Lá Thư Trong Chai

CHƯƠNG 4



Cái ngày phát hiện ra lá thư thứ ba, đương nhiên cô không hề ngờ rằng sẽ có điều gì đó bất thường. Đó là một ngày giữa hè đặc trưng ở Boston – nóng, ẩm, với những tin tức thường xuyên đi kèm kiểu thời tiết như vậy – mấy vụ tấn công do căng thẳng trầm trọng và hai vụ giết người vào đầu buổi chiều do những kẻ đã đi quá xa.
Theresa đang ở trong phòng biên tập tin tức, nghiên cứu chủ đề về trẻ tự kỷ. Tờ Thời báo Boston có một ngân hàng dữ liệu tuyệt vời gồm những bài viết được xuất bản các năm trước của rất nhiều tạp chí. Cô có thể dùng máy tính của mình để truy cập vào thư viện Đại học Harvard hoặc Đại học Boston, thêm vào đó, hàng trăm nghìn bài viết mà các trường này sở hữu khiến việc tìm kiếm cái gì cũng trở nên dễ dàng hơn rất nhiều và ít tốn thời gian so với vài năm trước.
Trong vòng hai tiếng cô đã có thể tìm thấy gần ba mươi bài báo viết trong vòng ba năm trở lại đây đăng trên các tạp chí mà cô chưa từng nghe nói tới, và sáu tựa trong số đó trông đủ thú vị để dùng đến. Vì trên đường về nhà sẽ đi qua Đại học Harvard nên cô quyết định tới lúc đó sẽ đi mượn.
Đang định tắt máy tính thì một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu khiến cô khựng lại. Tại sao không nhỉ? Cô tự hỏi. Đó là một thử nghiệm vu vơ, nhưng mất gì đâu? Cô ngồi xuống bàn, truy cập vào ngân hàng dữ liệu của Harvard lần nữa, và gõ cụm từ
THƯ TRONG CHAI
Vì các bài viết trong hệ thống thư viện được liệt kê theo chủ đề hoặc nhan đề nên cô chọn xem lướt nhan đề để đẩy nhanh tốc độ tìm kiếm. Việc tìm kiếm theo chủ đề thường cho ra nhiều kết quả hơn nhưng lọc tìm trong đó là cả một quá trình vất vả, mà giờ thì cô không có thời gian để làm. Sau khi nhấn nút Enter, cô ngả người ra sau và chờ máy tính tìm ra thông tin mà cô yêu cầu.
Kết quả khiến cô ngạc nhiên – trong vài năm gần đây có hơn chục bài báo khác nhau viết về chủ đề này. Hầu hết được đăng trên các tạp chí khoa học, và qua tựa đề thì xem ra người ta hay sử dụng những cái chai nhằm tìm hiểu về các dòng hải lưu.
Tuy nhiên, có ba bài báo có vẻ thú vị, cô bèn ngoáy nhanh tên mấy tựa bài, quyết định sẽ mượn tất cả những bài đó.
Giao thông khó khăn ì ạch, mất nhiều thời gian hơn đã tưởng, cô mới tới được thư viện để photo chín bài báo mình đang tìm. Cô về nhà muộn, và sau khi gọi điện đặt cơm ở nhà hàng Trung Hoa trong khu, cô ngồi xuống sô pha với ba bài báo để trước mặt viết về những lá thư trong chai.
Bài báo đăng trên tạp chí Yankee vào tháng Ba năm ngoái là cái đầu tiên cô nhặt lên. Nó cho thấy phần nào lịch sử của những lá thư trong chai thông qua ghi chép về những cái chai từng dạt vào New England trong vài năm gần đây. Người ta thấy một số lá thư trong đó thật sự đáng ghi nhớ. Cô đặc biệt thích Paolina và Ake Viking.
Bố của Paolina nhặt được lá thư trong một cái chai do Ake – một chàng thủy thủ người Thụy Điển – gửi đi. Ake, đang buồn chán trong một chuyến ra khơi, cầu xin bất cứ người phụ nữ xinh đẹp nào nhặt được lá thư hãy viết trả lời anh. Ông bố đưa nó cho Paolina, cô viết thư trả lời Ake. Thư đi thư lại, và cuối cùng khi Ake sang tận Sicily để gặp cô, họ mới nhận ra rằng họ đã yêu nhau đến nhường nào. Họ làm đám cưới ngay sau đó.
