Kỳ Án Chim Dẽ Giun

CHƯƠNG 26



Đó là Pemberton, và khi nghe thấy giọng nói của lão ta, tim tôi muốn nhảy phắt ra khỏi lồng ngực. Ý lão ta là sao chứ? “Và bây giờ đến lượt Flavia?” Liệu có phải hắn đã làm điều gì đó khủng khiếp với Daffy, Feely… hay với chú Dogger không?
Trước khi tôi kịp hình dung, Pemberton đã túm chặt lấy bắp tay tôi khiến toàn thân tôi như muốn khuỵu xuống, lão ấn chặt ngón tay cái vào bắp thịt tôi, y như cũ. Tôi cố la hét, nhưng không một từ nào thoát ra khỏi miệng. Hình như tôi sắp nôn.
“Trước hết, Frank và Flavia sẽ trò chuyện đôi chút với nhau,” lão nói, với giọng điệu trò chuyện hết sức thú vị, như thể chúng tôi đang cùng nhau đi dạo trong công viên, và tôi nhận ra ngay lập tức rằng chỉ có một mình tôi đang ở cùng một gã điên trong nhà tù Calcutta của chính mình.
“Tao sẽ bỏ áo trùm đầu của mày ra, mày hiểu chứ?”
Tôi đứng chết lặng, sững sờ.
“Flavia, nghe đây, và nhớ nghe cho kỹ. Nếu mày không làm đúng như tao nói, tao sẽ giết chết mày. Đơn giản vậy thôi. Mày hiểu chưa?”
Tôi khẽ gật đầu.
“Giỏi lắm. Giờ thì đứng im.”
Tôi cảm thấy ông ta thô lỗ giật mạnh các nút buộc mà ông ta đã buộc ngoài chiếc áo khoác, và gần như ngay lập tức, lớp vải áo lụa trơn bóng cũng bắt đầu trượt ngang mặt tôi trước khi nó bị cởi ra.
Ánh đèn pin của lão mang đến cho tôi một đòn chí mạng, khiến tôi lóa mắt.
Tôi sững người lùi bước. Những ngôi sao lóe sáng và vô số hình ảnh đen trắng bay vù vào tầm mắt tôi. Tôi ở trong bóng tối quá lâu, đến mức ngay cả ánh sáng của một que diêm cũng khiến tôi không thể chịu đựng được, nhưng Pemberton lại đang cố tình rọi thẳng chiếc đèn pin sáng rực của lão vào hai mắt tôi.
Không thể đưa hai tay lên che mắt, tôi chỉ có thể xoay đầu sang một bên, nhắm tịt mắt và đợi cơn buồn nôn ập đến.
“Đau lắm, phải không?” lão ta nói. “Nhưng không đau bằng một nửa cơn đau mà tao sẽ mang đến cho mày nếu mày còn nói dối tao thêm một lần nữa.”
Tôi quay đầu lại và hé mắt nhìn ông ta bằng nét mặt kinh tởm thực thụ. Qua ánh đèn pin chói lóa, tôi không nhìn thấy ông ta ở đằng sau, thứ ánh sáng ấy chiếu thẳng vào mặt tôi như mặt trời rực rỡ tỏa nắng chói chang trên sa mạc.
Ông ta từ từ quay chùm ánh sáng chiếu xuống sàn nhà. Đâu đó đằng sau ánh đèn pin, ông ta lẫn vào trong bóng tối.
“Mày đã nói dối tao.”
Hình như tôi đáp lễ bằng một cái nhún vai.
“Mày đã nói dối tao,” Pemberton lặp lại một lần nữa, lần này giọng lão lớn hơn, và tôi nghe thấy sự căng thẳng trong giọng nói ấy. “Trong cái đồng hồ chết tiệt ấy không giấu gì hết ngoài con tem Penny Black.”
Vậy là hắn đã đến Buckshaw! Tim tôi đập nhộn nhạo liên hồi như một con chim bị nhốt trong lồng.
“Ư… ư,” tôi nói.
Pemberton sẽ suy ngẫm đôi chút về câu trả lời đó của tôi, nhưng lão không thể làm gì tôi.
“Tao sẽ lấy miếng giẻ ra khỏi mồm mày, nhưng trước hết, tao sẽ cho mày xem một thứ.”
