Kỳ Án Chim Dẽ Giun

CHƯƠNG 15



Ban đầu lời nói không bình thường của bố thoát ra chầm chậm và do dự – giống chuyển động miễn cưỡng của những toa tàu gỉ sét chở hàng hoá trên đường ray. Nhưng sau đó, khi tốc độ tăng lên, chúng trở nên trơn tru ổn định hơn.
“Khó có thể yêu quý một người như ông nội con được,” bố nói. “Ông gửi bố đi học nội trú khi bố mới mười một tuổi. Kể từ đó, hiếm khi bố gặp lại ông. Bố đã không hề biết điều gì khiến ông đam mê đến vậy, cho đến đám tang của ông, một người hộ tang vô tình nhấn mạnh rằng sở thích của ông là netsuke. Bố đã phải tra từ điển để tìm hiểu.”
“Đó là nghệ thuật khắc tinh vi của Nhật Bản trên ngà voi,” tôi nói. “Trong truyện Dr. Thorndyke của Austin Freeman có viết đấy ạ.”
Bố không để ý đến tôi và nói tiếp.
“Mặc dù trường Greyminster chỉ cách Buckshaw vài dặm, nhưng vào thời đó, nó cũng xa không khác gì mặt trăng. Bọn bố may mắn khi có Tiến sĩ Kissing làm hiệu trưởng, một con người lịch thiệp vốn tin rằng sẽ chẳng hại gì nếu một đứa trẻ được dạy tiếng Latin, bóng bầu dục, cricket và lịch sử, và xét một cách toàn diện, bọn bố được đối xử rất tốt.
Như hầu hết đám bạn, ban đầu bố cũng rất cô đơn, chỉ chăm chăm đâm đầu vào sách vở và khóc ở hàng giậu mỗi khi có một mình. Hồi ấy bố nghĩ, chắc chắn bố là thằng bé khốn khổ nhất thế giới này; rằng có lẽ, bẩm sinh bố đã có gì kinh khủng lắm nên ông mới từ bỏ bố tàn nhẫn như vậy. Bố cũng từng tin rằng, nếu tìm ra được nguyên nhân xem nó là gì, bố sẽ có cơ hội sửa đổi, để mọi thứ trở về vị trí tốt đẹp, để bù đắp cho ông.
Ban đêm, trong ký túc xá, bố thường chui vào chăn với một chiếc đèn pin và kiểm tra mặt mũi mình trong chiếc gương cạo râu bố lấy cắp được. Bố không thấy có gì sai sót đặc biệt, nhưng hồi đó bố cũng chỉ là một đứa con nít nên chưa thể đánh giá được những điều đó.
Nhưng thời gian trôi đi, và bố bị cuốn theo cuộc sống ở trường. Bố giỏi lịch sử nhưng lại không có hy vọng gì khi học Euclid, và môn đó khiến bố bị đứng giữa bảng xếp hạng: không quá giỏi cũng không quá dốt để thu hút sự chú ý về phía mình.
Bố phát hiện ra rằng, sự xoàng xĩnh là một lớp ngụy trang tuyệt vời; một gam màu bảo vệ tuyệt hảo. Những học sinh không thi trượt, nhưng cũng không xuất sắc, được tự do, không bị thầy cô kỳ vọng và đòi hỏi, cũng không bị tụi học sinh hay bắt nạt người khác biến thành nạn nhân. Sự thật đơn giản đó là khám phá vĩ đại đầu tiên trong đời bố.
Cuối cùng khi lên lớp bốn, bố cũng bắt đầu say mê mọi thứ xung quanh, và cũng y như tụi con trai cùng trang lứa, bố có niềm đam mê cháy bỏng với sự bí ẩn, vì vậy khi thầy Twining, giáo viên phụ trách ký túc xá, đề xuất thành lập một nhóm ảo thuật, bố thấy mình rạo rực niềm nhiệt huyết mới.
Thầy Twining tử tế hơn là tài giỏi; bố thừa nhận như vậy, thầy không phải là người biểu diễn quá tinh tế nhưng thầy thực hiện các thủ thuật với một niềm nhiệt thành sôi sụng, đến mức bọn bố sẽ thật bủn xỉn nếu không dành cho thầy những tràng pháo tay giòn giã.
