Lá Thư Trong Chai

CHƯƠNG 6



Đồng hồ chạy qua giờ ăn tối và nhích dần đến bảy giờ, nhưng với Garrett Blake, thời gian đã ngừng lại từ ba năm trước, khi Catherine bước ra phố và bị một ông già mất lái đâm chết, chuyện ấy đã thay đổi cuộc sống của hai gia đình vốn chẳng liên quan gì đến nhau mãi mãi. Trong những tuần kế đó, cơn giận dữ của anh đối với người lái xe kia cuối cùng đã dẫn tới những kế hoạch trả thù bất thành, chỉ vì nỗi đau đớn đã khiến anh chẳng thể làm được gì. Anh không ngủ được quá ba tiếng mỗi đêm, bật khóc mỗi khi nhìn thấy quần áo của cô trong tủ, và sút gần chục cân vì chỉ uống cà phê và ăn bánh quy Ritz. Tháng tiếp theo, lần đầu tiên trong đời anh bắt đầu hút thuốc và quay sang uống rượu buổi đêm khi nỗi đau trở nên quá sức chịu đựng để có thể tỉnh táo mà đối mặt. Bố anh tạm thời đảm trách việc kinh doanh trong lúc anh ngồi lặng lẽ trên hiên sau nhà, cố gắng tưởng tượng ra một thế giới không có cô. Anh không còn ý chí hay mong muốn được sống nữa, và thỉnh thoảng khi ngồi đó, anh hy vọng rằng cái không khí ẩm ướt, mằn mặn sẽ nuốt chửng anh để anh không phải đơn độc đối diện với tương lai.
Điều khiến cho chuyện đó khó khăn đến vậy là vì dường như anh không thể nhớ được có lúc nào cô không ở bên. Họ biết nhau gần như cả cuộc đời và học cùng trường suốt thời cắp sách. Hồi học lớp ba họ là đôi bạn thân, và anh đã tặng cô hai tấm thiệp vào ngày lễ Valentine, nhưng sau đó, họ tách nhau ra và chỉ đơn giản là có mặt cùng nhau trong thời gian chuyển từ lớp dưới lên lớp trên. Catherine cao và gầy nhẳng, vẫn luôn là người bé trong lớp, và mặc dù luôn dành cho cô một vị trí đặc biệt trong tim, Garrett vẫn không hề nhận ra rằng cô đang dần dần trở thành một thiếu nữ hấp dẫn. Họ chưa từng đi chơi với nhau hoặc thậm chí là cùng đi xem một bộ phim, nhưng sau bốn năm học tại Chapel Hill, nơi anh theo chuyên ngành sinh học biển, anh tình cờ gặp cô tại bãi biển Wrightsville và chợt nhận ra mình đã ngốc nghếch nhường nào. Cô không còn là cô bé cao gầy anh vẫn nhớ nữa. Nói cách khác, cô xinh đẹp, với những đường cong tuyệt mỹ khiến cả đàn ông lẫn phụ nữ đều phải ngoái nhìn mỗi khi cô đi ngang qua. Tóc cô vàng óng, đôi mắt cô chứa đựng một sự bí ẩn vô tận; và, một lúc sau, rốt cuộc anh cũng khép được miệng lại mà hỏi xem cô đang làm gì, họ đã bắt đầu một mối quan hệ cuối cùng dẫn tới một đám cưới và sáu năm chung sống tuyệt vời.
Vào đêm tân hôn, chỉ còn họ trong phòng khách sạn được thắp sáng bằng nến, cô đã đưa cho anh hai tấm thiệp Valentine anh từng tặng cho cô và cười ngất khi thấy vẻ mặt của anh khi nhận ra chúng. “Đương nhiên là em đã giữ chúng,” cô vừa thì thầm vừa vòng tay ôm anh. “Đó là lần đầu tiên em biết yêu. Tình yêu là tình yêu, dù người ta bao nhiêu tuổi, và em biết rằng nếu em để cho anh có đủ thời gian, anh sẽ trở lại bên em.”
Mỗi khi nghĩ về cô, Garrett lại nhớ tới dáng vẻ cô đêm hôm đó, hoặc là dáng vẻ cô cái lần cuối cùng họ ra khơi. Ngay cả lúc này anh vẫn nhớ rõ cái đêm đó – mái tóc vàng của cô bay tung trong gió, vẻ mặt cô đầy sung sướng khi cô cười to.
“Xem bụi nước này!” cô kêu lên hớn hở khi đứng ở mũi thuyền. Bám vào một sợi dây thừng, cô ngả người ra ngoài theo chiều gió, bóng cô in trên nền trời lấp lánh.
“Cẩn thận đấy!” Garrett hét lên đáp lại, giữ vững bánh lái.
Cô lại ngả ra xa hơn, liếc nhìn lại Garrett với nụ cười tinh quái.
“Anh không đùa đâu!” anh lại hét lên. Trong một lúc dường như cái nắm tay của cô yếu đi. Garrett vội bước ra khỏi chỗ bánh lái, chỉ để lại nghe thấy cô cười trong lúc cô đứng thẳng người dậy. Nhanh như sóc, cô dễ dàng trở lại chỗ bánh lái và vòng tay ôm anh.
Hôn lên tai anh, cô thì thầm tinh nghịch, “Em có làm anh sợ không?”
“Em luôn khiến anh lo sợ mỗi khi làm những việc như vậy.”
“Đừng nói nghe cộc cằn thế chứ,” cô chọc. “Anh đã nằm trọn trong tay em rồi thì đừng có thế.”
“Đêm nào anh chẳng nằm trọn trong tay em.”
“Không giống như thế này,” cô vừa nói vừa hôn anh lần nữa. Đoạn, liếc nhanh xung quanh, cô mỉm cười. “Sao chúng ta không hạ thấp buồm và thả neo xuống nhỉ?”
“Bây giờ á?”
Cô gật đầu. “Đương nhiên là trừ phi anh thà lái thuyền cả đêm.” Với vẻ mặt ý nhị chẳng hé lộ điều gì, cô mở cánh cửa dẫn vào cabin và biến mất. Bốn phút sau chiếc thuyền hối hả dừng lại và anh mở cửa để nhập cuộc cùng cô…
Garrett đột ngột thở hắt ra, xua đi ký ức như làn khói ấy. Mặc dù vẫn nhớ được những chuyện xảy ra trong đêm đó, anh nhận thấy rằng cùng với thời gian trôi đi, ngày càng khó hình dung chính xác trông cô như thế nào. Những đường nét của cô dần dà bắt đầu tan biến trước mắt anh, và mặc dù anh biết rằng việc quên đi sẽ giúp nỗi đau vợi bớt, nhưng điều mà anh mong muốn hơn hết là được gặp lại cô. Suốt ba năm anh chỉ xem lại cuốn album một lần, và chuyện đó khiến anh đau đớn đến mức anh đã thề đó là lần cuối cùng làm thế. Giờ thì anh chỉ còn nhìn thấy cô rõ ràng vào ban đêm, sau khi đã thiếp ngủ. Anh thích những khi mơ về cô vì như thế dường như cô vẫn còn sống. Cô sẽ nói chuyện và đi lại, còn anh sẽ ôm cô trong vòng tay, và trong một khoảnh khắc dường như mọi chuyện trên đời đột nhiên đều trở nên đúng đắn. Nhưng những giấc mơ cũng có mặt trái, vì khi tỉnh giấc, anh luôn cảm thấy kiệt quệ và chán chường. Đôi lúc anh tới cửa hàng và nhốt mình trong văn phòng suốt buổi sáng để không phải nói chuyện với ai.
Bố anh đã cố hết sức để giúp anh. Ông cũng từng mất vợ và vì thế ông hiểu rõ những gì con trai mình đang trải qua. Garrett vẫn tới thăm ông ít nhất tuần một lần và thích để ông bầu bạn cùng anh. Ông là người duy nhất thật sự thấu hiểu lòng anh, cho anh cảm giác được người lớn tuổi đáp lại. Năm ngoái, bố anh đã bảo anh nên bắt đầu hẹn hò lại. “Con cứ một mình mãi như vậy chẳng hay đâu,” ông bảo. “Như thể con đã bỏ cuộc vậy.” Garrett biết câu nói đó cũng có phần đúng. Nhưng sự thật đơn giản là anh cũng chẳng cảm thấy muốn tìm bất cứ ai khác. Anh không ngủ với một người đàn bà nào kể từ khi Catherine mất, và tệ hơn nữa, anh còn chẳng cảm thấy ham muốn chuyện đó. Như thể một phần trong anh đã chết theo. Khi Garrett hỏi bố anh tại sao anh lại phải nghe theo lời khuyên của ông trong khi chính ông cũng chưa bao giờ tái hôn, bố anh chỉ nhìn đi chỗ khác. Nhưng rồi bố anh nói một điều ám ảnh cả hai bố con, một điều mà về sau ông đã ước là mình chưa từng nói.
