Lolita

Chương 36



Phần còn lại hơi tẻ và nhạt nhòa. Tôi chậm rãi lái xe xuống dốc và lát sau, thấy mình lăn bánh theo một hướng ngược với Parkington, vẫn với tốc độ lười nhác ấy. Tôi đã bỏ lại chiếc áo mưa trong phòng khách nhỏ và Anh Bạn trong buồng tắm. Không, đó không phải là một ngôi nhà mà tôi thích ở. Tôi vẩn vơ tự hỏi liệu có nhà phẫu thuật thiên tài nào có thể thay đổi sự nghiệp của mình và thậm chí cả số phận nhân loại bằng cách hồi sinh cho Clare Quilty Âm-Ti-Sáng-Tối [1]. Không phải là tôi thiết gì; nói chung, tôi muốn quên toàn bộ cái vụ bầy nhầy này – và khi tôi biết chắc rằng hắn đã chết, điều thỏa mãn duy nhất tôi có được là cảm giác nhẹ nhõm do biết rằng mình không cần phải suốt nhiều tháng trời để tâm trí lẽo đẽo theo một kì dưõng bệnh đau đớn và ghê tởm, ngắt quãng bởi đủ mọi kiểu phẫu thuật và tái phát chẳng ngon lành gì và có thể, bởi một cuộc viếng thăm thực thụ của hắn, bản thân tôi cũng khó mà không coi hắn một cách hợp lí như một con ma hiện hình. Thomas [2] không phải không có lí. Thật kì lạ, xúc giác, đối với con người, vốn muôn phần kém quí giá hơn thị giác, lại trở thành phương tiện chủ yếu, nếu không muốn nói là duy nhất, của chúng ta để nắm được thực tại trong những khoảnh khắc gay cấn. Toàn thân tôi bị phủ kín bởi Quilty – bởi cái cảm giác cọ xát trong cuộc ẩu đả trước khi máu đổ.

[1] Nguyên văn: “quilted Quilty, Clare Obscure”.Một ngón chơi chữ: “quilted”, nghĩa đen là may chần, phát âm ns ná như Quilty – theo kiểu “ông Nảng ông Nang, ông Ninh ông Ninh” trong đng dao cùa ta; “Clare Obscure” gợi đến kĩ thuật sáng-ti (clair-obscur) trong hội họa.

[2] Theo Kinh Thánh, sách thánh John (câu 24, chương 20), Thomas, kẻ “hoài nghi”, là vị thánh tông đồ duy nhất không chịu tin sự phục sinh của ChúaJesus cho đến khi chính tay sờ thấy những vết đóng đanh câu rút trên tay Chúa.

Con đường lúc này vắt ngang qua vùng đồng không mông quạnh, và tôi chợt nảy ra ý nghĩ – không phải như một hành động phản kháng, cũng không phải như một biểu tượng hay bất kì cái gì tương tự, mà chỉ đơn thuần để tìm kiếm một trải nghiệm mới – là: một khi đã bất chấp mọi luật lệ của nhân loại, thì tôi cũng có thể bất chấp luôn cả mọi luật lệ giao thông. Thế là tôi tạt sang mé bên trái đường và kiểm tra cảm giác của mình: cảm giác là dễ chịu. Đó là một sự hòa tan khoan khoái nơi hoành cách mô, kèm theo những yếu tố xúc giác lan tỏa, tất cả được tôn lên bởi ý nghĩ rằng không gì có thể giống việc loại trừ những qui luật vật thể cơ bản hơn việc cố tình lái xe bên mé đường trái phép. Nói cách nào đó, đây là một háo hức rất tâm linh. Nhẹ nhàng, mơ màng, không vượt quá tốc độ 30 km/giờ, tôi tiếp tục lái xe bên mé nghịch đảo kì dị đó. Xe cộ qua lại thưa thót. Những chiếc xe thi thoảng qua tôi bên mé đường tôi đã bỏ lại cho họ, bấm còi mắng tôi xa xả. Những chiếc xe đi về phía tôi tròng trành, ngoặt tránh và rú lên kinh hoàng. Lát sau, tôi thấy mình đang đến gần vùng dân cư. Vượt quá một đèn đỏ giống như khi còn nhỏ vi phạm lệnh cấm, uống trộm một ngụm rượu vang Bourgogne. Giữa lúc đó, những rắc rối bắt đầu xảy ra. Người ta đi theo và hộ tống tôi. Rồi tôi thấy trước mặt mình hai chiếc xe giăng hàng chắn đường tôi hoàn toàn. Bằng một chuyển động duyên dáng, tôi quặt ra khỏi đường cái và, sau hai, ba cú nhảy chồm mạnh mẽ, tôi leo lên một bờ dốc đầy cỏ giữa những chị bò cái ngỡ ngàng, và đến đây, khẽ rùng mình dừng lại. Một kiểu tổng hợp theo cách Hegel, ân cần nối hai người đàn bà quá cố [3] với nhau.