Vào các buổi tối, thầy dạy học trò cách biến rượu thành nước chỉ bằng một chiếc khăn tay và một mẩu giấy thấm có màu; cách làm một đồng si-ling biến mất khỏi một cốc nước đã được bọc kín. Bọn bố học được tầm quan trọng của những tiếng lóng trong nghề và thầy cũng biểu diễn cho bọn bố xem cách tráo bài ngoạn mục mà quân át cơ luôn luôn nằm cuối cùng bộ bài.
Không cần nói người ta cũng biết thầy Twining rất nổi tiếng; ‘được yêu mến’ thì đúng hơn, mặc dù hồi đó, một vài người trong số bọn bố đã được chứng kiến đủ để nhận ra sự yên mến ấy để làm gì.
Tiếng tăm của thầy càng nổi như cồn khi thầy hiệu trưởng, Tiến sĩ Kissing, yêu cầu thầy tổ chức một buổi biểu diễn ảo thuật trong Ngày Phụ huynh, một kế hoạch vui vẻ để thầy được hết lòng hết dạ trổ tài.
Vì bố thành thạo trò Sự hồi sinh của Tchang Fu nên thầy Twining muốn bố biểu diễn trò này như màn kết hoành tráng của buổi diễn. Trò này cần hai người, vì thế thầy cho phép bố chọn người trợ giúp; cũng nhờ đó mà bố quen Horace Bonepenny.
Horace đến với bọn bố từ trường St Cuthbert, sau khi trường bị mất một khoản tiền – chỉ khoảng hai pound, bố tin là thế, nhưng hồi đó chừng ấy cũng là một khoản kếch xù. Phải thừa nhận là bố cũng thấy tiếc cho hắn. Bố cảm thấy hắn bị ngược đãi, nhất là khi hắn tin cậy kể cho bố nghe rằng bố hắn là người độc ác nhất hành tinh và ông ta đã dành cho hắn những hình phạt không thể diễn đạt thành lời. Bố mong là những điều này không quá khiếm nhã với đôi tai của con, Flavia ạ.”
“Không, không sao đâu bố ạ,” tôi nói và kéo ghế gần hơn. “Bố cứ kể nữa đi.”
“Hồi đó, Horace là một thiếu niên cao lạ thường, với mái tóc màu đỏ rực. Hai bàn tay hắn quá dài so với chiếc áo đồng phục của trường, đến nỗi cổ tay hắn thò ra như hai nhánh cây trần trụi tít ngoài gấu tay áo. ‘Bony’ – tức là Xương xẩu – tụi học trò gọi hắn như thế, và tụi nó chọc ghẹo không thương tiếc diện mạo của hắn.
Tồi tệ hơn nữa, các ngón tay của hắn dài, mỏng, và trắng bệch một cách phi lý, y hệt xúc tu của một con bạch tuộc bị bạch tạng, và hắn căm ghét làn da nhợt nhạt trắng bệch của mình – thi thoảng người ta vẫn nhìn thấy kiểu da nhờn nhợt ấy ở những người có tóc màu đỏ. Tụi học sinh xì xào với nhau rằng động vào hắn là bị nhiễm độc. Hiển nhiên hắn coi điều này là trò đùa, và dù cố gắng cào cào tụi con trai nhạo báng hắn, nhảy nhót quanh hắn, với sự vụng về giả tạo, nhưng lúc nào bọn chúng cũng ở ngoài tầm với.
Vào một buổi tối, sau khi chơi trò chạy đuổi rắc giấy, hắn ngồi nghỉ ở trên bậc trèo, thở hổn hển như một con cáo, khi một thằng nhỏ tên là Potts nhảy bằng đầu ngón chân đến và đánh hắn đau điếng vào mặt. Nó chỉ định chạm vào hắn, giống như bám gót một kẻ buôn lậu, nhưng hành động đó nhanh chóng biến thành một điều khác.
Khi bọn chúng nhìn thấy con quỷ đáng sợ đó, tức là Bonepenny, đang sửng sốt, và mũi hắn chảy máu, những đứa khác bắt đầu nhảy vào, Bony sớm quỵ xuống, bị đấm thùm thụp, bị đá, và bị đánh dã man. Đúng lúc đó bố tình cờ đi ngang qua.
