đặc, vẽ trên nền trời âm u những vệt thẳng màu trắng bạc trước khi quất mạnh xuống mặt đường nhựa . Jonathan hạ thấp rèm cửa sổ . Một buổi tối ngồi trước ti- vi quả là thích hợp trong tiết trời u ám này . Anh vào bếp, mở tủ lạnh và lấy ra những hộp đựng các món ăn Ý mà Anna đã chọn . Anh bật lò nướng để chuẩn bị hâm lại món cà trộn pho- mát bỏ lò, rắc thật nhiều pho- mát parmesen ( một loại pho- mát bào vụn chuyên được dùng để rắc lên hoặc ăn kèm với một số món ăn của Ý ) lên trên rồi bước lại chỗ điện thoại treo tường . Anh đang định bấm số máy xưởng vẽ của Anna thì ánh đèn báo hiệu có cuộc gọi đến nhấp nháy, rồi chuông điện thoại reo vang .
– Cậu biến đi đâu mất thế ? Đây là lần thứ mười tớ gọi cho cậu rồi đấy!
– Chào cậu, Peter !
– Xếp đồ vào va- li ngay đi, tớ sẽ chờ cậu ở sân bay Logan, phòng chờ của hãng hàng không British Airways, chuyến bay đi Luân- đôn lúc chín giờ mười lăm phút tối, tớ đã đặt sẵn hai vé cho tớ và cậu rồi .
– Khoan đã, hai giây thôi, giả sử hôm nay không phải là chủ nhật, hiện giờ không phải tớ đang đứng trong bếp chuẩn bị bữa tối cho cô gái sẽ lấy tớ trong bốn tuần nữa, và cũng không định sẽ không cùng cô ấy ngồi xem Thạch tín và những đăng- ten cũ, thì vì cớ gì tớ phải đi cùng cậu ?
– Tớ rất khoái khi cậu nói chuyện kiểu ấy, tớ có cảm giác như chúng ta đang ở nước Anh rồi, Peter đáp lại bằng giọng châm chọc .
– Thôi nào, anh bạn, tớ rất mừng vì cậu gọi, và nói theo miệng lưỡi của cậu, giờ thì tớ đang bận phải đàm đạo với món cà trộn pho- mát bỏ lò, vì thế nếu cậu bỏ quá cho …
– Tớ vừa nhận được một mẩu tin từ Luân- đôn, một nhà sưu tầm đang muốn bán năm bức tranh của một danh hoạ bậc thầy, cả năm bức đều của một ông Vladimir Radskin nào đó … Thế món lasagne ( một món ăn của Ý rất được ưa chuộng, được làm từ mì dẹt trộn xốt cà chua và pho- mát rồi bỏ lò nướng ) của cậu có gì ở trong ?
– Cậu nói nghiêm túc đấy chứ ?
– Nhân thể, tớ sẽ giới thiệu cậu với đồng nghiệp của tớ tại Luân- đôn . Tớ không hề đùa, ngay cả khi đi chữa răng tớ cũng còn cười nhiều hơn lúc này ! Jonathan, hoặc tớ và cậu, hoặc đối thủ của chúng ta sẽ giành được quyền đăng cai buổi đấu giá những bức tranh này, tùy cậu thôi, hơn thua trên thị trường luôn được đánh giá theo chất lượng chuyên môn .
Jonathan nhíu mày, anh bồn chồn quấn sợi dây điện thoại quanh ngón trỏ .
– Không thể có năm bức tranh của Radskin được rao bán ở Luân- đôn .
– Tớ không hề bảo cậu chúng sẽ được bán ở đó, chúng chỉ được trưng bày thôi . Với một bộ sưu tập tầm cỡ đó, tớ sẽ tổ chức bán tại Boston … và tớ sẽ cứu vãn được sự nghiệp của mình .
– Số liệu của cậu không chính xác, Peter ạ . Tớ nhắc lại rằng không thể có năm bức tranh được rao bán . Tớ biết rất rõ các bức tranh của Radskin hiện đang ở đâu, chỉ có bốn bức trong số đó hiện đang nằm trong tay những nhà sưu tập giấu tên .
– Tất nhiên rồi, cậu là chuyên gia mà, Peter đáp rồi nói thêm vẻ chế nhạo : Chính vì vậy mà tớ gọi cậu vào giờ này, vì nghĩ rằng bí ẩn đó có lẽ sẽ đáng giá hơn một bữa ăn tối . Lát gặp nhé .
