Kinh Dịch Trọn Bộ

QUẺ PHONG



Chấn trên; Ly dưới

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. – Quẻ Phong, Tự quái nói rằng: Được chỗ về ắt lớn, cho nên tiếp quẻ Phong[1]. Loài vật về họp, ắt thành sự lớn, cho nên sau quẻ Qui muội, tiếp đến quẻ Phong. Phong là nghĩa thịnh lớn. Nó là quẻ Chấn trên Ly dưới. Chấn là động, Ly là sáng, lấy sự sáng mà động, động mà sáng được, đều là cách làm đến cuộc thịnh. Sáng đủ để soi, động đủ để hanh, rồi mới đem đến được cuộc thịnh lớn.

LỜI KINH

豐亨, 王假之, 勿憂宜日中.

Dịch âm.- Phong hanh, vương cách chi, vật ưu nghi nhật trung.

Dịch nghĩa. – Quẻ Phong hanh thông, vua đến đấy, chớ lo, nên mặt trời giữa.

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. – Phong là thịnh lớn, nghĩa nó vẫn hanh thông. Làm cho tột bậc sang lớn ở gầm trời, chỉ đấng vương giả có thể được thế. Đến là tột bậc vậy. Cao đến như ngôi trời, giàu đến như bốn bể, nhiều đến như các loài, lớn đến như đạo vương, làm cho cùng tột đạo thịnh, chỉ có đấng vương giả. Trong thời thịnh, nhân dân đông nhiều, các vật thịnh vương, trị chúng há dễ? Việc đó vẫn đáng lo lắng, phải nên như mặt trời giữa trưa, sáng rõ soi rộng, không đâu không tới, rồi mới không lo.

Bản nghĩa của Chu Hy. – Phong là lớn, lấy sức sáng mà động, tức là cái thế thịnh lớn, cho nên lời Chiêm của nó có đạo hanh thông. Nhưng đấng Vương giả tới bậc đó, thịnh cực sẽ suy, có cách đáng lo, thánh nhơn cho rằng lo suông vô ích, hễ biết giữ thường, chẳng đến quá thịnh thì được, cho nên răn rằng: “Chớ lo, nên mặt trời giữa”.

LỜI KINH

彖曰: 豐大也, 明以動, 故豐;王假之, 尚大也, 勿憂, 宜日中, 照天下也.

Dịch âm.- Thoán viết: Phong đại dã, minh dĩ động; cố phong; vương cách chi, thượng đại dã; vật ưu, nghi nhật trung, chiếu thiên hạ dã.

Dịch nghĩa. – Lời Thoán nói rằng: thịnh là lớn vậy; sáng và đông cho nên thịnh; vua đến đó, chuộng lớn vậy; chớ lo, nên mặt trời giữa, soi gầm trời vậy.

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. – Phong là nghĩa thịnh lớn. Ly sáng mà Chấn động, sáng và động giúp nhau mà thành thịnh lớn. Kẻ làm vua có đất rộng đến bốn bể, dân nhiều hàng triệu, tức là cùng tột sự lớn ở gầm trời, cho nên cái đạo thịnh lớn, chỉ có kẻ làm vua đem đến được. Cái của họ có đã lớn; thì đạo trị những cái ấy, giữ những cái ấy cũng phải lớn. Cho nên điều của kẻ làm vua vẫn chuộng, là điều rất lớn. Cái của họ có đã rộng, cái của họ trị đã nhiều, thì nên lo rằng không thể tới khắp, phải sáng rõ như mặt trời giữa trưa, soi khắp gầm trời, không đâu không tới, thì mới khỏi lo.

LỜI KINH

日中則昃, 月盈則食, 天地盈虛, 與時消息,而况於人乎? 而况于鬼神乎?

Dịch âm.- Nhật trung tắc trắc, nguyết doanh tắc thực; thiên dịa doanh hư dữ thì tiêu tức, nhi huống ư nhân hồ? Nhi huống ư quỷ thần hồ?

Dịch nghĩa. – Mặt trời giữa thì dé, mặt trăng đầy thì khuyết trời đất đầy rỗng, cũng thì cùng tiêu sinh, mà phương chi với người? Phương chi với quỷ thần?