‘Dừng lại!’ Bố hét to hết mức và trước sự sững sờ của bố, trận hỗn chiến dừng lại ngay lập tức. Tụi nó lần lượt tản ra từ đống hỗn độn toàn chân với tay. Chắc hẳn trong giọng nói của bố có gì đó khiến chúng phải nghe lời ngay lập tức. Có lẽ cũng vì bọn chúng đã nhìn thấy bố biểu diễn ảo thuật nên điều đó đã giúp bố có được chút quyền thế vô hình, bố cũng không biết chắc, nhưng khi bố ra lệnh cho bọn họ quay trở về trường Greyminster, bọn họ đã tản đi như đám chó sói lúc chạng vạng.
‘Mày có sao không,’ bố hỏi Bony và đỡ hắn đứng dậy.
‘Đau lắm, nhưng chỉ ở một hoặc hai chỗ thôi – như bò của Carnforth ấy,’ hắn nói, và hắn và bố cùng cười phá lên. Carnforth là gã bán thịt khét tiếng ở Hinley và gia đình ông ta cung cấp cho trường Greyminster thịt bò quay mỗi Chủ nhật kể từ thời chiến tranh Napoleon.
Bố nhìn thấy Bony bị đánh dã man hơn nhiều so với khả năng chịu đựng của hắn, nhưng hắn vẫn làm vẻ mặt dũng cảm. Bố để hắn tựa vào vai và đưa hắn tập tễnh quay trở về Greyminster.
Kể từ hôm đó, Bony là cái bóng của bố. Hắn học được sự nhiệt huyết của bố và, có vẻ hắn trở thành một con người hoàn toàn khác. Thật ra, đã có những lúc bố thích thú khi hắn trở thành bố; rằng trước mặt bố là một phần của chính con người mà bố đã mải mê kiếm tìm trong tấm gương lúc nửa đêm.
Bố biết một điều, rằng nếu tách đôi, hắn và bố không thể có hình thái tốt hơn khi đi bên nhau: điều mà bố hoặc hắn không làm được, song người kia có thể dễ dàng hoàn thành. Hình như Bony sinh ra với đầy đủ khả năng về toán học, và hắn sớm vén tấm màn bí mật vẽ hình học và lượng giác học cho bố. Hắn bày trò vui với hai môn đó, và bọn bố đã dành rất nhiều giờ phút vui vẻ để cùng suy tính xem chiếc đồng hồ trên tháp Anson House mất bao lâu để rơi xuống đất nếu bọn bố lấy một chiếc cần hơi khổng lồ tự chế ấn đổ nó. Lần khác, bọn bố dùng phép đo tam giác khám phá ra rằng, một loạt hầm hào khéo léo có thể đồng thời sập xuống khi có dấu hiệu lập sẵn, khiến trường Greyminster và tất cả mọi người trong trường đều rơi tõm xuống vực thẳm Dantean, và ở đó, bọn họ sẽ bị tấn công bởi ong vò vẽ, ong bắp cày, ong thợ và giòi bọ mà bọn bố đã trữ sẵn ở đó.”
Ong vò vẽ, ong bắp cày, ong thợ và giòi bọ? Liệu có phải bố đang nói không? Tôi bất chợt thấy mình lắng nghe bố nói với sự tôn trọng mới mẻ.
“Việc này đạt được như thế nào,” bố nói tiếp, “cũng là điều bọn bố chưa bao giờ thực sự nghĩ cho thấu, nhưng kết quả là, khi bố dần quen với Euclid và các cuốn sách về định đề của ông thì Bony, cùng với việc được kèm cặp đôi chút, hoá ra là một ảo thuật gia bẩm sinh.
Đó là nhờ các ngón tay của hắn, hiển nhiên là vậy. Những ngón tay dài ngoằng trắng bệch ấy dường như có sức sống vô hình, và chẳng bao lâu Bony đã hoàn toàn nắm vững tài làm ảo thuật. Rất nhiều đồ vật xuất hiện rồi biến mất khỏi các ngón tay của hắn một cách uyển chuyển mềm mại, và đến ngay cả bố – một người hiểu rõ các mánh khoé – cũng hiếm khi nào dám tin vào điều mình nhìn thấy.
