Kỳ Án Chim Dẽ Giun

CHƯƠNG 23



Trong tiểu thuyết hoặc trên phim ảnh, mỗi khi có người phải đứng mặt đối mặt với tên sát nhân thì những lời nói dạo đầu của tên sát nhân luôn thấm đẫm chất đe dọa, và thường là vậy trong truyện của Shakespeare.
Kẻ sát nhân thường sẽ rít lên, “Không cần tìm cũng tự dẫn xác đến,” hoặc, “Trẻ mà khôn ngoan vậy, khó sống thọ lắm.”
Nhưng Frank Pemberton không nói gì giống như thế; mà lại hoàn toàn trái ngược:
“Xin chào Flavia,” ông ta nở nụ cười méo mó, “Thật vui khi gặp cháu ở đây.”
Các động mạch của tôi đập căng thẳng, và tôi cảm thấy mặt mình nóng ran, dù người tôi thì lạnh toát, cơn đỏ mặt ấy vẫn nóng hôi hổi như một vỉ nướng bánh mỳ.
Một suy nghĩ vụt xuất hiện trong đầu tôi: tôi không được để lộ… để lộ bí mật. Không được cho ông ta biết tôi biết ông ta là Bob Stanley.
“Chào ông,” tôi nói, hy vọng giọng mình không run rẩy. “Tấm bia mộ ấy thế nào rồi ạ?”
Tôi biết ngay là mình chỉ tự lừa dối mình. Ông ta đang quan sát tôi như một con mèo quan sát gia đình chim hoàng yến khi chỉ có mỗi đàn chim trong nhà.
“Tấm bia mộ à? À! Sự kết hợp khéo léo của cẩm thạch trắng,” ông ta nói. “Rất giống bột bánh hạnh nhân, nhưng to hơn, đương nhiên là thế.”
Tôi quyết định tham gia trò chơi cho đến khi nghĩ ra một kế hoạch cụ thể.
“Cháu mong là nhà sản xuất của ông hài lòng.”
“Nhà sản xuất của tôi ư? À, ừ. Ông già…”
“Quarrington,” tôi nói.
“Đúng. Đúng rồi. Ông Quarrington. Ông ta thích lắm.”
Pemberton – tôi vẫn nghĩ ông ta là Pemberton – đặt ba lô xuống và bắt đầu nới lỏng sợi dây da của chiếc cặp giấy.
“Phù!” ông ta nói. “Trời hơi nóng, nhỉ?”
Ông ta cởi áo khoác, ném vù qua vai và giơ một ngón tay cái trước bia mộ của ông Twining.
“Cháu thích gì mà tìm đến đây?”
“Ông ấy là thầy giáo cũ của bố cháu,” tôi nói.
“À!” Ông ta ngồi xuống và nằm ra nền đá bình thản như ông ta là Lewis Carroll còn tôi là Alice, đang cùng nhau cắm trại trên sông Isis.
Ông ta biết được bao nhiêu rồi? Tôi tự hỏi. Tôi đợi ông ta vào đề và tận dụng thời gian để suy nghĩ.
Trong đầu tôi đã hình thành một vụ tẩu thoát. Liệu tôi có thể chạy nhanh hơn ông ta không nếu tôi co cẳng chạy hết tốc lực? Có vẻ khó đấy. Nếu tôi đi về phía dòng sông, ông ta sẽ bắt kịp trước khi tôi đi được nửa đường. Nếu tôi chạy theo hướng về nông trại Malplaquet, tôi ít có khả năng tìm được sự giúp đỡ hơn là chạy thẳng ra đường High Street.
“Ta biết bố cháu là một nhà sưu tầm tem,” ông ta đột nhiên nói và hờ hững nhìn về phía nông trang.
“Vâng, bố cháu sưu tầm tem. Làm sao ông biết ạ?”
“Nhà sản xuất của ta – ông Quarrington – vô tình nhắc đến điều đó hồi sáng nay ở Nether Eaton. Ông ấy đang tính đến chuyện đề nghị bố cháu viết về lịch sử của một con tem nào đó, nhưng ông ấy không biết phải làm sao để tiếp cận bố cháu một cách tốt nhất. Không thể bắt đầu hiểu chuyện này… ta cũng không… có lẽ ông ấy nên tự nói với cháu.”