“Con có thật sự nghĩ là bố có thể tìm được ai khác đủ tốt để thay thế vị trí của mẹ không?”
Rồi cũng đến lúc, Garrett quay lại cửa hàng và lại bắt đầu làm việc, cố gắng hết sức để tiếp tục cuộc sống của mình. Anh ở lại cửa hàng muộn hết sức có thể, sắp xếp các hồ sơ và phòng làm việc, chỉ vì làm vậy thì đỡ đau đớn hơn là về nhà. Anh cảm thấy nếu lúc mình về tới nhà trời bên ngoài đủ tối và anh chỉ bật một vài bóng điện thì anh sẽ không nhìn thấy nhiều đồ đạc của cô và sự hiện diện của cô mạnh mẽ như lúc trời sáng. Anh lại quen với cuộc sống một mình, tự nấu ăn, lau dọn nhà cửa và giặt giũ, thậm chí anh còn làm việc ngoài vườn như cô thường làm, mặc dù anh không thích việc đó nhiều như cô.
Anh nghĩ mình đã thấy dễ chịu hơn, nhưng đến lúc phải gói ghém đồ đạc của Catherine, anh đã không dám làm việc đó. Cuối cùng bố anh phải xắn tay vào làm. Sau khi đi lặn vào ngày nghỉ cuối tuần, Garrett trở về căn nhà đã không còn bóng dáng một món đồ nào của cô. Không còn đồ đạc của cô, căn nhà trở nên trống trải; anh chẳng thấy còn lý do gì mà ở lại đó cả. Anh đã bán nó trong vòng một tháng, chuyển tới một căn nhà nhỏ hơn ở bãi biển Carolina, nghĩ rằng chuyển đi thì cuối cùng mình cũng sẽ có thể sống tiếp. Và quả thật, anh gần như đã sống tiếp được ba năm qua.
Dù vậy, không phải thứ gì bố anh cũng tìm được. Trong một chiếc hộp nhỏ nằm trong chiếc bàn cạnh xô pha, anh đã giữ lại một vài thứ mà anh không thể rời xa – những tấm thiệp Valentine anh từng tặng cô, chiếc nhẫn cưới của cô và những đồ vật khác mà người khác không thể hiểu được. Đêm đến anh thích cầm chúng trong tay, và mặc dù thỉnh thoảng bố anh nhận xét rằng anh đã có vẻ khá hơn, anh sẽ nằm mà nghĩ rằng không, anh không hề khá hơn. Với anh, chẳng có gì còn như trước được nữa.
Garrett Blake tới bến đậu du thuyền trước vài phút để chuẩn bị sẵn sàng cho Happenstance. Anh tháo lớp vải bọc buồm, mở khoá cabin, và kiểm tra tổng quát mọi thứ.
Bố anh đã gọi điện ngay khi anh vừa bước chân ra khỏi cửa để đi ra bến thuyền, Garrett thấy mình nhớ lại cuộc trò chuyện.
“Con có muốn ghé qua ăn nhẹ chút không?” ông hỏi.
Garrett đáp rằng anh không thể. “Tối nay con sẽ lái thuyền ra biển cùng một người.”
Bố anh im lặng một lát. Rồi nói: “Với một phụ nữ à?”
Garrett giải thích ngắn gọn về cuộc gặp gỡ giữa anh và Theresa.
“Con nói nghe có vẻ như con hơi hồi hộp về cuộc hẹn hò này thì phải,” ông nhận xét.
“Đâu có, bố, con đâu có hồi hộp. Mà đây không phải là hẹn hò. Con đã bảo là bọn con chỉ đi ra biển thôi. Cô ấy bảo chưa được đi bao giờ.”
“Cô ta xinh không?”
“Điều đó thì có gì quan trọng?”
“Chẳng có gì quan trọng cả. Nhưng bố vẫn thấy có vẻ giống một cuộc hẹn hò.”
“Không phải là hẹn hò.”
“Ừ, tuỳ con.”
Garrett thấy cô bước lên bến tàu lúc bảy giờ hơn, mặc quần soóc và áo sơ mi đỏ ba lỗ, một tay xách chiếc giỏ picnic nhỏ còn tay kia mang một chiếc áo rét và áo khoác ngắn. Trông cô không có vẻ hồi hộp như anh đang cảm thấy, vẻ mặt cô cũng không để lộ ra cô đang nghĩ gì khi cô tiến về phía anh. Khi cô vẫy tay chào, anh lại cảm thấy nhói lên cảm giác tội lỗi quen thuộc và vội vẫy tay chào lại trước khi tháo xong mớ dây nhợ ra. Anh làu bàu với mình và cố hết sức để trấn tĩnh lại khi cô bước lên thuyền.
“Xin chào,” cô nói giọng thân thiện. “Tôi hy vọng là anh không phải chờ lâu.”
Anh vừa nói vừa tháo đôi găng tay đang đi ra. “Ồ, chào cô. Không… tôi chưa phải đợi lâu đâu. Tôi chỉ tới đây sớm hơn tí xíu để sửa soạn chiếc thuyền thôi.”
“Anh đã làm xong mọi việc cần thiết chưa?”
Anh liếc quanh để đảm bảo một lần nữa. “Rồi, tôi nghĩ vậy. Để tôi kéo cô lên nhé?”
Anh đặt đôi găng tay sang bên và giơ tay ra. Theresa đưa những đồ mang theo cho anh, anh bèn đặt chúng lên một chiếc ghế kê dọc theo sàn thuyền. Khi anh nắm lấy tay kéo cô lên, cô cảm thấy những vết chai trên bàn tay anh. Sau khi cô đã an vị trên thuyền, anh ra hiệu về phía bánh lái, lùi lại một chút.
“Cô đã sẵn sàng lên đường chưa?”
“Bất cứ khi nào anh sẵn sàng.”
“Vậy thì đi tới kia và chọn một chỗ ngồi nhé. Tôi sẽ đưa chúng ta ra khơi. Cô có muốn uống chút gì trước khi xuất phát không? Tôi có chút soda trong tủ lạnh đấy.”
Cô lắc đầu. “Không, cảm ơn anh. Giờ tôi vẫn ổn mà.”
Cô nhìn quanh con thuyền trước khi tìm một chỗ ngồi ở góc. Cô quan sát trong lúc anh vặn khoá điện và tiếng động cơ bắt đầu vang rền. Rồi, ra khỏi chỗ bánh lái, anh tháo hai sợi dây dùng để giữ thuyền đứng yên ra. Chiếc Happenstance từ từ rời khỏi chỗ đỗ. Hơi ngạc nhiên, Theresa nói, “Tôi không biết là nó lại có động cơ đấy.”
Anh ngoảnh lại đáp, đủ to để cô có thể nghe thấy. “Nó là động cơ loại nhỏ thôi – chỉ đủ năng lượng để đưa chúng ta ra và vào chỗ đỗ thuyền. Chúng tôi đã thay cái mới khi khôi phục lại nó.”
Happenstance vượt ra khỏi chỗ đỗ, rồi khỏi bến thuyền. Khi nó đã ra tới mặt nước rộng mở của đường thuỷ ven bờ, Garrett hướng thuyền theo chiều gió và tắt máy. Xỏ đôi găng tay vào, anh nhanh nhẹn kéo buồm lên. Happenstance nghiêng đi theo gió, và bằng một động tác nhanh gọn, Garrett đã tới bên cạnh Theresa, ngả người lại gần cô.
“Coi chừng đầu cô – sào căng buồm sắp bật ra ở phía trên đầu cô đấy.”
Mấy thao tác sau đó thật là dữ dội. Cô cúi đầu xuống và quan sát trong lúc mọi chuyện xảy ra y như anh nói. Chiếc sào căng buồm chuyển động trên đầu cô, kéo theo vải buồm để đón gió. Khi nó đã ở vào đúng vị trí, anh dùng mấy sợi dây để buộc chặt nó lại. Cô chưa kịp chớp mắt thì anh đã trở lại chỗ bánh lái, điều chỉnh một vài thứ và ngoái lại nhìn cánh buồm, như thể để chắc chắn rằng anh đã làm mọi thứ chính xác. Toàn bộ công việc diễn ra chưa đầy ba mươi giây.
“Tôi không biết là anh phải làm mọi việc nhanh đến thế. Tôi cứ nghĩ lái thuyền buồm là một môn thể thao nhàn nhã.”
Anh lại ngoái nhìn. Catherine thường ngồi ở đúng chỗ đó, vầng mặt trời đang lặn chia tách những cái bóng khiến trong một khoảnh khắc ngắn ngủi anh đã ngỡ đó là cô. Anh xua ý nghĩ đó đi và hắng giọng.
“Đúng là thế, khi cô ra khơi mà không có ai bên cạnh. Nhưng bây giờ chúng ra đang ở trong đường thuỷ ven bờ, và chúng ta phải gắng sức chọn đường đi cho thuyền của mình mà không cản trở đường đi của những con thuyền khác.”
