Luật Giang Hồ

CHƯƠNG 32



Và trong suốt thơi gian đó em thực sự nghĩ anh đã chết.
– Bọn anh không có cách nào cho em hay. – Scott nói.
– Dù sao, lúc này điều đó không còn quan trọng, Simon, – Hannah nói – Xin lỗi, chắc phải mất một thời gian ngắn em mới quen với cái tên “Scott”. Có lẽ em không thể xoay trở được trong thời gian chúng ta bị bỏ rơi.
Scott tiếp tục ôm chặt nàng, cho tới khi Hannah nói:
– Em biết chắc là em phải cuồng loạn, hoặc tối thiểu phải khóc lên, nhưng không được. Có lẽ tất cả những việc đó sẽ đến sau.
– Hoặc không có gì hết, – Scott nói, không để cho nàng dang ra.
– Sao anh có thể nói như thế?
– Một trong những kế hoạch đề phòng khi bất trắc mà Kratz và anh đã nghĩ ra là nếu bất cứ ai trong chúng ta bị bắt và bị tra tấn trong lúc một người nào khác vẫn còn tự do, thì chúng ta phải cố chịu đựng trong một tiếng đồng hò trước khi cho họ biết trò bịa đặt.
Hannah biết chính xác Mossad ngụ ý gì với trò bịa đặt cho dù vào lần này nàng không biết các chi tiết.
– Mặc dù anh phải nhìn nhận đây là một kịch bản mà bọn các anh chưa hề nghĩ tới, – Scott nói – Đúng là hoàn toàn trái ngược. Bọn anh tưởng rằng nếu bọn anh có thể thuyết phục họ, bọn anh có một lý do khác để mang chiếc tủ sắt đến Baghdad, họ sẽ ngay lập tức sơ tán toà nhà và dọn sạch khu vực chung quanh.
– Và như thế sẽ đạt được những gì?
– Bọn anh hy vọng rằng với toà nhà trống, cho dù bọn anh có bị bắt, những nhân viên khác đã qua biên giới trước bọn anh một ngày có thể có trọn một giờ để lọt vào phòng Hội đồng và lấy bản Tuyên ngôn.
– Nhưng người Iraq sẽ mang tài liệu đó theo họ.
– Không cần thiết. Kế hoạch của bọn anh là bọn anh sẽ cho họ hay một cách chính xác chuyện gì sẽ xảy ra nếu chiếc tủ sắt được đóng lại bởi bất cứ một người nào khác anh. Bọn anh đã có cảm nghĩ điều đó sẽ gây hoảng sợ và rất có thể họ sẽ bỏ lại mọi thứ.
– Thế rồi Kratz đã rút phải cọng rơm ngắn?
– Phải. – Scott trầm tĩnh nói – Dù kế hoạch ban đầu của ông ấy giờ đây không tiến hành được, sau khi tôi đã ngu ngốc đến nỗi giao bản Tuyên ngôn cho Hamil thế là chúng ta sẽ phải tận dụng thời gian để thoát ra thay vì đã lấy lại được.
– Nhưng anh đâu có trao nó cho ai, – Hannah nói – Bản Tuyên ngôn vẫn còn ở trên bức tường của phòng Hội đồng.
– Anh e là không phải, – Scott nói. – Hamil đã có lý. Anh đã đổi hai bản Tuyên ngôn sau khi anh bắt đầu gây báo động. Thế là cuối cùng anh đã trả lại bản chính cho Hamil.
– Không, anh không trả lại, – Hannah nói. – Đó là anh tin tưởng anh đã đổi được bản chính. Thực ra anh đã đánh lừa Hamil mà anh không hay biết.
– Em nói gì vậy? – Scott hỏi.