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. – Trên đã nói sự tột bậc của cuộc phong, thịnh đây lại tỏ rằng: Khó giữ được nó thường thường như thế để răng người ta mà rằng: Mặt trời giữa là thịnh cực rồi thì phải dé tối; mặt trăng đầy tròn thì phải vơi thiếu, sự đầy rỗng của trời đất, còn theo thời mà tiêu sinh, huống chi người và quỷ thần? Tiêu sinh nghĩa là tiến lui, vận của trời, cũng phải theo thời mà tiến lui. Quỷ thần là dấu của tạo hóa, với sự thịnh suy của muôn vật, có thể thấy sự tiêu sinh của quỷ thần.

Bản nghĩa của Chu Hy. – Đây lại phát minh cái ý ở ngoài lời quẻ nói là không thể quá mực giữa vậy.

LỜI KINH

象曰: 雷電皆至,豐,君子以折獄致刑.

Dịch âm.- Tượng viết: Lôi điện giai chí, Phong, quân tử dĩ triết ngục trí hình.

Dịch nghĩa. – Sấm chớp đều đến là quẻ Phong. Đấng quân tử coi mà bẻ ngục đến hình.

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. – Sấm chớp đều đến, tức là sự sáng và sự động cùng đi; hai thể hợp nhau, cho nên nói là “đều đến”. Sự sáng và sự động giúp nhau thành ra tượng thịnh, Ly là sáng, tức là Tượng soi xét; Chấn là động, tức là Tượng oai đoán. Bẻ ngục[2] phải soi cho đến tình thật, chỉ có sáng suốt mới có thể tin. Đến hình[3] là ra oai với kẻ gian tà, phải quyết đoán mới được. Cho nên đấng quân tử coi Tượng sấm chớp sáng động để mà bẻ ngục đến hình.

Bản nghĩa của Chu Hy. – Là lấy về Tượng “oai và sự sáng cùng đi với nhau”.

LỜI KINH

初九: 遇其配主, 雖旬無咎, 往有尚.

Dịch âm.- Sơ Cửu: Ngọ kỳ phối chủ, tuy tuần vô cữu, vãng hữu thượng.

Dịch nghĩa. – Hào Chín Đầu: Gặp thử chủ sánh dẫn đều không lỗi, đi có chuộng.

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. – Hào Chín Đầu là đầu thể sáng, hào Chín Tư là đầu thể động, hai hào đó phải chờ nhau mà làm nên công dụng, cho nên tuy là đều nhau mà vẫn ứng với nhau. Ngôi thì ứng nhau, công dụng thì giúp nhau, cho nên hào Đầu gọi hào Tư là “chủ sánh”, tức là kẻ mình sánh với. Chữ “sánh” tuy tiếng gọi là kẻ “đánh đôi”, nhưng mà mình phải tới với họ, như nói “sánh trời”. “để sánh đấng quân tử”, cho nên hào Đầu với hào Tư nói là “sánh”, hào Tư với hào Đầu nói là “ngang”. “Tuần” nghĩa là đều. Những cái ứng nhau ở gầm trời, thường không đều ngang với nhau nhau, như Âm ứng với Dương, mềm đi theo cứng, kẻ dưới bám vào người trên… nếu ngang nhau, thì sao chịu theo nhau? Chỉ có hào Đầu hào Tư quẻ Phong, thì công dụng giúp nhau, ứng viện để làm nền cho nhau, cho nên tuy đều là Dương cứng cũng theo nhau mà không lỗi. Bởi vì không “sáng” thì “động” không thể đi đâu, không “động” thì “sáng” không thể dùng gì, nhờ nhau mà nên công dụng, chung thuyền thì Hồ, việt một lòng, chung nạn thì thù oán hợp sức, sự thế khiến phải thế. Đi mà theo nhau, thì sê làm nên cuộc thịnh, chi nên nói rằng: “Có chuộng” nghĩa là có điều đáng khen chuộng vậy. Ở quẻ khác thì hai hào đó không chịu nhau mà lìa khích nhau.

Bản nghĩa của Chu Hy. – “Phối chủ” chỉ hào Tư, “Tuần” nghĩa là đều, ý nói đều là hào Dương. Trong thì thịnh, sự sáng và sự động nhờ nhau, cho nên hào Chín Đầu gặp hào Chín Tư đều là Dương cứng, mà lời chiêm của nó như thế.