Anh giữ bánh lái bất động, và Theresa cảm thấy Happenstance dần dần tăng tốc. Cô đứng dậy khỏi chỗ ngồi và đi ngược trở về phía Garrett, dừng bước khi tới được bên anh. Gió đang thổi, và mặc dù cô có thể cảm thấy nó trên mặt mình, nhưng có vẻ như nó vẫn không đủ mạnh để buồm căng lên.
“Được rồi, tôi nghĩ là chúng ta đã làm được,” anh liếc nhìn cô và nói với nụ cười ung dung. “Chúng ta phải cố tiến lên mà không phải đổi đường chạy. Đương nhiên là trừ phi gió đổi hướng.”
Họ tiến ra vịnh. Biết anh đang tập trung vào việc đang làm nên cô cứ im lặng trong lúc đứng cạnh anh. Từ khoé mắt, cô quan sát anh – đôi tay mạnh mẽ của anh trên bánh lái, đôi chân dài chuyển trọng tâm liên tục khi con thuyền nghiêng theo gió.
Trong lúc tạm ngừng trò chuyện, Theresa nhìn quanh. Giống như hầu hết mọi chiếc thuyền buồm khác, thuyền này cũng có hai tầng – sàn thấp ở bên ngoài, nơi họ đang đứng, và sàn phía mũi thuyền cao hơn khoảng mét hai, kéo dài đến tận mũi thuyền. Đó là nơi có cabin, và ở đó có hai cửa sổ nhỏ, phía ngoài phủ một lớp muối mỏng khiến ta khó nhìn thấy bên trong. Một cánh cửa nhỏ dẫn vào bên trong cabin, khá thấp khiến người ta phải cúi cuống cho khỏi cụng đầu.
Quay sang Garrett, cô tự hỏi không biết anh bao nhiêu tuổi. Có lẽ ngoài ba mươi – cô không thể xác định được rõ hơn nữa – khuôn mặt hơi nhàu, gần như dãi dầu, đem lại cho anh một diện mạo đặc biệt rõ ràng là khiến anh có vẻ già hơn tuổi.
Một lần nữa cô lại nghĩ rằng anh không phải là người đàn ông điển trai nhất mà cô từng gặp, nhưng ở anh có gì đó rất lôi cuốn, có gì đó không định nghĩa nổi.
Lúc trước, khi nói chuyện với Deanna qua điện thoại, cô đã cố miêu tả anh, nhưng vì trông anh chẳng giống với hầu hết những người mà cô biết ở Boston, cô đã phải rất vất vả. Cô kể với Deanna rằng anh trạc tuổi cô, đẹp trai theo kiểu riêng của anh và cân đối, nhưng trông anh thật tự nhiên, như thể sự mạnh mẽ của anh hoàn toàn chỉ là kết quả của cuộc sống mà anh đã lựa chọn. Đó là những gì khá nhất mà cô tiếp nhận được vào lúc ấy, mặc dù khi quan sát gần hơn, cô nghĩ mình không chệch nhiều lắm.
Deanna rất phấn khích khi Theresa kể với bà về chuyến ra khơi tối hôm đó, mặc dù ngay sau đó cô trải qua một khoảng thời gian nghi ngại không yên. Cô mất một lúc lo lắng về việc ở một mình với người lạ – nhất là lại ở ngoài biển – nhưng cố thuyết phục bản thân răng những nỗi lo lắng của mình là vô căn cứ. Nó chỉ như mọi cuộc hẹn hò khác thôi mà, cô tự nhủ suốt cả buổi chiều. Đừng có quan trọng hoá chuyện này quá. Nhưng đến khi phải ra bến tàu, suýt nữa thì cô đã không đi. Cuối cùng, cô vẫn quyết định đó là việc phải làm, chủ yếu là vì cô, nhưng cũng cả vì nỗi khốn khổ mà Deanna sẽ trút lên cô nếu cô không làm vậy.
Khi họ ra đến vịnh, Garrett Blake liền xoay bánh lái. Chiếc thuyền buồm hưởng ứng, tiến ra xa bờ, vào vùng nước sâu của đường thuỷ gần bờ. Garrett nhìn ngó hai bên, vừa cầm chắc tay lái vừa để ý tới những chiếc thuyền khác. Dù gió đang đổi hướng, có vẻ như anh vẫn hoàn toàn kiểm soát được chiếc thuyền, và Theresa nhận thấy anh hiểu rõ mình đang làm gì.
Những con nhạn biển lượn vòng vòng ngay trên đầu họ trong lúc chiếc thuyền rẽ mặt nước, lướt trên những dòng không khí di chuyển lên. Những cánh buồm rít lên trong lúc chuyển động theo gió. Nước cuộn dồn dọc mạn thuyền. Vạn vật dường như đều chuyển động trong lúc họ lướt đi dưới bầu trời Bắc Carolina đang ngả dần sang màu xám.
Theresa khoanh tay lại và với lấy chiếc áo rét chui đầu mình mang theo. Cô mặc vào, lấy làm mừng vì đã mang theo nó. Không khí có vẻ đã lạnh hơn nhiều so với lúc họ bắt đầu đi. Mặt trời lặn nhanh hơn cô tưởng, và ánh chiều tàn chiếu lên những cánh buồm, hắt những chiếc bóng che gần hết sàn thuyền.
Ngay phía sau con thuyền, dòng nước cuồn cuộn rít lên và xoáy, cô bèn bước tới gần hơn để nhìn cho rõ. Nhìn nước khuấy tung lên cứ như bị thôi miên. Giữ thăng bằng, cô đặt tay lên thanh chắn và cảm thấy có cái gì đó vẫn chưa được đánh giấy ráp thì phải. Nhìn kỹ, cô nhận ra một dòng chữ khắc vào thanh chắn. Đóng năm 1934 – khôi phục năm 1991.
Những con sóng từ một con thuyền lớn hơn từ xa ào tới làm thuyền họ lắc nhẹ, Theresa thận trọng quay lại chỗ Garrett. Anh lại xoay bánh lái, lần này mạnh mẽ hơn, và cô bắt gặp anh thoáng mỉm cười trong lúc lái thuyền hướng ra biển. Cô quan sát anh cho đến khi chiếc thuyền đã ra hẳn khỏi vịnh.
Lần đầu tiên sau không biết là bao lâu nữa, cô đã làm một việc hoàn toàn tự phát, một việc mà chỉ một tuần trước cô đã không hình dung nổi là mình sẽ làm. Và giờ khi nó đã diễn ra, cô không biết là chuyện gì sẽ xảy đến tiếp theo. Nhỡ Garrett hoá ra chẳng hề giống chút nào so với tưởng tượng của cô thì sao? Cứ cho là cô sẽ trở về Boston và đã có câu trả lời… nhưng lúc này, cô lại hy vọng mình sẽ không phải ra đi ngay lập tức. Đã có quá nhiều chuyện xảy ra…
Khi khoảng cách giữa Happenstance và những chiếc thuyền khác đã đủ xa, Garrett bảo Theresa cầm lái. “Cứ giữ nó nguyên như vậy,” anh nói. Anh lại quay ra chỉnh mấy cánh buồm, có vẻ ít tốn thời gian hơn lúc trước. Trở lại bánh lái, anh kiểm tra để đảm bảo thuyền đã hướng theo đúng chiều gió, rồi buộc một cái thòng lọng nhỏ trên dây buồm mũi và quấn nó quanh cái tời ở bánh lái, để chùng một đoạn hơn hai phân.
“OK, thế là đủ rồi,” anh nói, vỗ vào cái bánh lái để chắc chắn là nó sẽ ở nguyên vị trí. “Chúng ta có thể ra kia ngồi nếu cô muốn.”
“Anh không phải giữ nó sao?”
“Đó là việc của cái thòng lọng. Thỉnh thoảng – khi gió đổi chiều thật – cô sẽ phải giữ bánh lái từ đầu chí cuối. Nhưng tối nay thì chúng ta gặp may về thời tiết. Chúng ta có thể đi theo hướng này vài tiếng.”
Sau lưng họ, mặt trời đang từ từ lặn xuống trên nền trời đêm, Garrett dẫn lối trở lại chỗ Theresa ngồi lúc nãy. Sau khi đã xem kỹ thấy không có gì phía sau có thể móc vào quần áo cô, hai người ngồi xuống chỗ góc thuyền – cô ngồi nghiêng, anh dựa lưng – tạo thành một góc nghiêng để họ có thể đối diện với nhau. Cảm thấy gió thổi qua mặt, Theresa vén tóc ra sau, nhìn ra mặt nước.
