Lá Thư Trong Chai

CHƯƠNG 7



Rồi sau đó chuyện gì đã xảy ra?”
Jeb Blake ngả người qua tách cà phê của ông, nói bằng cái giọng rin rít. Gần bảy mươi, ông gầy và cao – gần như gầy quắt – gương mặt chằng chịt nếp nhăn. Chút tóc lơ phơ trên đầu ông hầu như bạc trắng cả, và cục yết hầu nhô ra từ cổ ông như một quả mận khô nhỏ. Hai cánh tay ông toàn hình xăm và sẹo, phủ đầy những vết nám, các khớp đốt ngón tay sưng to vĩnh viễn sau bao năm bị huỷ hoại bởi nghề câu tôm. Nếu ông không có đôi mắt thì khi nhìn vào, người ta sẽ nghĩ ông yếu ớt và ốm đau, nhưng thật ra thì còn lâu ông mới ốm yếu. Ngày ngày ông vẫn làm việc, dù giờ thì chỉ làm bán thời gian thôi, luôn rời khỏi nhà từ lúc trời hửng và trở về vào buổi trưa.
“Chẳng có gì xảy ra cả. Cô ấy lên xe và lái đi thôi.”
Quấn điếu thuốc đầu tiên trong số mười hai điếu sẽ hút mỗi ngày, Jeb Blake nhìn con trai chằm chằm. Nhiều năm nay bác sĩ vẫn bảo là ông sẽ tự giết mình nếu hút thuốc, nhưng vì ông bác sĩ đó đã qua đời vì bệnh tim ở tuổi sáu mươi nên ông không tin tưởng lắm vào những lời khuyên của y học. Garrett đồ rằng cứ tình hình này thì ông cụ có khi còn sống lâu hơn cả anh.
“Chà, thế thì cũng hơi phí nhỉ?”
Garrett ngạc nhiên trước sự thẳng thừng của ông. “Không, bố, đâu có phí. Tối qua con đã rất vui vẻ. Cô ấy nói chuyện cởi mở lắm, và con thích thúc khi cô ấy đi cùng.”
“Nhưng con sẽ không gặp lại cô ấy đâu.”
Garrett uống một hợp cà phê và lắc đầu. “Con ngờ là không đâu. Con đã bảo rồi, cô ấy đang đi nghỉ ở đây.”
“Bao lâu?”
“Con không biết. Con không hỏi.”
“Sao không?”
Garrett với lấy một gói kem nữa cho vào cà phê của mình. “Mà sao bố lại quan tâm thế? Con lái thuyền đi chơi với một người và đã được vui vẻ. Con chẳng có gì nhiều hơn để nói về nó cả.”
“Chắc chắn là có.”
“Như là gì?”
“Như là liệu con có thấy thích cuộc hẹn đó đủ để bắt đầu lại gặp gỡ người khác không?”
Garrett vừa khuấy cà phê vừa nghĩ, ra là thế. Mặc dù sau nhiều năm, anh đã quen với những câu cật vấn của bố, nhưng sáng náy anh không có tâm trạng để tranh luận về đề tài cũ rích này. “Bố, chúng ta đã thoả thuận về chuyện này rồi mà.”
“Bố biết, nhưng bố lo cho con. Dạo này con ở một mình quá nhiều.”
“Đâu có.”
“Có,” bố anh nói với giọng nhẹ nhàng bất ngờ, “có đấy.”
“Con không muốn tranh cãi về chuyện đó đâu.”
“Bố cũng không muốn. Bố đã thử làm vậy, nhưng chẳng được.” Ông mỉm cười. Sau một lúc im lặng, Jeb Blake thử tiếp cận kiểu khác.
“Vậy, cô ấy thế nào?”
Garrett nghĩ một lúc. Dù không muốn, nhưng đêm qua anh vẫn nghĩ về cô một lúc lâu rồi cuối cùng mới ngủ thiếp đi.
“Theresa ấy ạ? Cô ấy hấp dẫn và thông minh. Rất quyến rũ nữa, theo kiểu của cô ấy.”
“Cô ấy độc thân chứ?”
“Con nghĩ vậy. Cô ấy đã ly hôn, và con nghĩ nếu đang hẹn hò với ai đó thì cô ấy sẽ không đi đâu.”
Jeb cẩn thận săm soi vẻ mặt của con trai trong lúc Garrett trả lời ông. Khi anh nói xong, ông lại cúi xuống tách cà phê của mình. “Con thích cô ấy phải không?”
Nhìn thẳng vào mắt bố, Garrett biết mình không thể che giấu sự thật. “Vâng, con thích. Nhưng con đã bảo rồi, có lẽ con sẽ không gặp lại cô ấy nữa. Con không biết cô ấy sống ở đâu, và theo con biết thì hôm nay cô ấy sẽ rời khỏi thị trấn.”
Bố anh im lặng nhìn anh một lúc đoạn thận trọng hỏi câu tiếp theo. “Nhưng nếu cô ấy vẫn ở đây và con biết cô ấy ở đâu thì con có đi gặp không?”
Garrett nhìn đi chỗ khác mà không đáp, Jeb bèn với qua bàn để nắm lấy cánh tay con trai. Dù đã ngoài bảy mươi nhưng bàn tay ông vẫn rất khoẻ, và Garrett cảm thấy ông dùng lực đủ mạnh để khiến anh chú ý.
“Con trai à, đã ba năm rồi. Bố biết con yêu con bé, nhưng giờ để chuyện đó qua đi được rồi. Con biết mà, phải không? Con phải để chuyện đó qua đi.”
Phải mất một lúc anh mới trả lời. “Con biết mà bố. Nhưng chuyện đó đâu có dễ dàng đến thế.”
“Chẳng có gì đáng giá mà lại dễ dàng cả. Hãy nhớ điều đó.”
Vài phút sau họ uống hết cà phê. Garrett quăng mấy tờ tiền lên bàn và đi theo bố ra khỏi quán ăn, tới chỗ chiếc xe tải của anh ở bãi đỗ xe. Khi tới cửa hàng, đầu anh đã nghĩ tới cả chục chuyện khác nhau rồi. Không thể tập trung vào công việc giấy tờ cần làm, anh quyết định quay lại vũng tàu để sửa nốt cái động cơ mà anh đã bắt đầu sửa từ hôm trước. Mặc dù hôm nay dứt khoát phải dành một chút thời gian ở cửa hàng nhưng lúc này anh cần được ở một mình.
Garrett lôi hộp dụng cụ anh để ở sau xe tải ra và mang nó tới chỗ con thuyền anh vẫn dùng khi đi dạy lặn có bình khí. Một chiếc Boston Whaler cũ, đủ rộng để chở đến tám học viên và thiết bị cần thiết cần cho những chuyến lặn dưới nước.