Và kỹ năng làm ảo thuật của hắn ngày càng thành thạo, và ý thức về giá trị bản thân của hắn cũng tăng lên. Với một chút phép màu trong tay, hắn trở thành một thằng Bony hoàn toàn mới, tự tin, hoà nhã, và có lẽ cả yếu đuối nữa. Giọng nói của hắn cũng thay đổi. Mới hôm qua thôi giọng nói của hắn cũng chỉ là giọng nam sinh khàn khàn, nhưng bây giờ, đột nhiên – ít nhất là như vậy khi hắn biểu diễn – hắn sở hữu thanh quản của cây gụ tao nhã: một giọng nói hấp dẫn, chuyên nghiệp chưa bao giờ thất bại trong việc thuyết phục người nghe.
Sự hồi sinh của Tchang Fu được thực hiện như thế này: bố khoác một chiếc áo kimono lụa to quá cỡ mà bố tìm được trong một buổi bán hàng gây quỹ từ thiện của nhà thờ, nhưng chiếc áo có màu đỏ như máu rất đẹp được thêu rồng và hoa văn bí ẩn Trung Quốc. Bố quết phấn vàng lên mặt và chụp một sợi dây chun quanh đầu để kéo hai đuôi mắt lên. Hai chiếc túi đựng xúc xích của lão Carnforth được quét sơn dầu và cắt hình móng tay dài và cong cong được điểm thêm nhiều chi tiết đáng sợ. Để hoàn thiện bộ trang phục của mình, bố cần thêm một cái nút bần, một nắm dây tước sợi để làm râu và một mái tóc giả màu mè lòe loẹt.
Bố sẽ mời một người tình nguyện dưới hàng ghế khán giả – đương nhiên là một đồng minh của bố – người này cũng được tập dượt nhiều lần trước đó. Bố sẽ đưa người đó lên sân khấu và giải thích bằng giọng Quan thoại ê a hài hước rằng bố sẽ giết anh ta, đưa anh ta đến với Miền đất của Tổ tiên. Tuyên bố hiển-nhiên-này luôn thành công trong việc gợi lên tiếng thở hổn hển sợ hãi của khán giả, và trước khi khán giả kịp lấy lại tinh thần, bố liền lôi một khẩu súng lục giấu trong áo choàng ra, gí vào tim của kẻ đồng loã, và nhấn cò.
Một phát súng lệnh có thể tạo ra âm thanh đáng sợ khi được bắn lửa trong nhà, và cây súng sẽ nổ với tiếng nổ khủng khiếp nhất. Viên trợ lý của bố sẽ bấu chặt lấy ngực, bàn tay siết mạnh một cuộn giấy đựng nước xốt cà chua được giấu sẵn và món nước xốt này sẽ tuôn ra đầm đìa giữa các ngón tay của anh ta. Sau đó, anh ta sẽ cúi xuống nhìn vào ngực và há hốc miệng không tin nổi.
‘Jacko, giúp tôi với!’ Anh ta sẽ la lên. ‘Trò ảo thuật bị lỗi rồi! Tôi bị bắn đây này!’ Và nằm ngã ngửa trên sàn.
Lúc này, khán giả sẽ ngồi thẳng lưng lên trong cơn sững sờ; một vài người sẽ đứng hẳn lên để nhìn cho rõ, và sẽ có người khóc lóc. Bố sẽ giơ một bàn tay lên để trấn tĩnh đám đông.
‘Sirence!’ Bố suỵt suỵt và chằm chằm nhìn họ với cái nhìn đáng sợ. ‘Ancestahs lequire sirence.’
Có vài tiếng cười khúc khích lo lắng, nhưng thường là sự nín lặng sửng sốt. Bố sẽ lôi ra một tấm vải cuộn trong áo và phủ lên viên trợ lý đã chết, chỉ để mỗi nét mặt ngửa lên của anh ta là nhìn thấy được.