Garrett quan sát trong lúc cô làm vậy. Cô thấp hơn anh – chừng mét bảy, anh đoán vậy – có gương mặt đáng yêu và thân hình làm anh nghĩ tới những cô người mẫu từng thấy trên tạp chí. Nhưng dù cô hấp dẫn thật, có cái gì khác ở cô cuốn hút anh. Cô thông minh, anh có thể cảm thấy điều đó ngay lập tức, và tự tin nữa, như thể cô có thể tự mình đi giữa cuộc đời. Với anh, đây mới chính là những điều thật sự quan trọng. Không có chúng, nhan sắc chẳng nghĩa lý gì.
Ở một góc độ nào đó, khi nhìn cô, anh lại nhớ tới Catherine. Nhất là vẻ mặt của cô. Khi nhìn mặt nước, trông cô như thể đang mơ màng, và anh có cảm giác những ý nghĩ của mình lại lang thang trở về cái lần cuối cùng họ cùng nhau ra khơi. Anh lại cảm thấy tội lỗi, dù đã cố hết sức dẹp bỏ những cảm giác đó. Anh lắc đầu và lơ đáng chỉnh lại dây đồng hồ, lúc đầu thì nới lỏng ra, sau lại thắt vào như cũ.
“Ngoài này đẹp thật đấy,” cuối cùng cô quay về phía anh, cất lời. “Cảm ơn anh đã rủ tôi đi cùng.”
Anh thấy mừng vì cô đã phá vỡ sự im lặng.
“Có gì đâu. Thỉnh thoảng có bạn đi cùng cũng hay.”
Cô mỉm cười trước câu trả lời của anh, tự hỏi liệu anh có nghĩ thế thật không. “Anh thường đi thuyền một mình à?”
Anh ngả ra sau, duỗi thẳng chân ra phía trước, đáp lời. “Thường xuyên. Đó là một cách thư giãn tốt sau giờ làm việc. Dù ngày hôm đó có căng thẳng đến đâu thì khi đã ra tới đây, dường như gió sẽ cuốn bay nó.”
“Việc đi lặn khó khăn đến thế sao?”
“Không, không phải chuyện đi lặn. Phần đó thú vị chứ. Ít nhiều là vì tất cả những công việc khác. Công việc giấy tờ, ứng phó với những người nghỉ buổi học vào phút cuối, kiểm tra để đảm bảo mọi món đồ ở cửa hàng có đủ số lượng. Có thể mất cả ngày.”
“Chắc chắn là thế. Nhưng anh thích công việc đó, đúng không?”
“Vâng, đúng thế. Tôi sẽ không đánh đổi việc tôi đang làm lấy bất cứ thứ gì.” Anh ngừng lại và chỉnh đồng hồ trên cổ tay. “Còn cô, Theresa, cô làm nghề gì?” Đó là một trong số ít những câu hỏi an toàn mà anh đã nghĩ ra trong suốt quãng thời gian còn lại ban ngày.
“Tôi phụ trách một chuyên mục cho tờ Thời báo Boston.”
“Tới đây đi nghỉ hả?”
Cô thoáng ngừng một chút trước khi trả lời. “Có thể nói vậy.”
Anh gật đầu, chờ đợi câu trả lời đó. “Cô viết về cái gì thế?”
Cô mỉm cười. “Tôi viết về vấn đề làm cha mẹ.”
Cô nhìn thấy vẻ ngạc nhiên trong mắt anh, đúng cái vẻ mặt mà cô nhìn thấy mỗi khi hẹn hò một người mới. Có lẽ mày cũng sẽ kết thúc chuyện này ngay sau đây thôi, cô thàm nghĩ. “Tôi có một cậu con trai,” cô nói tiếp. “Nó mười hai tuổi.”
Anh nhướng lông mày. “Mười hai?”
“Trông anh có vẻ sốc.”
“Vâng. Trông cô không già đến mức có con trai mười hai tuổi.”
“Tôi xem đó như một lời khen nhé,” cô nói với một nụ cười tự mãn, không cắn câu. Cô chưa sẵn sàng tiết lộ tuổi của mình. “Nhưng đúng là thằng bé đã mười hai. Anh có muốn xem ảnh không?”
“Có chứ,” anh nói.
Cô tìm ví, lôi tấm ảnh ra đưa cho anh. Garrett chăm chú nhìn nó một lúc rồi liếc nhìn cô.
“Thằng bé có nước da giống cô,” anh nói, trả lại tấm ảnh. “Nó đẹp trai đấy.”
“Cảm ơn anh.” Cô vừa cất tấm ảnh đi vừa hỏi, “Thế còn anh? Anh có con cái gì chưa?”
“Không.” Anh lắc đầu. “Không có con. Ít ra là không có đứa nào mà tôi biết.”
Cô cười tủm tỉm trước câu trả lời của anh, đoạn anh nói tiếp: “Con trai cô tên gì?”
“Kevin.”
“Nó có tới thị trấn này với cô không?”
“Không, nó ở với bố ở California. Chúng tôi ly dị vài năm trước.”
Garrett gật đầu không bình luận, rồi ngoái lại nhìn một chiếc thuyền buồm khác đang đi qua ở đằng xa. Theresa cũng nhìn theo nó một lúc, và trong sự im lặng, cô nhân thấy ngoài biển thật yên ả so với lúc ở đường thuỷ gần bờ. Những âm thanh lúc này chỉ có tiếng buồm kêu khi gió thổi qua và tiếng nước khi chiếc Happenstance cắt qua những con sóng. Cô nghĩ giọng của họ nghe khác so với lúc ở bến tàu. Ở ngoài này, nghe chúng dường như được giải phóng, như thể khí trời khoáng đạt mang chúng đi mãi vậy.
“Cô có muốn xem phần còn lại của con thuyền không?” Garrett hỏi.
Cô gật đầu. “Có chứ.”
Garrett đứng dậy và kiểm tra lại mấy cánh buồm trước khi dẫn lối vào bên trong, Theresa đi sau anh một bước. Khi mở cánh cửa ra, anh ngừng lại, đột nhiên mất tinh thần vì một mảnh ký ức vốn đã bị chôn chặt từ lâu nay lại vùng lên, có lẽ là do sự hiện diện mới lạ của người đàn bà này.
Catherine ngồi bên chiếc bàn nhỏ với một chai rượu đã mở. Trước mặt cô, lọ hoa chỉ cắm một bông bắt lấy ánh sáng từ ngọn nến nhỏ đang cháy. Ngọn lửa rung rinh theo chuyển động của con thuyền, hắt những cái bóng dài xuống phần bên trong thân thuyền. Giữa nền tranh tối tranh sáng, anh chỉ có thể nhìn thấy bóng phảng phất của nụ cười.
“Em nghĩ điều này sẽ là bất ngờ thú vị,” cô nói. “Lâu rồi chúng ta không ăn tối bên ánh nến.”
Garrett nhìn sang cái lò nhỏ. Hai cái đĩa bọc giấy bạc đặt cạnh nó.
“Em đưa mấy thứ này lên thuyền lúc nào vậy?”
“Lúc anh đang làm việc ấy.”
Theresa lặng lẽ đi vòng qua anh để anh được ở riêng với những suy nghĩ của mình. Nếu có nhận ra sự ngập ngừng của anh thì cô cũng chẳng biểu hiện gì cả, và Garrett thấy biết ơn vì điều đó.
Phía bên trái Theresa có một cái ghế chạy dọc theo một bên thân thuyền – đủ rộng và dài cho một người nằm ngủ thoải mái; đối diện với cái ghế ở phía mạn bên kia là một cái bàn nhỏ đủ chỗ cho hai người ngồi. Gần cánh cửa là bồn rửa và bếp lò với cái tủ lạnh nhỏ bên dưới, và ngay đó là một cánh cửa dẫn vào buồng ngủ.
Anh đứng tránh về một bên, hai tay chống hông trong lúc cô khám phá phần bên trong, nhìn ngó mọi thứ. Anh không lởn vởn bên cạnh cô như một số người đàn ông khác, mà cho cô một khoảng không. Nhưng cô vẫn cảm thấy mắt anh nhìn cô, mặc dù anh không để lộ ra mặt. Sau một lúc, cô nói, “Từ bên ngoài, anh sẽ không nghĩ là nó lại rộng như thế này.”
“Tôi biết.” Garrett lúng túng hắng giọng. “Ngạc nhiên, đúng không?”
“Vâng, đúng thế. Trông như thể nó có mọi thứ anh cần vậy.”
“Đúng là thế mà. Nếu muốn, tôi có thể đi tới tận châu Âu, tuy không phải là tôi khuyên làm thế đâu. Nhưng đối với tôi nó thật tuyệt vời.”
Anh đi vòng qua cô và tới chỗ cái tủ lạnh, cúi xuống lấy một lon Coca trong tủ ra. “Cô có muốn uống chút gì không?”
“Có,” cô đáp. Cô vuốt nhẹ tay dọc những bức tường, cảm thấy bề mặt gỗ đã đánh ráp.
“Cô muốn uống gì? Tôi có 7Up và Coca.”