Lão ta nhặt chiếc áo khoác từ dưới sàn hầm lên và thò tay vào túi áo. Khi hắn đưa tay ra, bàn tay hắn cầm một món đồ sáng bóng, làm bằng thủy tinh và kim loại. Đó là ống xilanh của Bonepenny! Lão giơ lên cho tôi xem.
“Mày đang tìm cái này phải không, nhóc con? Ở quán trọ và ở trong vườn nhà mày ấy? Và giờ thì nó lại ở đây!”
Hắn cười khùng khục qua lỗ mũi như một con lợn, rồi hắn ngồi lên bậc cầu thang. Lấy hai đầu gối giữ chặt đèn pin, lão giơ thẳng ống xilanh lên trong khi lục lọi lần nữa chiếc áo khoác và lấy ra một cái chai nhỏ màu nâu. Tôi gần như không có thời gian đọc nhãn dán trên chai trước khi hắn bật nút và nhanh chóng hút đầy ống xilanh.
“Tao biết mày biết đây là cái gì, phải không Con-bé-tưởng-cái-gì-mình-cũng-biết?”
Tôi bắt gặp ánh mắt của lão, nhưng không tỏ dấu hiệu gì là tôi nghe thấy lão nói.
“Và đừng có nghĩ là tao không biết chính xác cách tiêm chất này. Tao không lãng phí quãng thời gian ở Bệnh viện London một cách vô ích đâu. Một khi đánh gục được Bonepenny, việc tiêm thuốc trở nên cực kỳ đơn giản: hơi lệch sang một bên, xuyên qua cơ gối đầu và cơ rối to, ấn chính xác vào dây chằng trục ngoài, và ấn ống tiêm qua vòm trục! Và kìa! Đến giờ chìm vào giấc ngủ ngàn thu rồi. Đó quả là cái chết gần như ngay lập tức. Cacbon tetraclorua nhanh chóng bốc hơi hết, không để lại dấu vết gì. Một vụ giết người hoàn hảo, tao dám cá với chính mình như thế.”
Đúng như tôi suy đoán! Nhưng bây giờ tôi biết chính xác lão ta đã làm như thế nào! Lão ta bị điên thật rồi.
“Giờ thì nghe đây,” lão ta nói. “Tao sẽ bỏ khăn ra khỏi miệng mày, và mày sẽ nói cho tao biết mày đã làm gì với hai con tem Ulster Avenger. Chỉ cần một lời nói sai… một bước đi sai thôi là…”
Giơ ống xilanh lên cao, gần như chạm vào mũi tôi, lão khẽ ấn pít-tông. Một vài giọt cacbon tetraclorua xuất hiện ngay lập tức ở đầu kim tiêm, trắng như sương, rồi rơi xuống sàn. Mũi tôi ngửi được mùi nồng nồng quen thuộc của chất đó.
Pemberton để đèn pin trên bậc cầu thang và điều chỉnh cho chùm sáng chiếu rọi vào mắt tôi. Lão đặt ống xilanh bên cạnh đèn.
“Há miệng ra,” lão nói.
Một ý nghĩ ập đến tâm trí tôi: lão sẽ nhét ngón cái và ngón giữa vào mồm tôi để lấy cái khăn ra. Tôi sẽ lấy hết sức bình sinh để cắn lão – cắn đứt ngón tay lão thì thôi!
Nhưng sau đó thì sao? Tôi vẫn bị trói chân trói tay, và ngay cả nếu hai ngón tay bị cắn đứt, Pemberton vẫn dư sức kết liễu đời tôi.
Tôi khẽ há miệng ra.
“Há to ra,” lão nói và hơi lùi lại. Sau đó, nhanh như chớp, hắn thò tay vào và lôi ngay ra cái khăn ướt sũng trong mồm tôi. Trong một giây ngắn ngủi, ánh đèn pin bị chắn bởi bóng bàn tay của lão, vì vậy theo như tôi thấy, lão không nhìn thấy màu vàng nhàn nhạt khi túm khăn vo tròn ướt nhoét bị ném vào bóng tối, rớt bịch xuống sàn.
“Cám ơn,” tôi thì thào bằng giọng khàn khàn, thực hiện bước đi đầu tiên trong phần hai của trò chơi.
Pemberton có vẻ sững sờ.