Lúc này tấm vải là một đồ vật quan trọng; một tấm vải được bố sản xuất trong sự bí mật cao độ. Tấm vải được chia làm ba đoạn nhờ các thanh chốt mảnh khảnh bằng gỗ đã được khâu sẵn vào hai chiếc túi hẹp chạy dọc chiều dài của tấm vải, và tất nhiên, các thanh chốt mảnh khảnh này cũng vô hình khi tấm vải được cuộn vào.
Ngồi xổm xuống và sử dụng chiếc áo choàng như lớp vỏ bọc, bố cởi giầy của anh trợ lý ra (việc này dễ lắm, vì anh ta đã bí mật nới lỏng dây giầy trước khi bố chọn anh ta từ phía khán giả) và treo đôi giầy theo chiều mũi giầy hướng lên vào cuối thanh chốt.
Con thấy đấy, đôi giầy đã được chuẩn bị sẵn bằng cách có một cái lỗ được khoan qua gót để nhét đinh vào và được đẩy xuyên qua một đầu của thanh chốt. Kết quả thật đáng thuyết phục: một xác chết há hốc mồm nằm bất động trên sàn, đầu xác chết thò ra khỏi một đầu tấm vải và đầu kia thò ra đôi giầy bị lộn ngược.
Nếu theo đúng kế hoạch, phẩm màu đỏ choét sẽ thấm qua tấm vải trên ngực ‘xác chết’ và nếu không, bố có thể cho thêm phẩm màu được giấu sẵn trong cuộn giấy được khâu tít trong ống tay áo.
Bây giờ đến phần quan trọng nhất. Bố sẽ yêu cầu người ta vặn mờ đèn và trong ánh đèn mờ mờ, bố lấy ra hai tờ giấy magiê. Việc này nhằm che mắt khán giả trong chốc lát: chỉ đủ thời gian để viên trợ lý của bố uốn cong lưng và khi bố điều chỉnh lại tấm vải, anh ta sẽ nâng chân lên sàn ở vị trí ngồi xổm. Đương nhiên là khi đó đôi giầy của anh ta vẫn thò ra khỏi đầu cuối của tấm vải, khiến cho anh ta có vẻ vẫn nằm ngang y như ban đầu.
Lúc này bố bước vào giai đoạn nói ngôn ngữ khó hiểu của phương Đông, vẫy tay điên cuồng để gọi anh ta từ cõi chết trở về. Khi bố liến thoắng nói những câu bùa chú tự-bịa, viên trợ lý kia sẽ từ từ nâng người dậy từ tư thế ngồi xổm cho đến khi anh ta đứng thẳng người, với sự hỗ trợ của các thanh chốt được gài sẵn trên vai, đôi giầy của anh ta vẫn thò ra ngoài đầu kia của tấm vải.
Đương nhiên hình ảnh mà khán giả nhìn thấy là một cơ thể phủ-vải đứng thẳng lên và treo lơ lửng cách sàn tới mười phân.
Sau đó bố sẽ cầu xin đấng tổ tiên đưa anh ta trở lại Miền đất sống. Việc này sẽ được thực hiện bởi rất nhiều cái khuơ tay bí ẩn, và sau đó, bố sẽ lôi ra một tờ giấy magiê và viên trợ lý của bố sẽ tung tấm vải ra khi anh ta nhảy ào ra ngoài và đứng thẳng bằng hai chân.
Tấm vải này, với đôi giầy được đóng đinh và các thanh chốt được may sẵn vào, sẽ được ném tung sang bên, trong bóng tối, và bố cùng với viên trợ lý sẽ được rảnh tay mà cúi chào giữa tràng vỗ tay ào ào. Thêm nữa, vì anh ta đi tất đen nên không có ai nhận thấy rằng ‘người đàn ông đã chết’ đã mất giầy.
Đó là màn Sự hồi sinh của Tchang Fu, và bố cũng định sẽ biểu diễn tiết mục này trên sân khấu vào Ngày Phụ huynh. Bố và Bony sẽ lẻn vào tiệm giặt là cùng với quần áo của mình, và ở đó, bố sẽ biểu diễn cho hắn xem trò ảo thuật này tinh tế đến mức nào.