“7Up đi,” cô đáp.
Anh đứng lên và đưa cho cô cái lon. Những ngón tay của họ khẽ chạm nhau khi cô cầm lấy nó.
“Tôi không có chút đá nào trên thuyền cả, nhưng nó vẫn lạnh đấy.”
“Tôi sẽ cố chịu vậy,” cô nói, và anh mỉm cười.
Cô mở lon và uống một ngụm trước khi đặt nó lên bàn.
Trong lúc mở lon soda của mình, anh nhìn cô, nghĩ tới nhũng gì cô nói lúc nãy. Cô có một đứa con trai mười hai tuổi… và là một người phụ trách chuyên mục, thế có nghĩa là có lẽ cô đã đi học đại học. Nếu cô chờ đến sau đó mới cưới và có con thì… tức là cô nhiều hơn anh bốn hoặc năm tuổi. Trông cô đâu có già đến thế – chừng ấy tuổi thì chắc chắn rồi – nhưng cô không cư xử như hầu hết các cô nàng đầu hai ở thị trấn mà anh biết. Trong những hành động của cô có sự chín chắn nào đó, một điều chỉ xuất hiện ở những người đã trải qua thăng trầm của cuộc sống.
Chuyện đó cũng đâu có gì quan trọng.
Cô quay sang chú ý tới một tấm ảnh lồng khung treo trên tường. Trong đó, Garrett Blake đang đứng trên cầu tàu với một chú cá maclin anh bắt được, trông trẻ hơn bây giờ nhiều. Trong bức ảnh anh cười tươi rói, và vẻ mặt vui sướng của anh nhắc cô nhớ tới Kevin mỗi khi nó ghi được một bàn trong trận đá bóng.
Giữa lúc câu chuyện đột ngột tạm lắng, cô nói, “Tôi thấy là anh thích câu cá.” Cô chỉ vào tấm ảnh. Anh bước lại phía cô, và khi anh lại gần, cô cảm thấy hơi ấm toả ra từ người anh. Anh có mùi giống như mùi của muối và gió.
“Vâng, đúng thế,” anh nói khẽ. “Bố tôi là thợ câu tôm, và tôi gần như lớn lên trên biển.”
“Chuyện này xảy ra bao lâu rồi?”
“Vụ đó chừng mười năm trước – ngay trước khi tôi trở lại trường đại học để học năm cuối. Có một cuộc thi câu cá, bố tôi và tôi quyết định dành hai đêm ngoài Dòng Vịnh và chúng tôi đã bắt được con cá maclin đó cách bờ khoảng sáu mươi dặm. Phải mất bảy tiếng mới đưa được nó lên vì bố muốn dạy tôi làm việc đó theo cách cũ.”
“Thế có nghĩa là sao.”
Anh cười khẽ. “Về cơ bản nó có nghĩa là lúc xong việc thì hai bàn tay tôi đã bị xẻ nát, và tới tận ngày hôm sau vai tôi hầu như vẫn không nhúc nhích được. Sợi dây mà chúng tôi dùng để câu không đủ khoẻ cho một con cá cỡ đó, vì thế chúng tôi phải để con cá chạy cho đến khi nó dừng lại, rồi từ cuộn dây kéo nó lên, rồi lại để nó chạy cả ngày cho đến lúc nó mệt đến mức không còn sức mà chiến đấu nữa.”
“Hơi giống Ông già và biển cả của Hemingway nhỉ.”
“Kiểu như thế, ngoại trừ việc tôi không cảm thấy giống một ông già chút nào cho đến ngày hôm sau. Trái lại, bố tôi hẳn đã có thể đóng một vai trong phim đó.”
Cô lại nhìn vào tấm ảnh. “Có phải bố anh đang đứng cạnh anh không?”
“Vâng, là ông ấy.”
“Trông ông ấy giống anh,” cô nói.
Garrett mỉm cười, tự hỏi liệu đó có phải là một lời khen hay không. Anh ra hiệu về phía cái bàn, Theresa bèn ngồi xuống đối diện với anh. Khi đã yên vị, cô hỏi:
“Anh bảo là anh đã đi học đại học phải không?”
Anh nhìn vào mắt cô. “Vâng, tôi theo học Đại học Bắc Carolina, chuyên ngành sinh học biển. Tôi chẳng thích cái gì khác cho lắm, và vì bố tôi bảo là tôi đừng có về nhà nếu chưa kiếm được mảnh bằng nào nên tôi nghĩ tôi sẽ học thứ gì đó có thể dùng đến sau này.”
“Nên anh mua cửa hàng đó…”
Anh lắc đầu. “Không, ít ra là không phải ngay lập tức. Sau khi tốt nghiệp, tôi làm chuyên viên lặn tại Viện Hải dương học Duke, nhưng lương lậu không khá lắm. Vì thế tôi thi lấy chứng chỉ giảng dạy và bắt đầu nhận học viên vào cuối tuần. Cửa hàng thì vài năm sau đó mới có.” Anh nhếch một bên lông mày. “Thế còn cô thì sao?”
Theresa uống một ngụm 7Up nữa trước khi trả lời.
“Cuộc sống của tôi không thú vị như cuộc sống của anh. Tôi lớn lên ở Omaha, Nebraska và đi học ở Brown. Sau khi tốt nghiệp, tôi chạy loăng quăng mấy nơi và thử vài việc khác nhau, cuối cùng ổn định ở Boston. Tôi đã làm việc ở tờ Thời báo được chín năm rồi, nhưng mới viết chuyên mục được vài năm nay. Trước đó tôi là phóng viên.”
“Cô thích viết chuyên mục cho báo đến mức nào?”
Cô nghĩ một lúc, nhưng thể lần đầu tiên ngẫm về nó vậy.
“Đó là một công việc tốt,” cuối cùng cô nói. “Giờ thì tốt hơn nhiều so với hồi tôi mới làm. Tôi có thể đi đón Kevin sau giờ học, và được tự do viết bất cứ điều gì tôi muốn, miễn là nó hợp với chuyên mục của tôi. Công việc đó thu nhập cũng khá, nên tôi không than phiền gì, nhưng…”
Cô lại ngừng. “Nó chẳng còn kích thích như trước nữa. Đừng hiểu lầm tôi, tôi thích việc mình đang làm, nhưng đôi khi tôi có cảm giác như là mình đang viết đi viết lại một vài thứ. Kể ra thế cũng chưa phải việc gì tệ lắm, nếu như tôi không có quá nhiều việc phải làm với Kevin. Tôi nghĩ bây giờ tôi đúng là một bà mẹ đơn thân điển hình, làm việc quá sức, anh hiểu ý tôi chứ.”
Anh gật đầu và nhẹ nhàng nói. “Cuộc sống thường không diễn ra như ta tưởng, nhỉ?”
“Không, tôi nghĩ là không,” cô nói, và lại bắt gặp cái nhìn của anh. Vẻ mặt anh khiến cô tự hỏi liệu có phải anh vừa nói điều mà anh hiếm khi nói với ai khác không. Cô mỉm cười và ngả về phía anh.
“Anh đã chuẩn bị tinh thần ăn uống một chút chưa? Tôi có mang theo mấy thứ trong giỏ đây.”
“Bất cứ lúc nào.”
“Tôi hy vọng là anh sẽ thích bánh kẹp và xa lát nguội. Tôi chỉ có thể nghĩ được ngần ấy thứ không bị ôi.”
“Nghe có vẻ ngon lành hơn cái mà tôi có thể mang theo. Nếu là tôi thì có lẽ tôi sẽ chỉ dừng lại mua một cái bánh hamburger trước khi đi chơi buổi tối. Cô muốn ăn ở dưới này hay ra ngoài kia?”
“Chắc chắn là ở ngoài rồi.”
Họ cầm lon nước của mình và ra khỏi cabin. Trên đường đi ra, Garrett giật lấy một cái áo mưa trên cái móc gần cửa và ra hiệu bảo cô cứ đi trước. “Cho tôi một phút để tôi thả neo,” anh nói, “để chúng ta có thể ăn mà không phải cứ mấy phút lại kiểm tra thuyền.” Theresa tới được chỗ ngồi của cô và mở cái giỏ mang theo ra. Ở chân trời, mặt trời đã lặn xuống giữa dải mây tích. Cô lôi hai cái bánh kẹp quấn trong giấy bóng kính ra, cùng với mấy hộp xốp đựng xà lách trộn và xa lát khoai tây.
Cô nhìn Garrett đặt chiếc áo mưa sang một bên và hạ bớt buồm xuống, con thuyền gần như chậm lại ngay lập tức. Anh quay lưng về phía cô trong lúc làm việc đó, và một lần nữa cô lại nhận thấy trông anh mới mạnh mẽ làm sao. Từ chỗ cô ngồi, những cơ bắp ở vai anh dường như lớn hơn lúc đầu cô thấy, lại được vòng eo nhỏ của anh tôn lên. Cô không thể tin được rằng mình thật sự đang đi thuyền với người đàn ông này khi mà chỉ mới hai ngày trước cô còn đang ở Boston. Toàn bộ chuyện này dường như không có thật.