Jonathan nghe một tiếng cạch, Peter đã bỏ máy mà không chào . Anh gác điện thoại lên tường . Một vài giây sau, Anna, không bỏ sót một lời của câu chuyện, cũng gác máy trong xưởng vẽ . Cô đặt bút vẽ xuống ống nước, choàng chiếc khăn dạ lên người, luồn tay vuốt lại mái tóc xõa rồi theo lối cầu thang xuống bếp . Jonathan vẫn đứng trầm tư cạnh điện thoại . Tiếng Anna làm anh giật mình .
– Ai gọi anh thế ?
– Peter .
– Anh ta khoẻ chứ ?
– Ừ .
Anna hít một hơi thật sâu mùi hoa từ bi tràn ngập trong căn phòng . Cô mở cửa lò nướng và ngắm món ăn đang chuyển dần sang màu vàng dưới sức nóng của lò nướng .
– Chúng ta sẽ ăn một bữa thật ngon, em bật phim rồi chờ anh trong phòng khách nhé, em đói gần chết rồi đây, anh đói không ?
– Có, có, Jonathan trả lời bằng giọng gần như lãnh đạm .
Đi ngang qua bàn bếp, Anna túm lấy một cọng a- ti- sô bỏ vào miệng .
– Em sẵn sàng chịu đày đoạ để được ăn đồ Ý, cô vừa nhai vừa nói .
Cô chùi một giọt dầu dính ở khóe miệng rồi đi ra . Jonathan thở dài, lấy khay thức ăn nóng rẫy từ trong lò ra và khéo léo bày lên một chiếc đĩa . Anh đặt các món khai vị xung quanh món chính, cất phần của mình vào tủ lạnh . Rồi anh mở một chai rượu chianti ( một loại rượu vang Ý ), đổ đầy một chiếc ly chân cao thật đẹp đặt bên cạnh đĩa pho- mát mozzarella ( một loại pho- mát làm từ sữa trâu ) .
Anna ngồi chờ trên ghế sofa, màn hình tinh thể lỏng đã bật sẵn, chỉ còn việc nhấn nút điều khiển, đầu DVD sẽ bắt đầu phát bộ phim của Capra .
– Anh có muốn em ra bếp lấy đĩa hộ anh không ? Cô dịu dàng hỏi trong khi Jonathan đặt đĩa thức ăn lên đùi cô .
Anh ngồi xuống bên cạnh và cầm lấy tay cô . Vẻ áy náy, anh giải thích với cô anh sẽ không ăn tối ở nhà . Không để cô kịp phản ứng, anh kể cho cô nghe mục đích cuộc gọi của Peter và nhẹ nhàng xin lỗi cô . Anh phải đi, không phải chỉ vì anh mà còn vì người bạn đang rơi vào một hoàn cảnh nghề nghiệp rất tế nhị . Nhà Christie s sẽ không thể nào hiểu nổi vì sao anh có thể bỏ qua một cuộc bán đấu giá như vậy . Đó có thể là một lỗi nghề nghiệp ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự nghiệp mà cả cô cũng hết sức giữ gìn . cuối cùng, anh thú thật với cô rằng từ lâu anh đã mơ ước có dịp được tới gần các bức tranh đó, được đưa tay lướt nhẹ trên các vệt sơn nổi, được ngắm nhìn những màu sắc chân thực, không bị ống kính máy ảnh hay việc in trên giấy làm nhòe sắc độ .
– Ai là người rao bán chúng ? Cô khẽ hỏi .
– Anh không biết . Có thể chúng thuộc về một người thừa kế phòng tranh của Radskin . Chưa bao giờ anh tìm thấy bất cứ dấu vết được bày bán của những bức tranh này, và trong lần đầu tiên xuất bản cuốn ca- ta- lô về vị danh hoạ, anh đã buộc phải tự hài lòng với các bức ảnh cũng như giấy chứng nhận nguyên bản .
– Có bao nhiêu bức tranh được rao bán ?
Jonathan lưỡng lự trước khi đưa ra con số . Anh biết sẽ không thể mong cô chia sẻ với anh niềm hy vọng được khám phá bức tranh thứ năm mà Peter đã nói . Bức hoạ cuối cùng của Vladimir Radskin trong mắt Anna chỉ là ảo tưởng, một hệ quả của niềm say mê cuồng nhiệt và nguy hại mà người chồng chưa cưới của cô dành cho ông già hoạ sĩ điên rồ .