[3] Chỉ Charlotte và Lolita. Cái chết cùa Charlotteđược gợi nhớ lại  đây bằng chi tiết xe leo lên bờ dốc đầy cỏ (chiếc xe Packard cùa kẻ gây ra tai nạn cán chếCharlotte leo lên một “bãi cỏ thoai thoải dốc”; đu chương 23, Phn Một), còn cái chết cLolitađược báo trước từ “Lời nói đầu” Vik nhắc đếchương 29, Phn Hai (“bởi vì em đã chết và bt tử, khi quí vị đọc những dòng này’). Cái “kiểu tổng hợp theo cách Hegel” ý thức rõ vở The Enchanted Hunters, được thể hiện theo thủ pháp “kịch-trong-tiểu-thuyét”, trong đó Lolita được phân đóng vai cô con gái đầy sức quyến rũ cùa một nông dân (xem chương 13, Phần Một), với thông điệp là: ảo ảnh và thực tế hòa quyện vào nhau trong tình yêu. Khi H.Hđề nghị nàng Lolita bụng mang dạ chửa, bàn tay vằn gân xanh, đi theo mình, ông ta chứng minh rằng ảo ảnh của quá khứ (Lolita tiểu nữ thần như hiện thân của Annabel đã mất) và thực tế của hiện tại (người đàn bà giống như Charlotte mà Lolita đã trở thành) đã hòa quyện vào nhau trong tình yêu, một sự “tổng hợp ân cần nối hai người đàn bà quá cố với nhau”.