– Tất cả là do em, – Hannah nói – Em đã tìm thấy cái ống giấy trong tủ sắt và đã hoán đổi hai bản tài liệu, nghĩ rằng em có thể ra khỏi toà nhà và sau đó gửi một bản tin để cho Kratz biết việc em đã làm. Chuyện rắc rối là anh và Đại tướng Hamil đã đến ngay lúc em sắp sửa rời khỏi. Thế rồi, khi anh tự nhốt mình trong phòng Hội đồng, anh lại để bản chính trở lên tường, và sau đó anh giao bản sao cho Hamil.
Scott lại ôm nàng vào lòng.
– Em đúng là một thiên tài – anh nói.
– Không dám đâu, – Hannah nói – Tốt hơn anh nên cho em biết điều bí mật mà anh đã sắp xếp cho kịch bàn đặc biệt này. Bắt đầu là chúng ta làm sao ra khỏi một chiếc tủ sắt đã được khoá lại?
– Đó là nét đặc trưng của nó. – Scott nói – Nó không được khoá lại. Nó đã được đặt chương trình sao cho chỉ có mình anh có thể mở ra hoặc đóng lại.
– Ai đã nghĩ ra cái trò đó?
– Một người Thuỵ Điển sẽ rất vui mừng thay thế chúng ta, nhưng anh ta đã bị giữ lại ở Kalmar. Điều đầu tiên anh phải làm là khám phá ra bức tường nào là cánh cửa.
– Việc đó dễ thôi, – Hannah nói – Nó đối diện với em bởi vì em đang ngồi phía dưới bức hình của Saddam, anh nhớ chứ.
Scott và Hannah bắt đầu bò một quãng ngắn bằng tay và đầu gối tới phía bên kia của chiếc tủ sắt.
– Bây giờ chúng ta đi qua bên góc phải, – anh nói, – để cho khi chúng ta đẩy, cửa sẽ dễ mở hơn.
Hannah gật đầu, rồi sực nhớ họ không trông thấy nhau, liền nói:
– Vâng.
Scott xem mặt số phát quang của đồng hồ:
– Nhưng chưa được đâu, – anh nói – Chúng ta phải cho Kratz thêm một chút thời gian.
– Đã đủ thời gian để cho em biết trò bịa đặt là gì chưa? – Hannah hỏi.
 
– Tốt, – viên Đại tướng nói khi Kratz không phản ứng lại mũi kim đã chích vào ngón chân cái.
– Bây giờ chúng tôi có thể tìm hiểu tất cả những gì chúng tôi cần. Nhưng để bắt đầu, chỉ có những câu hỏi đơn giản thôi. Cấp bậc của ông trong Mossad?
– Đại tá, – Kratz nói.
Bí quyết chỉ cho họ biết những điều mà ta cảm thấy chắc chắn họ đã biết.
– Số hiệu của ông?
– 78216, ông nói.
Nếu không chắc, giả sử họ giết, ta sẽ bị lật tẩy.
– Và chức vụ chính thức của ông?
– Uỷ viên Hội đồng Văn hoá thuộc Cung điện Hoàng gia Anh ở London.
Ta được phép nói dối ba lần, bịa đặt một lần, không được nhiều hơn.
– Tên ba người đồng nghiệp của ông cùng tham gia với ông trong nhiệm vụ này là gì?
– Giáo sư Bradley, một chuyên gia các loại văn tự cổ – Điều nói dối đầu tiên. – Ben Cohen, và Aziz Zeebari, – điều nói thật.
– Còn cô gái, Hannah Kopec, cấp bậc của cô ta trong Mossad là gì?
– Cô ta vẫn còn là một học viên.
– Cô ta đã làm việc cho Mossad bao lâu?
– Chỉ mới trên hai năm.
– Và vai trò của cô ta?
– Được đưa vào Baghdad để khám phá ra bản tuyên ngôn Độc lập đặt tại đâu? – Điều nói dối thứ hai.
– Ông hành động giỏi đấy, ông Đại tá, – viên Đại tướng vừa nói vừa nhìn vào cái ống giấy dài nhỏ mà ông ta đang cầm trong bàn tay phải.
