Lớn Lên Trên Đảo Vắng
Phần I – Chương 01
GIA ĐÌNH TÔI, GIÔ-DÉP XTÁC – CHÚNG TÔI LÊN ĐƯỜNG SANG CHÂU MỸ – BÃO TÁP – TRÊN CHIẾC TÀU BỊ NẠN – NHỮNG CHIẾC PHAO BƠI KIỂU MỚI – LẦN THĂM DÒ THỨ NHẤT TRÊN TÀU – CHIẾC THUYỀN CHẬU.
Tôi là Giô-dép Xtác, vợ tôi tên là E-li-da-bét, đều là người Thụy Sĩ, quê ở Giơ-ne-vơ. Chúng tôi có bốn đứa con trai: Đầu lòng là Phrê-đê-rích. Mười lăm tuổi, một thiếu niên vạm vỡ, dạt dào sức sống. Em kế nó là Éc-nét, bản tính có phần chậm chạp hơn nhưng chăm chỉ học tập, lại thêm khiếu quan sát nảy nở sớm hơn tuổi mười ba của nó nhiều. Sau Éc-nét là Ruýt-ly, mười hai tuổi, tinh nghịch, hơi bộp chộp và vụng về nhưng rất giàu tình cảm và rất dễ thương. Thằng út tên là Phrít, mới lên tám, một trận ốm dai dẳng đã làm cho nó chậm lớn, nhưng tính nết dịu hiền, vui tươi của nó đã thấy phát triển song song với trí tuệ đương phát khao tìm hiểu cuộc sống chung quanh.
Gia đình chúng tôi đương yên ổn làm ăn ở Béc-nơ thì chú em tôi ở bên châu Mỹ gửi thư về mời chúng tôi qua đó thừa hưởng gia tài và sinh cơ lập nghiệp.
Hai tháng sau, thu xếp xong việc nhà, chúng tôi qua hải cảng Ha-vrơ ở Pháp đáp tàu sang châu Mỹ. Trời yên biển lặng, những buổi đầu cuộc hành trình quả là thích thú. Vợ chồng chúng tôi bàn bạc về công việc tương lai; bốn đứa trẻ thì say sưa lăn vào cuộc sống thủy thủ, giúp đỡ công việc điều khiển chiếc tàu, thăm dò mọi ngóc ngách trên sàn, dưới hầm; cái gì cũng mó tay vào gặp gì lạ cũng hỏi, cũng nhận xét tìm hiểu cho được.
Một buổi chiều, trời bỗng bất thình lình trở gió, một cơn giông tố nổi lên hung hãn. Bão táp hoành hành suốt tám ngày đêm không nghỉ. Mọi hoạt động trên sàn đều bị ngừng lại vì sóng quét dữ dội quá. Chiếc tàu bị phá hỏng khá nhiều, không thể điều khiển được nữa. Nó cứ trôi dần về đông nam. Tôi đã đưa tất cả gia đình vào một cái buồng nhỏ ở phía cuối tàu, ít bị sóng gió vật vã hơn cả. Chúng tôi ngồi sát vào nhau, theo dõi những vỏ tàu nứt rạn, lo lắng trông chờ hiệu lệnh rời bỏ tàu.
Cơn bão kéo dài luôn mười ngày đêm khủng khiếp. Đến ngày thứ mười một chẳng những không dịu đi chút nào, nó lại còn có vẻ muốn tăng lên nữa. Chiếc tàu cứ trôi hoài về đông nam, chẳng biết là đang ở nơi nào nữa! Bao nhiêu cột buồm đều gãy hết cả, qua các lỗ thủng, nước đã ùa vào khá nhiều. Suốt mười mấy ngày mất ăn bỏ ngủ, anh em thủy thủ đã mệt nhoài không còn hơi sức điều khiển con tàu được nữa. Họ không càu nhàu như mọi khi mà chỉ còn biết rên la thất vọng. Cuối cùng, nỗi lo sợ lan khắp tàu, ai nấy đều nghĩ tới cảnh mong được thoát chết.