Jonathan bước tới tủ quần áo, mở một chiếc va- li nhỏ, chọn một vài chiếc áo sơ- mi được gấp cẩn thận, một cái áo len mỏng, vài chiếc cà- vạt và quần áo lót đủ dùng trong năm ngày . Tập trung vào việc soạn hành lý, anh không nghe thấy cả tiếng chân Anna bước tới đằng sau .
– Anh lại bỏ em đi theo nhân tình của anh, chỉ cách lễ cưới của chúng ta có bốn tuần, anh thật không biết điều chút nào !
Jonathan ngẩng đầu lên, đường nét gợi cảm của cô vợ chưa cưới nổi bật trên khung cửa .
– Tình nhân của anh, theo cách nói của em, là một hoạ sĩ già, bị điên, cũng theo lời em nói, và đã qua đời cách đây vài chục năm . Trước ngày cưới của chúng ta, điều này lẽ ra phải khiến em yên tâm về con người anh chứ .
– Em không biết nên hiểu những lời vừa rồi của anh như thế nào, và em có còn nằm trong phạm vi những mối quan tâm của anh hay không .
– Anh không hề có ý gì cả, anh trả lời và vòng tay ôm lấy cô .
Anna tìm cách cưỡng lại, cô đẩy anh ra .
– Anh càng lúc càng quá đáng !
– Anna, anh không có sự lựa chọn nào khác . Đừng làm cho mọi việc trở nên phức tạp . Tại sao anh không thể chia sẻ được với em những niềm vui kiểu này nhỉ, khỉ thật !
– Thế nếu Peter gọi điện trước giờ cử hành hôn lễ, thì anh có hoãn đám cưới lại không ?
– Peter là bạn thân nhất của anh, và là người làm chứng cho chúng ta, cậu ta sẽ không bao giờ gọi điện trước giờ hôn lễ .
– Thật sao ? Anh ta sẽ chẳng thấy ngại đâu !
– Em nhầm rồi, ngoài sự hài hước mà em chẳng buồn nhận thấy ở cậu ta, Peter còn là người rất tế nhị .
– Nếu thế thì anh ta quả khéo che giấu . Nhưng nếu anh ta gọi, thì anh sẽ làm gì ?
– Nếu vậy thì anh nghĩ có lẽ mình sẽ phải từ chối tình nhân để hoàn thành hôn lễ với người vợ của anh .
Jonathan hy vọng, mặc dù không thật tin tưởng lắm, rằng Anna sẽ không tiếp tục chất vấn anh nữa . Không muốn châm thêm dầu vào lửa những tranh cãi mà cô đang cố nhen lên giữa họ, anh thu xếp hành lý và bước vào buồng tắm để lấy nốt một số đồ vệ sinh cá nhân . Cô vội vã bước theo anh . Anh đi ngang qua cô và với tay lấy chiếc áo măng- tô . Khi anh cúi người định hôn cô, cô lùi lại và nhìn anh .
– Anh thấy không, chính anh đã thừa nhận đấy thôi, Peter hoàn toàn có khả năng gọi anh vào ngày hôn lễ !
Jonathan bước xuống cầu thang ; khi đã xuống tới sảnh, anh vặn nắm đấm cửa rồi quay lại nhìn Anna hồi lâu, lúc này cô đang đứng khoanh tay từ trên cầu thang nhìn xuống .
– Không đâu, Anna ạ, cậu ta biết rằng nếu không làm như vậy thì đến sáng thứ hai anh sẽ giết cậu ta .
Anh bước ra ngoài và sập mạnh cửa . Jonathan ra hiệu gọi một chiếc taxi . Anh yêu cầu người lái xe đưa anh tới sân bay Logan . Cơn dông đã khiến thành phố ngập úng . Nước chảy trên vỉa hè đã xoá ngay những dấu chân anh . Khi chiếc xe đã đi xa, bức mành sáo trên cửa sổ xưởng vẽ của Anna rũ xuống . Cô mỉm cười .
Jonathan đứng chờ Peter trước cửa lên máy bay của chuyến bay BA 776. Anh dõi mắt theo những hành khách cuối cùng đang biến mất cuối hành lang. Một bàn tay đặt lên vai anh. Nhìn thấy vẻ mặt nhăn nhó của bạn, Peter nhướn mày. – Tớ vẫn còn là người làm chứng của cậu chứ?
– Cứ theo đà này, cậu sẽ là người làm chứng cho vụ ly hôn của tớ.