Không lâu sau, tôi được đưa ra khỏi xe (chào Melmoth, rất cảm ơn anh bạn già) – và, quả thật, tôi mong được tự nộp mình vào tay cả đám người đó, thụ động để họ đưa đẩy và mang đi, thư giãn, thoải mái, không làm gì để hợp tác, lười nhác phó mặc mình cho họ như một bệnh nhân, và rút ra một niềm khoái thú kì ảo từ sự yếu lả của mình, từ chỗ dựa tuyệt đối đáng tin cậy mà đám cảnh sát và những nhân viên y tế ở xe cứu thương mang lại cho tôi. Và trong khi chờ họ chạy lên tới tôi trên bờ dốc cao, tôi ôn lại trong trí một ảo ảnh cuối cùng của kì diệu và tuyệt vọng. Một hôm, ít lâu sau khi em mất tích, một cơn buồn nôn khủng khiếp buộc tôi phải dừng xe trên một con đường núi cũ mèm chập chờn như bóng ma, khi thì song hành, lúc lại vắt ngang một xa lộ mới toanh, với đám cây cúc tây tắm trong hơi ấm hờ hững của một buổi chiều xanh nhạt cuối hè. Sau một trận ho ọe thốc tháo, tôi ngồi nghỉ một lát trên một mỏm đá, rồi nghĩ rằng không khí dịu ngọt có thể tốt cho mình, tôi bèn đi bộ một quãng về phía một lan can đá thấp bên bờ vực. Những con cào cào nhỏ nhảy vọt khỏi đám cỏ úa ven đường. Một đám mây rất mỏng dang tay bay tới một đám mây khác đậm đặc hơn tí chút thuộc một hệ thiên thể lừ đừ hơn. Khi đến gần bò vực thân thiện, tôi nhận ra một chùm âm thanh du dương dâng lên như một làn hơi từ một thành phố mỏ xinh xắn nằm dưới chân tôi, trong một nếp của thung lũng. Có thể nhìn rõ đường nét kỉ hà của những con phố giữa những khối nhà mái đỏ và xám, cùng những lùm cây xanh, và một con suối ngoằn ngoèo, và ánh lấp lánh, nục nạc như quặng mỏ của đống rác thải của thành phố, và ở ngoại vi, những con đường đan chéo nhau trên mảng chắp vá rắm rối những cánh đồng chỗ đen chỗ trắng, và đằng sau tất cả là những trái núi lớn có rừng cây lấy gỗ. Nhưng sự rung động không ngừng của các âm thanh chồng lên nhau, sự rung động như một làn hơi nước ấy còn rực rỡ hơn cả những sắc màu đang lặng lẽ liên hoan – bởi vì có những màu sắc và bóng tối dường như thích chung vui với nhau – vừa rực rỡ, vừa mơ mộng với lỗ tai hơn là với con mắt, khi nó dâng lên tới làn môi granit của miệng vực; nơi tôi đang đứng lau cái miệng nhớp nhúa vì vừa nôn mửa của mình. Và không lâu sau, tôi nhận ra rằng tất cả những âm thanh đó có cùng một tính chất, rằng không có âm thanh nào khác ngoài chúng vọng lên từ những con phố của cái thành phố nhỏ trong suốt kia, nơi đàn bà ở nhà, đàn ông đi vắng. Bạn đọc! Những gì tôi nghe thấy chỉ là giai điệu của con trẻ vui chơi, không có gì khác, và không khí trong vắt đến độ bên trong làn hơi của những giọng hòa trộn đó, uy nghi và nhỏ bé, xa lắc và gần kề như bởi phép màu, thật thà hồn nhiên và bí hiểm một cách thần tiên – ta có thể thi thoảng nghe thấy, tựa hồ được phát ra, một nhịp cười sinh động gần như có cấu âm rành rọt, hay tiếng một cây gậy đánh bóng, hoặc tiếng lách cách của một chiếc xe goòng đồ chơi, nhưng tất cả thực sự quá xa nên mắt thường không thể nhìn rõ bất kì chuyển động nào trên các đường phố như những nét thanh mảnh trên tranh khắc kẽm. Từ cao điểm của mình, tôi đứng lắng nghe làn rung động đầy nhạc tính ấy, những tiếng reo lóe lên tách bạch ấy, trên nền một thứ âm thanh rì rầm kín đáo, và tôi chợt hiểu ra rằng cái đau thắt lòng đến vô vọng nơi tôi không phải là sự thiếu vắng Lolita bên cạnh tôi, mà là sự thiếu vắng giọng em trong hợp xướng hài hòa kia.

Vậy đó, câu chuyện của tôi. Tôi đã đọc lại nó. Có những mẩu tủy nhỏ dính vào nó, và máu, và những con nhặng đẹp ánh lên một màu xanh rực rỡ nữa. Ở những khúc khuỷu chỗ này, chỗ nọ, tôi cảm thấy cái bản ngã trơn tuột của tôi né tránh tôi, chui vào những vùng nước quá sâu và quá tối chẳng thiết mò tìm. Tôi đã ngụy trang tất cả những gì tôi có thể ngụy trang để không xúc phạm một ai. Và tôi đã loay hoay với nhiều tên giả trước khi tìm trúng một bút danh đặc biệt thích hợp. Trong những ghi chép của tôi, còn có “Otto Otto” và “Mesmer Mesmer” và “Lambert Lambert”, nhưng vì một lí do nào đó, tôi nghĩ lựa chọn của tôi biểu đạt sự đê tiện chuẩn nhất.