Trước quang cảnh ấy,các con tôi sợ hãi tái xanh tái xám. Thấy thế, tôi bảo chúng:
– Các con ơi! Hãy bình tĩnh! Nếu cái chết có tới thì ta cứ bình thản chờ đón và đương đầu với nó. Hoảng hốt chỉ vô ích thôi!
Nghe câu nói đau lòng, vợ tôi khẽ chùi nước mắt.
Bỗng nhiên, qua tiếng song đạp ầm ầm vào sườn tàu, chúng tôi nghe người gác trên chòi cao kêu lên: “Đất liền! Đất liền!”
Nhưng ngay lúc đó, chiếc tàu va mạnh một cái, dữ dội đến nỗi chúng tôi đều ngã lăn chiêng. Tiếp đó, một tiếng nứt rạn vang ầm lên, rồi tiếng nước chảy ùa vào khắp nơi rất mạnh. Rõ ràng là sườn tàu vừa đâm phải một mỏm đá ngầm: tàu đắm mất! Tiếng viên thuyền trưởng thất vọng kêu vang lên:
– Nguy rồi! Xuống biển! Thả xuồng xuống biển! Nguy rồi!
Tiếng kêu khủng khiếp như xé tim tôi, nhất là khi mấy đứa trẻ nhắc lại, giọng khiếp đảm. Tuy nhiên, tôi vẫn cố trấn tĩnh và bảo các con:
– Hãy can đảm lên, các con! Chúng ta vẫn còn ở trên tàu. Đất liền cũng gần. Để bố ra xem tình hình, may ra có còn ít nhiều hi vọng thoát khỏi cơn hiểm nghèo chăng!
Tôi trèo ngay lên sàn tàu. Những đợt mưa ào ào như xối, những lượn sóng hung dữ đương ra công quét sạch sàn tàu khiến một hồi lâu tôi không đứng vững nổi. Sau cùng, tôi bám chặt được vào một khúc gỗ, đoạn cột buồm lớn đã gãy còn sót lại. Lòng dạ đã rối bời, tôi lại quá đau khổ khi tất cả mọi người đều đã ra khỏi tàu! Những chiếc xuồng đầy ứ người bị nạn đã bập bềnh trên sóng cả. Người thủy thủ cuối cùng đã chặt đứt sợi dây buộc xuống cuối cùng vào tàu. Tôi chạy dọc theo đường hành lang bên ngoài, tôi kêu, tôi gọi, tôi cầu, tôi van, nhưng tất thảy đều vô hiệu. Tiếng gào của tôi bị mất hút trong tiếng vang dữ dội của bão táp. Từng đợt sóng dồn đến, cao như núi, cũng lại che mất không cho những người kia nhìn thấy dấu hiệu cầu cứu của tôi. Cũng có thể vì mặt biển chuyển động ghê gớm quá nên xuồng không quay trở lại được. Những chiếc xuồng ngoài kia cứ lao đi vùn vut trước mũi sóng, nhanh ghê gớm. Bao nhiêu hi vọng được cứu vớt thế là tiêu tan mất cả! Ôi! Thật là khủng khiếp! Tuy vậy, tôi lại vững dạ đôi chút vì thấy nước đương úa vào đầy cả một phần chiếc tàu, bỗng dừng lại ở một mức nào đó. Gia đình may mắn lại náu trong một gian phòng ở phía cao, cho nên chẳng có gì nguy hiểm lắm. Thế rồi tôi đảo mắt lo lắng nhìn về phía nam. Qua màn mưa với sương mù, tôi thoáng thấy một dãy bờ biển ở xa xa, quang cảnh cũng khá hoang vu. Tuy thế, trong lúc nguy nan này, việc vào được bờ đất ấy đã trở thành đỉnh cao mơ ước của tôi.
Mặc dầu vô cùng đau khổ thấy mình bị bỏ quên, tôi vẫn cố tạo ra một thái độ bình thản mà chính tôi cũng lấy làm lạ. Tôi quay trở lại với gia đình và bảo vợ con:
– Hãy can đảm! Chưa phải là tuyệt vọng đâu! Đúng là chiếc tàu đã bị mắc cứng ở đây rồi nhưng mà nước không còn dâng lên chỗ chúng ta được nữa! Nếu ngày mai gió bão và sóng nước dịu đi, chúng ta rất có thể tìm cách vào được đất liền cũng không xa mấy.