“Chắc có người tìm thấy chúng rồi,” tôi càu nhàu. “Tức là mấy con tem. Tôi giấu trong đồng hồ, tôi thề.”
Tôi biết ngay mình đã đi quá xa. Nếu tôi nói thật, Pemberton không có lý do gì để tôi được sống sót. Tôi là người duy nhất biết lão là một kẻ sát nhân.
“Trừ khi…” tôi vội vàng nói.
“Trừ khi? Trừ khi cái gì?”
Hắn vồ lấy lời nói của tôi như con chó rừng vồ vập con linh dương.
“Chân tôi,” tôi rên rỉ. “Đau lắm. Tôi không suy nghĩ được. Tôi không thể… làm ơn, ít nhất cũng nới lỏng một chút – một chút thôi cũng được.”
“Được,” lão nói, với một ý nghĩ hơi ngạc nhiên. “Nhưng tao sẽ vẫn trói tay mày. Như thế mày sẽ không chạy đi đâu được.”
Tôi hứng khởi gật đầu.
Pemberton quỳ xuống và nới lỏng thắt lưng. Khi cái thắt lưng rơi khỏi mắt cá chân tôi, tôi lấy hết sức đá vào mồm lão.
Khi lão loạng quạng lui lại, đầu hắn va vào bê tông, và tôi nghe thấy tiếng thủy tinh rơi xuống sàn hầm lăn vào một góc. Pemberton nặng nề trượt người dọc theo bức tường để ngồi bệt xuống khi tôi ì ạch đi tới chỗ bậc thang.
Tôi lên được một bậc… hai bậc… hai chân vụng về đá vào đèn pin, khiến nó lộn ngược rơi xuống sàn hầm, ở đó, nó chiếu thẳng chùm sáng vào một bên đế giày của Pemberton.
Ba bậc… bốn bậc… chân tôi có cảm giác đau buốt nơi mắt cá.
Năm…
Chắc chắn bây giờ đầu tôi đã ở trên miệng hầm, nhưng sao căn phòng vẫn tối om. Không có gì ngoài một chùm sáng đỏ như máu ngoài cửa sổ của cánh cửa gấp. Chắc trời tối rồi; có lẽ tôi đã ngủ rất lâu.
Tôi đang cố nhớ xem cửa ở đâu thì trong hầm vang lên tiếng cào bới. Chùm sáng đèn pin uốn cong điên cuồng ngang trần hầm và Pemberton đột ngột xuất hiện ở ngay bậc thang, và cao hơn tôi.
Lão siết mạnh hai tay quanh người tôi cho đến nỗi tôi không tài nào thở được. Tôi nghe thấy tiếng xương vai và khuỷu tay mình kêu răng rắc.
Tôi cố đá vào cẳng chân lão, nhưng lão nhanh chóng chế ngự được tôi.
Thành thử, chúng tôi y như con quay đang quay tít trong căn phòng.
“Không!” lão hét lên, mất thăng bằng, và ngã ngửa trên sàn hầm, kéo tôi ập ngã xuống theo.
Lão đập lưng đánh uỳnh xuống sàn hầm và cùng lúc, tôi nằm huỵch lên người lão. Tôi nghe tiếng lão thở dốc trong bóng tối. Liệu lão có bị gãy lưng không? Hay là lão sẽ sớm đứng bật dậy, và lắc tôi như lắc một con búp bê nhồi giẻ rách?
Với sức mạnh bất ngờ, Pemberton quăng tôi xuống, và tôi bay vù vào một góc hầm, mặt úp sấp. Giống y một con sâu đo, tôi ngọ nguậy để đứng lên, nhưng muộn mất rồi: Pemberton đã bấu chặt vào bắp tay tôi, và kéo lê tôi về phía bậc thang.
Gần như quá dễ dàng: lão ngồi xổm và túm lấy đèn pin từ chỗ nó bị rơi xuống, rồi thò tay về phía bậc thang. Tôi tưởng ống xilanh bị rơi xuống sàn nhưng hóa ra là tiếng chai lọ, trong một khoảnh khắc, tôi thoáng thấy kim tiêm trong tay lão – và cảm thấy như thể mũi kim sắp đâm vào phía sau ót mình.
Ý nghĩ duy nhất của tôi là trì hoãn vụ giết người này.