Nếu cậu muốn, thì tớ cũng sẽ nhận lời thôi, nhưng cậu phải kết hôn trước mới được, có những chuyện kiểu gì cũng phải tuân theo trật tự thời gian.
Người phụ trách đội bay đưa mắt nhìn họ sốt ruột, cánh cửa máy bay chỉ còn chờ nốt họ là có thể đóng lại. Peter chọn chỗ ngồi cạnh cửa kính. Jonathan vừa kịp xếp chiếc va- li nhỏ lên ngăn hành lý thì máy bay bắt đầu chuyển bánh.
Một tiếng sau, khi cô tiếp viên bước lại dãy ghế của họ, Peter nhã nhặn thông báo rằng cả hai đều sẽ không dùng tới khay thức ăn cô mang tới. Jonathan ngạc nhiên nhìn bạn.
– Cậu đừng lo! Peter thì thầm thông cảm. Tớ đã nghĩ ra hai độc chiêu đáng giá ngàn vàng để cải thiện các chuyến bay đường dài. Tớ đã ghé tiệm bán đồ ăn sẵn ưa thích nhất của cậu và mua một số món để chúng ta có thể thưởng thức một bữa tối thật thịnh soạn. Tớ hơi cảm thấy có lỗi vì món lasagne của cậu.
Món cà trộn pho- mát bỏ lò, Jonathan khó chịu nói. Thế bữa tiệc của cậu đâu, tớ sắp chết đói rồi đây? – Nó nằm ở một trong những ngăn hành lý phía trên đầu chúng ta. Ngay sau khi nàng tiếp viên và xe thức ăn kia khuất sau tấm ri- đô, tớ sẽ dọn lên bữa tối của chúng ta!
– Thế độc chiêu thứ hai của cậu là gì?
Peter nghiêng người lấy từ trong túi áo ra một hộp thuốc viên và lắc lắc trước mặt bạn. – Là cái này! Anh nói vẻ tự mãn và chìa ra hai viên thuốc màu trắng. Đây là một viên thuốc thần kỳ. Khi tỉnh dậy cậu có thể nhìn ra cửa sổ và tự nhủ: “Kìa, sao trông giống London ghê!”
Peter đổ hai viên thuốc vào lòng bàn tay. Anh đưa một viên cho bạn nhưng Jonathan từ chối.
– Cậu sai lầm rồi đấy, Peter vứa nói vừa ném viên thuốc vào sâu trong họng. Đây không phải là thuốc ngủ, chỉ giúp cho cậu dễ chợp mắt hơn thôi, và tác dụng phụ duy nhất của nó, là cậu sẽ không hề có chút cảm giác gì về thời gian trong suốt chuyến bay.
Jonathan không đổi ý. Peter tựa đầu vào ô cửa và mỗi người theo đuổi những suy tư riêng của mình. Cô tiếp viên trưởng kết thúc công việc của mình và biến mất vào khoang dành riêng cho nhân viên hàng không. Jonathan tháo dây an toàn rồi đứng lên.
– Trong ngăn nào? Anh hỏi Peter rồi chỉ tay lên các ngăn hành lý phía trên.
Peter không trả lời. Jonathan cúi người xuống và nhận ra bạn thiu thiu ngủ. Anh đập nhẹ tay lên vai Peter, ngập ngừng một lát rồi lại thử lay bạn thêm vài lần nữa nhưng vô ích, Peter đã ngủ mê mệt. Jonathan mở nắp ngăn hành lý ngay trên chỗ họ ngồi. Khoảng một chục chiếc túi du lịch và áo khoác được xếp lộn xộn, chồng chất lên nhau. Anh cáu kỉnh ngồi xuống. Khoang hành khách chìm trong bóng tối. Một giờ đồng hồ sau, Jonathan tắt đèn ngủ và tìm cách lục lấy hộp thuốc ngủ trong túi áo bạn. Peter ngáy đều đặn, đầu gục xuống mép cửa, Jonathan không có cách nào với tới túi áo bên phải của bạn.
Sáu tiếng sau, cô tiếp viên lại hiện ra trước cửa khoang hành khách, tay đẩy một chiếc xe khác. Bị cơn đói hành hạ suốt cả chuyến bay, Jonathan hạnh phúc đón nhận khay đựng bữa sáng. Cô tiếp viên nghiêng người mở mặt bàn cho Peter, lúc này vừa tỉnh giấc, miệng vẫn còn ngáp khi cô đưa cho anh khay đồ ăn. Anh vụt ngồi thẳng dậy.