Việc sửa máy quả là tốn thời gian nhưng không khó, và hôm qua anh đã làm được phần việc kha khá rồi. Trong lúc lột lớp vỏ bọc máy ra, anh cứ nghĩ về cuộc trò chuyện với bố lúc nãy. Đương nhiên là ông nói đúng, chẳng có lý gì cứ khư khư giữ lấy cái cảm giác của anh bây giờ, nhưng – có Chúa chứng giám – anh không biết phải làm sao để chấm dứt nó cả. Catherine từng là tất cả đối với anh. Cô chỉ cần anh và anh sẽ cảm thấy mọi chuyện trên đời đột nhiên đều trở nên đúng đắn. Và khi cô mỉm cười… Chúa ơi, đó là thứ mà anh sẽ không bao giờ thấy ở ai khác. Phải mất đi một điều như vậy… quả là không công bằng. Và hơn thế, nó có vẻ như là sai trái. Tại sao lại là cô, trong số tất cả mọi người? Và tại sao lại là anh? Suốt mấy tháng trời anh cứ nằm thao thức suốt đêm, tự hỏi, “Nếu như.” Nếu như cô chờ thêm một giây nữa rồi hãy sang đường? Nếu như họ nấn ná ăn sáng thêm vài phút nữa? Nếu như sáng hôm đó anh đi cùng cô thay vì đi thẳng tới cửa hàng? Cả nghìn cái nếu như, và anh cũng chẳng hiểu hơn được chút nào về toàn bộ câu chuyện đó so với hồi nó mới xảy ra.
Cố gắng không nghĩ ngợi vẩn vơ, anh tập trung vào công việc trong tay. Anh tháo cái bu lông cố định bộ chế hoà khí ra khỏi động cơ. Anh thận trọng tháo dỡ nó, kiểm tra để chắc chắn là không có thứ gì bên trong quá mòn. Anh không nghĩ rằng điều này chính là nguồn gốc của rắc rối, mặc dù anh muốn nhìn gần hơn để kiểm tra cho chắc.
Trong lúc anh thong thả làm việc, mặt trời đang lên ở trên đầu, và anh thấy mình lau mồ hôi túa ra trên trán. Hôm qua vào giờ này, anh nhớ là đã thấy Theresa đi xuống bến thuyền, về phía chiếc Happenstance. Anh chú ý tới cô ngay lập tức, dù không phải lý do nào khác ngoài chuyện cô đi một mình. Phụ nữ trông như cô hầu như không bao giờ đi xuống vũng tàu một mình cả. Thường là họ đi cùng với những quý ông lớn tuổi, giàu có sở hữu những chiếc du thuyền đang đậu ở phía bên kia bến. Khi cô dừng lại ở chỗ thuyền của anh, anh đã ngạc nhiên, dù anh đã đoán là cô sẽ dừng lại chỉ một lát thôi trước khi đi tới đích đến. Hầu hết mọi người đều làm thế. Nhưng sau khi quan sát cô một lúc, anh nhận ra rằng cô tới vũng tàu đậu để xem chiếc Happenstance, và nhìn cách cô quanh quẩn ở đó thì có vẻ như cô tới còn vì một điều gì khác nữa.
Sự tò mò của anh trỗi dậy, anh đã đi qua bên đó để nói chuyện với cô. Lúc ấy anh không nhận ra, nhưng sau đó, đến tối, khi khoá và buộc thuyền lại anh mới nhận ra có gì đó kỳ quặc trong cách cô nhìn anh lần đầu. Cứ như là cô đã nhận thấy điều gì đó ở anh mà anh vẫn chôn chặt tận đáy lòng. Hơn thế nữa, dường như cô biết về anh nhiều hơn so với mức cô muốn thừa nhận.
Anh lại lắc đầu, biết rằng chuyện đó cũng chẳng có ý nghĩa gì cả. Cô bảo là cô đã đọc mấy bài báo ở cửa hàng – có lẽ đó là lý do của cái nhìn kỳ lạ kia. Anh nghĩ về nó, cuối cùng quyết định rằng chắc là do thế. Anh biết là anh chưa từng gặp cô trước kia – nếu có thì anh đã nhớ – và hơn nữa cô rời Boston đi nghỉ. Đó là cách lý giải hợp lý duy nhất mà anh có thể nghĩ ra, nhưng đến giờ cũng vẫn có gì đó không dễ hiểu cho lắm về toàn bộ tình huống này.
Như thế cũng không hẳn có gì quan trọng.
Họ đã đi thuyền, thích thú được bầu bạn với nhau, rồi nói lời tạm biệt. Chỉ đến thế là hết. Như anh đã bảo với bố, dù có muốn thì anh cũng không thể gặp lại cô nữa. Ngay lúc này có lẽ cô đã lên đường quay về Boston, hoặc cô sẽ ở lại thêm vài ngày, còn anh thì có cả trăm việc phải làm tuần này. Mùa hè là mùa nở rộ những lớp học lặn, và anh đã được đặt lịch trước cho tất cả các ngày cuối tuần mãi tới tận cuối tháng Tám. Anh đâu có thời gian hay sức lực để mà gọi điện đến tất cả các khách sạn ở Wilmington để tìm cô, và dù có làm thế đi nữa thì anh biết phải nói gì? Anh có thể nói gì để nghe sao không lố bịch đây?
Vừa quay cuồng với những câu hỏi đó trong đầu, anh vừa sửa cái máy. Sau khi phát hiện và thay một cái kẹp bị thủng, anh lắp lại toàn bộ chế hoà khí và vỏ máy rồi quay cho cái máy nổ. Tiếng máy nổ nghe đã đỡ hơn nhiều, anh tháo Boston Whaler ra khỏi mớ dây của nó và lái ra biển khoảng bốn mươi phút. Anh cho nó chạy ở nhiều tốc độ khác nhau, khởi động và tắt máy nhiều lần, rồi khi đã hài lòng, anh đưa thuyền trở lại bến đỗ. Hài lòng vì công việc đó mất ít thời gian hơn mình tưởng, anh nhặt đồ lề, cất trở lại xe và lái qua hai dãy nhà để tới Island Diving.
Như mọi lần, có cả đống giấy tờ chồng chất trong cái khay đựng tài liệu trên bàn anh, anh bèn dành một lúc để xem lại. Hầu hết là đơn đặt mua những món đồ cần cho cửa hàng, chúng đều đã được điền đầy đủ. Còn vài cái hoá đơn nữa, anh ngồi xuống ghế của mình, đoạn xem qua đống giấy tờ.
Gần mười một giờ, anh làm xong hầu hết những việc cần làm và đi ra trước cửa hàng. Lúc anh đi tới, Ian, một trong những nhân viên anh thuê vào mùa hè, đang nghe điện thoại, anh ta đưa cho anh ba mảnh giấy nhỏ. Hai mảnh giấy đầu là của các nhà phân phối, và những lời nhắn được viết nguệch ngoạc cho thấy hình như những đơn hàng mà họ mới đặt gần đây có chút lộn xộn. Thêm một việc nữa cần phải xử lý, anh nghĩ, quay lại văn phòng.