Tới cuối bài báo, cô đọc thấy hai đoạn kể về một lá thư khác dạt vào bờ biển Long Island:
Hầu hết các lá thư gửi đi trong chai thường đề nghị người nhặt được phúc đáp dù chỉ một lần với hy vọng mong manh về một mối quan hệ thư từ suốt đời. Tuy nhiên, thỉnh thoảng người gửi lại không muốn được trả lời. Một lá thư như vậy, tặng vật xúc động cho một tình yêu đã mất, được tìm thấy khi dạt vào bờ biển Long Island năm ngoái. Một đoạn trong đó viết:
Không còn em trong vòng tay anh, anh cảm thấy lòng mình thật trống vắng. Anh thấy mình kiếm tìm gương mặt em trong đám đông – biết rằng điều đó là không thể, nhưng anh vẫn chẳng dừng được. Kiếm tìm em là một thất vọng chẳng bao giờ chấm dứt mà số phận của nó là thất bại. Em và anh đã nói về chuyện sẽ xảy ra nếu chúng ta bị buộc phải xa nhau vì hoàn cảnh, nhưng anh không thể giữ lời hứa với em đêm đó. Anh xin lỗi, em yêu, nhưng sẽ chẳng bao giờ có ai thay thế được em. Những lời anh thì thầm với em thật điên rồ, và lẽ ra lúc đó anh phải nhận ra. Em – và chỉ mình em thôi – mãi mãi là điều duy nhất anh muốn, và giờ đây khi em đã ra đi, anh chẳng còn thiết tìm kiếm ai khác nữa. Đến chết đôi ta mới chia lìa, chúng ta đã thì thầm trong nhà thờ như vậy, và đến giờ tin tưởng rằng những lời đó sẽ thành sự thật cho tới ngày cuối cùng rời khỏi cõi đời này.
Cô ngừng ăn và đột ngột đặt cái đĩa xuống.
Không thể nào! Cô thấy mình tròn mắt nhìn vào những dòng chữ đó. Hoàn toàn không thể…
Nhưng…
nhưng… đó có thể là ai khác chứ?
Cô quệt chán, nhận thấy đôi tay mình đột nhiên run rẩy. Một lá thư khác ư? Cô lật lại trang đầu của bài báo và nhìn tên tác giả. Nó được viết bởi Tiến sĩ Arthur Shendakin, dạy lịch sử tại trường Cao đẳng Boston, nghĩa là…
ông ta hẳn phải sống trong vùng này.
Cô nhảy bổ lên đi lấy cuốn danh bạ điện thoại ở trên giá gần bàn ăn. Cô giở ra, tìm cái tên đó. Độ chục cái tên Shendakin được liệt kệ, mặc dù chỉ có hai cái có vẻ phù hợp. Cả hai đều bắt đầu bằng chữ cái “A”, cô xem đồng hồ trước khi bấm số. Chín rưỡi. Muộn, nhưng chưa quá muộn. Cô ấn mạnh các con số. Cuộc gọi đầu tiên, một phụ nữ nghe máy bảo cô gọi nhầm số, và khi đặt máy xuống, cô nhận thấy cổ họng của mình đã khô ran. Cô đi vào bếp và rót một cốc nước đầy. Sau khi tu một hơi dài, cô hít sâu và quay lại chỗ điện thoại.
Cô kiểm tra chắc chắn là mình đã bấm đúng số và chờ điện thoại đổ chuông.
Một lần.
Hai lần.
Ba lần.
Tới hồi chuông thứ tư cô bắt đầu thất vọng, nhưng tới hồi chuông thứ năm thì cô nghe thấy đầu dây bên kia nhấc máy.
“Xin chào,” một ngườ đàn ông lên tiếng. Nghe giọng, cô nghĩ ông ta hẳn phải ngoài sáu mươi.
Cô hắng giọng.
“Chào ông, tôi là Theresa Osborne ở tờ Thời báo Boston. Ông có phải là Arthur Shendakin không ạ?”
“Đúng thế,” ông ta đáp, giọng có vẻ ngạc nhiên.
Bình tĩnh nào, cô tự nhủ.
“Ồ, chào ông. Tôi gọi để xem liệu đây có đúng là ông Arthur Shendakin, người đã có một bài báo đăng trên tạp chí Yankee năm ngoái về những lá thư trong chai không ấy mà.”
“Vâng, tôi viết bài báo đó. Tôi giúp gì được cô?”
Có cảm giác như tay cô đang đổ mồ hôi ở chỗ cầm ống nghe. “Tôi khá tò mò về một trong những lá thư mà ông có nói là đã dạt vào bờ biển Long Island. Ông có nhớ lá thư mà tôi đang nói tới không?”
“Tôi có thể hỏi tại sao cô quan tâm không?”
“À,” cô mào đầu, “tờ Thời báo đang xem xét việc viết một bài về chủ đề đó, và chúng tôi rất vui mừng nếu thu thập được một bản sao của lá thư.”
Cô nhăn mặt trước lời nói dối của chính mình, nhưng nói thật thì xem ra còn tệ hơn. Nói thật thì nghe sẽ thế nào nhỉ? Ồ, xin chào, tôi đang phát cuồng lên vì người đàn ông bí ẩn đã gửi đi những lá thư trong chai, và tôi tự hỏi liệu lá thư mà ông đã nhặt được đó có phải cũng do anh ta viết…
Ông ta trả lời chậm rãi. “Tôi cũng không biết nữa. Đó là lá thư đã thôi thúc tôi viết những bài báo ấy… Tôi phải nghĩ đã.”
Cổ Theresa nghẹt lại. “Vậy là ông có lá thư đó?”
“Vâng, tôi nhặt được nó hai năm trước.”
“Ông Shendakin, tôi biết đây là một thỉnh cầu kỳ quặc, nhưng tôi có thể nói với ông rằng nếu ông để chúng tôi sử dụng lá thư đó, chúng tôi sẽ vui lòng gửi cho ông một khoản tiền nhỏ. Và chúng tôi không cần lá thư gốc. Một bản sao của nó cũng đủ rồi, vì thế ông sẽ không phải thật sự cung cấp bất cứ thứ gì cả.”