Năm mươi sáu ngày trước đây, khi khởi thảo Lolita, thoạt đầu là ở trong khu theo dõi bệnh nhân tâm thần, rồi sau đó, trong cái phòng biệt lập như hầm mộ mặc dù được sưởi ấm này, tôi nghĩ là mình sẽ sử dụng những ghi chép này in toto [4] tại phiên tòa xử tôi để cứu, không phải cái đầu tồi, mà là linh hồn tôi. Tuy nhiên, soạn đến nửa chừng, tôi hiểu ra rằng tôi không thể phơi bày Lolita chừng nào em còn sống. Tôi vẫn có thể sử dụng một số phần của cuốn hồi kí này trong các phiên xử kín, nhưng việc xuất bản thì phải hoãn lại.

[4] Tiếng Latinh: toàn bộ

Vì những lí do có vẻ hiển nhiên hơn là thực chất của chúng, tôi chống đối tử hình; thái độ ấy, tôi tin, sẽ được quan tòa tuyên án chia sẻ. Nếu tôi là quan tòa xử chính mình, chắc tôi sẽ cho Humbert mức án ít nhất là ba mươi lăm năm vi tội hiếp dâm và bác bỏ những cáo buộc còn lại. Nhưng ngay cả như thế, vẫn có khả năng là Dolly Schiller sống lâu hơn tôi nhiều năm. Tôi muốn quyết định sau đây của tôi có tất cả hiệu lực pháp lí với bệ đỡ của một di chúc được kí một cách hợp thức: tôi muốn tập hồi ức này chỉ được xuất bản khi Lolita không còn nữa.

Như vậy, không ai trong hai chúng tôi còn sống khi độc giả mở cuốn sách này. Nhưng trong khi mạch máu còn đập trong bàn tay cầm bút này, em vẫn còn là một phần của vật chất đầy ân phước như tôi, và tôi vẫn còn có thể trò chuyện với em từ đây cho đến Alaska. Hãy chung thủy với Dick của em. Đừng để kẻ khác đụng vào em. Đừng nói chuyện với người lạ [5]. Tôi hi vọng em sẽ yêu đứa con nhỏ của em. Tôi hi vọng đó sẽ là một bé trai. Cái cậu thanh niên chồng em, tôi hi vọng cậu ta sẽ luôn luôn đối xử tốt với em, bởi vì nếu không, hồn ma của tôi sẽ ập xuống cậu ta như một đám khói đen, như một gã khổng lồ cuồng dại, và xé tơi cậu ta thành từng thớ thần kinh. Và đừng có thương hại C.Q [6] Phải chọn giữa hắn và H. H., và H. H. cần được tồn tại thêm ít nhất là vài tháng để làm cho em sống trong tâm trí những thế hệ mai sau. Tôi nghĩ đến những con bò rừng auroch [7] và những thiên thần, đến bí quyết của những sắc tố trường cửu, những bài xonnê tiên tri, nghệ thuật như là nơi ẩn náu. Và đó là sự bất tử duy nhất mà em và tôi có thể chia sẻ cùng nhau, ơi Lolita của tôi.

[5] Theo Who’s Who in the Limelight (Từ điển danh nhân trong giới sân khấu), Dolores Quine mở đầu sự nghiệp diễn viên bằng một vai trong vở “Đừng bao giờ nói chuyện với người lạ” (xem chương 8, Phần Một), và ở chương 32, Phần Một H.H cũng đã khuyến cáo Lolita như vậy: “…nếu tôi là em, tôi sẽ không nói chuyện với người lạ”.

[6] Clare Quilty

[7] Auroch: loại bò rừng Châu Âu nay đã tuyệt chủng, chỉ còn lại hình ảnh trên vách một số hang động ở Tây Ban Nha và Pháp.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.