Anh vừa bước đi vừa đọc mẩu giấy nhắn thứ ba và khựng lại khi nhận ra người gửi. Kiểm tra lại để đảm bảo không nhìn nhầm, anh bước vào văn phòng và đóng cánh cửa sau lưng lại. Anh bấm số điện thoại và hỏi số máy lẻ chính xác.
Theresa Osborne đang đọc báo thì điện thoại đổ chuông, cô nhấc máy ở hồi chuông thứ hai.
“Chào Theresa, tôi Garrett đây. Ở đây có nhắn lại là cô đã gọi.”
Giọng cô nghe có vẻ vui mừng khi anh gọi. “Ồ, chào anh, Garrett. Cảm ơn vì đã gọi lại cho tôi. Anh thế nào?”
Nghe thấy giọng cô, anh liền nhớ lại buổi tối hôm trước. Tự cười với mình, anh tưởng tượng xem trông cô thế nào khi ngồi trong phòng khách sạn. “Tôi ổn, cảm ơn cô. Tôi đang xử lý một số giấy tờ thì thấy lời nhắn của cô. Tôi có thể giúp gì cho cô nhỉ?”
“À, tôi để quên cái áo khoác trên thuyền tối qua, không biết liệu anh có thấy nó không?”
“Tôi không thấy, nhưng thật ra là tôi không kiểm tra kỹ lắm. Cô có để nó trong cabin không?”
“Tôi không rõ.”
Garrett ngừng lại một lát. “Để tôi chạy ra ngó qua xem sao. Tôi sẽ gọi lại báo cho cô biết là có tìm thấy nó không nhé.”
“Thế có phiền quá không?”
“Không đâu. Chắc chỉ mất vài phút thôi. Cô ở đó một lát được chứ?”
“Tôi sẽ ở đây.”
“Được rồi, tôi sẽ gọi lại cho cô ngay.”
Garrett chào cô và ra khỏi cửa hàng, đi nhanh ra bến du thuyền. Bước lên Happenstance, anh mở khoá cabin và đi xuống dưới. Không tìm thấy chiếc áo, anh trở ra và liếc nhìn lên sàn thuyền, cuối cùng phát hiện ra nó ở gần đuôi thuyền, một phần bị khuất dưới cái nệm ghế. Anh nhặt nó lên, kiểm tra xem có bị bẩn không rồi trở lại cửa hàng.
Lại vào văn phòng, anh bấm số máy viết trên mẩu giấy. Lần này Theresa nhấc máy ngay từ hồi chuông đầu tiên.
“Lại là tôi Garrett đây. Tôi tìm thấy áo của cô rồi.”
Giọng cô nghe có vẻ nhẹ nhõm. “Cảm ơn anh. Tôi rất cảm kích vì anh đã đi tìm hộ tôi.”
“Có gì đâu.”
Cô im lặng một lát, như thể đang quyết định xem phải làm gì. Cuối cùng: “Anh giữ nó giùm tôi đuợc không? Tôi có thể ghé qua cửa hàng anh trong vòng hai mươi phút nữa để lấy lại.”
“Rất sẵn lòng,” anh đáp. Gác máy, anh ngả người ra sau ghế, nghĩ về chuyện vừa xảy ra. Cô ấy vẫn chưa rời khỏi thị trấn, anh nghĩ, và mình sắp gặp lại cô ấy. Mặc dù anh không hiểu làm sao mà cô lại quên áo được vì cô chỉ mang theo có vài thứ thôi mà, nhưung có một điều đã tự nó lộ rõ ra đấy: dứt khoát là anh thấy mừng khi chuyện đó xảy ra.
Đương nhiên, cũng không có gì quan trọng.
Hai mươi phút sau Theresa tới, mặc quần soóc và áo sơ mi không tay trễ cổ tôn dáng tuyệt vời. Khi cô bước vào cửa hàng, cả Ian và Garrett đều nhìn cô chằm chằm trong lúc cô liếc nhìn quanh. Cuối cùng cũng thấy anh, cô mỉm cười và gọi to, “Chào anh,” từ chỗ đang đứng, và Ian liền nhướn lông mày lên nhìn Garrett, như thể muốn hỏi, “Có chuyện gì mà anh chưa kể với tôi ấy nhỉ?” Garrett lờ đi vẻ mặt đó và đi tới chỗ Theresa, mang theo trên tay chiếc áo khoác của cô. Anh biết rằng Ian sẽ săm soi mọi cử chỉ của anh và lát nữa sẽ chọc ghẹo anh về điều đó, dù vậy anh không định nói bất cứ điều gì.
“Vẫn tốt như mới,” anh nói, đưa áo cho cô khi cô đã bước lại đủ gần để cầm lấy. Khi cô còn đang trên đường tới đây, Garrett đã rửa dầu mỡ trên tay và thay một trong những cái áo phông mới mà cửa hàng anh trưng ra để bán. Cũng không có gì đẹp đẽ lăm, nhưng còn tử tế hơn cái vẻ ngoài của anh lúc trước. Ít ra thì bây giờ trông anh cũng sạch sẽ.
“Cảm ơn vì đã tới lấy nó hộ tôi.” cô nói, và có gì đó trong mắt cô khiến sự cuốn hút mà anh cảm thấy ngày hôm trước lại trỗi dậy. Anh lơ đãng gãi gãi một bên mặt.
“Tôi rất vui được làm vậy. Tôi đoán là gió đã thổi nó bay khuất tầm mắt.”
“Tôi cũng đoán thế,” cô nói, khẽ nhún vai, và Garrett quan sát trong lúc cô đưa tay lên chỉnh lại vai áo sơ mi. Anh không biết liệu cô có vội không, và anh không rõ là anh đã muốn cô đi chưa. Anh nói ra những từ đầu tiên xuất hiện trong đầu:
“Tối qua tôi rất vui.”
“Tôi cũng thế.”
Khi cô nói vậy, mắt cô bắt gặp mắt Garrett, anh liền mỉm cười dịu dàng. Anh không biết phải nói gì khác nữa – đã lâu lắm rồi anh mới rơi vào một tình huống như thế này. Mặc dù anh vẫn luôn luôn tử tế với khách hàng và người lạ nói chung, nhưng chuyện này thì hoàn toàn khác. Anh thấy mình cứ đổi chân trụ liên tục, cảm giác như trở lại tuổi mười sáu vậy. Cuối cùng chính cô là người lên tiếng.
“Tôi cảm thấy nợ anh thứ gì đó vì đã bắt anh dành thời gian để làm việc này.”