Cô có thể nhận ra là yêu cầu đó làm ông ta ngạc nhiên.
“Chúng ta đang nói về một khoản chừng nào?”
Tôi không biết, tôi đang tự dựng lên toàn bộ cái chuyện ngoài dự kiến này đây. Ông muốn bao nhiêu?
“Chúng tôi sẵn sàng trả ba trăm đô, và đương nhiên ông sẽ được ghi tên đầy đủ là người đã tìm thấy nó.”
Ông ta ngừng một lát, cân nhắc. Theresa xen vào trước khi ông ta kịp nghĩ ra lời từ chối.
“Ông Shendakin, tôi chắc chắn rằng có phần nào đó trong ông lo lắng về sự tương đồng giữa bài báo của ông với nội dung mà tờ báo định đăng tải. Tôi có thể đảm bảo với ông rằng chúng sẽ rất khác nhau. Bài báo mà chúng tôi đang viết chủ yếu là về hướng đi của những cái chai – ông biết đấy, kiểu như những dòng hải lưu ấy mà. Chúng tôi chỉ muốn một số lá thư có thật để cho độc giả thấy nó gắn với đời sống con người”
Ý tưởng ở đâu ra vậy?
“Ờ…”
“Làm ơn đi, ông Shendakin. Nó có ý nghĩa rất nhiều đối với tôi.”
Ông ta im lặng một lát.
“Chỉ một bản sao thôi à?”
Được rồi!
“Vâng, đương nhiên là thế. Tôi có thể cung cấp cho ông số fax, hoặc ông có thể gửi qua bưu điện. Tôi viết séc cho ông nhé?”
Ông ta lại ngừng một lát trước khi trả lời. “Tôi… tôi nghĩ cứ vậy đi.” Nghe ông ta nói như thể không hiểu sao ông ta đã bị dồn vào một cái góc mà không biết làm thế nào để thoát ra.
“Cảm ơn ông Shendakin.” Trước khi ông ta kịp đổi ý, Theresa đã cho ông ta số fax, xin địa chỉ của ông ta, và ghi một mẩu giấy nhớ về việc ngày hôm sau đi gửi ngân phiếu. Cô nghĩ rằng nếu cô gửi séc cá nhân của cô thì trông có vẻ khả nghi.
Ngày hôm sau, sau khi gọi tới văn phòng của vị giáo sư tại trường Cao đẳng Boston để gửi một lời nhắn cho ông ta rằng khoản tiền đã được gửi, cô tới chỗ làm mà đầu óc quay cuồng. Chuyện lá thư thứ ba có thể tồn tại khiến cô thấy khó mà nghĩ tới bất cứ chuyện gì khác được. Thực ra thì vẫn chưa có gì đảm bảo rằng lá thư đó do cùng một người viết, nhưng nếu là thế thì cô cũng không biết sẽ phải làm gì. Cô đã nghĩ về Garrett gần như cả đêm, cố gắng hình dung anh ta trông thế nào, tưởng tượng ra những chuyện anh ta thích làm. Cô không hiểu lắm về cảm giác của mình, nhưng cuối cùng cô đã quyết định cứ để lá thư đó dẫn dắt mọi chuyện. Nếu đó không phải là của Garrett thi cô chấm dứt mọi chuyện ngay. Cô sẽ không dùng máy tính để tìm kiếm anh ta, cô sẽ không tìm kiếm bằng chứng về bất cứ lá thư nào khác nữa. Và nếu thấy mình tiếp tục bị ám ảnh thì cô sẽ vứt luôn hai lá thư kia đi. Tò mò cũng tốt thôi, miễn là nó không thống trị cuộc sống của người ta – và cô sẽ không để chuyện đó xảy ra.
Nhưng, mặt khác, nếu lá thư đó chính là của Garrett thì…
Cô vẫn không biết lúc đó mình sẽ làm gì. Một phần trong cô hy vọng là không đúng, để cô khỏi phải đưa ra quyết định đó.
Tới bàn làm việc của mình, cô cố ý chờ một lúc mới tới chỗ máy fax. Cô bật máy tính lên, gọi cho hai bác sĩ cô cần nói chuyện về bài cô đang viết, đoạn nguêch ngoạc vài dòng ghi chú về những chủ đề có thể viết khác. Vào lúc kết thúc công việc bận rộn của mình, cô hầu như đã thuyết phục được bản thân tin rằng lá thư đó không phải của anh ta. Có thể có hàng nghìn lá thư trôi nổi trên biển, cô tự nhủ. Biết đâu là người nào khác thì sao.
Cuối cùng, không thể nghĩ được chuyện gì khác nữa để làm, cô bèn đi tới chỗ máy fax và bắt đầu nhìn lướt qua đống giấy tờ. Nó vẫn chưa được sắp xếp lại, và có vài chục trang để gửi đến nhiều người khác nhau. Giữa đống tài liệu, cô thấy một thư thông báo đề gửi đến cô. Cùng với hai trang nữa, và khi nhìn gần hơn, thứ đầu tiên cô thấy – như đã từng thấy ở hai lá thư trước – là hình con tàu ra khơi dập nổi ở góc phía trên bên phải. Nhưng lá thư này ngắn hơn hai lá thư trước, cô bèn đọc nó trước lúc trở về bàn của mình. Đoạn cuối là đoạn mà cô đã thấy trong bài viết của Arthur Shendakin.
