Luật Giang Hồ

CHƯƠNG 21



Trong lúc Hannah ngồi một mình ở phía sau chiếc phi cơ đi Amman 1, nàng bắt đầu xem xét công việc nàng đã tự đặt ra cho mình.
Sau khi đoàn tuỳ tùng của viên đại sứ rời khỏi Paris, nàng đã trở về với vai trò truyền thống của một phụ nữ A rập. Nàng mặc y phục từ đầu đến chân trong một tấm mạng màu đen, và ngoại trừ đôi mắt, khuôn mặt của nàng được bao phủ bởi một chiếc mặt nạ nhỏ. Nàng chỉ lên tiếng khi được hỏi trực tiếp một câu, và không bao giờ tự đặt rả một câu hỏi. Nàng cảm thấy bà mẹ Do thái của nàng chắc sẽ không sống nổi một chế độ như thế này trong vài tiếng đồng hồ.
Thời gian giải lao duy nhất của Hannah đã đến khi bà vợ của viên đại sứ hỏi nơi nàng định ở sau khi đã trở về Baghdad. Hannah giải thích rằng nàng đã không tính trước ngay lúc này bởi vì mẹ và em gái của nàng đang sống ở Karbala, và nàng cũng không thế ở với họ nếu nàng hy vọng tiếp tục giũ công việc của nàng với viên đại sứ.
Hannah hầu như chưa nói hết câu thứ hai thì bà vợ của viên đại sứ khăng khăng bảo nàng hãy đến sống với họ.
– Ngôi nhà của chúng tôi quá lớn, – bà ta giải thích, – ngay cả với một tá nhân viên giúp việc.
Khi phi cơ đáp xuống phi trường Queen Alia, Hannah nhìn qua khung cửa sổ nhỏ xíu để quan sát một chiếc xe hơi lớn màu đen lộng lẫy trông có vẻ ở New York hơn là ở Amman đang chạy về phía họ. Chiếc xe đậu lại bên cạnh phi cơ và một người tài xế mặc một bộ đồ xanh chỉnh tề và mang một cặp kính đen nhảy ra.
Hannah đến gặp viên đại sứ và bà vợ của ông ta trong băng sau của chiếc xe hơi và họ chạy nhanh ra khỏi phi trường về hướng biên giới với Iraq.
Khi xe hơi đến trạm hải quan, họ được cúi đầu chào và vẫy tay chạy thẳng, tựa hồ biên giới không có thực. Họ chạy khoảng một nghìn năm trăm mét nữa và qua một trạm hải quan thứ hai về phía Iraq. Nơi đây họ cũng được đối xứ theo cung cách tương tự lúc đầu, trước khi gặp xa lộ sáu làn xe đi Baghdad.
Trong cuộc hành trình dài đến thủ đô, đồng hồ tốc độ rất ít khi xuống dưới một trăm mười cây số giờ. Không bao lâu Hannah trở nên chán ngán với mặt trời liên tục giáng xuống và cảnh tượng hết cây số cát này đến cây số cát khác trải dài tới chân trời và cả bên kia chân trời, chỉ thỉnh thoảng mới có mấy cụm cầy cọ phá vỡ sự đơn điệu. Tư tưởng của nàng chợt trở về với Simon và chuyện gì đâu có thể…
Hannah ngủ gà ngủ gật trong lúc chiếc xe hơi có máy điều hoà không khí êm ả lướt dọc theo xa lộ. Tâm trí nàng lan man từ Simon qua mẹ nàng, qua Saddam. rồi trở lại với Simon.
Nàng giật mình tỉnh dậy và nhận thấy họ đang vào vùng ngoại ô của Baghdad.
 
– Ba mươi ngày? Tôi đã làm gì mà phải lãnh án ba mươi ngày, đó là điều tôi muốn biết.