LỜI KINH

象曰: 雖旬無咎,過旬災也.

Dịch âm.- Tượng viết: Tuy tuần vô cữu, quá tuần tai dã.

Dịch nghĩa. – Lời Tượng nói rằng: Dẫu đều không lỗi, quá đều hại vậy.

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. – Lý thế đều nhau thì không chịu nhau, đó là lẽ thường. Nhưng cũng có khi tuy là ngang nhau phải chờ nhau thì sẽ tìm nhau, tức như hào Đầu và hào Tư vậy. Vì vậy dù “đều” mà vẫn không lỗi. Chung cùng với người ta mà sức đều nhau thì cốt hạ mình để tìm nhau, họp sức để theo đuổi công việc, nếu có lòng riêng muốn mình hơn người và có ý riêng muốn lấn thêm lên thì vạ lo sẽ đến, cho nên nói rằng: “Quá đều, hại vậy”.

Bản nghĩa của Chu Hy. – Đây răn kẻ xem không nên cầu thắng kẻ sánh với mình, cũng là ý ngoài lời hào.

LỜI KINH

六二:豐其蔀,日中見斗,往得疑疾,有孚發若,吉.

Dịch âm.- Lục Nhị: Phong kỳ bộ, nhật trung kiến Đẩu, vãng đắc nghi tật, hữu phu phát nhược, cát.

Dịch nghĩa. – Hào Sáu Hai: Thịnh thửa trướng mặt trời giữa thấy sao Đẩu, đi được ngờ ghét, có tin dường mở ra vậy tốt.

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. – Sự sáng và sự động nhờ nhau mới thành cuộc thịnh. Hào Hai là chủ thể sáng, lại được giữa chính, có thể bảo là kẻ sáng, mà hào Năm ở chỗ chính ứng với nó, lại Âm mềm bất chính, không phải kẻ có thể động. Hào Hai hào Năm tuy đều là Âm, nhằm thì “sáng”, “động” nhờ nhau, ở chỗ ứng nhau mà tài hào Năm không đủ. Tài của kẻ ứng với nó đã không đủ nhờ, thì một sức “sáng” không thể làm nên cuộc thịnh. Đã không thể làm nên cuộc thịnh, thì mất công “sáng” cho nên là “thịnh thửa trướng”. Hào Hai là tài rất sáng, vì kẻ ứng với nó không đủ cộng sự mà không thể làm nên cuộc thịnh, mất công sáng, thì là tối tăm, cho nên nói rằng “thấy sao Đẩu”. Đẩu là sao mọc về tối. Bộ là nghĩa quanh khắp, tức là dùng vật che ngăn để che tối bóng sáng vậy. Hào Năm lấy tài Âm mềm, đương vào ngôi vua, mặt trời là lúc sáng rõ, mà thấy sao Đẩu, cũng đương thời thịnh lớn, mà gặp ông vua nhu nhược. Sao Đẩu mọc về tối, nói “thấy sao Đẩu” tức là sự sáng bị mất thành tối rồi. Hào Hai tuy là có tài rất sáng và trung chính, gặp phải ông vua nhu ám bất chính, đã không chịu hạ xuống tìm mình, nếu mình đi mà tìm nó thì lại bị nó ngời vực ghét bỏ, những vi ám chúa thường như vậy cả. Thế thì làm ra thế nào? Đấng quân tử thờ người trên, nếu mà không được lòng họ thì phải đem hết bụng chí thành của mình để cảm phát chí ý của họ. Nếu cái ý thành thực của mình lay động được họ, thì dù họ tối tăm, cũng mang được, dù họ nhu nhược, cũng giúp được, dù vua hèn, chúa tối, mà vẫn thực hành được đạo của mình, là do cái ý thành thực thấu lên, mà được họ dốc lòng tin đó thôi. Nếu lấy lòng thành tín của mình, mở mang chí ý của họ, thì sẽ thực hành được đạo của mình, như vậy mới là tốt.