Nhưng chẳng mấy chốc bố nhận thấy Bony không phải là một đồng minh lý tưởng. Dù hắn rất nhiệt tình, nhưng hắn lại quá cao. Đầu và chân hắn thò ra quá xa so với tấm vải giả mạo của bố – quá muộn để làm giả một tấm vải mới. Và có một sự thật không thể tránh được là, trong khi Bony có đôi tay thật khác thường nhưng cơ thể và chân cẳng của hắn vẫn thuộc về một nam sinh vụng về lóng ngóng. Đầu gối như cẳng cò của hắn sẽ rung bần bật khi hắn phải bay lên, và sau một lần làm thử, hắn ngã nhào ra sau, kéo theo tất cả dụng cụ của trò ảo thuật – tấm vải, giầy và tất tần tật – rơi ào xuống.
Bố không biết nên làm thế nào. Bony sẽ tan nát cõi lòng nếu bố tìm người trợ giúp khác, và cũng không có nhiều nhặn hy vọng gì rằng hắn sẽ nắm vững vai trò của mình chỉ trong vài ngày trước khi cuộc biểu diễn diễn ra. Bố gần như tuyệt vọng.
Nhưng Bony chính là người tìm ra giải pháp.
‘Sao tụi mình không đổi vai đi?’ Hắn gợi ý sau khi dụng cụ biểu diễn bị đổ ập xuống. ‘Để tao thử đi. Tao sẽ mặc áo choàng phù thuỷ và mày làm ma.’
Bố phải thừa nhận rằng ý tưởng đó rất xuất sắc. Với khuôn mặt được trát phấn trắng và bàn tay dài nghêu thò ra khỏi ống tay áo kimono đỏ rực, Bony có tạo hình đáng nể y như hắn đã quá quen với việc đứng trên sân khấu (thậm chí, trông hắn còn rùng rợn hơn nữa với bộ móng tay giống xúc xích dài tới tám phân của mình).
Và bởi vì hắn có tài bắt chước bẩm sinh nên hắn không gặp khó khăn gì trong việc bắt chước giọng nói Quan thoại trong vắt. Phải nói rằng cách nói phương Đông khó hiểu của hắn còn hay hơn của bố, và những ngón tay dài khẳng khiu của hắn vẫy vẫy trong không trung giống như loài côn trùng quả là một hình ảnh khó quên đối với những người chứng kiến hôm đó.
Bản thân màn biểu diễn đã quá tuyệt vời. Với sự có mặt của toàn bộ học sinh trong trường và các vị phụ huynh được mời, Bony trình diễn một màn biểu diễn mà không ai trong số họ có thể quên được. Hắn dần dần tỏ ra kỳ cục và hung hãn. Khi hắn gọi bố lên từ phía khán giả để trợ giúp hắn, ngay cả bố cũng rùng mình đôi chút trước tạo hình đầy vẻ hăm doạ của hắn – một người đang vẫy tay ra hiệu đằng sau đèn chiếu trước sân khấu.
Và khi hắn bóp cò súng bắn thẳng vào ngực bố, một cơn hỗn loạn xảy ra! Tất nhiên bố cũng đã chuẩn bị từ trước và món phẩm màu đó mới thật đáng sự.
Một trong số các vị phụ huynh – bố của Giddings Minor – được thầy Twining gồng mình giữ lại, vì thầy đã đoán trước rằng sẽ có vị khán giả khờ khạo chạy ào lên sân khấu.
‘Ngài cứ ngồi yên,’ thầy Twining nói nhỏ vào tai ông Giddings, ‘Chỉ là ảo thuật thôi. Mấy cậu nhỏ này biểu diễn nhiều lần lắm rồi.’
Ông Giddings được tháp tùng miễn cưỡng trở lại ghế, mặt ông đỏ phừng phừng. Và dù vậy, ông vẫn xuất hiện sau màn biểu diễn và bắt tay bọn bố rất chặt.
Sau khi máu trào ra từ kẻ đã chết, thì cú bay lên của bố khi hồi sinh gần như là một nỗi thất vọng, mặc dù hành động này cũng thu hút được từng tràng vỗ tay giòn giã của những khán giả tốt bụng cảm thấy nhẹ nhõm khi nhìn thấy người tình nguyện không may mắn được sống lại. Cuối cùng, bọn bố được vỗ tay mời ra biểu diễn lại tới bảy lần, mặc dù bố biết rõ rằng ít nhất sáu lần vỗ tay đó được dành cho bạn diễn của mình.