Nhưng không một ai thèm nghe trong lúc Dollar Bill bị thúc ép ra khỏi phòng xét xử, dọc theo hành lang rồi ra ngoài qua một khung cửa ở phía sau cửa toà nhà, trước khi bị đẩy trở vào băng sau của một chiếc xe hơi không có bảng số. Ba người đàn ông có mái tóc cắt theo kiểu quân nhân, mang kính Ray-ban, và tai gắn ống nghe nhỏ có dây buông lòng thòng phía sau cổ áo đi cùng y.
– Tại sao tôi không được đóng tiền bảo lãnh? Nếu tôi kháng án thì sao? Tôi có quyền mướn một luật sư mà. Nhưng, chúng ta đi đâu thế này?
Cho dù y hỏi nhiều cầu như thế, Dollar Bill vẫn không nhận được một câu trả lời nào.
Mặc dầu y không thể trông thấy bất cứ gì bên ngoài các khung cửa kính mờ bên hông xe, Dollar Bill có thể biết bằng cách nhìn qua phía trên vai của tài xế khi đến cấu Golden Gate. Trong lúc họ tiếp tục chạy dọc đường 101, đồng hồ tốc độ lên tới con số chín mươi lần đầu tiên, nhưng người tài xế không hề vượt khỏi tốc độ giới hạn một lần nào cả.
Hai mươi phút sau khi chiếc xe hơi quẹo khỏi xa lộ tại lối ra Belvedere, Dollar Bill vẫn không biết mình đang ở đâu. Người tài xế tiếp tục chạy lên một con đường nhỏ quanh co, cho đến khi chiếc xe giảm tốc độ, trong lúc một bộ cổng sắt đồ sộ hiện ra lù lù phía trước mắt họ.
Người tài xế nháy đèn hai lần và cổng mở ra để cho chiếc xe hơi tiếp tục cuộc hành trình theo một đoạn đường rải sỏi dài và thẳng. Ba bốn phút nữa trôi qua trước khi họ dừng lại trước một ngôi nhà lớn kiểu nông thôn nhắc nhở Dollar Bill nhớ lại thời thơ ấu của mình ở quận Kerry, lúc bấy giờ mẹ y là một bà giúp việc bếp núc ở điền trang.
Một trong số người đi kèm với Dollar Bill nhảy ra khỏi xe và mở cửa cho y. Một người khác chạy ra phía trước lên thêm và bấm một nút chuông, trong lúc chiếc xe hơi chạy qua bãi sỏi.
Cánh cửa đồ sộ bằng gỗ sồi mở ra cho thấy một viên quản gia mặc một áo khoác dài màu đen và mang một nơ bướm màu trắng.
– Chào ông O’Reilly, – anh ta nói một cách nghiêm túc với một giọng Anh ngay cả trước khi Dollar Bill lên tới bậc thềm trên cùng. – Tôi tên là Charles. Phòng của ông đã được chuẩn bị sẵn sàng. Có lẽ xin ông vui lòng đi theo tôi.
Dollar Bill theo anh ta vào trong nhà và lên cầu thang rộng không thốt ra một tiếng nào. Đáng lẽ y đã thử hỏi một vài cầu về Charles, nhưng bởi vì anh ta là người Anh, Dollar Bill không thể trông mong một câu trả lời thành thực. Viên quản gia dẫn y vào trong một phòng ngủ được trang bị một cách sang trọng trên tầng một.
– Tôi hy vọng ông sẽ nhận thấy áo quần vừa khít, thưa ông, – Charles nói, – và mọi thứ khác đều hợp với ý thích của ông. Bữa ăn tối sẽ được dọn trong vòng nửa giờ.
Dollar Bill cúi đầu chào và mất mấy phút sau đó để xem quanh căn phòng. Y kiểm tra buồng tắm. Xà phòng sáp dao cạo râu và khăn lông xốp trắng; thậm chí cả một bàn chải đánh răng và kem đánh răng loại y ưa thích. Y trở ra phòng ngủ và khảo sát chiếc giường đôi. Y không sao nhớ được mình đã ngủ lần cuối trên bất cứ món gì êm ái như thế này vào lúc nào. Rồi y kiểm tra tủ áo và tìm thấy ba quần dài và ba áo vét, không giống như những loại y đã mua mấy ngày vừa qua sau khi trở về từ Washington. Y làm sao mà biết được?