Bản nghĩa của Chu Hy. – Hào Sáu Hai ở thì thịnh, làm chủ thể Ly, là kẻ rất sáng, mà phía trên ứng nhau với hào Sáu Năm mềm tối, cho nên là Tượng “thịnh thửa trướng che, thấy sao Đẩu”. Bộ là trướng che, làm lớn cái trướng che, cho nên giữa ngày mà tối. Đi mà theo họ, thì ông vua hôn ám ắt ngờ, chỉ nên chứa chất lòng thành để cảm phát họ thì tốt. Răn kẻ xem nên như thế đó. Giữa rỗng[4] là Tượng “có tin”.

LỜI KINH

象曰:有孚發若,信以發志也.

Dịch âm.- Tượng viết: Hữu phu phát nhược, tín dĩ phát chí dã.

Dịch nghĩa. – Lời Tượng nói rằng: Có tin dường mở ra vậy, là dùng sự tin để mở chí vậy.

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. – “Có tin dường mở ra vậy” nghĩa là dùng phu tín cám phát tâm chí của người trên vậy.

LỜI KINH

九三: 豐其沛, 日中見沫, 折其右肱, 無咎.

Dịch âm.- Cửu Tam: Phong kỳ bái, nhật trung kiến mạt[5], triết kỳ hữu quãng, vô cữu.

Dịch nghĩa. – Hào Chín Ba: Thịnh thửa màn, mặt trời giữa thấy sao Mạt, gãy thửa cánh tay phải, không lỗi.

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. – Chữ 沛 (bái)[6] bản cổ có chép ra chữ 旆 (bái)[7]. Vương Bật cho là dù màn thì chính là chữ 旆 (bái) đó. Dù màn vây che ở trong, tức là “thịnh thửa màn”, sự tối càng tệ hơn trướng che. Hào Ba ở thể sáng mà tối hơn hào Tư, là vì kẻ ứng với nó là chất Âm tối. Hào Ba ở trên thể sáng, chất Dương cứng được chỗ chính, vốn là kẻ sáng, đạo thịnh ắt phải “sáng” “động” giúp nhau mới thành, hào Ba ứng với hào Trên, hào Trên là hạng Âm mềm lại không có ngôi mà ở chót thể Chấn, đã chót thì phải đậu, không thể động – quẻ khác đến chót thì cùng cực, quẻ Chấn đến chót thì đậu – hào Ba không có kẻ ứng ở trên, thì không thể làm nên cuộc thịnh. Mạt là hạng sao nhỏ nhen, không có tên số, “thấy sao Mạt”, tức là tối lắm. Thời thịnh mà gặp hào Sáu Trên, tức là giữa, tức là “giữa ngày thấy sao Mạt”. Cánh tay phải là cái người ta hay dùng, nó bị gãy rồi, đủ biết là không làm gì được nữa. Những người hiền trí, gặp đấng minh quân, thì có thể làm việc với thiên hạ; nếu ở trên không có ông vua có thể nhờ cậy, thì không thể làm được việc gì, cũng như người gãy cánh tay phải. Người ta làm việc bị hỏng thì có chỗ đổ lỗi, để mà nói rằng: “bởi thế cho nên đến thê”, muốn động mà không cánh tay phải, muốn làm mà người trên không thể nhờ, thì khong thể làm mà thôi, còn nói gì nữa? Vì không đổ lỗi cho ai được.

Bản nghĩa của Chu Hy. – Chữ 旆 (bái) một bản chép là chữ 沛 (bái), chỉ về dù màn, sự che của nó lại tệ hơn trướng, 沫 (mạt) là nhỏ. Hào Ba ở chỗ sáng cực mà ứng với hào Sáu Trên, tuy không thể dùng, mà không phải lỗi tại nó, cho nên Tượng, Chiêm của

nó như thế.

LỜI KINH

象曰:豐其沛,不可大事也; 折其有肱,終不可用也.

Dịch âm.- Tượng viết: Phong kỳ bái, bất khả đại sự dã: triết kỳ hữu quang, chung bất khả dụng dã.

Dịch nghĩa. – Lời Tượng nói rằng: Thịnh thửa màn, chẳng khá làm việc lớn vậy; gãy thửa cánh tay phải, trọn chẳng khá dùng vậy.

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. – Hào Ba ứng với hào Trên, kẻ trên ứng với mà không có ngôi. Âm mềm không có thế lực, lại ở chỗ đã chót còn cùng làm nên việc lớn được chăng? Đã không thể nhờ, như gãy cánh tay phải, thì rút cục không thể dùng được.