“Đừng nói buồn cười thế. Cô không nợ tôi gì hết.”
“Có lẽ không phải là vì đi lấy áo hộ tôi, mà còn vì buổi tối hôm qua nữa.”
Anh lắc đầu. “Cả chuyện đó cũng không. Tôi rất vui vì cô đã tới.”
Tôi rất vui vì cô đã tới. Câu nói đó vang vọng trong đầu anh ngay sau khi anh nói ra. Hai ngày trước hẳn anh đã không tưởng tượng nổi mình lại đi nói câu đó với bất cứ ai.
Tiếng chuông điện thoại vang lên ở phía sau, âm thanh đó dứt anh khỏi dòng suy nghĩ. Để kéo dài thời gian, anh hỏi: “Cô đi cả quãng đường đó tới đây chỉ để lấy cái áo, hay là cô cũng định đi ngắm cảnh một chút?”
“Thật ra tôi cũng chưa tính đến chuyện đó. Sắp đến giờ ăn trưa và tôi đang định đi mua cái gì đó ăn nhanh thôi.” Cô nhìn anh chờ đợi. “Có gợi ý nào không?”
Anh nghĩ một lúc rồi đáp. “Tôi thích chỗ Hank, ở dưới mạn cầu tàu ấy. Thức ăn tươi ngon, và cảnh thì đẹp hết sảy.”
“Chính xác là nó ở chỗ nào vậy?”
Anh hất hàm qua vai. “Trên bãi biển Wrightsville ấy. Cô đi qua cầu tới hòn đảo đó và rẽ phải. Cô không thể không thấy nó được – cứ nhìn các biển chỉ đường tới chỗ cầu tàu. Nhà hàng toạ lạc ngay ở đó.”
“Họ có đồ ăn kiểu gì?”
“Chủ yếu là hải sản. Họ có tôm và hàu ngon tuyệt, nhưng nếu cô muốn thứ gì đó ngoài hải sản thì họ cũng có bánh hamburger và những thứ như vậy.”
Cô chờ xem anh có nói thêm điều gì khác không, và khi anh không nói, cô liếc sang chỗ khác, nhìn ra cửa sổ. Nhưng cô vẫn đứng đó, và lần thứ hai trong vòng vài phút, Garrett cảm thấy lúng túng trước cô. Thứ gì ở cô đã khiến anh cảm thấy như thế? Cuối cùng, thu hết can đảm, anh nói.
“Nếu cô muốn, tôi sẽ chỉ chỗ cho cô. Tôi cũng hơi đói rồi, và tôi sẵn lòng đưa cô tới đó nếu cô muốn có người đi cùng.”
Cô mỉm cười. “Thế thì hay quá, Garrett.”
Trông anh đã bớt căng thẳng hơn. “Xe tải của tôi ở ngoài kia. Cô có muốn tôi lái xe không?”
“Anh biết đường rõ hơn tôi mà,” cô đáp, Garrett liền chỉ đường, dẫn cô đi qua cửa hàng và ra đằng cửa sau. Tụt lại phía sau một chút để anh không thấy được vẻ mặt của cô, Theresa không kìm được tự cười với mình.
Nhà hàng Hank đi vào hoạt động từ hồi cầu tàu này được xây và là nơi lui tới thường xuyên của cả dân địa phương lẫn khách du lịch. Không khí trầm lắng nhưng có nét đặc trưng, nó giống với những nhà hàng gần cầu tàu ở Cape Cod – sàn gỗ bong tróc và trầy trụa ra sau nhiều năm bị xéo dưới những gót giày lấm cát, những ô cửa sổ lớn nhìn ra Đại Tây Dương, hình chụp những con cá chiến lợi phẩm treo trên tường. Kế bên là một cánh cửa dẫn vào bếp, và Theresa nhìn thấy những đĩa đựng hải sản tươi sống chất lên khay, được các nhân viên phục vụ nam nữ mặc quần soóc áo phông xanh in tên nhà hàng mang ra. Bàn ghế bằng gỗ, trông chắc chắn, được trang trí bằng những vết khắc của hàng trăm thực khách trước cô. Đây là nơi không đòi hỏi gì nhiều hơn một bộ đồ tắm biển bình thường, và Theresa nhận thấy rằng hầu hết những người ở đây đều trông như thể họ đã nằm phơi nắng gần hết buổi sáng vậy.
“Tin tôi đi,” khi họ đi tới một cái bàn, anh cất lời. “Chỗ này trông vậy chứ đồ ăn được lắm.”
Họ chọn chỗ ngồi ở một bàn sát góc, và Garrett đẩy hai chai bia vẫn chưa được dọn sang một bên. Thực đơn đặt giữa một đống gia vị nào là xốt cà chua, xốt tiêu, xốt tartar, xốt cocktail đựng trong lọ khi dùng thì bóp ra, cùng với một thứ nước xốt khác nhãn ghi đơn giản là “Hank”, Được ép nhựa rẻ tiền, trông cái thực đơn như thể bao năm rồi chưa được thay. Liếc nhìn quanh, Theresa thấy gần như không còn bàn trống.
“Đông thật,” cô nói, tự làm cho mình thoải mái.
“Lúc nào cũng vậy. Từ trước khi bãi biển Wrightsville tấp nập du khách thì chỗ này đã khá tiếng tăm rồi. Tối thứ Sáu và thứ Bảy cô còn không chen nổi vào đây đâu, trừ phi cô sẵn lòng chờ vài tiếng.”
“Điều gì khiến nó hút khách đến vậy?”
“Đồ ăn và giá cả. Sáng nào Hank cũng mua được cả đống cá và tôm tươi, mà cô luôn có thể rời khỏi đây mà không phải chi quá mười đô la, kể cả tiền boa. Đấy là tính cả vài cốc bia rồi đấy.”
“Ông ấy làm được điều đó bằng cách nào vậy?”
“Quý hồ đa, tôi đoán vậy, Như tôi đã nói đấy, chỗ này lúc nào cũng đông.”
“May mà chúng ta xí được một bàn nhỉ.”
“Vâng, đúng thế. Nhưng chúng ta tới đây trước khi dân địa phương đến, còn những người đi chơi biển thì không bao giờ ngồi lâu. Họ chỉ ghé qua ăn cho xong rồi lại chạy ra nắng.”
Cô nhìn quanh nhà hàng lần cuối rồi mới liếc xuống cái thực đơn. “Vậy theo anh nên gọi món nào?”
“Cô có thích hải sản không?”
“Tôi thích lắm.”
“Thế thì gọi cá ngừ Cali hoặc cá heo nhé. Cả hai món đều ngon.”
“Cá heo ấy à?”
Anh bật cười khe khẽ. “Không phải chú cá Flipper đâu. Nó là loại cá nục heo. Ở đây chúng tôi gọi thế.”