– Tớ đã nói với cậu là tớ sẽ phụ trách bữa tối cơ mà! Anh vừa nói vừa tức giận nhìn Jonathan. – Nếu cậu nói thêm một lời nữa, lần sau tỉnh dậy cậu sẽ nhìn qua cửa sổ và tự nhủ: “Kìa, sao trông giống bệnh viện Thánh Vincent ở London thế nhỉ!”
Cô tiếp viên đặt khay thức ăn lên mặt bàn của Peter, Jonathan nhặt chiếc bánh mì và bánh sừng bò trên khay và đưa lên miệng nhai vội vã trước vẻ mặt sửng sốt của bạn.
Một chiếc taxi đưa họ từ sân bay Heathrow tới tận trung tâm London.
Vào buổi sớm tinh mơ, đi xuyên qua quảng trường Hyde Park quả là một điều thú vị, khiến người ta sẵn sàng quên mất mình đang ở giữa lòng một trong những thủ đô lớn nhất Châu Âu. Những thân cây cổ thụ ẩn hiện trong làn sương mù dày đặc vẫn còn bao trùm thảm cỏ rộng mênh mông. Jonathan nhìn qua cửa xe, chăm chú theo dõi đôi ngựa đốm xám đang sóng bước, móng gõ trên nền đường ẩm ướt bằng cát nện của lối đi dành cho xe ngựa. Họ đi qua cánh cửa song sắt mang tên Cửa Ông Hoàng. Lúc này vẫn chưa tới tám giờ sáng, vậy mà tại bùng binh Marble Arch thực là một địa ngục của các dòng xe. Họ đi dọc theo đường Park Lane và cuối cùng được chiếc ta- xi đen thả xuống cửa sảnh có mái che của khách sạn Dorchester, nằm ngay cạnh công viên khu phố Mayfair sang trọng. Hai người lấy chìa khóa phòng rồi ai về phòng nấy. Một lát sau, Peter sang phòng Jonathan. Đang thay quần áo, Jonathan ra mở cửa cho bạn trong chiếc áo sơ- mi trắng và một chiếc quần cộc bằng vải kẻ ô kiểu Ê- cốt.
– Tớ nhận ra vị du khách lịch lãm đây rồi! Peter vừa bước vào vừa đùa cợt. Tớ đang tự hỏi cậu sẽ ăn mặc như thế nào nếu tớ đưa cậu sang Châu Phi? Chuyến bay đã làm tớ mệt nhoài rồi, anh nói thêm và thả người ngồi lún sâu vào chiếc ghế bành da to đùng kê cạnh cửa sổ.
Jonathan không trả lời, biến mất sau cánh cửa buồng tắm.
– Cậu vẫn còn giận hả? Peter hét to.
Jonathan ló đầu ra từ cánh cửa khép hờ.
– Tớ đã trải qua kì nghỉ cuối tuần bằng cách ngồi nhìn cậu ngủ ngon trong máy bay và rất có khả năng tớ đang bị đe dọa ly thân vào thời điểm chỉ còn bốn tuần trước ngày cưới. Tại sao tớ phải giận cậu cơ chứ? Anh vừa hỏi vừa chỉnh lại nút thắt cà- vạt.
Bao giờ cậu cũng mặc quần cuối cùng hả? Peter giễu cợt hỏi.
– Điều đó làm cậu khó chịu sao?
– Không, không hề, có điều nếu chẳng may gặp hỏa hoạn, nếu là tớ, tớ sẽ cảm thấy đỡ ngại hơn khi phải chạy ra hành lang mà chưa kịp đeo cà- vạt.
Jonathan ném ra một cái nhìn cáu bẳn.
– Đừng có cau có như thế, Peter nói tiếp, chúng mình tới đây vì ngài danh họa của cậu đấy chứ.
– Ít nhất thì người đưa tin của cậu cũng đáng tin cậy hả?
– Với cái giá mà tớ phải trả, tớ nghĩ tốt nhất anh ta nên thế! Anh ta đã viết rõ ràng năm bức tranh trong bức thư điện tử gửi cho tớ, Peter vừa nói vừa nhìn qua cửa sổ.
– Nếu thế gã ấy nhầm rồi, tin tớ đi!