LỜI KINH

九四: 豐其蔀, 日中見斗, 遇其夷主, 吉.

Dịch âm.- Cửu Tứ: Phong kỳ bộ, nhật trung kiến Đẩu, ngộ kỳ di chủ, cát.

Dịch nghĩa. – Hào Chín Tư: Thịnh thửa trướng, mặt trời giữa thấy sao Đẩu, gặp thửa chủ ngang tốt.

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. – Hào Tư tuy là Dương cứng làm chủ thể động, là được ngôi đại thần, nhưng lấy đức không trung chính mà gặp ông vua Âm tối nhu nhược, há còn có thể đem đến cuộc thịnh lớn? Cho nên là “thịnh thửa trướng”. Trướng che là thứ đồ vây quanh che lấp, vây quanh thì không lớn, che lấp thì không sáng, “mặt trời giữa thấy sao Đẩu” nghĩa là đương lúc sáng rõ mà lại tối tăm vậy. “Chủ ngang” là người bằng đẳng, vì nó ứng nhau, cho nên gọi là “chủ”. Hào Đầu với hào Tư đều là chất Dương, mà ở ngôi đầu, ấy là có đức nó giống hào Tư, lại ở vào chỗ ứng nhau, cho nên gọi là chủ ngang. Ở ngôi đại thần mà được người hiền ở dưới cùng đức giúp nhau, thì sự đỡ đần đó há phải là nhỏ? Vì vậy mới tốt.

Bản nghĩa của Chu Hy. – Tượng của hào này giống hào Sáu Hai. “Di” là ngang hành, chỉ hào Chín Đầu. Lời Chiêm của nó thì đương thời thịnh, gặp phải ám chúa, đi xuống với kẻ cùng đức thì tốt.

LỜI KINH

象曰: 豐其蔀, 位不當也.

Dịch âm.- Tượng viết: Phong kỳ bộ, vị bất đáng dã.

Dịch nghĩa. – Lời Tượng nói rằng: Thịnh thửa trướng, ngôi chẳng đáng vậy.

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. – Ngôi chẳng đáng ý nói hào lấy đức không giữa không chính mà ở ngôi cao, vì tối tăm không đem được cuộc thịnh đến.

LỜI KINH

日中見斗, 幽不明也.

Dịch âm.- Nhật trung kiến Đẩu, u bất minh dã.

Dịch nghĩa. – Mặt trời giữa thấy sao Đẩu, tối chẳng sáng vậy.

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. – Ý nói tối tăm không thể sáng láng, là vì vua Tượng Âm mà tối thì không trung chính.

LỜI KINH

遇其夷主, 吉行也

Dịch âm.- Ngộ kỳ di chủ, cát hành dã.

Dịch nghĩa. – Gặp thửa chủ ngang, đi tốt vậy.

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. – Dương cứng gặp nhau là sự đi tốt lành. Tới xuống với hào Đầu, cho nên nói là “đi”, nghĩa là trở xuống mà tìm thì tốt.

LỜI KINH

六五: 來章有慶譽, 吉.

Dịch âm.- Lục Ngũ: Lai chương hữu khánh dự, cát.

Dịch nghĩa. – Hào Sáu Năm: Lại đẹp có phúc khen, tốt.

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. – Hào Năm lấy tài Âm mềm làm chủ thì thịnh, chỉn không thể làm nên cuộc thịnh lớn. Nếu có thể làm cho người hiền đẹp tốt tới đến mà dùng, thì có phúc khánh, lại được tiếng hay, thế gọi là tốt. Hào Hai văn vẻ sáng láng giữa chính, là tài đẹp tốt vậy, kẻ làm hào Năm nếu thức đem được nó tới ở ngôi mà giao công việc ch nó, thì có thể lại cái phúc thịnh lớn, cái đẹp danh dự, cho nên là tốt. Hào Năm với hào Hai tuy không phải là chính ứng, nhưng mà ở thì “sự sáng và sự động giúp nhau” thì nó có nghĩa là làm lẫn sự dùng cho nhau, hào Năm nếu có thể đem đến kẻ đẹp tốt đó thì có phúc khen mà tốt.