“Tôi nghĩ là tôi sẽ gọi món cá ngừ,” nháy mắt một cái, cô nói, “cho chắc.”
“Cô nghĩ tôi lại đi phịa ra một chuyện như thế à?”
Cô nói bằng giọng trêu chọc. “Tôi không biết phải nghĩ gì. Chúng ta chỉ mới gặp nhau hôm qua mà, nhớ chứ. Tôi chưa biết rõ anh để hoàn toàn chắc chắn là anh có thể làm gì.”
“Đau lòng quá,” anh nói bằng giọng tương tự, cô liền bật cười. Anh cũng bật cười, và sau một thoáng, cô làm anh ngạc nhiên khi với quá bàn và chạm khẽ vào cánh tay anh. Anh chợt nhận ra là Catherine cũng thường làm như vậy để khiến anh chú ý.
“Nhìn đằng kia xem,” cô nói, hất cằm về phía cửa sổ, Garrett bèn quay sang. Trên cầu tàu một ông cụ xách theo đồ lề đi câu, trông ông hoàn toàn bình thường ngoại trừ một con vẹt to đậu trên vai.
Garrett lắc đầu và mỉm cười, vẫn cảm thấy dư âm cái chạm của cô trên cánh tay mình. “Ở đây chúng tôi có đủ thứ. Chưa hẳn được như California, nhưng cứ cho chúng tôi vài năm nữa xem.”
Theresa vẫn nhìn theo trong lúc người đàn ông có con vẹt đi xuống chỗ cầu tàu. “Anh cũng nên mua cho mình một con để bầu bạn mỗi khi đi thuyền ra biển.”
“Để phá hỏng sự thanh bình và yên tĩnh của tôi hả? Tôi biết số mình mà, con vật đó sẽ không nói đâu. Nó sẽ chỉ quang quác suốt thôi, mà có khi lần đầu tiên gió đổi chiều nó còn cắn đứt tai tôi ấy chứ.”
“Nhưng trông anh sẽ giống một tên cướp biển.”
“Trông tôi sẽ giống một thằng ngốc thì đúng hơn.”
“Ôi, anh chẳng hài hước gì cả,” Theresa nói với một cái nhăn mặt chế giễu. Ngừng một chút, cô nhìn quanh. “Ở đây họ có cho ai ra phục vụ anh không, hay là chúng ra phải tự đi bắt và chế biến món cá của mình?”
“Bọn Yankee chết tiệt,” anh vừa làu bàu vừa lắc đầu, và cô lại bật cười, tự hỏi liệu anh có thấy thích thú nhiều như cô không, mà chẳng hiểu sao cô biết chắc là có.
Một lát sau, cô phục vụ bàn xuất hiện và ghi yêu cầu của họ. Cả Theresa và Garrett đều gọi bia, và sau khi đưa phiếu gọi món vào nhà bếp, cô phục vụ mang ra bàn hai cái chai.
“Không có cốc à?” sau khi cô phục vụ đã rời đi, cô hỏi, một bên mày nhướng lên.
“Không. Chỗ này thì sang hết sảy rồi.”
“Tôi có thể hiểu là vì sao anh lại thích nó đến thế.”
“Câu này có phải ý là gu của tôi thật tầm thường không?”
“Chỉ có nếu anh thiếu tự tin về điều đó thôi.”
“Giờ thì cô nói nghe như bác sĩ tâm lý ấy.”
“Đâu có, nhưng tôi là một bà mẹ, và điều đó khiến tôi có phần am hiểu về bản tính con người.”
“Thật thế ư?”
“Tôi đã bảo Kevin như thế.”
Garrett nhấp một ngụm bia. “Hôm nay cô có nói chuyện với nó không?”
Cô gật đầu và cũng uống một hớp. “Có mấy phút thôi. Lúc tôi gọi thì nó đang trên đường tới Disneyland. Vé của nó là vào sáng sớm nên nó không nói chuyện lâu được. Nó muốn xếp đầu hàng đợi tham gia chuyến thám hiểm Indiana Jones.”
“Nó đi chơi với bố vui chứ?”
“Nó đang rất vui. David lúc nào cũng vẫn tốt với Kevin, nhưng tôi nghĩ anh ta cũng cố gắng bù đắp cho việc không gặp thằng bé thường xuyên. Mỗi lần Kevin tới chỗ bố là nó lại mong đợi điều gì đó thú vị và phấn khích.”
Garrett nhìn cô với vẻ tò mò. “Cô nói nghe như thể cô không chắc chắn về điều đó vậy.”
Cô ngập ngừng rồi nói tiếp. “Tôi chỉ hy vọng chuyện đó sẽ không dẫn tới nỗi thất vọng sau này. David đã xây dựng gia đình với cô vợ mới, và khi đứa bé lớn hơn một chút, tôi nghĩ là sẽ khó khăn hơn nhiều để David và Kevin được ở riêng cùng nhau.”
Garrett cúi người về phía trước, nói, “Chẳng ai có thể bảo vệ con mình khỏi nỗi thất vọng trong đời.”
“Tôi biết mà. Chỉ có điều…”
Cô ngừng lại, Garrett bèn nhẹ nhàng nói nốt hộ suy nghĩ của cô. “Thằng bé là con trai cô và cô không muốn thấy nó bị tổn thương.”
“Chính xác.” Những giọt nước đã ngưng tụ ngoài vỏ chai bia của Theresa, cô bắt đầu lột cái nhãn ra. Lại cũng y như Catherine thường làm, Garrett bèn uống một hớp bia nữa và bắt mình phải để tâm vào câu chuyện đang diễn ra.
“Tôi chỉ biết nói thế này, nếu Kevin có chút nào giống cô thì tôi chắc chắn rằng cuối cùng thằng bé sẽ ổn thôi.”
“Ý anh là sao?”
Anh nhún vai. “Chẳng ai có cuộc sống dễ dàng cả – kể cả cô. Cô cũng đã trải qua những thời kỳ khó khăn. Tôi nghĩ rằng khi quan sát cô vượt qua nghịch cảnh, thằng bé cũng sẽ học được cách vượt qua.”
“Giờ thì đến lượt anh nói nghe như bác sĩ tâm lý nhé.”
“Tôi chỉ nói với cô điều tôi đã học được khi lớn lên thôi. Khi mẹ tôi qua đời vì ung thư, tôi cũng trạc tuổi Kevin. Nhìn bố tôi, tôi đã học được rằng tôi phải tiếp tục sống cuộc đời mình, dù cho có chuyện gì xảy ra đi nữa.”
“Bố anh có tái hôn không?”
“Không,” anh nói, lắc đầu. “Tôi nghĩ có đôi khi ông cũng ước rằng mình đã làm vậy, nhưng ông chẳng bao giờ có cơ hội cả.”
