Lolita

Chương 3



Giống như tác giả những dòng này, Annabel cũng là con lai: bố Anh, mẹ Hà Lan. Bây giờ, tôi không còn nhớ rõ nét mặt cô, mờ ảo hơn nhiều so với hồi cách đây mấy năm, trước khi tôi gặp Lolita. Có hai loại kí ức thị giác; một là khi ta khéo léo tái tạo một hình ảnh trong phòng thí-nghiệm-tâm-trí, mắt vẫn mở (theo cách này, tôi hình dung Annabel dưới dạng vẻ có thể mô tả bằng những từ chung chung như: “da mật ong”, “hai cánh tay mảnh dẻ”, “tóc nâu bồng”, “mi dài”, “miệng rộng tươi rói”); hai là khi ta nhắm mắt gợi lên tức thì trên vành trong tối đen của mí mắt hình ảnh tuyệt đối trung thành, khách quan, như một bóng ma nhỏ bé theo các màu sắc tự nhiên, của một gương mặt yêu dấu (và đó là cách tôi hình dung Lolita).

Do vậy, trong việc mô tả Annabel, xin cho phép tôi chỉ nói gọn rằng đó là một cô bé rất đáng yêu kém tôi vài tháng tuổi. Cha mẹ cô là bạn cố tri của bác Sybil và họ cũng cứng nhắc như bác. Họ thuê một biệt thự cách khách sạn Mirana không xa. Ông Leigh hói đầu, da ngăm ngăm, bà Leigh (tên thời con gái là Vanessa van Ness) béo và mặt trát bự phấn. Tôi rất ghét cả hai vợ chồng! Thoạt đầu, Annabel và tôi toàn nói những chuyện đẩu đâu. Cô thường vốc từng vốc cát mịn và để nó chảy xuống qua kẽ tay. Đầu óc chúng tôi được khuôn đúc cùng một kiểu với những đứa trẻ châu Âu thông minh ở độ tuổi tiền-vị thành niên vào thời chúng tôi và thuộc giai tầng chúng tôi, và tôi không tin rằng người ta có thể gán cho chúng tôi ít nhiều phẩm chất thiên tài chỉ vì chúng tôi quan tâm đến sự đa nguyên của thế giới có cư dân, đến những cuộc thi đấu quần vợt, đến cõi vô tận, đến thuyết duy ngã[1] vân vân. Nhìn những con vật sơ sinh mềm nhũn và mỏng manh, chúng tôi đều cảm thấy nhói đau. Annabel muốn sau này sẽ là một nữ y tá ở một nước châu Á nghèo đói; tôi thì muốn trở thành một điệp viên trứ danh.

[1] Đây là một từ quan trọng trong Lolita. Theo thuyết duy ngã, bản ngã chỉ biết đến trạng thái hiện tại của nó và là vật duy nhất tồn tại, còn “thực tại” là chủ quan. (Xem thêm ở chương 13, Phần Một).

Ngay lập tức, chúng tôi mê nhau điên cuồng, vụng về, đau đớn, không còn biết xấu hổ; tôi phải nói thêm là một cách vô vọng, bởi lẽ nỗi khát khao cuồng khấu muốn chiếm hữu nhau đó chỉ có thể vơi nhẹ đi bằng việc thực sự ngấm vào nhau, nhập làm một với nhau, đến từng phân tử của cả linh hồn lẫn thể xác; nhưng ấy đấy, chúng tôi thậm chí không thể giao phối với nhau như lũ trẻ ở những xóm ổ chuột lúc nào cũng dễ dàng kiếm được cơ hội để làm. Sau lần điên cuồng tìm cách gặp nhau ban đêm trong vườn nhà Annabel (tôi sẽ nói thêm về chuyện này ở phần dưới), phạm vi riêng tư duy nhất mà chúng tôi được phép là ở ngoài tầm tai nghe, nhưng vẫn trong tầm nhìn, của khu đông người trên plage* (bãi tắm). Ở đó, trên cát mềm, cách các bậc phụ huynh mấy bước, chúng tôi nằm ềnh suốt buổi sáng trong tột đỉnh thèm khát đến đờ đẫn và lợi dụng mọi ngẫu nhiên may mắn trong không gian và thời gian để sờ soạng nhau: bàn tay cô, lấp một nửa trong cát, trườn về phía tôi, những ngón nâu thon mảnh lừ lừ tiến như kiểu mộng du, mỗi lúc một sát lại gần; rồi cái đầu gối anh ánh màu trắng sữa bắt đầu một hành trình dài, thận trọng; đôi khi, một cái ụ tình cờ do mấy đứa nhỏ đắp tạo cho chúng tôi một thứ bình phong đủ kín để có thể chà hai cặp môi mặn vào nhau; những tiếp xúc nửa vời ấy đã đẩy hai cơ thể thanh xuân, khỏe mạnh và thiếu kinh nghiệm của chúng tôi lên tới một bức xúc cao độ đến nỗi cả làn nước xanh mát lạnh trong đó chúng tôi tiếp tục bám riết lấy nhau cũng không thể làm nguôi dịu.

Trong số những bảo vật mà sau này, trong những năm bôn ba ở tuổi trưởng thành, tôi đã đánh mất, có một tấm hình do bác tôi chụp nhanh tại một tiệm cà phê vỉa hè; trong ảnh, ta thấy Annabel và cha mẹ cô ngồi quanh một cái bàn cùng với một ông già cổ lỗ thọt chân, bác sĩ Cooper, người theo đuổi bác tôi vào mùa hè năm ấy. Mặt Annabel nom không rõ lắm vì lúc ấy cô đang cúi trên cốc chocolat glacé* (sô-cô-la đá) của mình và người ta chỉ có thể nhận ra cô ở đôi vai trần mảnh khảnh và đường rẽ ngôi của mái tóc (theo những gì tôi còn nhớ về tấm ảnh đó) giữa một quầng nhoa nhóa nắng quyện lẫn với vẻ yêu kiều nay đã vĩnh viễn mất của cô; riêng tôi, lúc đó ngồi hơi tách ra khỏi mọi người, thì nổi bật lên một cách đầy kịch tính: một thiếu niên cau có, trán dô, mặc áo sơ mi ngắn tay sẫm màu và quần soọc may đẹp, bắt chéo chân, quay nghiêng mặt nhìn đi chỗ khác. Tấm ảnh này chụp vào ngày kết thúc mùa hè định mệnh của chúng tôi và chỉ mấy phút trước khi chúng tôi thực hiện nỗ lực thứ hai và cuối cùng nhằm chống lại số phận. Kiếm một cớ lăng nhăng chẳng ra đâu vào đâu (đây là cơ hội tối hậu của chúng tôi và ngoài ra, chẳng còn gì là thực sự quan trọng nữa), chúng tôi chuồn khỏi tiệm cà phê chạy ra bãi tắm, tìm được một dải cát vắng vẻ và ở đó, dưới bóng râm tím ngát của những tảng đá đỏ tạo thành một thứ hang động nhỏ, chúng tôi lao vào một cuộc ôm ấp vuốt ve rồ dại trước một nhân chứng duy nhất là cặp kính râm của ai đó bỏ quên. Tôi đã quì xuống, sắp sửa chiếm đoạt người yêu dấu thì hai người đi tắm râu ria xồm xoàm, ông già biển và em trai ông, chợt xộc ra từ những làn sóng, với những tiếng hò la khuyến khích tục tĩu, và bốn tháng sau, Annabel chết vì bệnh sốt chấy rận ở Corfu [2].

[2] Một hòn đảo của Hi Lạp.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.