Bản nghĩa của Chu Hy. – Chất tuy mềm tốt, nếu nó đưa được kẻ sáng thiên hạ tới nơi thì có phúc khen mà tốt. Vì nó mềm tốt mới đặt lời đó để mở mang cho nó. Kẻ xem như thế, thì cũng được tốt như thế.

LỜI KINH

象曰: 六五之吉,有慶也.

Dịch âm.- Tượng viết: Lục Ngũ chi cát, hữu khánh dã.

Dịch nghĩa. – Lời Tượng nói rằng: Cái tốt của hào Sáu Năm, có phúc vậy.

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. – Gọi là tốt, vì nó phúc khánh tới thiên hạ. Kẻ làm vua tuy là mềm tối, nếu biết dùng người hiền tài, thì có thể làm phúc cho thiên hạ, chỉ lo không thể như thế mà thôi.

LỜI KINH

上六: 豐其屋,蔀其家,闚其戶,

闃其無人,三歲不靚,凶.

Dịch âm.- Thượng Lục: Phong kỳ ốc, bộ kỳ gia, khuy kỳ hộ, khuých kỳ vô nhân, tam tuế bất thục, hung.

Dịch nghĩa. – Hào Sáu Trên: Thịnh thửa mái, che thửa nhà nhòm thửa cửa, hiu quạnh thửa không người, ba năm chẳng thấy, hung.

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. – Ở thì thịnh lớn nên khiêm nhún mà lại đóng chỗ rất cao, đem đến cái công thịnh lớn cốt ở cứng mạnh mà lại là thể Âm mềm, gánh cái trách nhiệm thịnh lớn cốt ở được thì mà lại không đáng ngôi, như hào Sáu Trên này không được một điều nào xứng đáng, đủ biết là hung. “Thịnh thửa mái” tức là ở chỗ quá cao. “Che thửa nhà” tức là ở nơi không sáng. Lấy chất Âm mềm đường thì thịnh lớn, ở vào chỗ không ngôi mà lại cao kỳ tối tăm, tự mình tuyệt với người ta, thì người ta ai cùng với nó? Cho nên nhòm vào cửa nó mà thấy hiu quạnh không có người. Lâu đến ba năm mà không biết đổi, hung là đáng lắm. “Chẳng thấy” nghĩa là còn chẳng thấy người, ý nói nó không thay đổi vậy.

Bản nghĩa của Chu Hy. – Lấy chất Âm mềm ở chót thời thịnh, đóng cuối thể động, tức là kẻ sáng cực mà lại hóa tối, cho nên là Tượng “làm lớn mái nhà mà lại tự che minh”. “Không người” chẳng thấy cũng che lấp sâu quá, sự hung tệ lắm.

LỜI KINH

象曰: 豐其屋, 天際翔也,闚其戶, 闃其無人, 自藏也.

Dịch âm.- Tượng viết: Phong kỳ ốc, thiên tế tường dã, khuy kỳ hộ, khuých kỳ vô nhan, tự tàng dã.

Dịch nghĩa. – Lời Tượng nói rằng: Thịnh thửa mái nhà, giữa trời lượn vậy, nhòm thửa của hiu quạnh thửa không người, tự giấu vậy.

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. – Đứng chỗ chót thời thịnh lớn, ở trên mà tự cao, như bay lượn trên giữa trời, ý nói cao lớn thái thậm, nhòm vào cửa mà không có người, là vì tuy ở chỗ cùng tột cuộc thịnh lớn mà thật ra thì là nơi không ngôi, người ta vì nó tối tăm lại tự tôn đại, đều dứt bỏ nó mà tự nấp tránh, không gần với nó.

Bản nghĩa của Chu Hy. – “Giấu” nghĩa là ngăn che.

Chú thích:

[1] Chữ 豐 (Phong) có nghĩa là thịnh, là giàu, là lớn lao.

[2] Tức là xét án.

[3] Tức là ghép vào tội.

[4] Chỉ về hào giữa quẻ Ly.

[5] Chữ 沫 (mạt là bọt nước), nguyên văn chua rằng: “nên đổi ra chữ 昧 (mạt tên những sao nhỏ).

[6] Chữ 沛 (bái) nghĩa là nước trút xuống.

[7] Chữ 旆 (bái) là tên thứ cờ lớn.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.