25 tháng 9, 1995
Catherin thân yêu,
Một tháng đã trôi qua kể từ khi anh viết, nhưng dường như nó trôi qua chậm hơn rất nhiều. Cuộc sống giờ đây trôi qua như cảnh tượng bên ngoài của kính xe ô tô. Anh hít thở, ăn và ngủ như anh vẫn làm, nhưng dường như chẳng còn mục đích lớn lao nào trong đời anh đòi hỏi sự tham gia tích cực từ phía anh nữa. Anh chỉ trôi nổi giống như những lá thư anh viết cho em. Anh không biết anh đang đi tới đâu hoặc khi nào anh sẽ đến đó.
Ngay cả công việc cũng chẳng làm anh nguôi ngoai nỗi đau. Anh có thể đi lặn vì anh thích vậy hoặc để chỉ cho người khác cách lặn, nhưng khi trở lại cửa hàng, dường như thật trống vắng bởi không có em. Anh vẫn bán và đặt mua hàng như vẫn làm, nhưng ngay cả lúc này, thỉnh thoảng anh vẫn ngoái nhìn ra sau không hề nghĩ ngợi và gọi tên em. Vừa viết lá thư này cho em, anh vừa tự hỏi, khi nào, hoặc liệu những chuyện như thế có bao giờ dừng lại được hay không.
Không còn em trong vòng tay anh, anh cảm thấy lòng mình thật trống vắng. Anh thấy mình kiếm tìm gương mặt em trong đám đông – biết rằng điều đó là không thể, nhưng anh vẫn chẳng dừng được. Kiếm tìm em là một thất vọng chẳng bao giờ chấm dứt mà số phận của nó là thất bại. Em và anh đã nói về chuyện sẽ xảy ra nếu chúng ta bị buộc phải xa nhau vì hoàn cảnh, nhưng anh không thể giữ lời hứa với em đêm đó. Anh xin lỗi, em yêu, nhưng sẽ chẳng bao giờ có ai thay thế được em. Những lời anh thì thầm với em thật điên rồ, và lẽ ra lúc đó anh phải nhận ra. Em – và chỉ mình em thôi – mãi mãi là điều duy nhất anh muốn, và giờ đây khi em đã ra đi, anh chẳng còn thiết tìm kiếm ai khác nữa. Đến chết đôi ta mới chia lìa, chúng ta đã thì thầm trong nhà thờ như vậy, và đến giờ tin tưởng rằng những lời đó sẽ thành sự thật cho tới ngày cuối cùng rời khỏi cõi đời này.
Garrett.
“Deanna, bà có rảnh chút không? Tôi cần nói chuyện với bà.”
Deanna ngước lên từ máy tính của bà và gỡ kính ra. “Có chứ. Chuyện gì vậy?”
Theresa lẳng lặng đặt ba bức thư lên bàn của Deanna. Deanna nhặt từng cái lên, mắt mở to vì kinh ngạc.
“Cô lấy đâu ra hai lá thư kia vậy?”
Theresa giải thích việc tình cờ tìm được chúng như thế nào. Khi cô kết thúc câu chuyện của mình, Deanna lặng lẽ đọc mấy lá thư. Theresa ngồi trong chiếc ghế đối diện với bà.
“Này,” bà nói, đặt lá thư cuối cùng xuống, “chắc chắn là cô đang giữ bí mật nào đó đúng không?”
Theresa nhún vai, Deanna tiếp tục nói, “Nhưng trong chuyện này có nhiều vấn đề hơn là chỉ tìm kiếm các lá thư, phải không?”
“Ý bà là sao?”
“Ý tôi là,” Deanna nói với một nụ cười ranh mãnh, “cô vào đây không chỉ vì cô đã tìm thấy ba lá thư. Cô vào đây vì cô quan tâm tới anh chàng Garrett này.”
Miệng Theresa há ra, thấy vậy Deanna bật cười.
“Đừng có ngạc nhiên như thế, Theresa. Tôi đâu có ngốc hoàn toàn. Tôi biết có chuyện gì đang diễn ra mấy ngày gần đây. Ở đây cô lơ đãng lắm – cứ như đang ở xa hàng trăm dặm vậy. Tôi đang định hỏi thăm về chuyện đó, nhưng tôi đoán là cô sẽ nói khi cô sẵn sàng.”
“Tôi nghĩ là tôi vẫn đang kiểm soát được mọi chuyện.”
“Có lẽ là với người khác. Nhưng tôi đã quen cô đủ lâu để biết khi nào thì cô có chuyện gì đó.” Bà lại mỉm cười. “Nào, nói tôi nghe, có chuyện gì vậy?
Theresa nghĩ một lát.
“Chuyện đó lạ lắm. Ý tôi muốn nói là tôi không thể ngừng nghĩ về anh ta, và tôi không hiểu tại sao. Cứ như thể là tôi đang học phổ thông và phải lòng ai đó mình chưa từng gặp mặt vậy. Chỉ có điều việc này tệ hơn – không chỉ chưa hề nói chuyện mà tôi thậm chí còn chưa biết mặt anh ta. Không biết chừng anh ta lại là một ông già bảy mươi cũng nên.”