“Ông đã giết Giáo sư Twining, phải không?” tôi thở hổn hển. “Ông và Bonepenny.”
Dường như câu hỏi này của tôi bắt được phần vô thức của lão. Tôi cảm thấy cái bấu tay của lão khẽ lỏng ra.
“Sao mày lại nghĩ vậy?” Lão thì thào vào tai tôi.
“Bonepenny ở trên đỉnh tháp,” tôi nói. “Bonepenny là người hét lên từ ‘Vale!’ Hắn bắt chước giọng của ông Twining. Ông chính là người ném xác nạn nhân xuống cái hố thoát nước.”
Pemberton hít một hơi thật sâu. “Bonepenny nói với mày điều đó sao?”
“Tôi tìm thấy mũ và áo choàng,” tôi nói. “Bên dưới mấy viên ngói. Tôi tự tìm ra thôi.”
“Mày thông minh lắm,” lão nói, gần như tiếc nuối.
“Và giờ thì ông giết Bonepenny, rồi mấy con tem sẽ thuộc về ông. Ít nhất cũng là vậy nếu ông biết mấy con tem đó ở đâu.”
Dường như điều này làm lão tức điên lên. Lão bóp chặt cánh tay tôi hơn, và lại bấu sâu hơn nữa ngón cái vào cơ thịt của tôi. Tôi hét lên đau đớn.
“Flavia,” lão rít lên. “Hai con tem chết tiệt đó ở đâu?”
Suốt khoảng thời gian yên lặng dài lê thê sau đó và trong cơn đau đến tê người, tâm trí tôi phải đấu tranh cật lực để lẩn tránh câu trả lời.
Có phải đây là kết thúc của Flavia không?
Nếu là như vậy, liệu mẹ Harriet có trông nom săn sóc tôi không? Liệu ngay lúc này, mẹ có ngồi trên một đám mây, hai chân đung đưa lúc lắc và nói, “Ôi không, Flavia! Đừng làm vậy; đừng nói gì nhé! Nguy hiểm lắm, Flavia ạ! Nguy hiểm lắm!”
Nếu mẹ đang nói vậy, thì tôi cũng không nghe tiếng; có lẽ tôi xa cách mẹ Harriet hơn Feely và Daffy. Có lẽ mẹ ít thương tôi nhất trong ba đứa con.
Có một thực tế đáng buồn là, trong số ba con gái của mẹ, tôi là đứa duy nhất không còn chút hồi ức nào về mẹ. Feely, y hệt một người keo kiệt, đã trải nghiệm và tích lũy được tám năm trong sự yêu thương của mẹ. Và Daffy khăng khăng cho rằng, mặc dù chỉ mới gần ba tuổi khi mẹ biến mất nhưng chị vẫn nhớ như in hình ảnh một người phụ nữ mảnh khảnh tươi cười mặc cho chị một chiếc váy xinh xắn, đội cho chị cái mũ có quai dưới cằm, đặt chị ngồi trên một tấm khăn trải trên bãi cỏ đầy nắng, và chụp ảnh chị bằng chiếc máy quay gấp trước khi cho chị ăn món dưa chuột ngâm.
Một cái đâm đe dọa khác kéo giật tôi trở về thực tại – đầu mũi kim đang nằm ngay trên não tôi.
“Hai con tem Ulster Avenger. Chúng ở đâu?”
Tôi chỉ một ngón tay về góc hầm, nơi chiếc khăn bị vo tròn nằm im lìm trong bóng tối. Khi chùm sáng từ đèn pin của Pemberton nhảy nhót về phía góc hầm, tôi quay mặt đi, rồi ngẩng mặt lên, như người ta vẫn nói rằng các vị thánh ngày xưa thường làm vậy khi họ tìm kiếm sự cứu rỗi linh hồn.
Tôi nghe thấy trước khi nhìn thấy. Có tiếng kêu ro ro bị bóp nghẹt, như thể một con thằn lằn ngón cánh khổng lồ đang vỗ cánh bên ngoài Pit Shed. Một giây sau, có tiếng va đập ầm ĩ và một cơn mưa kính vỡ trút xuống.