– Tớ nhận được thư của cậu ta lúc vừa tỉnh giấc, và tớ đã gọi lại hắn mãi không được. Lúc đấy ở bên này muộn quá rồi, và tớ thì không thể trách hắn vì đã tự cho phép xả hơi vào tối chủ nhật.
– Cậu lại tỉnh giấc lúc trời đã xế chiều hả?
Peter tỏ vẻ lúng túng khi trả lời Jonathan.
– Tớ thức hơi khuya… Này anh bạn, chính tớ mới là người phải hy sinh kỳ nghỉ cuối tuần để cậu được thỏa niềm đam mê, cho nên đừng có làm tớ cảm thấy tội lỗi như vậy nữa!
Theo cậu thì một buổi bán đấu giá tầm cỡ như vậy sẽ không giúp gì cho cậu thoát khỏi những rắc rối với các cộng sự của mình phải không, thưa ngài chuyên gia đấu giá?
– Thôi thì cứ cho là chúng ta cũng hy sinh kỳ nghỉ cuối tuần vì một mục đích chung vậy!
– Cậu còn tin tức gì khác không?
– Địa chỉ phòng tranh nơi các bức tranh sẽ được triển lãm bắt đầu từ hôm qua. Đó sẽ là nơi diễn ra các cuộc thẩm định, cho tới khi chủ nhân các bức tranh tìm được người xứng đáng giao trách nhiệm tổ chức buổi bán đấu giá.
– Thế hiện giờ ai đang là đối thủ của cậu?
– Tất cả những người nào có trong tay một chiếc búa và biết nói “đấu giá kết thúc”. Tớ hoàn toàn trông cậy vào cậu để họ chọn tớ là người được nói câu này trong buổi bán đấu giá sắp tới!
Danh tiếng của Jonathan xứng đáng là một con át chủ bài trong cuộc chạy đua giành cơ hội này giữa những chuyên gia đấu giá. Là người đầu tiên có mặt, lại đi cùng một nhà chuyên môn tầm cỡ như Jonathan, Peter quả đã đi trước một bước dài.
Họ băng qua căn sảnh rộng của Dorchester, Peter dừng lại trước bàn người gác cửa. Anh chìa ra một mẩu giấy nhỏ và hỏi thăm đường tới địa chỉ ghi trên đó. Người đàn ông trong bộ đồng phục đỏ liền đi vòng qua quầy, mở một tấm bản đồ khu phố và dùng bút vạch đường họ phải đi để đến được phòng tranh. Bằng giọng long trọng, ông khuyên họ nên ngẩng đầu lên một vài lần, tại những địa điểm mà ông đã đánh một dấu thập, để chiêm ngưỡng mặt tiền của một vài tòa nhà cổ, hoặc một tòa dinh thự mà chắc chắn họ sẽ thấy thích thú. Bối rối, Peter nhướn mày hỏi người gác cổng xem ông ta có tình cờ có một người họ hàng xa đang sống ở Boston không. Người gác cổng tỏ vẻ ngạc nhiên vì câu hỏi của anh, rồi tận tình đưa hai người tới tận cánh cửa quay và giữ cửa chờ họ đi qua. Sau đó, ông lại đi cùng họ ra tận phần sảnh có mái che bên ngoài và cẩn thận nhắc lại tất cả những chỉ dẫn vừa mới được trình bày trước đó vài phút. Peter cầm lấy tấm bản đồ từ tay ông và kéo Jonathan đi luôn.
Họ men theo những con phố nhỏ lấp loáng ánh nắng. Mặt tiền các cửa hàng nằm dọc các vỉa hè lát gạch trắng đua nhau trưng bày đủ kiểu màu sắc. Những chậu hoa treo đều đặn trên các cột đèn đung đưa trong gió nhẹ. Jonathan có cảm giác như đang sống trong một thời đại khác. Anh đang đi tới một cuộc hẹn mà anh đã chờ đợi từ rất lâu, vừa đi vừa ngắm những mái nhà được lợp bằng ngói gỗ hoặc đá đen. Ngay cả khi người đưa tin của Peter có nhầm lẫn, ngay cả khi Jonathan phải thất vọng như anh đã chuẩn bị tinh thần sẵn, thì anh cũng biết tại một trong những phòng tranh nằm quay lưng về phía đường Piccadilly, rốt cuộc anh sẽ được đứng gần những tác phẩm cuối cùng của Vladimir Radskin. Chưa đầy mười phút là họ đã tới trước số 10 phố Albermarle. Peter lấy mẩu giấy trong túi áo vét ra kiểm tra lại địa chỉ. Anh đưa mắt nhìn đồng hồ và áp mặt vào những thanh sắt bảo vệ lớp kính của phòng tranh.