Đó là một lời nói dối và tôi phát hiện ra ngay lập tức. Bản thân là một người được dạy bảo đâu ra đấy, tôi phát hiện ra dấu hiệu hớt lẻo của lời nói dối trước khi cầu chuyện bước ra khỏi miệng ông ta: quá nhiều chi tiết, cách kể chuyện không thoải mái, và cách bao bọc nó thành một câu chuyện mang tính tán gẫu.
“Cũng thú vị lắm,” ông ta nói. “Quarrington đã được hưởng một khối tàn sản kếch xù từ khi kết hôn, nhưng ta sẽ không tiết lộ bí mật cho cháu biết đâu. Ta hy vọng bố cháu sẽ không từ chối trước một khoản tiền lớn có thể mua được vô số thứ phải không nào? Chắc chắn bố cháu đã phải mất ối tiền mới mong giữ lại được một nơi như Buckshaw.”
Chắc hẳn ông ta đang nghĩ tôi chỉ là một con ngu.
“Đợt này bố cháu bận lắm,” tôi nói. “Nhưng cháu sẽ đề cập chuyện đó với bố.”
“À ừ, đây – vô tình cháu lại nói về… cảnh sát và mấy chuyện liên quan. Hẳn là một nỗi buồn chán đáng nguyền rủa.”
Liệu có phải ông ta đang tiến tới hay chúng tôi sẽ ngồi đây mà tán dóc cho đến tối? Có lẽ sẽ tốt hơn nếu tôi ra đòn trước. Ít nhất như vậy tôi cũng có lợi thế là khiến ông ta sửng sốt. Nhưng làm thế nào đây?
Tôi nhớ đến một lời khuyên mà có lần Feely nói với tôi và Daffy:
“Nếu hai đứa mày bị một người đàn ông bắt,” chị ta nói, “cứ đá vào Casanovas của hắn và vắt cẳng vắt giò mà chạy!”
Mặc dù lời khuyên nghe có vẻ khôn khéo nhưng vấn đề là ở chỗ, tôi không biết Casanovas nằm ở chỗ nào.
Tôi phải nghĩ đến cách khác thôi.
Tôi cạo cạo mũi giày trên cát; (tôi sẽ nắm một nắm cát và ném vào mắt lão trước khi lão biết cái gì được hắt vào mặt mình). Nhưng ông ta vẫn đang quan sát tôi.
Ông ta đứng lên và phủi bụi sau mông quần.
“Đôi khi người ta hấp tấp làm một việc để rồi về sau phải hối tiếc,” ông ta nói. Ông ta đang ám chỉ chính mình hay ám chỉ Horace Bonepenny? Hay ông ta đang cảnh cáo tôi đừng làm gì ngốc nghếch?
“Ta nhìn thấy cháu ở quán Con Vịt. Cháu đứng bên trong cửa trước nhìn ngó sổ đăng ký khi xe taxi của ta dừng bánh.”
Khốn nạn! Hóa ra tôi cũng bị phát hiện.
“Ta có bạn bè làm việc ở đó. Mary và Ned ấy. Thi thoảng ta cũng ghé qua chào hỏi họ.”
“Và có phải cháu luôn luôn lục lọi phòng trọ của khách không?”
Tôi cảm thấy mặt mình nóng rần lên khi bị ông ta lột trần.
“Đúng như ta nghi ngờ,” ông ta nói. “Flavia, nghe đây, ta sẽ nói thẳng với cháu. Cộng sự của ta có cất một món đồ trong hành lý, nhưng món đồ đó không phải của hắn ta. Nó là của ta. Và ta biết rõ hơn ai hết, cháu và con gái của chủ phòng trọ là hai người duy nhất có mặt trong căn phòng đó. Ta cũng biết rằng Mary Stoker không có lý do nào để lấy món đồ của hắn. Vậy ta phải nghĩ sao?”
“Ông đang nói đến con tem cũ ấy à?” tôi hỏi.