Căn phòng phía trên chúng tôi, cách xa miệng hầm, ngập tràn trong ánh sáng vàng chói lọi, và trong luồng sáng ấy, khói xe bay lờ lững khắp phòng như những linh hồn bồng bềnh nho nhỏ của những người quá cố.
Vẫn đứng chết trân tại chỗ, tôi nhìn thẳng vào không trung, vào hình ảnh quen thuộc một cách lạ lùng đang rung lên ầm ầm phía trên mặt hầm.
Mình mơ ngủ rồi, tôi nghĩ bụng. Mình điên thật rồi.
Ngay phía trên đầu tôi, run rẩy như một sinh vật sống, là khung gầm chiếc Rolls-Royce của mẹ Harriet.
Trước khi kịp chớp mắt, tôi nghe thấy tiếng cửa ô tô mở ra và tiếng bàn chân dậm xuống sàn nhà ngay trên đầu.
Pemberton nhảy vọt lên phía bậc thang, quờ quạng như một con chuột bị mắc bẫy. Khi lên đến bậc thang trên cùng, lão ngừng lại, điên cuồng khua tay tìm lối ra giữa miệng hầm và cái hãm xung phía trước chiếc Phantom.
Một bàn tay kỳ quái xuất hiện và túm cổ hắn, kéo hắn ra khỏi miệng hầm như kéo một con cá ra khỏi ao. Đôi giày của lão biến mất vào nguồn sáng phía trên tôi, và tôi nghe thấy một giọng nói quen thuộc – giọng nói của chú Dogger: “Xin lỗi trước nhé!”
Một tiếng lạo xạo kinh người vang lên và có gì đó rơi uỵch xuống sàn nhà phía trên tôi, nghe như một bao củ cải rớt đánh bịch.
Tôi vẫn còn bàng hoàng khi hình thù đó xuất hiện. Nó trắng muốt, đang lẹ làng trườn qua khoảng trống hẹp giữa crôm và bê tông trước khi luồn thật nhanh xuống hầm.
Khi hình thù ấy giơ hai tay ôm chầm lấy tôi và thổn thức trên vai tôi, tôi cảm nhận được một thân hình mảnh khảnh run rẩy như chiếc lá mùa thu.
“Ngu ngốc, con bé ngu ngốc! Con bé ngu ngốc!” Hình thù ấy khóc nức lên, đôi môi đỏ lựng ấy ấn vào cổ tôi.
“Feely!” Tôi nói, thấy mình ngốc nghếch đến ngạc nhiên, “Váy áo chị dính bê bết dầu nhờn kìa!”
Bên ngoài Pit Shed, trên đường Cow Lane, là một khung cảnh kỳ lạ: Feely vẫn còn quỳ gối thổn thức, hai tay vẫn ôm ghì lấy hông tôi. Khi tôi đứng đó bất động, cứ như thể mọi bất đồng giữa hai chị em tôi đã biến mất, và trong một khoảnh khắc, tôi và Feely chỉ là một sinh vật đang tắm dưới ánh trăng sáng của một con đường đổ bóng.
Và rồi, dường như mọi người ở Bishop’s Lacey đều xuất hiện, họ xuất hiện từ từ trong bóng tối, tiến đến nơi khung cảnh được đèn pin rọi sáng, và đứng ở chỗ vốn là cánh cửa của Pit Shed; họ kể cho nhau nghe xem mình đang làm gì khi tiếng đâm sầm vang lên làm chấn động cả ngôi làng. Rất giống một cảnh trong vở kịch Brigadoon, khi cứ mỗi một trăm năm, toàn bộ ngôi làng lại chầm chậm quay trở lại cuộc sống chỉ trong một ngày.
Chiếc Phantom của mẹ Harriet, bộ tản nhiệt xinh đẹp bị xì hơi vì được sử dụng như một thanh kim loại nặng để phá cửa, giờ đang lặng lẽ bốc hơi trước cửa Pit Shed. Một vài người dân vạm vỡ – trong số đó có lão Tully Stoker – đã lôi chiếc xe lại để Feely đưa tôi ra khỏi hầm và bước vào nguồn sáng chói lòa của mấy chiếc đèn pha to tướng.
Feely đã đứng lên nhưng vẫn ôm chặt lấy tôi như một con sao biển bám ghì lấy chiến hạm, lắp bắp vì phấn khích.