– Chắc họ vẫn chưa mở cửa, anh nói vẻ bực mình.
Lẽ ra cậu phải làm cảnh sát mới đúng, Jonathan đáp ngay lại.
Nhìn sang bên kia đường, Jonathan nhìn thấy một quán cà phê, bánh ngọt có mặt tiền toàn bằng kính. Anh quyết định đi sang đường, Peter theo sau. Quán cà phê có địa điểm thật đẹp. Mùi thơm lừng của hạt cà phê mới xay quện lẫn mùi bánh mì nóng vừa ra lò. Một vài người khách ngồi chống tay lên những mặt bàn cao, ai nấy đều đang vùi đầu vào đọc tạp chí hoặc báo. Khi hai người bước vào, không ai trong số họ ngước mắt lên.
Tới trước quầy bar lát đá hoa vân xám, họ gọi hai cà phê capucino, rồi mỗi người tự cầm lấy cốc của mình đi về phía chiếc bàn nhỏ kê sát vách bằng kính. Đó cũng là lần đầu tiên Jonathan nhìn thấy Clara. Cô mặc một chiếc áo khoác màu be, ngồi trên một chiếc ghế cao, vừa lật từng trang cuốn tạp chí Herald Tribune vừa nhấm nháp từng ngụm cà phê kem. Mãi đọc, cô lơ đãng đưa cốc nước còn nóng lên miệng, nhăn mặt vì bị bỏng, không hề rời mắt khỏi cuốn tạp chí, cô đặt cốc nước xuống mặt bàn và lật nhanh sang trang khác. Trông Clara thật gợi cảm, cho dù lớp kem đã quết lên môi trên của cô một vệt ria trắng hơi khó coi. Jonathan mỉm cười, anh rút một tờ khăn giấy mỏng, tiến lại gần và đưa cho cô. Clara cầm lấy song vẫn không ngẩng đầu lên. Cô lau miệng và máy móc đưa trả lại cho anh. Jonathan cất tờ giấy vào túi áo khoác song vẫn không rời mắt khỏi Clara. Đọc xong bài báo khiến cô có vẻ không vui, cô đẩy cuốn tạp chí ra và lắc đầu từ phải qua trái, rồi quay lại nhìn Jonathan, bối rối.
– Chúng ta có quen nhau không?
Jonathan không trả lời.
Tay cầm chiếc khăn giấy, anh chỉ lên cằm mình. Clara chấm chấm lên mặt, đưa trả lại chiếc khăn, suy nghĩ một vài giây rồi đôi mắt chợt vụt sáng.
– Xin lỗi anh, cô nói. Tôi thành thật xin lỗi, tôi không hiểu sao tôi vẫn tiếp tục đọc tạp chí này, mỗi lần đọc, nó đều làm tôi bực bội hết cả ngày.
– Thế bài báo đó viết gì? Jonathan hỏi.
– Chẳng có gì quan trọng, Clara trả lời, toàn những điều ra vẻ vừa chuyên môn vừa uyên bác, song rốt cuộc chỉ toàn những nhận định ngạo mạn.
– Còn gì nữa không?
Anh thật tốt khi tỏ ra quan tâm như vậy, song chưa chắc anh đã hiểu được đâu, đây là một vấn đề chán ngắt liên quan tới chuyên môn của tôi.
– Thì cứ cho tôi một cơ hội, thế cái thế giới ấy của cô là gì?
Clara nhìn đồng hồ và với ngay lấy chiếc khăn quàng cổ để trên chiếc ghế kế bên.
– Hội họa! Đến lúc tôi phải đi, sắp muộn rồi, tôi đang chờ một đợt giao hàng.
Cô đi ra cửa và quay người lại trước khi ra đến ngoài.
– Một lần nữa, cám ơn anh…
– Có gì đâu, Jonathan ngắt lời.
Cô vẫy tay chào anh và đi ra. Qua cửa kính, Jonathan nhìn cô chạy băng qua đường. Tới vỉa hè bên kia, cô nhét chìa khóa vào một chiếc hộp nhỏ được gắn trên bề mặt tường và tấm màn sắt trước cửa phòng tranh số 10 phố Albermale từ từ kéo lên. Peter lại gần Jonathan.
Cậu làm gì thế?