– Và có phải đây là trách nhiệm toàn bộ của ông với tư cách sĩ quan chỉ huy của cô ta?
– Không phải, Tôi chỉ hộ tống chiếc tủ sắt từ Kalmar. – điều nói dối thứ ba.
– Nhưng chắc chắn đó chỉ là một viện cớ để xác định vị trí của bản Tuyên ngôn Độc lập.
Kratz chợt do dự. Các chuyên gia vẫn còn có thể chứng tỏ rằng ngay trong lúc đang chịu ảnh hưởng của một thứ thuốc nói thật, một điệp viên đã được huấn luyện kỹ vẫn sẽ do dự khi được hỏi về một sự bí mật mà anh ta chưa bao giờ tiết lộ trong quá khứ.
– Mục đích thực sự của ông về việc ông mang chiếc tủ sắt đến Baghdad là gì, ông Đại tá?
Kratz vẫn im lặng.
– Đại tá Kratz, – viên Đại tướng nói, cất cao giọng theo từng từ một, – Lý do thực về việc ông mang chiếc tủ sắt đến Baghdad là gì?
Kratz đếm tới ba trước khi ông nói:
– Để làm nổ tung đại bản doanh của Đảng Baath bằng một thiết bị hạt nhân cất giấu trong chiếc tủ sắt, với hy vọng giết chết Tổng thống cùng tất cả các thành viên của Hội đồng Lãnh đạo Cách mạng. – Điều bịa đặt.
Kratz hết sức ước ao có thể trông thấy gương mặt của viên Đại tướng. Bây giờ thì chính Hamil do dự.
– Quả bom được cho nổ bằng cách nào?
Một lần nữa, Kratz không trả lời.
– Tôi sẽ cho ông một lần nữa, ông Đại tá. – Qua bom được cho nổ bằng cách nào?
Kratz văn không nói gì.
– Khi nào nó nổ? – viên Đại tướng la lớn.
– Hai giờ sau khi chiếc tủ sắt được đóng lại bởi bất cứ ai khác hơn ông giáo sư.
Viên đại tướng liền xem đồng hồ tay, phóng tới chiếc máy điện thoại độc nhất trong phòng và lớn tiếng đòi nối đường dây với Tổng thống ngay lập tức. Ông ta đợi cho đến khi nghe giọng của Saddam. Ông ta không nhận thấy Kratz đã bất tỉnh và té nhào từ ghế xuống sàn.
 
Scott thư giãn trong góc trước khi xem các chấm nhỏ phát quang trên chiếc đồng hồ của anh một lần nữa.
Lúc này là 5 giờ 19. Anh và Hannah đã ở trong chiếc tủ sắt đúng một giờ mười bảy phút.
– Bây giờ anh sẽ đẩy. Nếu em nghe thấy gì, em hãy xô mạnh càng tốt. Nếu vẫn còn một người nào ở ngoài để hy vọng duy nhất của chúng ta bất ngờ chộp được họ.
Scott bắt đầu sử dụng sức ép tối thiểu lên góc cửa với các đầu ngón tay, và cánh cửa mở hé ra độ hai phần. Anh liền dừng lại và lắng tai, nhưng không thể nghe thấy gì.
Anh nhìn qua khe hở và không thể trông thấy một ai. Anh đẩy thêm vài phân nữa. Vẫn không có một tiếng động. Lúc này cả hai người đã nhìn thấy rõ hành lang. Scott liếc sang Hannah và gật đầu, rồi họ cùng nhau ráng hết sức xô mạnh. Cả tấn thép mở bật ra. Hai người nháy ra hành lang, nhưng không có bóng dáng một ai. Chỉ có một sự im lặng đáng sợ.
Scott và Hannah bước chầm chậm dọc theo hành lang ngắn, luôn luôn sát hai bên cho tới họ đến phòng Hội đồng.