Bony đón nhận lời khen ngợi như một miếng bọt biển thèm nước. Một giờ sau buổi biểu diễn, hắn vẫn còn vẫy vẫy tay và được vỗ vai bởi vô số các ông bố bà mẹ ngưỡng mộ hắn – hình như bọn họ chỉ muốn được chạm vào hắn. Nhưng con biết không, khi bố quàng tay quanh vai hắn, hắn lại dành cho bố một cái nhìn kỳ quặc: cái nhìn như thể, dù chỉ trong một giây thoáng qua, rằng trước đó hắn chưa hề quen biết bố.
Những ngày sau đó, bố nhận thấy sự thay đổi dần ở hắn. Bony trở thành người làm ảo thuật tự tin, và lúc này bố chỉ là trợ lý của hắn. Hắn bắt đầu nói với bố bằng kiểu nói mới, và hắn có cung cách lấc cấc hơn, như thể sự rụt rè trước đó của hắn chưa từng tồn tại.
Bố có thể nói rằng hắn đã bỏ rơi bố – hoặc có vẻ như thế. Bố thường thấy hắn đi với một nam sinh lớn tuổi hơn, tên là Bob Stanley, và bố cũng chưa bao giờ thích gã đó. Stanley có khuôn mặt góc cạnh, hàm bạnh ra và rất ăn ảnh, nhưng lại mang vẻ khắc khổ của cuộc sống. Như đã từng bắt chước với bố, Bony cũng lại bắt chước vài đặc điểm của Stanley. Bố biết thời gian đó Bony bắt đầu hút thuốc và bố nghi ngờ hắn còn uống rượu nữa.
Một hôm, bố hơi bất ngờ khi nhận ra mình không còn ưa hắn nữa. Có điều gì đó thay đổi trong Bony, hoặc có lẽ, bố thấy sợ. Nhiều lúc bố bắt gặp hắn nhìn bố chằm chằm trong lớp học, ban đầu trông mắt hắn giống đôi mắt của một người Quan thoại già nua, nhưng rồi, khi nhận thấy bố đang nhìn, đôi mắt đó trở nên lạnh lùng và khó chịu. Dù không thể biết được, nhưng bố bắt đầu cảm thấy rằng, có gì đó đã bị lấy cắp khỏi bố.
Nhưng điều tồi tệ hơn sắp đến rồi.”
Bố im lặng và tôi đợi bố kể tiếp, nhưng thay vì kể tiếp, bố ngồi im và nhìn vô hình vào cơn mưa đang rơi. Có vẻ như tốt nhất là tôi nên để bố im lặng và theo đuổi dòng suy nghĩ của mình, dù suy nghĩ đó là gì đi nữa.
Nhưng tôi biết rằng, cũng giống như Horace Bonepenny, có gì đó đã thay đổi giữa hai bố con tôi.
Chúng tôi ngồi đây, bố và tôi, im lặng trong một căn phòng bé xíu tối mờ, và đây là lần đầu tiên trong đời tôi có được một cuộc trò chuyện được coi là thực thụ. Hai bố con tôi nói chuyện với nhau như hai người trưởng thành. Và mặc dù tôi không biết phải nói gì, nhưng tôi thấy mình muốn câu chuyện được tiếp tục kể, cho đến khi ngôi sao cuối cùng trên bầu trời thôi không còn nhấp nháy.
Ước gì tôi có thể ôm bố, nhưng tôi không thể. Đến lúc này tôi nhận thức được rằng có cái gì đó bên trong bản tính của họ de Luce không quen với việc thể hiện tình cảm với người khác; dù chỉ là một câu nói yêu thương. Đặc tính đó có trong máu của chúng tôi.
Vậy nên chúng tôi ngồi đó, bố và tôi, nghiêm nghị như hai người phụ nữ có tuổi trong buổi trà xứ đạo. Cũng không phải là lối sống hoàn hảo, nhưng cuộc sống của tôi buộc phải như thế.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.