Deanna ngả người ra sau ghế và trầm ngâm gật đầu. “Có thể lắm… nhưng cô không nghĩ trường hợp này là vậy, phải không?”
Theresa chậm rãi lắc đầu. “Không, không hẳn.”
“Tôi cũng không,” Deanna nói trong khi nhấc mấy lá thư lên. “Anh ta nói về chuyện ngày trẻ họ yêu nhau đến mức nào, nhưng anh ta không hề nhắc đến đứa con nào cả, anh ta dạy lặn và viết về Catherine như thể anh ta mới cưới có vài năm. Tôi không tin anh ta già đến thế đâu.”
“Tôi cũng nghĩ thế.”
“Cô có muốn biết tôi nghĩ gì không?”
“Đương nhiên rồi.”
Deanna nói với vẻ thận trọng. “Tôi nghĩ cô nên tới Wilmington thử tìm Garrett xem sao.”
“Nhưng chuyện đó có vẻ… kỳ cục thế nào ấy, ngay cả với tôi…”
“Tại sao?”
“Vì tôi chẳng biết gì về anh ta cả.”
“Theresa cô biết về Garrett nhiều hơn tôi biết về Brian rất nhiều trước khi tôi gặp ông ấy. Mà hơn nữa, tôi đâu có bảo cô lấy anh ta, tôi chỉ bảo cô đi tìm anh ta thôi. Có thể cô sẽ phát hiện ra là cô không hề thích anh ta chút nào, nhưng ít ra thì cô cũng sẽ biết, phải không? Ý tôi là, có mất gì đâu nào.”
“Nhỡ đâu…” cô ngập ngừng, Deanna bèn nói hộ cô.
“Nhỡ anh ta không giống như cô tưởng tượng hả? Theresa, tôi có thể đảm bảo là anh ta vốn đã không giống như cô tưởng tượng rồi. Chẳng có ai như thế cả. Nhưng theo tôi thì không nên để chuyện đó tác động đến quyết định của cô. Nếu cô nghĩ rằng cô muốn tìm hiểu thêm, cứ đi. Điều tồi tệ nhất có thể xảy ra là cô phát hiện anh ta không phải là mẫu người đàn ông cô đang tìm kiếm. Thế thì lúc đó cô sẽ làm gì? Cô sẽ trở lại Boston, nhưng cô trở về với câu trả lời của mình. Chuyện đó tệ đến mức nào? Có lẽ không tệ hơn chuyện cô đang phải trải qua lúc này đâu.”
“Bà không nghĩ là toàn bộ chuyện này thật điên rồ sao?”
Deanna trầm ngâm lắc đầu. “Theresa, tôi đã muốn cô bắt đầu tìm kiếm một người đàn ông khác từ lâu rồi. Như tôi đã nói với cô lúc đi nghỉ, cô xứng đáng tìm được một người khác để chia sẻ cuộc đời mình. Bây giờ thì tôi cũng chưa biết liệu toàn bộ câu chuyện với anh chàng Garrett này có kết quả gì không. Nếu phải đánh cược thì tôi sẽ nói có thể nó chẳng dẫn tới đâu cả. Nhưng như thế không có nghĩa là cô không nên thử. Nếu ai cũng nghĩ mình sẽ thất bại mà không dám thử thì ngày nay chúng ta đang ở đâu cơ chứ?”
Theresa im lặng một lát. “Bà quá lý tính trong suốt toàn bộ chuyện này…”
Deanna phớt lờ những lời kháng cự của cô. “Tôi già hơn cô, và tôi đã trải nhiều rồi. Một trong những điều tôi học được trong cuộc đời mình là đôi khi người ta phải biết nắm lấy cơ hội. Và tôi thấy chuyện này cũng đâu nghiêm trọng lắm. Ý tôi là, cô đâu có bỏ chồng con nhà cửa để đi tìm người này, cô đâu bỏ công việc và đi khắp đất nước. Cô đang thật sự ở vào một hoàn cảnh tuyệt vời. Chẳng có sự bất lợi nào cản trở cô đi cả, vì thế đừng có thổi phồng nó lên quá mức. Nếu cảm thấy nên đi thì cô cứ đi. Nếu không muốn đi thì đừng đi. Chuyện đó thật ra chỉ đơn giản như vậy thôi. Hơn nữa, Kevin đi vắng rồi và năm nay cô còn nhiều ngày phép cơ mà.”
Theresa bắt đầu xoắn một lọn tóc quanh ngón tay.
“Thế còn chuyên mục của tôi?”
“Đừng lo về nó. Vẫn còn một bài viết của cô chưa được sử dụng đến vì chúng ta đã đăng lá thư. Sau đó, chúng ta có thể đăng lại hai bài của cô từ mấy năm trước. Hầu hết các bài báo hồi đó đều chưa đăng lại chuyên mục của cô nên có lẽ họ cũng chẳng nhận ra đâu.”
“Bà nói nghe sao mà dễ dàng thế.”
“Đúng là dễ mà. Khó nhất là đi tìm anh ta. Nhưng tôi nghĩ những lá thư này có thông tin gì đó mà chúng ta có thể dùng để giúp cô. Cô nghĩ sao nếu chúng ta gọi vài cuộc điện thoại và săn tìm một chút trên mạng?”