Gốc gác chuyện này ra là vậy, cô nghĩ. Bố nào con nấy.
“Ông ấy vẫn sống ở thị trấn này chứ?” cô hỏi.
“Vâng, ông ấy vẫn ở đây. Dạo này tôi hay gặp ông lắm. Bố con tôi cố gắng ở bên nhau ít ra là mỗi tuần một lần. Ông ấy muốn uốn nắn tôi theo đường ngay lẽ thẳng.”
Cô cười. “Bố mẹ nào chả thế.”
Mấy phút sau đồ ăn được mang ra, và họ vừa ăn vừa tiếp tục trò chuyện. Lần này Garrett nói nhiều hơn cô, anh kể cho cô nghe về quá trình mình lớn lên ở miền Nam, và tại sao anh chưa bao giờ đi khỏi đây dù có cơ hội. Anh cũng kể với cô một vài vụ mạo hiểm đã xảy ra trong khi lái thuyền hay đi lặn. Cô lắng nghe say mê. So với những câu chuyện mà cánh đàn ông ở Boston hay kể – thường tập trung vào những chiến tích đạt được trong việc làm ăn – những câu chuyện của anh hoàn toàn mới mẻ đối với cô. Anh kể về hàng ngàn sinh vật biển khác nhau mà anh từng thấy trong những chuyến đi lặn, về trải nghiệm lái thuyền buồm vượt qua cơn bão bất ngờ ập tới suýt nữa thì lật úp con thuyền của anh. Có lần anh thậm chí còn bị một con cá mập đầu búa đuổi theo và buộc phải náu mình trong một chiếc tàu đắm mà anh phát hiện ra. “Tôi gần cạn dưỡng khí trước khi trồi được lên,” anh nói, lắc đầu khi nhớ lại.
Theresa quan sát anh kỹ lưỡng trong khi anh nói, thấy mừng vì anh đã thoải mái hơn so với buổi tối hôm trước. Cô vẫn nhận thấy những gì đã thấy tối qua – khuôn mặt gầy, đôi mắt xanh da trời nhạt và cử chỉ ung dung. Nhưng giờ anh đã nói chuyện với cô sôi nổi hơn, và cô thấy sự thay đổi đó thật hấp dẫn. Có vẻ như anh không còn phải cân nhắc từng từ khi nói nữa.
Họ ăn xong bữa trưa – anh nói đúng, đồ ăn rất ngon – và mỗi nguời uống hết hai chai bia trong lúc mấy cái quạt trần kêu vù vù trên đầu. Mặt trời đang từ từ lên cao, giờ nhà hàng đã trở nên nóng nực, nhưng không còn đông nữa. Cầm lấy hoá đơn, Garrett đặt tiền lên bàn và ra hiệu rời đi.
“Đi được rồi chứ?”
“Sẵn sàng. Cảm ơn anh vì bữa trưa. Thật tuỵệt.”
Khi họ đi ra cửa trước, cô cứ nghĩ là Garrett muốn trở về cửa hàng ngay lập tức, nhưng anh lại làm cô ngạc nhiên khi đề nghị một chuyện khác hẳn.
“Đi dạo ngoài bãi biển nhé? Ở gần biển luôn mát mẻ hơn một chút đấy.” Khi cô đồng ý, anh dẫn cô tới mé cầu tàu và bước xuống cầu thang, đi bên cô. Cầu thang đã hơi oằn cong và phủ một lớp cát mỏng khiến họ phải bám vào thanh chắn khi đi xuống. Ra tới bãi biển, họ rẽ về phía mặt nước, bước đi bên dưới cầu tàu. Cái bóng của nó thật dễ chịu giữa cái nóng buổi trưa hè, và khi ra tới bãi cát chắc nịch ở mép nước, cả hai dừng lại một chút để tháo giày ra. Xung quanh họ, các gia đình tụ tập trên những chiếc khăn tắm và bì bõm dưới biển.
Họ đi trong thinh lặng, dạo bước bên cạnh nhau trong lúc Theresa nhìn ngó xung quanh, ngắm cảnh.
“Từ lúc tới đây cô đã ra biển chơi nhiều chưa?” Garrett hỏi.
Theresa lắc đầu. “Chưa. Tôi mới tới đây hôm kia thôi. Lần đầu tiên tôi ra biển ở chỗ này đấy.”
“Cô thấy thế nào?”
“Đẹp lắm.”
“Nó có giống những bãi biển ở phía Bắc không?”
“Giống một số, nhưng nước ở đây ấm hơn nhiều. Anh chưa đi biển miền Bắc bao giờ à?”
“Tôi chưa bao giờ ra khỏi Bắc Carolina.”
Cô cười trêu anh. “Một nhà du hành vòng quanh thế giới thực thụ đấy?”
Anh cười khẽ. “Không, nhưng tôi cũng không cảm thấy mình bỏ lỡ nhiều lắm. Tôi thích ở đây và tôi không thể tưởng tượng ra nơi nào đẹp hơn nữa. Chẳng có nơi nào tôi muốn tới hơn nơi đây.” Bước thêm vài bước, anh liếc sang cô và chuyển chủ đề. “Vậy, cô sẽ ở lại Wilmington bao lâu?”
“Tới Chủ nhật này. Tôi phải về để thứ Hai đi làm.”
Năm ngày nữa, anh nghĩ.
“Cô có biết ai ở đây nữa không?”
“Không. Tôi tới đây một mình.”
“Tại sao?”
“Tôi chỉ muốn tới chơi thôi mà. Tôi nghe người ta kể một số chuyện hay ho ở đây, và tôi muốn tự kiểm chứng.”
Anh thắc mắc về câu trả lời của cô. “Cô vẫn hay đi nghỉ một mình à?”
“Thật ra thì đây là lần đầu tiên.”
Một người phụ nữ chạy bộ xuất hiện, lướt nhanh qua họ, cạnh cô ta là chú chó Labrador màu đen. Con chó trông có vẻ đã ở ngoài nắng nóng lâu rồi, lưỡi thè ngoẵng. Chẳng để ý gì đến tình trạng của con chó, cô ta vẫn cứ chạy, cuối cùng đổi hướng vòng lại qua Theresa. Lúc người phụ nữ chạy qua, Garrett định nói gì đó với cô ta về con chó nhưng rồi lại nghĩ đó không phải việc của anh.
Một lúc sau Garrett mới lại nói. “Tôi hỏi cô một câu riêng tư được chứ?”
“Còn tuỳ xem câu hỏi đó thế nào nữa.”
Anh đứng lại và nhặt mấy cái vỏ sò nhỏ lọt vào tầm mắt. Sau khi lật đi lật lại chúng vài lần, anh đưa chúng cho cô. “Ở Boston cô có đang hẹn hò với ai không?”
Cô cầm mấy cái vỏ sò và đáp. “Không.”