Niềm hi vọng tuy còn mơ hồ nhưng cũng làm cho các con tôi vững tâm ngay. Riêng vợ tôi, hiểu tôi hơn, vẫn cảm được nỗi lo lắng thầm kín của tôi. Tôi ra hiệu cho vợ tôi biết cảnh trơ trọi của cả nhà hiện nay, nhưng tôi lại càng vững tâm khi thấy lòng tin tưởng của vợ tôi không hề bị lay chuyển. Vợ tôi bảo:
– Hãy ăn uống một chút để lấy sức! Đêm nay có thể gặp nhiều gian khổ đấy, nhưng chúng ta phải sẵn sàng đối phó lại!
Nói xong, bà bắt tay ngay vào sửa soạn bữa tối cho cả nhà cũng như mọi ngày. Bốn đứa trẻ ăn uống rất ngon lành, còn vợ chồng chúng tôi cố gắng lắm mới nuốt được vài miếng. Ngay sau bữa ăn, ba đứa nhỏ nằm lăn ra giường và chẳng mấy chốc đã ngủ say sưa. Riêng Phrê-đê-rích, đứa lớn, có một vẻ lo lắng hơn các em về những nguy cơ của gia đình trong lúc này. Nó cũng muốn thức khua bàn bạc với chúng tôi. Đột nghiên nó nói với tôi:
– Bố ơi! Có một cách để thoát cơn nguy. Thế này nhé! Ta làm cho mẹ con và các em con những chiếc phao bơi bằng cách buộc vào dưới cánh tay những miếng gỗ bần hoặc những cái chai không, để giữ cho người nổi trên mặt nước. Còn bố con ta thì, bố ạ, chúng ta có thể chỉ dùng đôi tay mà bơi dễ dàng.
– Con ạ, ý kiến của con có lẽ tốt đấy! Ngay bây giờ phải tiến hành gấp đi thôi! Lỡ đêm nay có xảy ra chuyện gì thì cũng đã sẵn sàng.
Trong phòng chúng tôi có một số thùng nhỏ và hộp sắt rỗng bỏ đi nhưng bây giờ lại rất thích hợp với sáng kiến ấy. Chúng tôi buộc nối hai chiếc một, cách nhau chừng non một bộ (Chừng 0.324m chia thành 12 tấc bộ, mỗi tấc bộ chừng 27 mi-li-mét). Vợ tôi thắt vào đó những chiếc quai thật chắc để sau sẽ quàng vào dưới cánh tay. Khi những chiếc yếm kỳ lạ ấy đã hoàn thành và mấy đứa nhỏ đáng thương đã mang bên vai, chúng tôi kiên nhẫn chờ đợi ánh mặt trời trở lại. Cứ thế này nếu không may trong đêm tối chiếc tàu bị vỡ, chúng tôi vẫn có thể vừa bơi vừa gối lên sóng và nhờ sức sóng đưa vào bờ.
Chúng tôi thức thâu đêm hôm ấy – cái đêm dài nhất và khủng khiếp nhất trong đời – luôn luôn thấp thỏm kinh hoàng. Chúng tôi lắng nghe từng tiếng động to nhỏ, theo dõi từng chuyển động của con tàu đã ọp ẹp, lo sợ có thể bất thình lình rơi vào một nguy cơ mới. Cứ thế mà biết bao nhiêu kế hoạch vừa mới thành hình đã lại đổ vỡ ngay trong cái đêm khủng khiếp ấy! May sao suốt đêm chẳng có gì xảy ra cả. Sáng sớm hôm sau, gió bão bắt đầu dịu xuống. Trời đã hửng. Phía chân trời đã sạch bóng mây, bình minh báo hiệu một ngày tốt đẹp. Phấn khởi trước cảnh tượng đó, tôi trèo lên sàn tàu trước tiên và gọi vợ con cùng lên bàn bạc. Phrê-đê-rích, vốn là một tay bơi lội cừ, cứ bám chặt lấy sáng kiến “thợ lặn” của mình. Nó còn cả gan cam đoan có thể một tay dìu mẹ nó, một tay bơi:
– Bố ạ, bố thì dìu hai em nhỏ, còn Éc-nét thì cũng đã khá lớn rồi, có thể dựa vào hai cái thùng rỗng này mà bơi một mình vào trong đó được.