Đây là một bước đi liều lĩnh, và tôi đã chuẩn bị sẵn tinh thần. Pemberton tỏ ra nhẹ nhõm ngay lập tức.
“Nó ở trên sàn, bên dưới vali,” tôi nói. “Chắc là nó rớt ra. Cháu giúp chị Mary dọn phòng. Chị ấy quên làm mấy việc, và bố chị ấy, ông biết còn gì, có thể…”
“Tao biết. Vậy là mày ăn cắp con tem đó và mang nó về nhà.”
Tôi cắn môi, hơi nhăn mặt lại, và gãi tai.
“Không hẳn là cháu ăn cắp nó. Cháu nghĩ là có người làm rơi nó thôi. Không, không hẳn như thế: cháu biết Horace Bonepenny đã làm rơi nó, và vì ông ấy đã chết, nên ông ấy không còn cần con tem nữa. Cháu nghĩ cháu sẽ đưa nó cho bố và bố sẽ không còn giận cháu về chuyện cháu làm vỡ chiếc bình Tiffany nữa. Đấy. Chuyện là thế.”
Pemberton huýt sáo.
“Chiếc bình Tiffany ư?”
“Chỉ là một tai nạn thôi,” tôi nói. “Đáng ra cháu không nên chơi quần vợt trong nhà.”
“À,” ông ta nói, “việc này sẽ được giải quyết nhanh gọn, phải không? Mày giao nộp con tem của tao để mặc cả vụ vỡ bình. Đúng không?”
Tôi mừng rỡ gật đầu. “Cháu sẽ về nhà và lấy nó.”
Pemberton bật cười điên cuồng và vỗ chân đen đét. Khi ông ta lấy lại bình tĩnh và nói, “Mày giỏi lắm, rất giỏi – ở độ tuổi này mà thế là giỏi lắm. Mày khiến tao nhớ lại chính mình ngày xưa. Chạy về nhà và lấy nó cơ đấy!”
“Được thôi,” tôi nói. “Vậy cháu sẽ nói cho ông biết nơi cháu giấu con tem và ông tự đi lấy vậy. Cháu sẽ ở đây. Hứa danh dự như một thành viên của Girl Guide[63]!”
Tôi lấy các ngón tay làm cử chỉ nghiêm trang của Girl Guide. Tôi không nói với ông ta rằng tôi không còn là thành viên của tổ chức đó nữa, và tôi không tham gia tổ chức này kể từ khi tôi bị đuổi vì sản xuất hydroxit chứa sắt để có được huy hiệu Domestic Service. Hình như không ai quan tâm đến việc… đó là công thức chế ra chất độc arsenic.
Pemberton liếc nhìn đồng hồ đeo tay.
“Trời tối rồi,” ông ta nói. “Không có thời gian mà pha trò đâu.”
Nét mặt ông ta chợt thay đổi, như thể một tấm rèm đã được che ngang mặt. Bỗng dưng trời lạnh cóng.
Ông ta nhào tới túm cổ tay tôi. Tôi hét lên đau đớn. Vài giây nữa thôi, tôi biết rõ điều đó, ông ta sẽ vặn cánh tay tôi ra sau. Tôi đầu hàng ngay lập tức.
“Tôi giấu nó trong phòng thay đồ của bố ở Buckshaw,” tôi buột miệng nói. “Trong phòng có hai cái đồng hồ: cái to đặt trên bệ lò sưởi và cái nhỏ đặt trên bàn cạnh giường bố. Con tem được giấu đằng sau quả lắc của chiếc đồng hồ.”
Và rồi, một điều khủng khiếp xảy ra – vừa khủng khiếp vừa thú vị, cùng hòa thành một: tôi bỗng hắt xì hơi.
Cơn cảm lạnh của tôi vẫn còn lay lắt, và gần như bị quên béng mất, suốt cả ngày. Tôi nhận ra rằng, giống y như cơn cảm lạnh tan đi khi người ta ngủ, bệnh cảm lạnh cũng thường biến mất khi người ta không còn đầu óc mà quan tâm đến nó. Và giờ, cơn cảm lạnh của tôi bỗng nhiên trở lại dữ dội.