Những con sóng vỗ vào bờ dồn lại dưới chân họ trong lúc họ đứng ở chỗ nước nông. Dù mong đợi câu trả lời đó, nhưng anh vẫn không hiểu tại sao một người phụ nữ như cô lại chịu để mình cô độc hầu hết các buổi tối.
“Tại sao không? Một người phụ nữ như cô thì đàn ông có mà xếp hàng.”
Cô mỉm cười trước câu nói của anh, và họ lại chậm rãi bước đi. “Cảm ơn anh, anh thật tử tế khi nói vậy. Nhưng chuyện đó không dễ như thế, nhất là khi có một cậu con trai. Có nhiều điều tôi phải cân nhắc khi gặp gỡ ai đó.” Cô ngừng lại. “Nhưng còn anh thì sao? Hiện giờ anh có hẹn hò với ai không?”
Anh lắc đâu. “Không.”
“Thế thì đến lượt tôi hỏi đây – tại sao không?”
Garrett nhún vai. “Tôi đoán là tôi chưa gặp ai khiến tôi thật sự muốn gặp thường xuyên.”
“Chỉ có thế thôi sao?”
Đó là thời điểm quyết định, và Garrett biết thế. Tất cả những gì anh phải làm là xác nhận tuyên bố lúc đầu của anh và điều đó sẽ đặt dấu chấm hết cho chuyện này. Nhưng anh lại đi vài bước nữa mà không nói gì cả.
Người dưới bãi biển thưa thớt hẳn khi họ đi xa khỏi cầu tàu, và giờ chỉ còn tiếng sóng xô ào ạt. Garrett thấy một đám nhạn biển đang đứng gần mép nước, giờ chúng đã ra khỏi đường đi của họ. Mặt trời gần như đã ở trên đỉnh đầu, phản chiếu lên bãi cát khiến cả hai phải hơi nheo mắt một chút trong lúc bước đi. Trong khi nói, Garrett không nhìn vào Theresa, cô bèn xích lại gần hơn để nghe thấy anh nói giữa âm thanh ồn ảo của biển.
“Không, đó không phải là tất cả. Nó là cái cớ thì đúng hơn. Thành thật mà nói thì tôi thậm chí còn chưa từng cố tìm kiếm một ai đó.”
Theresa nhìn anh chăm chú trong lúc anh nói. Anh đang nhìn thẳng về phía trước như thể để tĩnh trí lại, nhưng cô có thế cảm thấy sự miễn cưỡng khi anh nói tiếp.
“Có một chuyện tôi không kể với cô tối qua.”
Cô cảm thấy có gì đó trong mình thắt lại, biết chính xác điều gì sẽ tới. Giữ vẻ mặt bình thản, cô chỉ nói, “Thế ư?”
“Tôi cũng đã từng kết hôn,” cuối cùng anh nói. “Sáu năm.” Anh quay sang cô với một vẻ mặt khiến cô thắt lòng. “Nhưng cô ấy qua đời rồi.”
“Tôi rất tiếc,” cô nói khẽ.
Anh lại dừng bước và nhặt vỏ sò, chỉ có điều lần này anh không đưa cho Theresa. Sau khi xem xét chúng một cách ngẫu nhiên, anh ném một cái vào những con sóng đang ùa tới. Theresa nhìn chúng biến mất vào lòng biển.
“Chuyện đó xảy ra ba năm trước. Kể từ đó, tôi không hứng thú với việc hẹn hò, hay thậm chí là gặp mặt.” Anh ngừng lại một chút, cảm thấy không thoải mái.
“Có lúc hẳn phải cô đơn lắm.”
“Đúng thế, nhưng tôi cố gắng không nghĩ về chuyện đó quá nhiều. Tôi bận bịu với cửa hàng suốt – luôn luôn có việc phải làm ở đó – và nó giúp tôi sống qua ngày đoạn tháng. Trước khi tôi kịp nhân thấy cô đơn thì đã đên giờ đi ngủ và ngày hôm sau tôi lại bắt đầu như thế.”
Dứt lời, anh liếc nhìn cô với một nụ cười yếu ớt. Đấy, anh đã nói ra rồi đấy. Nhiều năm nay anh đã muốn nói chuyện đó với ai đó khác ngoài bố mình, và cuối cùng lại nói với một người phụ nữ từ Boston tới mà anh chẳng biết gì nhiều. Một người phụ nữ không hiểu sao lại có thể mở được những cánh cửa mà chính anh đã đóng chặt.
Cô không nói gì. Thấy anh không thổ lộ gì thêm nữa, cô hỏi: “Cô ấy là người thế nào?”
“Catherine ư?” Họng Garrett khô ran. “Cô thật sự muốn biết sao?”
“Vâng,” cô nói bằng giọng dịu dàng.
Anh lại ném một cái vỏ sò nữa vào sóng, trấn tĩnh lại. Làm sao anh có thể hy vọng tả được cô bằng lời? Nhưng phần nào đó trong anh lại muốn cố, muốn rằng trong số tất cả mọi người thì Theresa sẽ là người hiểu được. Không cưỡng lại được, anh lại bị kéo trở lại với quá khứ một lần nữa.
“Này, anh yêu,” Catherine nói trong lúc ngước nhìn lên từ dưới vườn. “Em không ngờ là anh lại về sớm thế.”
“Sáng nay ở cửa hàng chán quá, nên anh nghĩ có khi ghé về nhà ăn trưa để xem em thế nào.”
“Em cảm thấy đỡ hơn nhiều rồi.”
“Em nghĩ là bị cúm à?”
“Em không biết nữa. Có lẽ là do em đã ăn phải thứ gì đó. Khoảng một tiếng sau khi anh đi, em cảm thấy đủ khoẻ khoắn để làm vườn một lúc.”
“Anh thấy rồi.”
“Anh thấy mấy bông hoa thế nào?” Cô chỉ một khoảnh đất nhỏ mới được xới.
Garrett nhìn mấy cây hoa bướm mới trồng dọc theo hiên nhà. Anh mỉm cười. “Đẹp lắm, nhưng em không nghĩ là lẽ ra em nên để lại cho luống hoa tí đất à?”
Cô quệt trán bằng mu bàn tay và đứng lên, nheo mắt ngước nhìn anh dưới ánh nắng rực rỡ. “Trông em tệ thế à?”
Đầu gối cô đen sì vì quỳ xuống đất, và một vệt bùn chạy dọc trên má cô. Tóc cô tuột khỏi cái túm đuôi ngựa đã xổ ra, mặt cô thì đỏ gay và đầm mồ hôi vì ráng sức.
“Trông em thật hoàn hảo.”
Catherine tháo găng ra và quăng chúng lên hiên. “Em không hoàn hảo, Garrett ạ, nhưng cảm ơn anh. Nào, để em làm bữa trưa cho anh nhé. Em biết anh còn phải quay lại cửa hàng.”