Về Éc-net, thằng này cũng khá chậm chạp và bản tính hơi ngại khó, xem ra chẳng thú vị gì với ý kiến của anh. Nó phàn nàn:
– Giá mà đóng được một cái bè để chở cả nhà vào bờ thì tốt quá!
Tôi trả lời ngay:
– Tất nhiên, nếu đóng một chiếc bè không vượt quá sức chúng ta nhiều! Vả chăng đi bè cũng có nhiều nguy hiểm. Thôi đành nghĩ cách khác vậy! Nhưng trước hết, chúng ta hãy lùng sục trong tàu, biết đâu sau cuộc thăm dò ấy lại chẳng tìm được một cách nào khác dễ thực hiện hơn!
Lập tức cả nhà đổ xô đi sục khắp trong tàu. Tôi vào ngay kho lương thực, nơi chứa thức ăn và nước ngọt, bởi vì trước hết phải lo cho cả nhà có cái ăn đã! Vợ tôi và Phrít đi kiếm bầy gà vịt và các gia súc bị bỏ quên đã hai ngày liền trong cơn nguy khốn, chúng có thể đói meo và khát khô cổ rồi. Phrê-đê-rích chạy ngay lại phòng khí giới, Éc-nét lần đến kho đồ dùng của bác thợ mộc và Ruýt-ly xộc vào phòng viên thuyền trưởng. Thằng bé mới mở hé cửa phòng thì hai con chó lớn đã xộc ra. Quá vui mừng vì được tự do, chúng nó xô thằng bé nghã nhào và hít hít ầm ĩ cả lên. Mới đầu Ruýt-ly cũng hoảng sợ nhưng đã kịp trấn tĩnh và tìm ngay được cách điều khiển hai con chó khá dễ dàng. Hình như vì quá đói, chúng nó cũng trở lên dễ bảo. Thằng bé nắm ngay tai hai con vật, mỗi tay một con, dắt chúng lên sàn tàu thì vừa gặp tôi cũng mới trở lên. Mấy đứa kia cũng lục tục kéo về. Phrê-đê-rich xách hai khẩu súng săn, đạn ghém và một thùng nhỏ thuốc súng. Éc-net cầm một cái búa lớn, một cái búa đinh và mấy cái kìm, một mũ đầy các thứ đinh đủ cỡ. Lại có một cái đục và mấy cái khoan thòi lòi trong túi. Ngay đến Phrít cũng góp được phần mình: nó đưa cho tôi một cái hộp đựng rất nhiều những cái móc nhỏ. Tôi mở hộp ra xem và bảo thằng bé:
– Con đã đem về một vật quý! Đây chính là thứ lưỡi câu hảo hạng, sau này sẽ rất có ích cho chúng ta trong việc sinh sống.
– Về phần tôi, – Vợ tôi nói – tôi chỉ đưa về được những tin đáng mừng thôi! Tôi tìm thấy một con bò cái, một con lừa, hai con dê cái và bảy con cừu, lại thêm một con lợn nái béo, tất cả đều còn sống. Tôi đã cho chúng nó ăn một bữa no nê. Chúng nó sẽ có thể cung cấp lương thực cho ta nếu không may ta còn phải nán lại ít lâu trên chiếc tàu ọp ẹp này…
Tôi tiếp lời luôn và cũng để chuyển về ý chính:
– Đúng là chúng ta đều đem về được rất nhiều thứ quý báu và cần thiết, các con ạ! Nhưng tất cả những thứ đó chưa giúp ta vượt được khó khăn trước mắt! Này, ví dụ như Ruýt-ly, con định đưa nỡm này về làm gì? Có phải lại thêm hai miệng ăn không?