Y nhìn vào các ngăn kéo: sáu sơ mi, sáu quần lót và sáu đôi vớ. Họ đã nghĩ tới tất cả mọi thứ, cho dù y không quan tâm nhiều về việc họ lựa chọn cà vạt.
Dollar Bill quyết định tham gia trò chơi. Y tắm, cạo râu và thay quần áo người ta đã cung cấp. Mọi thứ, như Charles đã hứa hẹn, đều vừa khít.
Y chợt nghe một tiếng chuông vang lên ở dưới lầu và y xem đó là dấu hiệu mời gọi. Y liền mở cửa và bước ra hành lang, tiếp tục đi xuống cầu thanh rộng và trông thấy viên quản gia đang đứng chờ trong tiền sánh.
– Ông Hutchins đang đợi ông. Ông sẽ tìm thấy ông ấy trong phòng khách, thưa ông.
– Vâng, tất nhiên, – Dollar Bill nói, và đi theo Charles vào trong một căn phòng rộng. Nơi đây một người đàn ông cao lớn, lực lưỡng đang dừng bên cạnh lò sưởi, mẩu xì gà ngậm trong khóe miệng.
– Chào ông O’Reilly, – người đàn ông nói – Tên tôi là Dexter Huchins. Chúng ta chưa hề gặp nhau trước đây, nhưng từ lâu tôi vẫn là người khâm phục tài nghệ của ông.
– Đó là kiểu của ông, ông Hutchins, nhưng tôi không có cùng lợi thế như ông để biết ông làm gì trong suốt giờ vừa qua.
– Tôi thành thực xin lỗi vậy. Tôi là Phó giám đốc CIA.
– Sau biết bao nhiêu năm trường, tôi mới được dùng bữa tối trong một ngôi dã thự với vị Phó giám đốc của CIA chỉ vi tôi đã dính líu vào một vụ ẩu đả trong quán rượu. Tôi ước ao được hỏi ông sắp đặt những gì cho bọn giết người hàng loạt?
– Tôi phải thú thực, ông O’Reilly, rằng chính một người trong bọn chúng tôi đã tung quả đấm đầu tiên. Nhưng trước khi đi xa hơn, tôi muốn hỏi ông uống gì?
– Tôi không nghĩ Charles có thứ bia tôi ưa thích. – Dollar Bill vừa nói vừa quay sang nhìn vào mặt viên quản gia.
– Tôi e Guinness chỉ có loại đóng hộp chứ không có loại đóng thùng, thưa ông. Nếu đã được thông báo đầy đủ hơn.
Dollar Bill lại cúi đầu chào và viên quản gia biến mất.
– Ông không nghĩ tôi được quyền biết về tất cả câu chuyện này chứ, ông Hutchins? Xét cho cùng…
– Quả thực ông có quyền, ông O’Reilly. Sự thực là chính phủ cần sự giúp đỡ của ông, cũng như khả năng chuyên môn của ông.
– Tôi đã không nhận thức được những người ủng hộ Clinton lại tận dụng việc làm đồ giả để giúp cho việc cân bằng thiếu hụt ngân sách. – Dollar Bill nói trong lúc viên quản gia trở lại với một ly Guinness lớn.
– Không đến nỗi quyết liệt như thế đâu, nhưng mỗi chút một cần thiết, – Hutchins nói – Nhưng có lẽ chúng ta nên dùng một bữa ăn tối nhẹ trước khi đi vào các chi tiết. Tôi e hôm nay là một ngày dài đối với ông.
Dollar Bill gật đầu và đi theo vị Phó giám đốc vào một căn phòng nhỏ, nơi đây bàn đã được dọn cho hai người.
Viên quản gia kéo một chiếc ghế lui cho Dollar Bill và hòi sau khi y đã ngồi xuống một cách thoải mái:
– Ông thích bít tết như thế nào, thưa ông?