Trong lúc Garrett điềm tĩnh làm việc thì Theresa ngước nhìn lên. Lúc này nhiệt độ đã hạ xuống, gió lại mạnh lên và bầu trời đang dần dần tối lại.
Khi chiếc thuyền dừng hẳn, Garrett thả neo xuống thấp hơn. Anh chờ khoảng một phút để chắc chắn là chiếc neo đã đậu lại, và khi đã hài lòng, anh ngồi xuống bên cạnh Theresa.
“Tôi ước là mình có thể làm được việc gì đó giúp anh,” Theresa vừa nói vừa mỉm cười. Cô gạt tóc trên vai ra sau y như Catherine vẫn thường làm, và suốt một lúc sau, anh vẫn không nói gì.
“Mọi chuyện ổn chứ?” cô hỏi.
Anh gật đầu, đột nhiên lại cảm thấy không thoải mái. “Bây giờ thì chúng ta vẫn ổn. Nhưng tôi nghĩ là nếu gió cứ tiếp tục mạnh lên thì lúc về chúng ta sẽ phải đổi đường chạy khá là thường xuyên đấy.”
Cô lấy một chút xa lát khoai tây và xà lách trộn cùng với chiếc bánh kẹp của anh để lên đĩa và đưa cho anh, nhận thấy rõ là anh đang ngồi gần hơn lúc trước.
“Vậy quay về có lâu hơn không?”
Garrett với lấy một cái dĩa nhựa màu trắng và lấy một chút xà lách trộn. Lát sau anh mới trả lời.
“Một chút – nhưng cũng không thành vấn đề trừ phi gió ngừng hẳn. Nếu chuyện đó xảy ra, chúng ta sẽ bị kẹt lại.”
“Nghe thế tôi đoán là chuyện này từng xảy ra với anh.”
Anh gật đầu. “Một hay hai lần gì đó. Hiếm lắm, nhưng vẫn có.”
Trông cô có vẻ chưa hiểu. “Sao lại hiếm? Đâu phải lúc nào gió cũng thổi, phải không?”
“Ngoài biển thì gió lúc nào cũng thổi.”
“Sao lại thế được?”
Anh mỉm cười thích thú và đặt miếng bánh lên đĩa của mình. “À, gió bị điều khiển bởi những sự khác biệt về nhiệt độ – khi dòng khí nóng lao vào dòng khí lạnh. Muốn gió ngừng thổi khi cô ra tới ngoài biển rồi, cô sẽ cần một nhiệt độ khí bằng đúng với nhiệt độ nước vài dặm quanh đó. Ở đây, khí luôn nóng suốt cả ngày, nhưng ngay khi mặt trời bắt đầu lặn, nhiệt độ hạ xuống nhanh chóng. Đó là lý do vì sao thời điểm thích hợp nhất để đi ra biển là vào lúc nhập nhoạng. Nhiệt độ thay đổi liên tục, và điều đó làm nên chuyến đi tuyệt vời.”
“Chuyện gì xảy ra nếu gió ngừng thổi thật?”
“Những cánh buồm sẽ xẹp lép và con thuyền dừng lại. Cô sẽ hoàn toàn chẳng làm được gì để nó di chuyển cả.”
“Anh bảo là chuyện này đã từng xảy ra với anh à?”
Anh gật đầu.
“Anh đã làm gì?”
“Thật ra là chẳng làm gì cả. Chỉ ngồi xuống và tận hưởng sự yên tĩnh thôi. Tôi không gặp nguy hiểm, và tôi biết sẽ tới lúc nhiệt độ hạ xuống. Vì thế tôi chỉ chờ thôi. Sau khoảng một giờ, một cơn gió nhẹ sẽ nổi lên và tôi đưa nó trở lại bến.”
“Nghe như thể té ra đó lại là một ngày thú vị ấy nhỉ.”
“Đúng thế.” Anh tránh cái nhìn chăm chú của cô và đăm đăm huớng ra cửa cabin. Sau một lúc anh nói thêm, gần như với chính mình, “Một trong những ngày thú vị nhất.”
Catherine xích qua trên cái ghế cô ngồi. “Qua đây ngồi với em nào.”
Garrett đóng cửa cabin lại và đi tới chỗ cô.
“Hôm nay là ngày mình bên nhau thú vị nhất suốt bao lâu nay,” Catherine nói khẽ.
“Có vẻ như dạo này cả hai chúng ta đều quá bận, và… em cũng không biết nữa.” Cô nói nhỏ dần. “Em chỉ muốn làm đièu gì đặc biệt cho chúng ta.”
Khi cô nói, Garrett thấy vợ anh dường như có vẻ mặt dịu dàng như trong đêm tân hôn của họ.
Garrett ngồi bên cạnh cô và rót rượu. “Anh xin lỗi vì dạo này anh bận bịu với cửa hàng quá,” anh nói khẽ. “Anh yêu em, em biết mà.”
“Em biết.” Cô mỉm cười và đặt tay lên tay anh.
“Sẽ mau chóng tốt hơn thôi, anh hứa đấy.”
Catherine gật đầu, với tay lấy ly rượu của mình. “Giờ đừng nói về chuyện đó nữa. Lúc này, em muốn chúng ta vui vẻ, chỉ có hai chúng ta. Không bị điều gì khác làm sao nhãng.”
“Garrett?”
Giật mình, Garrett nhìn Theresa. “Gì vậy…?” anh nói.
“Anh ổn chứ?” Cô đang nhìn anh với vẻ vừa lo lắng vừa khó hiểu.
“Tôi ổn mà… Tôi chỉ đang nhớ lại một chuyện mà tôi phải lo liệu,” Garrett ứng biến. “Mà này,” anh nói, duỗi thẳng ra và chắp tay đặt vào một bên gối dựng lên. “Nói về tôi thế là đủ rồi. Nếu cô không ngại, Theresa… hãy kể cho tôi nghe chút gì về cô đi.”
Bối rối và không rõ anh muốn biết chính xác điều gì về mình, cô bắt đầu kể từ đầu, kể tất cả những sự kiện cơ bản, nói chi tiết hơn một chút – cô lớn lên như thế nào, công việc của cô, sở thích của cô. Tuy nhiên, hầu hết là cô kể về Kevin, rằng thằng bé là một đứa con trai thật tuyệt vời và cô tiếc là đã không thể dành nhiều thời gian cho nó hơn.
Garrett lắng nghe trong khi cô nói, không cất tiếng mấy. Khi cô kể xong, anh hỏi, “Cô bảo là cô từng kết hôn phải không?”
Cô gật đầu. “Tám năm. Nhưng David – tên anh ta đấy – dường như đã nhạt lòng với mối quan hệ của chúng tôi, vì lý do nào đó… rốt cuộc anh ta đi ngoại tình. Chỉ là tôi không thể chấp nhận được chuyện đó.”
“Tôi cũng thế,” Garrett nói nhẹ nhàng, “nhưng làm thế cũng không khiến cho chuyện đó trở nên dễ dàng hơn.”
“Không hề.” Cô ngừng lại và uống một ngụm nước ngọt. “Nhưng chúng tôi vẫn là bạn, bất chấp mọi chuyện. Anh ta là ông bố tốt đối với Kevin, và đó là tất cả những gì tôi cần ở anh ta lúc này.”
Một cồn sóng lớn dồn lên dưới thân tàu, Garrett bèn quay sang để xem cái neo có còn giữ chắc không. Khi anh quay lại, Theresa nói: “Rồi, đến lượt anh. Kể tôi nghe về anh đi.”
Garrett cũng bắt đầu từ đầu, kể chuyện mình là con một, lớn lên ở Wilmington như thế nào. Anh kể với cô là mẹ anh đã qua đời khi anh mười hai tuổi, và vì bố anh dành phần lớn thời gian trên thuyền nên anh hầu như lớn lên trên biển. Anh kể về thời đại học – bỏ qua một số chuyện ngông cuồng hơn có thể gây ấn tượng sai lệch – và miêu tả hồi xây dựng cửa hàng như thế nào và đặc thù cuộc sống hằng ngày của anh lúc này. Lạ thay, anh chẳng kể gì về Catherine cả, Theresa cũng lấy làm lạ về điều đó.
Trong lúc họ nói chuyện, bầu trời chuyển thành màu đen và sương mù bắt đầu kéo đến vây quanh. Chiếc thuyền lắc nhẹ theo sóng tạo ra một luồng không khí thân mật bao trùm lên họ. Không khí trong lành, gió thổi qua mặt, và chuyển động nhẹ nhàng của con thuyền đều đồng tâm hiệp lực làm dịu đi sự căng thẳng của họ trước đó.