Thằng bé vừa vuốt ve hai con chó vừa trả lời:
– Nhưng mà… bố ạ! Khi nào chúng ta lên tới đất liền, chúng nó sẽ giúp chúng ta đi săn.
– Ừ, ừ, đúng quá đấy! Nhưng bây giờ phải nghĩ cách lên tới đất liền đã chứ! Chẳng lẽ con lại cưỡi lên lưng hai con chó mà vào bờ!
– A! – Thằng bé buồn bã kêu lên – Nếu như con có được cái chậu to mà mẹ vẫn dùng để giặt quần áo ở nhà và thỉnh thoảng con vẫn bơi trên hồ ấy mà! Chỉ cần có cái chậu ấy là con có thể đưa cả nhà vào trong đất liền yên ổn. Con đã nhiều lần cưỡi chiếc tàu ấy đi xa hơn như thế rồi!…
Một tia sáng vụt đến trong óc tôi. Tôi reo mừng:
– Tuyệt diệu! Tuyệt diệu! Đúng là không thể coi thường ý kiến của trẻ con. Các con ơi! Mau mau đi với bố. Nhanh lên, mang theo cưa, búa đinh, đinh, khoan. Chúng ta bắt tay ngay vào công việc đi thôi!
Tôi nói qua loa cho các con tôi biết ý định của mình rồi lập tức chúng tôi kéo xuống hầm tàu. Có rất nhiều thùng tô-nô nổi lềnh bềnh trên mặt mặt nước ở đây. Sau nhiều lần vất vả, chúng tôi đã vớt lên được mấy chiếc và lăn chúng lên chỗ sàn thứ nhất, mấp mé nước. Thùng bằng gỗ sồi, rất chắc chắn và đóng đai sắt vững chãi, thật là vừa ý. Tôi nhờ vợ tôi và Phrê-đê-rích giúp sức và đã cưa đôi được bốn chiếc thùng ra thành tám cái chậu lớn, đường kính chừng ba bộ và cao chừng bốn bộ. Tôi xếp những cái chậu ấy sát cạnh nhau thành một dãy dọc trên một tấm ván dày, hai đầu ván còn thừa để có thể uốn cong lại giống như mũi và lái thuyền. Chúng tôi dùng đinh lớn và chốt gỗ ghép chặt những cái chậu ấy lại với nhau rất chắc. Công việc đầu tiên ấy vừa xong, tôi chọn hai tấm ván dài bằng nhau, nẹp chặt vào hai bên dãy thùng rồi dung chốt gỗ ráp hai đầu hai tấm ván với nhau; sau đó, đóng chặt vào tấm ván đáy, làm thành hai mũi thoi ở mũi và lái thuyền. Chúng tôi làm việc cật lực thế mà cũng phải đến chiều tối chiếc thuyền mới tạm thành hình. Nhưng xong thuyền thì làm thế nào mà chuyển nó từ xưởng ra biển? Lại thêm một khó khăn mới! Những cánh tay yếu đuối của chúng tôi đã có thể lấy vật liệu ghép thành chiếc thuyền này đấy, nhưng quả là không thể nào lay chuyển được nó một khi nó đã thành hình. Tuy vậy tôi cũng an ủi các con tôi và bảo chúng đi tìm một cái kích đem lại. Trong khi hai đứa đi tìm kích, tôi cưa sẵn một cái sào buồm ra nhiều đoạn. Tôi đặt kích xuống dưới mũi thuyền rồi quay tay quay, chiếc thuyền từ từ bị nâng lên. Một đứa trẻ lấy những đoạn gỗ tròn luồn xuống bên dưới đáy, xếp thành hang, giúp cho thuyền di chuyển dần dần tới chỗ định hạ xuống biển. Công việc này cứ làm rì rà mãi khiến lũ trẻ, nhất là Ruýt-ly thấy rất sốt ruột. Nhưng chiếc thuyền đã bắt đầu chuyển và đĩnh đạc chuồi dần ra chỗ sườn tàu phía trên sân. Chỗ này đã bị vỡ vì va phải đá ngầm và tạo nên một lỗ hổng lớn làm cửa cho chúng tôi hạ thuyền xuống biển. Tôi đã dùng một sợi dây to và dài neo sẵn thuyền vào một cọc gỗ rất chắc trên tàu để thuyền khỏi trồi đi quá xa sau khi xuống nước.