Trong một khoảnh khắc quên rằng Ulster Avenger được giấu bên trong chiếc khăn tay, tôi lấy khăn ra lau mũi, Pemberton, đứng hoảng hốt, chắc chắn nghĩ cử động bất ngờ của tôi là khúc dạo đầu cho màn chạy trốn – hoặc có lẽ tấn công ông ta.
Dù là gì thì khi tôi đưa khăn lên lau mũi, trước khi chiếc khăn được mở ra, ông ta làm chệch tay tôi bằng một cú tóm nhanh như chớp, vo tròn miếng khăn thành hình quả bóng và nhét vào mồm tôi, tức là cả con tem và cái khăn.
“Được rồi,” ông ta nói. “Chúng ta sẽ thấy cái mình sẽ thấy.”
Ông ta quàng tay qua vai với lấy áo khoác, trải rộng áo ra giống như áo choàng của đấu sĩ đấu bò, và điều cuối cùng tôi nhìn thấy khi ông ta quăng áo lên trùm đầu tôi là tấm bia của ông Twining, với chữ “Vale!” được khắc trên đá. Cháu tạm biệt ông.
Có gì đó được buộc chặt quanh thái dương của tôi, và tôi đoán chừng Pemberton đang dùng dây quai của cuốn sổ để buộc chiếc áo thật chặt vào đầu tôi.
Ông ta nhấc bổng tôi lên vai và đưa tôi quay lại con đường lội qua sông dễ dàng y như thợ thịt xẻ sườn bò.
Trước khi đầu tôi thôi quay mòng mòng, ông ta vứt tôi đánh phịch xuống đất.
Một tay túm chặt lấy cổ tôi, một tay siết chặt cứng cánh tay tôi, ông ta thô bạo ấn tôi ra trước đi dọc đường ven sông.
“Cứ bước từng bước cho đến khi tao bảo dừng.”
Tôi cố hét lên cầu cứu, nhưng miệng tôi bị chặt cứng bởi chiếc khăn tay vo tròn. Tôi không thể kêu gào gì ngoài tiếng ủn ỉn như heo. Tôi cũng không thể nói với ông ta rằng ông ta đang làm tôi đau lắm.
Tôi chợt nhận thấy mình chưa bao giờ sợ như thế này.
Khi loạng quạng bước đi, tôi cầu nguyện có người phát hiện ra mình; nếu họ phát hiện ra, chắc chắn họ sẽ gọi, và ngay cả khi đầu tôi được trùm kín bởi áo khoác của Pemberton, tôi vẫn có thể nghe tiếng họ rất rõ. Nếu nghe rõ, tôi sẽ vùng mình thoát khỏi ông ta và chạy ù về phía phát ra tiếng nói. Nhưng làm như thế một cách vội vã, tôi biết rõ, tôi có nguy cơ rơi tõm xuống sông và bị Pemberton để mặc cho chết chìm.
“Đứng lại,” ông ta bất chợt nói, sau khi tôi đi từng bước như con cóc mà tôi ước chừng được khoảng một trăm mét. “Đứng im.”
Tôi làm theo.
Tôi nghe thấy ông ta làm gì đó với kim loại và một giây sau, có vẻ như một cánh cửa kêu kèn kẹt mở ra. Pit Shed!
“Bước lên một bước,” ông ta nói, “như thế… giờ bước ba bước. Và dừng lại.”
Phía sau chúng tôi, cánh cửa đóng sập lại như nắp quan tài.
“Lột hai túi quần mày ra,” Pemberton nói.
Tôi chỉ có một túi: túi áo yếm. Trong túi không có gì ngoài một cái chìa khóa cửa bếp ở Buckshaw. Bố lúc nào cũng bắt chúng tôi mang theo một chiếc chìa khóa mọi lúc mọi nơi, để phòng trường hợp khẩn cấp, và bởi vì thi thoảng bố kiểm tra nên tôi luôn phải mang theo nó. Khi tôi lột trái túi, tôi nghe tiếng chìa khóa rơi xuống nền gỗ, nẩy lên và rơi tọt xuống dưới hầm. Một giây sau nó kêu keng yếu ớt khi nằm trên nền bê tông.