Cả hai cùng im lặng một lúc.
“Được,” cuối cùng Theresa lên tiếng. “Nhưng tôi hy vọng là sau cùng mình sẽ không phải hối tiếc về chuyện này.”
“Nào,” Theresa hỏi Deanna, “chúng ta bắt đầu từ đâu đây?”
Cô kéo ghế vòng qua bên kia bàn làm việc của Deanna.
“Trước mắt,” Deanna mào đầu, “hãy bắt đầu với cái mà chúng ta đã khá chắc chắn. Đầu tiên, tôi nghĩ có thể tin tưởng rằng tên anh ta đích thị là Garrett. Anh ta ký tên dưới tất cả các lá thư như thế, mà tôi nghĩ anh ta chẳng buồn dùng cái tên nào khác ngoài tên thật. Nếu chỉ có một lá thư thì có lẽ anh ta đã làm thế, nhưng với ba lá thì tôi khác chắc nó hoặc là tên của anh ta, hoặc là tên đệm. Dù thế nào thì nó cũng là tên mà người ta gọi anh ta.”
“Và,” Theresa nói thêm, “có thể anh ta ở Wilmington hoặc bãi biển Wrightsville hoặc một khu dân cư nào gần đấy.”
Deanna gật đầu. “Lá thư nào của anh ta cũng nhắc tới biển hoặc chủ đề gì đó về biển, và đương nhiên, đó là nơi anh ta ném những cái chai xuống. Giọng điệu trong các lá thư cho thấy, có vẻ như anh ta viết chúng khi cô đơn hoặc đang nghĩ về Catherine.”
“Tôi cũng nghĩ như vậy. Anh ta không nhắc tới bất cứ một dịp đặc biệt nào trong thư. Chúng nói về cuộc sống hằng ngày của anh ta, và những gì anh ta đang trải qua.”
“OK, tốt đấy,” Deanna gật đầu nói. Càng nói bà càng phấn khích. “Trong đấy có nhắc đến một cái thuyền…”
“Happenstance,” Theresa nói. “Lá thư nói rằng họ đã sửa sang lại chiếc thuyền và cùng nhau giương buồm ra khơi. Vì thế, đó có thể là một chiếc thuyền buồm.”
“Viết ra nào,” Deanna nói “Chúng ta có thể tìm hiểu nhiều thông tin hơn về chuyện đó qua vài cuộc gọi từ đây. Có lẽ có một nơi đăng ký thuyền theo tên. Tôi nghĩ tôi có thể gọi hỏi chi nhánh báo ta ở dưới đó. Lá thư thứ hai có gì nữa không?”
“Tôi không nhận thấy gì. Nhưng lá thư thứ ba có thêm một ít thông tin nữa. Từ những gì anh ta viết, có hai điều nổi bật.”
Deanna xen vào. “Một là, Catherine quả là đã qua đời.”
“Và hình như anh ta sở hữu một cửa hàng bán đồ lặn, anh ta và Catherine từng làm ở đó.”
“Đó là một thông tin khác cần viết ra. Tôi nghĩ chúng ta cũng có thể tìm hiểu thêm về điều đó từ đây. Còn gì khác không?”
“Tôi nghĩ là không.”
“Ừm, khởi đầu tốt đẹp đây. Chuyện này có thể sẽ dễ dàng hơn chúng ta tưởng. Nào, bắt đầu gọi điện thoại thôi.”
Nơi đầu tiên Deanna gọi là Tạp chí Wilmington, tờ báo phục vụ cho khu vực đó. Bà giới thiệu bản thân và yêu cầu được nói chuyện với ai đó am hiểu về thuyền buồm. Sau hai lần chuyển máy, bà biết mình đang nói chuyện với Zack Norton, người phụ trách mảng câu cá thể thao và các môn thể thao trên biển khác. Sau khi giải thích rằng bà muốn biết liệu có nơi nào lưu giữ những đăng ký thuyền buồm bằng tên không thì bà được trả lời là không.
“Thuyền buồm được đăng ký theo biển số, gần giống xe hơi vậy,” anh ta nói bằng một giọng lè nhè chậm chạp, “nhưng nếu bà biết tên của người đó, bà có thể tìm ra tên chiếc thuyền trong bản ghi nếu nó được đưa vào danh mục. Đó không phải là thông tin bắt buộc, nhưng nhiều người vẫn điền vào.” Deanna ghi nhanh câu “Thuyền không được đăng ký theo tên” lên tập giấy trước mặt và đưa nó cho Theresa.
“Ngõ cụt rồi,” Theresa nói khẽ.
Deanna lấy tay bịt ống nghe thì thào, “Có thể thế, có thể không. Đừng bỏ cuộc dễ dàng vậy.”
Cảm ơn Zack Norton vì đã dành thời gian, đoạn gác máy, Deanna nhìn lướt qua danh sách các đầu mối lần nữa. Bà nghĩ một lúc, rồi quyết định sẽ gọi hỏi về thông tin số điện thoại cửa hàng bán đồ lặn ở khu vực Wilmington. Theresa nhìn chăm chú trong lúc Deanna viết ra những cái tên và số điện thoại của mười cửa hàng được lưu trong danh bạ. “Tôi có thể giúp gì bà được nữa không, thưa bà?” tổng đài viên hỏi.