Một tiếng “hoan hô” cất lên vang dội sau khi cuộc hạ thủy thành công. Nhưng vui chưa được mấy thì nỗi lo lắng lại đã kéo đến. Chiếc thuyền cứ nhảy loi choi trên mặt nước như lên cơn điên, rồi lại lắc la lắc lư như người say rượu. Tôi đã tưởng bao nhiêu công sức đổ vào chiếc thuyền bấy giờ đi đời nhà ma hết cả. Không thể nào liều lĩnh phó thác tính mạng vào cái thuyền say rượu ấy được. Tôi lo lắng vò đầu gãi tai, cố suy nghĩ để tìm cho ra điều sơ suất trong khi đóng thuyền. Bỗng tôi vụt nghĩ ra là có thể nó còn nhẹ quá nên mới chòng chành như thế! Tôi bèn lấy ngay mấy hòm đạn chất đống bên cạnh những khẩu đại bác, gượng nhẹ tung đúng vào trong những chiếc chậu gỗ. Quả nhiên chiếc thuyền dần dần lấy lại được thăng bằng và chỉ một lát, đã nằm yên ổn trên mặt nước. Những tiếng reo vui đón chào kết quả bất ngờ này! Bây giờ thì lũ trẻ hoàn toàn tin tưởng và cứ một mực đòi xuống thuyền ngay. Nhưng tôi còn e ngại, sợ rằng chưa tạo đủ sức năng cần thiết ở đáy thuyền mà đã để cho bọn trẻ liều lĩnh này nhảy xuống quá mạnh thì con thuyền có thể chòng chành rất nguy hiểm. Tôi lại thấy phải tăng cường thêm cho nó một cái cần, giống như kiểu những người thổ dân vẫn làm ở thuyền họ. Hai cây sào buồm cưa dài bằng nhau, đóng ép chặt vào thuyền bằng những cái chốt thật khỏe, một ở mũi, một đằng lái. Hai đầu sào bắt chéo lại, đấu vào nhau nằm trên mặt nước, cách mạn thuyền chừng vài ba bộ. Ở mỗi đầu, tôi buộc thêm một cái thùng rỗng nút thật kín, không cho nước lọt vào.
Thế là xong, chúng tôi chỉ còn phải tìm cách ra khỏi chiếc tàu nữa thôi. Cái lỗ hổng lớn bị phá vỡ ở sườn tàu tạo thành một khung cửa ra vào rất tiện lợi, chỉ cần cưa bỏ mấy mảnh ván vỡ nham nhở là đủ cho vợ tôi và mấy đứa con nhỏ nhất có thể qua lại dễ dàng. Tôi đã kéo thuyền lại sát lỗ hổng đó. Tuy nhiên, trời đã xế chiều, không thể đánh liều tổ chức cuộc hành trình vào đất liền lúc này được! Hơn nữa, lại còn phải có bơi chèo để điều khiển thuyền và phải trù tính đem theo những thứ gì nữa chứ! Thế là chúng tôi quyết định ở lại một đêm nữa trên tàu. Thực ra chiếc tàu cũng chưa đến nỗi bị phá hỏng nghiêm trọng. Mặt khác chúng tôi cũng đã quen dần với hoàn cảnh gian nan này. Tuy nhiên chúng tôi cũng đã lo xa, cứ mang sẵn dây phao vào mình. Tôi khuyên vợ tôi nên thay bộ quần áo đương mặc, khá lôi thôi trong hoàn cảnh hiện tại, bằng một bộ đồ thủy thủ để dễ bề cử động, xoay xở hơn. Vợ tôi đồng ý, mặc dầu chẳng thích cải trang chút nào. chúng tôi ăn uống một chút để lấy sức. Sau khi xem lại cẩn thận, chắc chắn không còn có tai nạn nào ghê gớm có thể đe dọa, ai nấy đều nằm lăn vào giường đánh một giấc say sưa, chuẩn bị sức lực cho những công việc ngày mai.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.