– Thịt lưng hay thịt sườn? – Dollar Bill hỏi.
– Thịt lưng.
– Nếu thịt đã vừa đủ chín, xin nói với đâu bếp hãy dí một ngọn đèn cầy bên dưới – nhưng chỉ trong một lát thôi.
– Vâng, thưa ông. Còn của ông, ông Hutchins. Tôi đoán cần phải thật chín phải không ạ?
Dexter Hutchins gật đầu, cảm thấy hiệp một đã rõ ràng nghiêng về phía Dollar Bill.
– Tôi hết sức thích thú trò chơi đố chữ này, – Dollar Bill nói sau khi uống một ngụm Guinness. – Nhưng tôi muốn biết phần thưởng là gì nếu tôi đủ may mắn để thắng cuộc.
– Chắc ông cũng muốn biết phần phạt là gì nếu ông đủ bất hạnh để thua cuộc.
– Đáng lẽ tôi phải nhận thấy việc này càng kéo dài càng thú vị.
– Trước hết, cho phép chúng tôi cung cấp ông một chút thông tin cần thiết, – Dexter Hutchins nói trong lúc một miếng bít tết nướng vừa phải được đặt phía trước người khách của ông. – Ngày 25 tháng 5 năm nay, một nhóm tội phạm có tổ chức tinh vi đã đến Washington và thực hiện một trong những vụ án tài tình nhất trong lịch sử của đất nước này.
– Bít tết ngon tuyệt, – Dollar Bill nói – Anh phải cho tôi gửi lời khen ngợi người đầu bếp.
– Tôi sẽ chuyển lời, thưa ông, – Charles đang chực sẵn phía sau ghế liền đáp lại.
– Vụ án này bao gồm việc lấy trộm khỏi Viện Bảo tàng lịch sử quốc gia ngay giữa ban ngày. Bản Tuyên ngôn Độc lập và thay thế vào đó một bán sao xuất sắc.
Dollar Bill tỏ vẻ quan tâm một cách vừa phải, nhưng cảm thấy không khôn ngoan nếu có lời bình luận vào lúc này.
– Chúng tôi có tên của nhiều người dính líu vào vụ án này, nhưng chúng tôi không thể bắt giữ một ai vì sợ làm cho những kẻ khác đang nắm giữ bản Tuyên ngôn biết rằng chúng tôi đang săn đuổi bọn chúng.
– Và chuyện này ăn nhập gì tới tôi? – Dollar Billy hỏi trong lúc ông ta ngấu nghiến một miếng thịt ngon lành khác.
– Chúng tôi đã nghĩ có lẽ ông muốn biết ai là kẻ đã tài trợ cho toàn bộ chiến dịch, và giờ đây đang nắm giữ bản Tuyên ngôn Độc lập?
Cho đến lúc đó, Dollar Bill không nghe điều gì mới những người đã từ lâu mong muốn biết cuối cùng bản tài liệu ở đâu. Y không bao giờ tin cậy chuyện của Angelo về một nhà sưu tập kỳ quặc. Y liền đặt dao và nĩa xuống, và đăm đăm nhìn vị Phó giám đốc CIA ở bên kia bàn, cuối cùng đã khiến cho người này nhận thấy sự quan tâm của y.
– Chúng tôi có lý do để tin rằng bản Tuyên ngôn Độc lập hiện đang ở Baghdad, do chính Saddam Hussein nắm giữ.
Miệng của Dollar Bill há hốc ra, mặc dù y vẫn giữ im lặng trong một thời gian đáng kể.
– Không còn có danh dự kẻ cướp nữa hay sao? – Cuối cùng y nói.
– Có thể vẫn còn. – Hutchins nói, – Bởi vì hy vọng duy nhất của chúng tôi trong việc đưa bản Tuyên ngôn Độc lập trở về nơi chính đáng của nó vẫn còn nằm trong tay của một nhóm; người sẵn sàng hy sinh tính mạng của họ bằng cách đánh tráo tài liệu này, theo cách y hệt như bọn tội phạm đã làm trước đây.