“Không, cô giúp thế là quá tận tình rồi. Cảm ơn cô.”
Bà cúp máy, Theresa liền nhìn bà tò mò. “Bà gọi cho họ định hỏi gì vậy?”
“Tôi sẽ hỏi gặp Garrett.”
Tim Theresa lỡ một nhịp. “Cứ thế á?”
“Cứ thế thôi,” Deanna nói, mỉm cười trong lúc bấm máy. Bà ra hiệu cho Theresa nhấc cái máy con lên nghe, “đề phòng đó là anh ta,” và họ cùng im lặng chờ đợi ai đó nghe máy tại Atlantic Adventures, cái tên đầu tiên họ được cung cấp.
Điện thoại cuối cùng cũng được nhấc lên, Deanna hít một hơi sâu và hỏi bằng giọng niềm nở rằng liệu Garrett có thời gian dạy buổi nào không. “Tôi xin lỗi, tôi nghĩ là bà đã gọi nhầm số rồi ạ,” giọng đó nói nhanh.Deanna xin lỗi và cúp máy.
Họ nhận được câu trả lời tương tự với năm cuộc gọi tiếp theo. Không nao núng, Deanna tiếp tục với cái tên tiếp theo trong danh sách và bấm số. Cứ tưởng sẽ nhận được câu trả lời tương tự, bà ngạc nhiên khi người nghe máy ngập ngừng một lúc.
“Có phải bà đang nói tới Garrett Blake?”
Garrett
Theresa suýt ngã khỏi ghế khi nghe thấy giọng anh ta. Deanna đáp rằng phải, người đàn ông nghe máy bèn tiếp lời.
“Anh ấy ở bên Island Diving. Bà có chắc là chúng tôi không thể giúp gì bà chuyện này chứ? Chúng tôi sắp mở mấy khóa học.”
Deanna nhanh chóng cáo lỗi. “Không, tôi xin lỗi. Tôi thật sự cần làm việc với Garrett. Tôi hứa với anh ta là tôi sẽ làm thế.” Đặt điện thoại trở lại giá, bà cười tươi roi rói.
“Nào, giờ thì chúng ta đang tới gần rồi.”
“Tôi không thể tin là lại dễ dàng đến thế…”
“Không dễ đến thế đâu, cô nghĩ mà xem, Theresa. Nếu không phải có người tìm thấy nhiều hơn một lá thư thì còn khuya mới lần ra được.”
“Bà có nghĩ đó đúng là anh chàng Garrett kia không?”
Bá hếch đầu lên và nhướng mày. “Cô có nghĩ thế không?”
“Tôi cũng không biết nữa. Có lẽ.”
Deanna nhún vai tỏ ý không bận tâm tới câu trả lời. “Chúng ta sẽ khám phá ra sớm thôi. Chuyện này càng lúc càng thú vị đây.”
Deanna bèn gọi hỏi lại thông tin và lấy được số của con thuyền đăng ký ở Wilmington. Sau khi gọi đi, bà nói với người nghe điện mình là ai và hỏi xem có người nào có thể giúp bà xác minh lại một số thông tin không. “Chồng tôi và tôi đang đi nghỉ ở dưới đó thì thuyền của chúng tôi bị hỏng,” bà nói với người phụ nữ trả lời điện thoại. “Quý ông tốt bụng này đã tìm thấy chúng tôi và giúp chúng tôi vào được bờ. Tên anh ta là Garrett Blake, tên con thuyền của anh ta đâu như là Happenstance, nhưng tôi muốn chắc chắn khi tôi viết bài báo.”
Deanna nói liên tục, không chịu để cho người phụ nữ kia chen được vào câu nào. Bà kể với cô ta bà đã sợ đến mức nào và chuyện Garrett tới cứu họ có ý nghĩa ra sao. Rồi, sau khi bà tâng bốc với người phụ nữ kia rằng người niềm Nam và người Wilmington nói riêng rất tốt bụng ra sao, rằng bà muốn viết một bài báo về lòng hiếu khách của người niềm Nam và sự tử tế của những người xa lạ, người phụ nữ đó đã hăm hở muốn giúp đỡ. “Vì bà chỉ xác minh thông tin và không hỏi bất cứ điều gì mà bà không biết nên tôi chắc đó sẽ không phải là vấn đề. Vui lòng chờ máy.”
Deanna nhịp nhịp tay lên bàn trong khi giọng ca Barry Manilow loáng thoáng ở đầu dây bên kia. Đoạn người phụ nữ lại nhấc máy.
“Vâng. Chúng ta xem thế nào…” Deanna nghe thấy tiếng gõ bàn phím, rồi một tiếng bíp lạ. Lát sau, người phụ nữ đó nói ra những lời mà cả Deanna và Theresa đều đang mong cô ta sẽ nói.
“Vâng, đây rồi. Garrett Blake. Ừm… bà nói đúng tên rồi đấy, ít ra là theo thông tin chúng tôi đó. Ở đây có nói chiếc thuyền được đặt tên là Happenstance.”