– Tớ nghĩ là chúng ta đi được rồi, Jonathan vừa nói vừa nhìn theo bóng Chúng ta có hẹn với cô gái ấy ư?
– Tớ có cảm giác đúng như vậy.Clara biến mất trong phòng tranh.
– Nếu vậy thì cậu phải thay đổi ngay cái cách cậu nhìn cô ta đi.
– Cậu nói thế nghĩa là sao?
Cậu đừng cho tớ là thằng ngốc, nhưng thôi không sao, dù sao thì hai chục năm nay tớ cũng quen rồi.
Đáp lại vẻ ngạc nhiên của Jonathan, Peter nhăn mặt à chỉ tay vào cằm mình. Anh bước ra khỏi cửa hàng, vừa giả vờ vung vẩy một chiếc khăn mùi xoa trong tay. Ánh mặt trời chiếu sáng khắp phòng tranh. Jonathan tì đầu vào lớp kính. Các bức tường vẫn còn trơ trụi, căn phòng trống trơn, cô gái có lẽ đang ở phía sau quầy. Anh nhấn chiếc chuông nhỏ nằm kế bên cánh cửa gỗ sơn màu xanh da trời. Peter đứng phía sau anh. Một vài giây sau Clara xuất hiện. Cô vẫn mặc chiếc áo khoác ban nãy, hai tay thọc sâu vào túi. Cô mỉm cười nhận ra Jonathan, kéo chốt rồi mở hé cửa.
– Tôi để quên chìa khóa ở quán cà phê chăng?
– Không, Jonathan đáp, nếu không thì tôi đoán cô đã không thể vào.
– Có lẽ anh nói đúng, hay tôi để quên ví?
– Cũng không luôn.
– Sổ tay của tôi! Tôi luôn để mất nó, có lẽ vì tôi căm ghét các cuộc hẹn. – Cô yên tâm, tôi cam đoan là cô chẳng để quên gì cả.
Nóng ruột, Peter chen lên trước Jonathan và đưa cho Clara chiếc các của anh Peter Gwel, đại diện cho Christie’s, chúng tôi từ Boston vừa đến sáng nay để gặp cô. – Boston? Xa thế kia à, văn phòng chính của công ty các anh không nằm ở London sao? Clara trả lời và nhường đường để hai vị khách bước vào.
Cô quay người đi vào và hỏi có thể giúp gì cho họ. Peter và Jonathan nhìn nhau ngạc nhiên. Jonathan bước theo cô tới cuối phòng tranh.
– Tôi là chuyên gia thẩm định tranh. Chúng tôi đã được thông báo…
Clara ngắt lời anh, vẻ thích thú.
– Tôi đã đoán ra điều gì khiến các anh đến đây, mặc dù các anh đến hơi sớm quá. Như các anh đã thấy,tôi đang chờ chuyến hàng đầu tiên sẽ tới vào sáng nay.
– Chuyến hàng đầu tiên à? Jonathan hỏi.
– Đế đảm bảo an toàn, mỗi bức tranh sẽ được vận chuyển riêng, mỗi ngày một bức. Để xem được hết các bức tranh, có lẽ các anh sẽ phải ở lại London cả tuần tới. Phòng tranh này hoàn toàn độc lập, song với nghề này, thường là các hãng bảo hiểm có quyền ra lệnh.
– Cô sợ các bức tranh có thể bị đánh cắp trong quá trình vận chuyển à?
– Đánh cắp, hoặc tai nạn, một bộ sưu tập tầm cỡ đó cũng đòi hỏi phải chuẩn bị chu đáo một chút.
Một chiếc xe tải sơn biểu tượng của hãng Delahaye Moving đỗ vào vỉa hè trước lớp kính. Clara ra hiệu cho người lái xe chính xuống xe. Peter và Jonathan quả là may mắn, bức tranh đầu tiên vừa được chuyển tới. Tấm cửa lật phía sau được hạ xuống, ba người đàn ông vác chiếc hòm khổng lồ tới tận giữa căn phòng. Hết sức cẩn thận, họ dỡ dần từng miếng vãn được đóng vào để bảo vệ bức tranh. Cho tới khi bức tranh được lấy ra khỏi hộp đựng bằng gỗ, Clara chỉ cho những người thợ vị trí treo bức tranh. Jonathan nóng lòng quá mức. Những người vận chuyển treo bức tranh lên bằng sự chính xác rất đáng ngưỡng mộ.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.