Rồi Theresa cố gắng nhớ lại lần cuối cùng mình có một cuộc hẹn hò như thế này. Cô chưa hề cảm thấy sức ép từ phía Garrett về chuyện gặp lại anh, mà anh cũng có vẻ không kỳ vọng gì hơn ở cô tối nay. Hầu hết những người đàn ông cô gặp ở Boston dường như đều có chung một quan niệm rằng nếu họ phải cất công để tạo ra một buổi tối dễ chịu thì bù lại họ phải được trả ơn bằng thứ gì đó. Đó là kiểu quan niệm của bọn choai choai – nhưng lại rất điển hình – và cô thấy sự thay đổi này thật mới mẻ.
Tới lúc họ không biết phải nói gì nữa, Garrett ngả ra sau và đưa tay lên vuốt tóc. Anh nhắm mắt và có vẻ như đang nhấm nháp khoảnh khắc im lặng này. Trong lúc anh làm vậy, Theresa lặng lẽ xếp đĩa và khăn ăn vào giỏ để chúng khỏi bay xuống biển. Khi Garrett đã sẵn sàng, anh đứng lên.
“Tôi nghĩ đã đến lúc về rồi,” anh nói, như thể thấy tiếc vì chuyến đi đã đến lúc kết thúc.
Vài phút sau chiếc thuyền lại lên đường, và cô nhận thấy gió cỏn mạnh hơn lúc trước. Garrett đứng bên bánh lái, giữ cho chiếc Happenstance đi đúng hướng. Theresa đứng cạnh anh, tay bám vào thanh chắn, ôn đi ôn lại cuộc trò chuyện của họ trong đầu. Không ai nói gì suốt một lúc lâu, và Garrett Blake tự hỏi không hiểu sao mình lại cảm thấy mất thăng bằng đến thế.
Trong chuyến đi cuối cùng với nhau, Catherine và Garrett nói chuyện khẽ khàng trong nhiều giờ, thưởng thức rượu vang và bữa tối. Biển yên tĩnh, những cồn sóng nhấp nhô nhẹ nhàng thật dễ chịu trong sự quen thuộc của chúng.
Khuya hôm đó, sau khi làm tình, Catherine nằm cạnh Garrett, lướt những ngón tay trên ngực anh, không nói gì.
“Em đang nghĩ gì thế?” cuối cùng anh hỏi.
“Chỉ là em không nghĩ mình có thể yêu ai đó nhiều như yêu anh,” cô thì thầm.
Garrett lướt những ngón tay trên má cô. Mắt Catherine không rời mắt anh.
“Anh cũng không nghĩ là anh có thể,” anh đáp lại dịu dàng. “Anh chẳng biết phải làm gì nữa nếu không có em.”
“Anh hứa với em một điều chứ?”
“Bất cứ điều gì.”
“Nếu có chuyện gì xảy ra với em, hãy hứa với em là anh sẽ tìm một người khác.”
“Anh không nghĩ là anh có thể yêu ai khác ngoài em.”
“Cứ hứa với em đi, được không?”
Mất một lúc anh mới trả lời. “Được rồi – nếu điều đó làm em hạnh phúc thì anh hứa.”
Anh mỉm cười dịu dàng.
Catherine rúc vào lòng anh. “Em hạnh phúc mà, Garrett.”
Cuối cùng ký ức đó cũng tan biến, Garrett hắng giọng và chạm vào cánh tay Theresa để làm cô chú ý. Anh chỉ lên trời. “Nhìn tất cả những thứ kia xem,” cuối cùng anh nói, cố sức giữ cân bằng cuộc trò chuyện. “Trước khi chế ra kính lục phân và la bàn, người ta đã dựa vào những ngôi sao để định hước trên biển. Kia kìa, cô có thể thấy sao Bắc Cực. Nó luôn chỉ đúng hướng Bắc.”
Theresa ngước nhìn lên bầu trời. “Làm sao anh biết được nó là ngôi sao nào?”
“Cô sử dụng các sao chỉ. Cô có thấy chòm Đại Hùng Tinh kia không?”
“Có.”
“Nếu cô kéo một đường thẳng từ hai ngôi sao ở chót cái đuôi con gấu, chúng sẽ chỉ về sao Bắc Cực.”
Theresa nhìn theo trong lúc Garrett chỉ về những ngôi sao đang nói tới, ngẫm nghĩ về anh và những điều mà anh thích. Lái thuyền buồm, lặn, câu cá, định hướng bằng các ngôi sao – bất cứ thứ gì liên quan đến biển. Hoặc, dường như là bất cứ thứ gì có thể giúp anh được ở một mình suốt nhiều giờ liên tục.
Garrett giơ một tay ra với lấy chiếc áo mưa màu xanh thuỷ quân mà anh đã đề lại gần bánh lái lúc nãy và mặc vào. “Người Phoenicia có lẽ là những nhà thám hiểm đại dương vĩ đại nhất trong lịch sử. Vào năm 600 trước Công nguyên họ đã tuyên bố đi vòng quanh châu Phi bằng thuyền buồm, nhưng chẳng ai tin là họ đã làm được việc đó vì họ thề rằng sao Bắc Cực đã biến mất khi họ mới đi được nửa chặng đường. Nhưng đúng là nó đã biến mất thật.”
“Tại sao?”
“Vì họ đã đi vào Nam bán cầu. Nhờ thế mà các nhà sử học biết là họ đã thật sự làm được điều đó. Trước đấy, chưa có ai nhìn thấy điều đó xảy ra, mà nếu có thì họ cũng không hề ghi chép lại. Phải gần hai nghìn năm sau người ta mới chứng minh được là họ đã nói đúng.”
Cô gật đầu, tưởng tượng ra chuyến đi xa xưa của họ. Cô tự hỏi tại sao suốt thời gian lớn lên mình lại chưa bao giờ học những điều như vậy và ngạc nhiên về người đàn ông đã học được điều này. Và đột nhiên cô đã hiểu chính xác tại sao Catherine lại yêu anh. Không phải là vì anh hấp dẫn lạ thường, hay tham vọng, hay thậm chí là mê hoặc. Những điều đó phần nào anh đều có, nhưng quan trọng hơn cả là anh sống như anh muốn. Có một thứ gì đó bí ẩn và khác biệt trong cách anh hành động, thứ gì đó rất đàn ông. Và điều đó khiến anh không giống với bất cứ ai cô từng gặp trước kia.
Thấy cô không trả lời, Garrett liếc sang và lại thấy cô mới đáng yêu làm sao. Trong đêm tối làn da trắng của cô trông thật thanh khiết, và anh nhận ra mình đang tưởng tượng rằng liệu cảm giác sẽ thế nào nếu khẽ khàng mơn trớn gờ má của cô. Rồi anh lắc đầu, cố xua đuổi ý nghĩ đó.
Nhưng anh không thể. Cơn gió đang thổi qua tóc cô, và cảnh tượng ấy khiến điều gì đó trong anh thắt lại. Đã bao lâu rồi anh mới cảm thấy như vậy? Chắc chắn là quá lâu rồi. Nhưng anh chưa thể, hoặc sẽ chẳng thể làm được gì cho nó cả. Anh cũng hiểu điều đó trong lúc nhìn cô. Chẳng đúng lúc cũng chẳng đúng chỗ… mà cũng không đúng người. Từ sâu thẳm, anh tự hỏi liệu có bao giờ lại có chuyện gì đó đúng đắn nữa không.
“Tôi hy vọng là không làm cô chán,” cuối cùng anh nói, vẻ bình tĩnh gượng ép. “Tôi vẫn luôn luôn thích những câu chuyện như vậy.”
Cô quay về phía anh và mỉm cười. “Không. Không phải thế đâu. Không hề. Tôi thích câu chuyện đó. Tôi chỉ đang tưởng tượng ra những gì mà những người đó hẳn đã phải trải qua. Đi vào một nơi hoàn toàn xa lạ quả là không dễ dàng chút nào.”
“Không, không hề dễ,” anh nói, cảm thấy như thể cô đã đọc được suy nghĩ của anh bằng cách nào đó.
Đèn từ những toà nhà dọc bờ biển hình như đang nhấp nháy giữa lớp sương mù đang dần dần dày đặc. Happenstance lắc nhẹ trên những cồn sóng nhô lên khi tiến vào vịnh, và Theresa ngoái nhìn những thứ mà cô đã mang theo. Chiếc áo khoác bị thổi bay vào cái góc gần cabin. Cô thầm nhủ là không được quên nó khi xuống bến.