“Bọn chị đi theo lão. Chú Dogger biết là em chưa về nhà, và khi chú ấy phát hiện có kẻ rình mò quanh nhà…”
So với những lời mà chị nói với tôi trong chừng ấy năm thì lần này chuỗi từ của chị quả là liên tiếp nhau hơn, và tôi đứng đó nhấm nháp từng lời.
“Chú ấy gọi cảnh sát, sau đó, chú ấy nói nếu chú ấy và chị đi theo kẻ đó… nếu chú ấy và chị tắt đèn pha rồi trở lại… Ôi, Chúa ơi! Đáng ra em phải nhìn bọn chị lái xe như bay trên đường!”
Roller cổ lỗ được việc lắm, tôi thầm nghĩ. Dù bố thế nào cũng sẽ giận điếng khi nhìn chiếc xe bị hư hại đến thế này.
Cô Mountjoy đứng sang một bên, kéo chiếc khăn len buộc chặt vào hai vai và nhìn chằm chằm vào khung cảnh đổ nát vốn là nơi đặt cánh cửa Pit Shed, như thể sự mạo phạm hàng loạt này đối với tài sản của thư viện chính là giọt nước làm tràn ly. Tôi cố bắt gặp ánh mắt của cô, nhưng cô lo lắng ngoảnh mặt hướng về phía mái nhà tranh, như thể tối nay cô đã có quá nhiều điều phải kìm nén rồi.
Cô Mullet cũng có mặt, cùng với một người đàn ông thấp bè bè, béo tròn như bánh bao đang ra sức giữ cô lại. Chắc chắn đây là chú Alf, chồng cô: không hề giống như Jack Spratt mà tôi mường tượng. Nếu như chỉ có một mình, chắc chắn cô Mullet đã lao ngay đến và vòng tay ôm chầm lấy tôi, và khóc thét lên, nhưng dường như chú Alf nhận thức được rằng trình diễn màn quen thân trước công chúng không phải là đúng đắn. Khi tôi nở nụ cười yếu ớt với cô, cô khẽ lấy một ngón tay chấm lên mắt.
Ngay lúc đó, bác sĩ Darby đến, bình thản y như ông đang đi dạo mát buổi tối. Tôi thấy ông mang theo túi dụng cụ y tế màu đen. Phòng khám bệnh kiêm nhà ở của ông ở ngay góc đường High Street, và chắc chắn ông đã nghe tiếng đổ ầm ầm của gỗ và thủy tinh vỡ. Ông nhiệt tình nhìn tôi từ đầu đến chân.
“Flavia, cháu khoẻ chứ?” Ông nói khi nhoài người nhìn sát mắt tôi.
“Cám ơn bác sĩ Darby, cháu khỏe lắm.” Tôi nói thân mật. “Bác thế nào ạ?”
Ông thò tay lấy thanh kẹo bạc hà. Trước khi cái gói giấy đi được nửa đường ra khỏi túi quần ông, tôi đã nuốt nước bọt ừng ực; nhiều giờ bị giam giữ và bị nhét giẻ vào miệng đã khiến mồm miệng tôi có vị như bong bóng từ thời Victoria.
Bác sĩ Darby lục lọi giữa đống kẹo bạc hà trong một giây, cẩn thận chọn ra chiếc kẹo hấp dẫn nhất, và bỏ tọt vào mồm. Một giây sau ông lại quay trở về nhà.
Đám đông nho nhỏ đứng dàn ra cho một chiếc xe ô tô tiến đến từ đường High Street vào Cow Lane. Khi chiếc ô tô nảy lên để dừng lại bên cạnh bức tường đá, đèn pha của nó chiếu sáng hai thân hình đang đứng bên dưới một cây sồi: Mary và Ned. Họ không tiến lên phía trước, mà đứng đó bẽn lẽn cười khì với tôi, từ sau bóng cây sồi.