“Khốn kiếp,” ông ta nói.
Hay lắm! Chìa khóa rơi xuống hầm, tôi chắc chắn như vậy. Bây giờ Pemberton phải kéo trượt tấm ván phủ trên mặt hầm, và phải chui xuống dưới. Hai tay tôi vẫn được tự do: rồi tôi sẽ kéo toạc chiếc áo của ông ta ra khỏi đầu, chạy ra khỏi cửa, lôi khăn ra khỏi mồm và kêu ầm lên như đàn ngỗng khi tôi chạy dọc đường High Street. Con đường cách đây chưa đầy một phút.
Tôi đã đúng. Gần như ngay lập tức, tôi nghe thấy âm thanh không thể nhầm lẫn được của các tấm ván nặng được kéo lê trên sàn. Pemberton càu nhàu khi kéo các tấm ván ra khỏi miệng hầm. Tôi phải cẩn trọng xem mình nên chạy hướng nào: chỉ cần sẩy chân một bước thôi là tôi sẽ rơi tõm xuống hầm và gãy cổ như chơi.
Tôi không cử động gì từ lúc bước vào cửa, và, nếu như tôi suy đoán đúng, cánh cửa đang ở phía sau tôi và cái hầm ở phía trước. Tôi phải quay người ước chừng đúng 180 độ trong khi bị bịt mắt.
Hoặc là Pemberton có khả năng siêu linh huyền bí, hoặc là ông ta phát hiện ra âm mưu trong đầu tôi. Trước khi tôi kịp làm gì, ông ta đã đứng ngay bên cạnh, lắc lắc người tôi đến chục lần như thể chúng tôi đang chơi trò bịt mắt bắt dê, và tôi là kẻ bị bịt mắt. Cuối cùng, khi ông ta dừng lại, tôi chóng mặt đến mức gần như không đứng được.
“Nào, bây giờ,” ông ta nói, “chúng ta xuống dưới. Bước đi cho cẩn thận.”
Tôi vừa lắc đầu vội vàng vừa nghĩ, chắc trông tôi nực cười lắm khi bị quấn chặt đầu trong chiếc áo khoác bằng vải tuýt của ông ta.
“Flavia, nghe đây, hãy cư xử cho phải phép. Tao sẽ không làm mày đau nếu mày biết cư xử. Ngay khi tao lấy được con tem ở Buckshaw, tao sẽ cho người đến cứu mày. Bằng không…”
Bằng không?
“… tao sẽ buộc phải làm cái điều ít dễ chịu nhất trên đời.”
Hình ảnh Horace Bonepenny trút hơi thở cuối cùng trước mặt tôi lại hiện về trước khi tôi nhắm mắt lại, và tôi biết rõ Pemberton không chỉ có khả năng biết đe doạ.
Ông ta kéo khuỷu tay tôi đến một điểm mà tôi đồ rằng đó là miệng hầm.
“Bước xuống tám bậc,” ông ta nói. “Tao sẽ đếm. Đừng lo, tao giữ mày rồi.”
Tôi bước xuống không trung.
“Một,” ông ta đếm khi bàn chân tôi bước xuống cái gì đó cưng cứng. Tôi đứng không vững.
“Dễ thôi… hai… ba, gần được nửa đường rồi.”
Tôi vươn tay phải ra và cảm nhận được miệng hầm gần cao bằng vai mình. Khi đôi chân trần của tôi phát hiện ra không khí lạnh lẽo trong hầm, cánh tay tôi run lên như một cành cây chết trong gió đông. Tôi cảm thấy cổ họng siết lại.
“Tốt… bốn… năm… hai bước nữa thôi.”
Ông ta lê chân từng bước phía sau tôi. Tôi tự hỏi liệu mình có thể túm lấy cánh tay ông ta và kéo mạnh cho ông ta ngã xuống hầm không. Nếu may mắn ông ta sẽ đập đầu vào bê tông và tôi sẽ bước qua xác ông ta để đến với tự do.