Mặc dù Garrett đã nói anh vẫn luôn đi thuyền một mình, nhưng cô vẫn tự hỏi liệu anh có từng đưa ai ngoài Catherine và cô đi cùng không. Và nếu anh chưa bao giờ làm vậy, thì điều đó có ý nghĩa như thế nào? Cô biết tối nay anh quan sát cô rất kỹ, mặc dù anh không hề để lộ ra mặt. Nhưng nếu anh tò mò về cô thì quả là anh đã giữ kín được những cảm xúc của mình. Anh không hề gặng hỏi cô những thông tin mà cô không sẵn lòng đáp, anh cũng không hỏi xem liệu cô có đang quan hệ với ai đó không. Tối nay anh không làm bất cứ điều gì có thể hiểu là vượt quá mức quan tâm bình thường.
Garrett bật công tắc, một loạt những bóng đèn nhỏ liền vụt sáng lên quanh thuyền. Không đủ để nhìn thấy nhau rõ ràng, nhưng đủ để các thuyền khác thấy họ đang tiến vào. Anh chỉ về bờ biển tối thẫm – “Vịnh ngay kia kìa, giữa những ánh đèn ấy” – và quay bánh lái về hướng đó. Những chiếc buồm kêu roàn roạt và sống neo lắc nhanh một lúc trước khi trở lại vị trí ban đầu.
“Vậy,” cuối cùng anh hỏi, “cô có thích chuyến ra biển đầu tiên băng thuyền buồm này không?”
“Có chứ. Nó rất tuyệt.”
“Tôi rất mừng. Nó không phải là chuyến đi tới Nam bán cầu, nhưng đó là tất cả những gì tôi có thể làm.”
Họ đứng bên nhau, cả hai dường như đều đắm chìm trong suy nghĩ. Một chiếc thuyền buồm khác xuất hiện trong bóng tối cách đó gần nửa cây số, cũng đang trên đường về bến. Để dành cho nó một chỗ đậu rộng rãi, Garrett nhìn ngó cả hai bên hòng chắc chắn là không có gì khác nữa xuất hiện. Theresa nhận ra là sương mù đã che khuất chân trời.
Quay sang anh, cô thấy tóc anh đã bị gió thổi ngược ra sau. Chiếc áo mưa anh đang mặc dài đến giữa đùi, không kéo khoá. Đã sờn cũ và bạc màu, trông nó như thể anh đã dung mấy năm rồi vậy. Nó khiến anh trông cao lớn hơn thực tế, và đây là hình ảnh cô có thể hình dung là mình sẽ nhớ mãi. Hình ảnh này, và hình ảnh anh lần đầu tiên cô gặp.
Khi họ tới gần bờ hơn, Theresa chợt băn khoăn liệu họ có được gặp lại nhau. Vài phút nữa họ sẽ trở lại bến thuyền và nói lời tạm biệt. Cô băn khoăn không biết liệu anh có mời cô cùng đi với anh lần nữa hay không, nhưng cô sẽ không tự mình hỏi anh. Không hiểu sao chuyện đó có vẻ như không phải cho lắm.
Họ đi qua vịnh, rẽ về bến. Anh lại giữ cho tàu đi vào đúng giữa đường thuỷ gần bờ, và Theresa thấy một loạt những tấm biển chỉ dẫn hình tam giác đánh dấu đường nước. Anh vẫn giữ buồm trên cao đến gần điểm lúc đầu anh kéo chúng lên rồi hạ xuống với sức mạnh mà anh đã dùng đề lái con thuyền suốt cả buổi tối. Động cơ bật phát trở lại, và trong vòng vài phút họ lách qua những con thuyền khác đã buông neo suốt cả buổi tối. Khi họ vào tới chỗ đậu thuyền của anh, cô đứng trên sàn trong lúc anh nhảy xuống và lấy dây cột Happenstance lại.
Theresa đi về phía đuôi thuyền để lấy cái giỏ và áo khoác, rồi dừng lại. Nghĩ ngợi một lát, cô nhấc cái giỏ, nhưng thay vì nhặt áo khoác lên, cô dùng bàn tay còn lại đẩy nó vào bên dưới cái nệm ghế một chút. Khi Garrett hỏi mọi chuyện có ổn không, cô hắng giọng và nói, “Tôi đang lấy đồ của mình ấy mà.” Cô bước tới bên mạn thuyền, và anh giơ tay ra. Cô lại cảm thấy sức mạnh trong bàn tay ấy khi nắm lấy nó, và bước từ Happenstance xuống bến.
Họ nhìn nhau một lát, như thể tự hỏi điều gì sẽ xảy đến tiếp theo, cuối cùng Garrett ra hiệu về phía con thuyền. “Tôi còn phải khoá và buộc nó lại cho đêm nay, việc đó sẽ mất thêm một lúc nữa.”
Cô gật đầu. “Tôi cũng nghĩ là anh sẽ nói thế.”
“Tôi đưa cô ra xe trước đã nhé?”
“Vâng,” Theresa nói, anh liền bước xuống dốc bên cạnh cô. Tới chỗ chiếc xe cô thuê, Garrett nhìn cô lần tìm chìa khoá trong cái giỏ. Sau khi tìm thấy chúng, cô vặn khoá mở cửa xe ra.
“Lúc nãy tôi nói rồi nhỉ, tôi đã có một buổi tối tuyệt vời,” cô nói.
“Tôi cũng vậy.”
“Anh nên đưa thêm nhiều người đi theo nữa. Tôi chắc là họ sẽ thích đấy.”
Cười toét miệng, anh đáp, “Tôi sẽ suy nghĩ về việc đó.”
Trong một lúc, họ nhìn vào mắt nhau, và anh lại thoáng thấy Catherine trong bóng tối.
“Tôi phải quay lại thôi,” anh nói nhanh, hơi không thoải mái. “Mai tôi phải dậy sớm.” Cô gật đầu, và không biết phải làm gì khác nữa, Garrett giơ tay ra. “Rất vui được gặp cô, Theresa. Tôi hy vọng cô sẽ thích thời gian còn lại của kỳ nghỉ.”
Suốt buổi tối bên nhau, việc bắt tay anh khiến cô cảm thấy hơi xa lạ, nhưng cô hẳn sẽ ngạc nhiên nếu anh làm điều gì đó khác.
“Cảm ơn anh vì mọi thứ, Garrett. Được gặp anh cũng rất thú vị.”
Cô ngồi vào sau tay lái và bật khoá điện. Garrett đóng cửa xe lại cho cô và nghe cô vào số. Mỉm cười với anh lần cuối, cô liếc nhìn qua gương chiếu hậu và từ từ lùi xe ra. Garrett vẫy tay trong lúc cô bắt đầu đi ra và nhìn theo xe cô cuối cùng cũng rời khỏi bến thuyền. Khi cô đã an toàn ra tới đường, anh quay gót trở lại vũng tàu đậu, tự hỏi tại sao mình lại thấy xáo động đến thế.
Hai mươi phút sau, Garrett đang làm nốt công việc với Happenstance thì Theresa mở khoá cửa phòng khách sạn và bước vào. Cô quăng mấy thứ đồ lên giường và đi vào phòng tắm. Cô vã nước lạnh lên mặt và đánh răng trước khi cởi đồ. Rồi, nằm trên giường, chỉ để đèn ngủ, cô nhắm mắt lại, nghĩ về Garrett.
David hẳn sẽ làm mọi việc theo cách khác hẳn nếu anh ta là người đưa cô đi chơi bằng thuyền buồm. Anh ta sẽ làm cho buổi tối hợp với hình ảnh quyến rũ mà anh ta muốn thể hiện – “Tình cờ là tôi có rượu vang đấy, cô có muốn uống một ly không?” – và nhất định anh ta sẽ nói nhiều hơn một chút về bản thân. Những sẽ nói rất tinh vi – David vốn giỏi lường trước khi nào thì sự tự tin vượt quá giới hạn mà thành ra ngạo mạn – và hẳn anh ta sẽ không vượt qua ranh giới đó ngay lập tức. Trước khi hiểu anh ta rõ hơn, người ra sẽ không tài nào biết rằng đó là một kế hoạch được sắp đặt cẩn thận để tạo ra ấn tượng tốt đẹp nhất. Tuy nhiên, với Garrett, cô biết ngay là anh không hề diễn – có gì đó chân thật ở anh – và cô thấy mình bị hấp dẫn bởi phong thái đó. Nhưng cô làm vậy có đúng đắn không? Cô vẫn chưa chắc chắn được về chuyện đó. Những hành động của cô hầu như đầu có vẻ quá khôn khéo, và cô không thích nghĩ về mình theo cách đó.
Nhưng chuyện đã xảy ra rồi. Cô đã quyết định, và giờ thì chẳng đảo ngược lại được. Cô tắt đèn, và khi mắt đã quen với bóng tối, cô nhìn vào khoảng trống giữa những tấm rèm được kéo sang một cách lỏng lẻo. Vầng trăng khuyết cuối cùng cũng nhô lên, và một ánh trăng mỏng manh chiếu vào giường. Nhìn chằm chằm vào nó, cô thấy mình không thể quay đi cho đến khi cơ thể cuối cùng cũng trở nên thư thái và mắt cô nhắm lại cho giấc ngủ đêm.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.