– Nếu tôi đã biết…, Dollar Bill chợt dừng lại một lát rồi khẽ hỏi tiếp -Tôi có thể giúp đỡ bằng cách nào?
– Ngay lúc này, chúng tôi cần có một bản sao hoàn hảo của bản gốc. Và chúng tôi tin tưởng ông là người duy nhất có thể làm được việc đó.
Dollar Bill biết chính xác nơi có một bản sao hoàn hảo, treo trên một bức tường ở New York, nhưng không thể thú nhận như vậy mà không tự chuốc vào thân cơn thịnh nộ lớn hơn khả năng của ông Hutchins.
– Ông đã đề cập một phần thưởng, – Dollar Bill nói.
– Và một phiền phức, – Dexter Hutchins nói – Phần thưởng là ông vẫn ở lại đây, trong một ngôi nhà an toàn ở bờ Tây của chúng tôi, nơi mà tôi nghĩ ông sẽ nhìn nhận là môi trường dễ chịu. Trong lúc ông ở với chúng tôi, ông sẽ tạo ra một bản Tuyên ngôn giả sẽ qua được mắt kẻ thành thạo nhất. Nếu ông hoàn thành việc đó, ông sẽ được tự do ra đi, không bị buộc một tội danh nào cả.
– Và phần phạt?
– Sau khi dùng xong cà phê, ông sẽ được thả ra và được phép rời khỏi đây bất cứ lúc nào tôi muốn.
– Được thả ra, – Dollar nhắc lại với vẻ hoài nghi, – và được phép rời khỏi đây bất cứ lúc nào tôi muốn?
– Phải. – Vị Phó giám đốc nói.
– Thế thì tại sao tôi lại không thể chỉ việc thưởng thức phần còn lại của bữa ăn tối tuyệt vời này trở về cơ sở tầm thường của tôi ở Fairmount và quên chúng ta đã gặp nhau?
Vị Phó giám đốc lấy ra một phong bì từ một túi bên trong. Ông rút bốn tấm ảnh và đẩy chúng qua mặt bàn.
Dollar Bill xem kỹ từng tấm một. Tấm thứ nhất là một cô gái khoảng mười bảy tuổi nằm trên một phiến đá trong một nhà xác. Tấm thứ hai là một người đàn ông trung niên cuộn tròn như một bào thai trong khoang hành lý của một chiếc xe hơi. Tấm thứ ba là một người đàn ông bị vứt bỏ bên lề một con đường. Và tấm thứ tư là một người đàn ông lớn tuổi có vẻ cao sang. Một cái cổ bị gẫy là đặc điểm chung cho tất cả bốn người. Dollar Bill đẩy mấy tấm ảnh trở lại qua mặt bàn.
– Bốn xác chết, nhiều thế à?
– Sally McKenzie, Rex Butterworth, Bruno Morelli và tiến sĩ Hamilton McKenzie. Và chúng tôi có mọi lý do để tin tưởng một kẻ nào đó ở ngoài kia đang chuẩn bị một kết thúc tốt đẹp tương tự như ông.
Dollar Bill xiên hạt đậu cuối cùng còn lại trên đĩa của y và nốc cạn giọt Guinness cuối cùng. Y dừng lại một lát như thể đang tìm kiếm nguồn cảm hứng.
– Tôi sẽ cần giấy của Bremen, bút của một viện bảo tàng ở Richmond, Virginia và chín loại mực đen có màu sắc khác nhau mà tôi có thể đặt pha chế bởi một hãng ở Cannon Street, London ECA.
– Còn gì khác nữa? – Dexter Hutchins hỏi sau khi đã viết xong danh sách mua hàng của Dollar Bill trên một mặt sau của chiếc phong bì.
– Tôi không biết Charles có thể vui lòng cho tôi thêm một ly Guinness thật lớn nữa hay không. Tôi có cảm tưởng đây có lẽ là ly cuối cùng cho một thời gian đáng kể.
Chú thích
1.Amman: thủ đô của Jordan, thành phố Rabbah trong kinh Thánh.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.