Bỗng nhiên ông ta đứng lặng, các ngón tay ấn sâu vào cơ trên bắp tay tôi. Tôi rống lên trong im lặng và ông ta khẽ nới lỏng nắm tay.
“Im!” Ông ta nói với tiếng gầm gừ không thể bị xem nhẹ.
Bên ngoài, trên đường Cow Lance, một chiếc xe tải vừa dừng lại, tiếng xe gầm lên rất dữ rồi im dần. Có người đang đến!
Pemberton đứng im tuyệt đối, hơi thở vội vàng của ông ta rít lên trong sự im ắng lạnh ngắt của tầng hầm.
Đầu bị buộc chặt trong cái áo khoác, tôi chỉ nghe thấy các giọng nói rất khẽ bên ngoài, kế sau đó là tiếng bang bang của đuôi xe.
Kỳ cục thay, tôi lại nghĩ về Feely. Tại sao chứ, chắc chắn chị ta sẽ gặng hỏi, tại sao mày không hét ầm lên? Tại sao mày không kéo toạc cái áo khoác ra khỏi đầu và cắm phập hai hàm răng vào cánh tay Pemberton? Rồi chị ta sẽ muốn biết toàn bộ câu chuyện, và dù tôi nói gì chăng nữa, chị ta sẽ bác bỏ mọi lời tranh luận như thể chị ta là Chánh án tối cao không bằng.
Sự thật là tôi đang rất khó thở. Chiếc khăn tay của tôi – mảnh vải cotton vô cảm cứng ngắc – bị nhét quá chặt khiến quai hàm tôi đau kinh khủng. Tôi phải thở qua lỗ mũi, và mặc dù có thể hít hà được những luồng hơi sâu nhất, nhưng tôi cũng chỉ có thể lấy đủ ôxi để mà thoi thóp thôi.
Tôi biết, chỉ cần ho thôi, tôi cũng như người sắp chết rồi; nỗ lực nhỏ nhất cũng khiến đầu óc tôi quay cuồng. Thêm vào đó, tôi nhận ra rằng, hai người đàn ông đứng cạnh chiếc xe tải đang kêu re re đằng kia sẽ chẳng nghe thấy gì ngoài tiếng động cơ ầm ì cả. Trừ khi tôi xoay xở gây được tiếng động inh tai nhức óc. Tốt nhất là tôi nên đứng im và giữ yên lặng. Như vậy tôi còn giữ được chút sức lực cỏn con.
Có người đóng đuôi xe tải lại với tiếng kim loại vang rền; và chiếc xe lại ì ạch vào số. Hai chúng tôi lại chỉ còn môt mình.
“Nào,” Pemberton nói, “… bước xuống tiếp đi. Còn hai bậc nữa.”
Ông ta ấn mạnh vào cánh tay tôi và tôi đưa chân ra trước.
“Bảy,” ông ta nói.
Tôi dừng lại, lưỡng lự bước bước chân cuối cùng sẽ đưa tôi xuống đáy hầm.
“Một bước nữa. Cẩn thận đấy.”
Như thể ông ta đang giúp một người phụ nữ già đi qua con đường đông đúc.
Tôi bước một bước nữa, và ngay lập tức mắt cá chân tôi lún trong rác rưởi. Tôi nghe thấy Pemberton lấy chân di di đống rác. Ông ta vẫn bấu chặt vào cánh tay tôi, rồi cúi người xuống nhặt chìa khóa. Nếu ông ta nhìn thấy chìa khóa, tôi thầm nghĩ, chắc chắn ở dưới đáy hầm này phải có ít nhiều ánh sáng.
Ánh sáng ở dưới đáy hầm. Vì lý do khó hiểu nào đó, ý nghĩ này khiến tôi nhớ đến câu nói của Thanh tra Hewitt khi ông đưa tôi từ Phòng cảnh sát ở Hinley về nhà: Nếu không có chút ngọt ngào đọng lại trong nhân bánh, thì ai quan tâm đến vỏ bánh mỹ miều?
Câu nói đó nghĩa là gì? Đầu óc tôi như mụ mị.