Deanna cảm ơn rối rít và hỏi tên người phụ nữ, “để có thể viết về một người khác nữa cũng là điển hình cho lòng hiếu khách.” Sau khi đánh vần lại tên người phụ nữ đó, bà gác máy, cười tươi rói.
“Garrett Blake,” bà nói với nụ cười chiến thắng. “Người viết bí ẩn của chúng ta tên là Garrett Blake.”
“Tôi không thể tin là bà đã tìm ra anh ta.”
Deanna gật đầu như thể bà vừa đạt được điều gì đó chính bà cũng không tin là mình lại làm được. “Cứ tin tưởng đi. Bà già này vẫn còn biết cách nghiên cứu thông tin.”
“Bà vẫn luôn làm được mà.”
“Còn chuyện gì cô muốn biết thêm không?”
Theresa nghĩ một lát. “Bà có thể tìm hiểu chút gì về Catherine không?”
Deanna nhún vai và chuẩn bị sẵn sàng cho nhiệm vụ mới. “Tôi không biết, nhưng chúng ta có thể thử xem sao. Hãy gọi cho trụ sở báo dưới đó xem liệu họ có lưu trữ lại gì không. Nếu là chết do tai nạn thì có lẽ vụ đó đã được đưa tin.”
Deanna lại gọi cho tòa báo, hỏi phòng tin tức. Không may là sau khi nói chuyện với hai người thì bà biết được rằng những số báo từ vài năm trước đã được ghi lại bằng vi phim và không thể dễ dàng tiếp cận nếu không biết ngày cụ thể. Deanna hỏi và nhận được một cái tên mà Theresa phải liên hệ khi cô xuống dưới đó, phòng khi cô muốn tự mình tra cứu thông tin.
“Tôi nghĩ đó là hầu hết thông tin chúng ta có thể lấy được từ đây. Phần còn lại phụ thuộc vào cô, Theresa ạ. Nhưng ít ra thì cô cũng biết tìm anh ta ở đâu.”
Deanna đưa mẩu giấy nhỏ có ghi tên ra. Theresa do dự. Deanna nhìn cô một lát rồi đặt nó lên bàn. Bà nhấc điện thoại một lần nữa.
“Giờ bà gọi ai thế?”
“Đại lý du lịch của tôi. Cô sẽ cần một chuyến bay và một nơi để ở.”
“Tôi còn chưa nói là tôi sẽ đi mà.”
“Ồ, cô sẽ đi.”
“Sao bà có thể chắc chắn đến thế?”
“Vì tôi sẽ không để cô cả năm ngồi trong phòng biên tập tin mà tự hỏi điều gì sẽ xảy ra. Cô không làm việc tốt được khi bị phân tán,”
“Deanna…”
“Đừng có gọi ‘Deanna’ như thế. Cô biết là sự tò mò sẽ khiến cô phát điên mà. Nó đã làm tôi phát điên lên rồi đây này.”
“Nhưng…”
“Chẳng nhưng nhị gì hết.” Bà ngừng một lát, đoạn nói nhẹ nhàng hơn. “Theresa, hãy nhớ rằng… cô chẳng có gì để mất cả. Điều tồi tệ nhất có thể xảy ra là cô bay về nhà trong vòng hai ngày. Chỉ thế thôi. Cô đâu phải đi tìm một bộ lạc ăn thịt người. Cô chỉ đi tìm hiểu xem liệu sự tò mò của cô có được chứng thực không thôi.”
Cả hai cùng im lặng nhìn nhau chằm chằm. Deanna khẽ mỉm cười vẻ tự mãn, và Theresa cảm thấy mạch đập nhanh lên khi nhận ra quyết định đã chín muồi. Chúa ơi, mình thật sự sẽ làm việc này. Mình không thể tin là mình đang đồng ý làm vậy.
Nhưng, cô vẫn phản đối lấy lệ lần cuối.
“Cứ cho là rốt cuộc cũng gặp được anh ta, tôi còn không biết sẽ phải nói gì…”
“Tôi tin chắc cô sẽ nghĩ ra điều gì đó. Nào, để tôi xử lý cuộc gọi này. Đi lấy túi đi. Tôi sẽ cần số thẻ tín dụng của cô.”
Đầu óc Theresa quay cuồng khi cô trở lại bàn làm việc của mình. Garrett Blake. Wilmington. Island Diving. Happenstance. Những chữ đó quay mòng mòng trong đầu cô, như thể cô đang tập luyện một cảnh trong vở kịch vậy.
Cô mở ngăn kéo dưới cùng để túi và dừng lại giây lát trước khi quay lại. Nhưng có gì đó đã chế ngự cô, cuối cùng cô đưa cho Deanna cái thẻ tín dụng. Đêm hôm sau cô sẽ tới Wilmington, Bắc California.
Deanna bảo cô nghỉ nốt thời gian còn lại của ngày hôm đó và luôn cả ngày hôm sau, và trong lúc ra khỏi cơ quan, Theresa có cảm giác như thể cô vừa bị dồn vào góc nào đó như cái cách cô đã dồn ông Shendakin.
Nhưng không giống như ông Shendakin, trong thâm tâm cô hài lòng về điều đó, và khi máy bay chạm đất Wilmington ngày hôm sau, Theresa Osborne nhận phòng ở một khách sạn, tự hỏi tất cả chuyện này sẽ dẫn tới đâu.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.