Vẫn không có một tiếng động. Scott đặt một chân vào trong phòng Hội đồng và liếc sang bên trái. Bán Tuyên ngôn Độc lập vẫn còn treo trên tường, bên cạnh bức hình của Saddam.
Hannah di chuyển về phía xa của phòng và kiểm tra hành lang. đoạn nàng ngoảnh lại nhìn Scott và gật đầu.
Scott xem lại lỗi chính tả của chữ “Brittish” trước khi thầm hát bài ca ngợi Chúa. Anh nhổ ba cây đinh và cho bản Tuyên ngôn lọt qua đầu cây đinh còn lại ở góc trên cùng bên phải, cố quên rằng anh đã nhổ nước bọt lên một vật báu quốc gia. Anh nhìn Saddam một lần cuối trước khi cuộn tấm giấy da lại và ra gặp Hannah ngoài hành lang.
Hannah lướt nhẹ theo tường, rồi chỉ tay về phía thang máy. Nàng kéo một ngón tay qua cuống họng để ra dấu cho Scott biết nàng muốn tránh dùng thang máy và sẽ theo cầu thang phía sau. Anh gật đầu đồng ý và theo nàng ra khỏi cửa hông.
Họ di chuyển một cách nhanh nhẹn nhưng im lặng lên sáu dãy cầu thang cho tới khi họ đến tầng trệt. Hannah vẫy tay ra hiệu cho Scott vào căn phòng phụ, nơi các công nhân vệ sinh đã đến lấy các thùng dụng cụ. Nàng đã đến khung cửa sổ ở phía xa của các căn phòng và quỳ gối trước cả khi Scott đóng cửa. Anh tới gặp nàng và họ chăm chú nhìn ra Quảng trường Chiến thắng. Tất cả mọi phía đều không có bóng dáng một ai.
– Cầu xin Chúa ban phước cho Kratz, – Scott nói.
Hannah gật đầu và ra hiệu cho anh lại đi theo nàng.
Nàng dẫn anh trở ra hành lang và nhanh nhẹn đưa anh tới cửa hông. Scott mở cửa thăm dò và lướt nhẹ ra phía trước nàng. Một lát sau nàng theo kịp anh trên khoảng đất trải nhựa.
Anh chỉ tay về phía một nhóm cây cọ ở giữa sân, và nàng gật đầu một lần nữa. Họ vượt qua đoạn đường hai chục mét tới nơi tương đối an toàn chưa đầy ba giây. Scott quay lại nhìn toà nhà và chợt trông thấy chiếc xe tải đậu sát vào tường. Anh phỏng đoán rằng, trong cơn hoảng sợ, đó chỉ là một vật khác đã bị bỏ rơi.
Anh vỗ nhẹ lên vai Hannah và nói vắn tắt rằng anh muốn trở lại toà nhà. Họ vượt qua khoảng sân với cùng tốc độ như ban nãy, lẻn trở vào bên trong cửa. Scott dẫn Hannah tới hành lang chính, tại đây họ nhận thấy cửa trước đang lắc lư trên bán lề. Anh nhìn qua khe cửa và chỉ tay về phía xe tải, ra dấu về phía anh sẽ đi và chạm nhẹ lên vai nàng. Một lần nữa, họ chạy nhanh qua khoảng đất rải nhựa.
Scott nhảy lên phía sau tay lái trong lúc Hannah leo lên phía bên kia.
– Đâu rồi… – đó là phản ứng đầu tiên của Scott khi anh phát hiện ra chìa khoá công tắc không ở trong ổ khoá. Họ bắt đầu cuống cuồng lục soát hộc đựng đồ, dưới chỗ ngồi trên bảng điều khiển.
– Bọn chó đẻ chắc đã lấy chìa khoá theo.
– Simon, nhìn kìa! – Hannah gào lên.