“Flavia, tao xin lỗi,” Pemberton đột nhiên nói, làm đứt mạch suy nghĩ của tôi, “nhưng tao sẽ phải trói mày lại.”
Trước khi lời nói của ông ta có thời gian lọt vào tâm trí tôi, ông ta đã quặt tay tôi ra sau và buộc chặt hai cổ tay tôi vào nhau. Ông ta lấy cái gì làm dây buộc vậy? Cà vạt chăng?
Khi ông ta buộc chặt dây, tôi vẫn nhớ phải ấn các đầu ngón tay vào nhau thành hình cung, đúng y như tôi đã làm khi Feely và Daffy khóa trái tôi trong tủ. Việc đó xảy ra bao lâu rồi nhỉ? Có phải mới thứ Tư tuần trước không? Thế mà cứ như cả nghìn năm qua vậy.
Nhưng Pemberton không phải một tên ngốc. Hắn nhìn thấy ngay lập tức, và không nói năng gì thêm, hắn bóp chặt hai mu bàn tay của tôi giữa ngón trỏ và ngón cái của hắn, đau tê người. Ông ta kéo vòng dây buộc thật chặt cho đến khi hai cổ tay tôi bị siết lại với nhau, sau đó, buộc hai nút, rồi ba nút – mỗi nút buộc là một cái giật mạnh hơn và chặt hơn thế.
Tôi lần ngón cái quanh nút buộc và cảm nhận được vẻ mượt mà trơn tru của nó. Lụa dệt. Đúng rồi, ông ta dùng cà vạt. Một cơ hội bé nhỏ quý giá để tôi thoát được những nút buộc này!
Hai cổ tay tôi đang đổ mồ hôi, và tôi biết mồ hôi ẩm ướt sẽ sớm khiến dải lụa co lại. Ừm, không chính xác: lụa, giống như tóc, là protein, và bản thân nó không co lại, nhưng cách nó được dệt sẽ khiến nó co lại một cách tàn nhẫn khi ẩm ướt. Sau một hồi, dòng máu tuần hoàn ở tay tôi sẽ bị bóp nghẹt, và rồi…
“Ngồi xuống,” Pemberton ra lệnh và ấn vai tôi xuống – và tôi ngồi xuống.
Tôi nghe tiếng lanh canh của dây lưng khi ông ta cởi nó ra, quấn chặt quanh mắt cá chân của tôi, và kéo thật chặt.
Ông ta không nói thêm lời nào. Giày của ông ta nện trên nền bê tông khi leo lên bậc thang của cái hầm, và rồi tôi nghe tiếng ván nặng nề kéo lê trở lại miệng hầm.
Vài giây sau, là sự im lặng. Ông ta đã bỏ đi.
Chỉ có mình tôi trong hầm, và không có ai, ngoại trừ Pemberton biết tôi ở đâu.
Tôi sẽ chết ở dưới này, và cuối cùng, khi bọn họ tìm thấy xác tôi, họ sẽ cho tôi vào chiếc xe tang đen sì bóng láng và đưa đến nhà xác cũ kỹ ẩm ướt nào đó, sau rồi, họ sẽ đặt tôi trên chiếc bàn sắt chống gỉ.
Điều đầu tiên bọn họ làm sẽ là mở miệng tôi và lấy chiếc giẻ bịt mồm ướt đẫm ra, tức là chiếc khăn tay của tôi, và khi bọn họ mở chiếc khăn trên bàn ra bên cạnh xác chết của tôi, một con tem màu vàng cam – con tem của Vua – sẽ rơi xuống sàn: rất giống với truyện của Agatha Christie[64]. Sẽ có người – có lẽ chính là bà Christie – sẽ viết một tiểu thuyết trinh thám về việc này.
Có thể tôi sẽ chết, nhưng tôi sẽ được xuất hiện nổi bật trên trang nhất của tờ News of the World. Nếu tôi không sợ hãi đến thế, không kiệt sức đến thế, không thiếu không khí đến thế và không đau đến thế, chắc hẳn việc đó làm tôi buồn cười lắm.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.