Anh thở dài, cuối cùng quay sang cô. Theresa đang nhìn anh chăm chú, chờ đợi. Anh nói nhẹ nhàng.
“Cô ấy từng là tất cả những gì tôi muốn. Cô ấy đẹp và duyên dáng, hài hước lắm, và cô ấy ủng hộ mọi việc tôi làm. Tôi quen cô ấy gần như từ tấm bé – chúng tôi học cùng nhau. Một năm sau khi tôi tốt nghiệp trường Đại học Bắc Carolina thì chúng tôi cưới. Chúng tôi sống với nhau được sáu năm trước khi vụ tai nạn xảy ra, và đó là sáu năm tốt đẹp nhất tôi từng có. Khi cô ấy bị cướp đi…” Anh ngừng lại như thể không biết phải nói gì nữa. “Tôi không biết liệu có bao giờ tôi quen được với việc sống thiếu cô ấy không.”
Cái cách anh nói về Catherine khiến Theresa đau lòng thay anh hơn mức cô có thể tưởng tượng ra. Không chỉ bởi giọng nói của anh, mà cả vẻ mặt của anh trước lúc miêu tả về vợ mình – như thể bị giằng xé giữa sự đẹp đẽ của ký ức và nỗi đau khi phải hồi tưởng. Những lá thư rất xúc động, nhưng chúng không chuẩn bị trước cho cô đón nhận chuyện này. Lẽ ra mình không nên gợi chuyện, cô nghĩ. Mình đã biết anh ấy cảm thấy thế nào về vợ rồi mà. Chẳng có lý do gì bắt anh ấy phải kể về chuyện đó cả.
Có đấy, một giọng nói khác trong đầu cô đột nhiên chen vào. Mày phải tận mắt phản ứng của anh ấy chứ. Mày phải tìm hiểu xem liệu anh ấy đã sẵn sàng bỏ lại quá khứ sau lưng hay chưa.
Sau một lát, Garrett lơ đãng quăng những vỏ sò còn lại vào làn nước. “Tôi xin lỗi về chuyện đó,” anh nói.
“Sao cơ?”
“Lẽ ra tôi không nên kể với cô về cô ấy. Hoặc kể quá nhiều về tôi.”
“Không sao đâu, Garrett. Tôi muốn biết mà. Tôi đã hỏi anh về cô ấy, nhớ không?”
“Tôi không định kể chuyện đó bằng giọng như thế.” Anh nói như thể vừa làm một việc sai trái vậy. Theresa phản ứng hầu như theo bản năng.
Bước về phía anh, cô đưa tay ra để nắm lấy tay anh. Chậm rãi nắm lấy nó bằng cả hai bàn tay mình, cô siết nhẹ. Khi nhìn anh, cô thấy vẻ ngạc nhiên trong mắt anh, dù vậy anh không cố rụt tay lại.
“Anh đã mất vợ – một chuyện mà hầu hết những người ở tầm tuổi chúng ta không hiểu gì cả.” Anh cụp mắt xuống trong lúc cô cố tìm lời lẽ thích hợp.
“Những cảm xúc của anh nói lên rất nhiều về con người anh. Anh là kiểu người đã yêu ai là yêu mãi mãi… Chẳng có gì đáng phải xấu hổ cả.”
“Tôi biết. Chỉ có điều là đã ba năm rồi…”
“Một ngày nào đó anh sẽ lại tìm được một người đặc biệt. Những người đã từng yêu thì sẽ luôn yêu được nữa. Đó là bản tính của họ rồi.”
Cô lại siết tay anh lần nữa, và Garrett cảm thấy sự đụng chạm của cô làm anh ấm lòng. Vì lý do nào đó mà anh không muốn buông ra.
“Tôi hy vọng là cô nói đúng,” cuối cùng anh nói.
“Đương nhiên. Tôi hiểu những chuyện như vậy. Tôi là một bà mẹ mà, nhớ không?”
Anh bật cười khe khẽ, cố gắng giải toả sự căng thẳng mình đang cảm thấy. “Tôi nhớ. Và có lẽ cô là một người mẹ tốt.”
Họ quay lại và đi về phía cầu tàu, trò chuyện nhỏ nhẹ về ba năm qua, vẫn nắm tay nhau. Lúc họ tới được chỗ xe anh đậu và quay lại cửa hàng, Garrett cảm thấy bối rối hơn bao giờ hết. Những sự việc trong hai ngày qua thật bất ngờ. Theresa không còn là một người xa lạ nữa, nhưng cũng không hẳn là một người bạn. Chắc chắn là anh đã bị cô cuốn hút. Chỉ có điều cô sẽ rời đi trong vòng vài ngày nữa, và anh biết rằng có lẽ như vậy sẽ tốt hơn.
“Anh đang nghĩ gì thế?” cô hỏi. Garrett sang số để tăng tốc chiếc xe tải trong lúc họ vượt qua cầu về Wilmington và Island Diving. Tiến lên, anh nghĩ. Nói cho cô ấy biết điều gì đang thực sự diễn ra trong đầu mày đi.
“Tôi đang nghĩ,” cuối cùng anh lên tiếng, đến chính anh cũng ngạc nhiên, “rằng nếu tối nay cô không có kế hoạch gì, tôi muốn mời cô tới nhà dùng bữa.”
Cô mỉm cười. “Tôi đã hy vọng là anh sẽ nói thế.”
Đến lúc rẽ trái vào con đường dẫn tới cửa hàng, anh vẫn còn ngạc nhiên với chính mình vì đã đề nghị thế.
“Cô ghé qua chỗ tôi lúc tám giờ được chứ? Tôi còn vài việc phải làm ở cửa hàng, có lẽ không xong sớm được.”
“Được. Anh sống ở đâu nhỉ?”
“Ở bãi biển Carolina. Tôi sẽ chỉ đường cho cô khi chúng ta về tới cửa hàng.”
Họ rẽ vào bãi đỗ xe và Theresa đi theo Garrett vào văn phòng. Anh vẽ đường đi lên một mảnh giấy. Cố gắng để trông không bối rối như trong lòng đang cảm thấy, anh nói:
“Cô đừng đi lạc trong lúc tìm đường đấy nhé – cứ ngó xem có cái xe tải của tôi ở trước nhà không. Nhưng nếu có khó khăn gì thì số điện thoại của tôi ở phía dưới cùng ấy.”
Sau khi cô đi, Garrett liền nghĩ ngợi về buổi tối sắp đến. Ngồi trong văn phòng, hai câu hỏi cứ quấy rầy anh mà không có câu trả lời. Thứ nhât, tại sao anh lại bị Theresa hấp dẫn đến thế? Và thứ hai, tại sao đột nhiên anh lại cảm thấy như thể mình đang phản bội Catherine?


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.