Feely đã nhìn thấy hai người họ đứng với nhau chưa? Chắc là chưa, vì chị còn đang bận khóc lóc tỉ tê và nói vơ vẩn với tôi về cuộc giải cứu. Nếu chị mà phát hiện ra hai người họ, tôi sẽ nhanh chóng thấy mình trở thành trọng tài trong cuộc thi khuỷu-chân-để-trần quê mùa: chị sẽ đứng vọt dậy và tóc tai rũ rượi. Có lần Daffy nói với tôi rằng, nếu xảy ra một cuộc cãi vã, thường thì con gái người điền chủ sẽ ra cú đấm đầu tiên, và không ai hiểu hơn tôi rằng Feely sẵn sàng ra cú đấm ấy. Nhưng, tôi vẫn tự hào nói rằng tâm trí tôi còn đủ sáng suốt – và cả ruột gan tôi nữa – ngấm ngầm dành cho Ned dấu hiệu giơ ngón cái lên mang tính khen ngợi.
Cửa sau của chiếc Vauxhall bật mở và Thanh tra Hewitt bước xuống. Đồng thời, Hạ sĩ Graves và Woolmer cũng ty gỡ mình ra khỏi ghế trước, bọn họ bước xuống đường Cow Lane với dáng vẻ trịnh trọng.
Hạ sĩ Woolmer đi nhanh về phía chú Dogger đang giữ chặt Pemberton bằng cái vặn tay đau đớn khiến lão phải cúi người xuống như thể tượng Atlas – vị thần khổng lồ mang cả thế giới trên vai.
“Bây giờ tôi sẽ giữ ông ta,” Hạ sĩ Woolmer nói, và một giây sau, tôi nghĩ mình nghe thấy tiếng tách của chiếc còng tay mạ kền.
Chú Dogger đứng quan sát khi Pemberton thõng vai đi về phía xe cảnh sát, sau đó chú ấy chầm chậm quay về phía tôi. Khi chú đến gần, Feely hứng khởi thì thào vào tai tôi, “Chính Dogger là người nghĩ đến việc sử dụng ắc-quy máy kéo để khởi động chiếc Rolls-Royce đấy. Em nhớ mà khen chú ấy.”
Rồi chị buông tay tôi ra, và đi ra chỗ khác.
Dogger đứng trước mặt tôi, hai tay chú ấy buông thõng sang hai bên sườn. Nếu chú ấy mà đội mũ, chắc chắn chú ấy đang vặn vẹo nó. Chúng tôi chỉ biết đứng đó nhìn nhau.
Tôi không định bắt đầu lời cảm ơn bằng câu chuyện về bình ắc quy. Tôi muốn được nói nhiều điều lớn lao hơn thế!
Một hình thù đen hù di chuyển trước đèn pha chiếc Vauxhall đã thu hút sự chú ý của tôi, và trong một khoảnh khắc, hình thù ấy đổ bóng lên cả tôi và Dogger. Một hình thù quen thuộc mặc đồ đen trắng, đứng y như một hình nhân bằng giấy trước ánh sáng chói lọi: Bố.
Bố lóng ngóng bước chầm chậm, gần như bẽn lẽn, về phía tôi. Nhưng khi nhận thấy Dogger đứng bên cạnh, bố dừng bước, và như thể ông vừa nghĩ ra điều gì đó vô cùng quan trọng, ông rẽ sang ngang để nói đôi lời với Thanh tra Hewitt.
Cô Cool, chủ cửa hàng tạp hóa, vui mừng gật đầu với tôi nhưng vẫn đứng nguyên chỗ cũ, cứ như tôi là một Flavia khác đứa con gái mới cách đây hai ngày thôi đã mua một shilling và sáu xu kẹo trong cửa hàng cô ấy.
“Feely,” tôi nói và quay sang chị, “giúp em một việc nhé: quay trở lại hầm và tìm bằng được cho em cái khăn tay của em – nhớ mang về đây cho em cả cái được gói trong khăn nữa nhé. Đằng nào váy của chị cũng bẩn rồi, sẽ không có thêm sự khác biệt nào nữa đâu. Thế mới là một cô gái ngoan chứ.”
Quai hàm Feely thõng xuống, và tôi chợt nghĩ chị định đấm vào miệng tôi. Khuôn mặt chị đỏ lựng y như đôi môi. Và rồi, thật bất ngờ, chị quày quả bước đi và biến mất trong bóng tối của Pit Shed.
Tôi quay sang Dogger để nói đôi lời cảm ơn khách sáo thông thường, nhưng chú ấy lại là người nói trước.
“Cô Flavia của tôi,” chú khẽ nói, “buổi tối hôm nay tuyệt vời đấy chứ, phải không cô?”

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.