Scott liền quay ra và trông thấy một dáng người đang nhảy lên trên bục xe.
Hannah nhanh nhẹn chuyển động vào vị trí tấn công kẻ xâm nhập, nhưng Scott ngăn chặn nàng.
– Xin chào cô, – người lạ nói – Cho tôi xin lỗi vì chúng ta đã không giới thiệu một cách đàng hoàng.
Rồi anh ta quay sang Scott.
– Ông giáo sư, – anh ta vừa nói vừa cắm chìa khoá vào ổ công tắc, – nếu ông nhớ lại, mọi người đã đồng ý đề tôi làm công việc lái xe.
– Anh làm cái quái gì ở đây thế, trung sĩ? – Scott hỏi.
– Bây giờ tôi mới biết kiểu chảo đón thực sự của một người Mỹ, – Cohen trả lời. – Nhưng để trả lời câu hỏi của ông, tôi chỉ đang chấp hành mệnh lệnh. Tôi đã được căn dặn nếu ông ra khỏi cánh cửa đó mang theo một cái ống giấy, thì tôi phải tìm cách trở lại đây và thoát khói nơi này, nhưng trong mọi tình huống không được để cho ông quẹo tới Bộ Ngoại giao. À, cái ống đâu rồi?
– Nhìn kìa! Hannah lại la lớn trong lúc nàng quay ra và chợt trông thấy một người A rập chạy như đang rượt đuổi ai về phía họ từ phía bên kia.
– Tên đó sẽ không làm hại cô đâu, – Cohen nói – hoàn toàn vô dụng, thậm chí không biết sự khác biệt giữa một lon Diet Coke và một lon Pepsi.
Aziz chợt nhảy lên bậc thang và nói với Scott:
– Ông giáo sư, tôi nghĩ chúng ta còn khoảng hai mươi phút nữa, trước khi bọn họ hiểu ra rằng không có một quà bom nào trong chiếc tủ sắt.
– Thế thì chúng ta hãy thoát ra khỏi đây, – Scott nói.
– Nhưng đi đâu? – Hannah hỏi.
– Aziz và tôi đã thực hiện một cuộc trinh sát. Ngay lúc tiếng còi vang lên, chúng tôi đã biết rằng Kratz đã nói với bọn họ điều bịa đặt, bởi vì họ không thể bỏ chạy một cách mất tinh thần đến thế. Quân nhân và cảnh sát hình như đã tẩu thoát trước ra khỏi đây. Aziz và tôi đã chạy một vòng ở trung tâm thành phố trong giờ vừa qua. Quả thật người duy nhất chúng tôi đã đụng đầu chính là một nhân viên của chúng tôi, Dave Feldman. Anh ta đã tìm ra con đường tốt nhất để cho chúng ta một khả năng tránh được bọn quân nhân.
– Tốt lắm, Cohen, – Scott nói.
Cohen bỗng quay lại và nhìn chầm chằm vào vị giáo sư:
– Tôi làm việc đó không phải vì ông, mà vì Kratz. Ông ấy đã đưa tôi ra khỏi tù một lần nữa, và ông ấy là vị sĩ quan duy nhất đã đối xử với tôi như với một con người. Vì vậy, bất kỳ ông giáo sư đang cầm gì trong tay, chắc là nó giá trị hơn tính mạng của ông ấy rất nhiều.
– Hàng nghìn người đã hy sinh tính mạng của mình cho nó trong nhiều năm qua, – Scott trầm tĩnh nói. – Nó là bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ.
Lạy Chúa, – Cohen nói – Làm sao bọn chó đẻ chiếm đoạt được?
Anh ta ngừng một lát rồi hỏi tiếp:
– Tôi có nên tin ông không?
Scott liền gật đầu và trải tấm giấy da ra. Cohen và Aziz sững sờ nhìn trong nhiều giây.
– Ngay sau đây, chúng tôi nên đưa ông về, phải không ông giáo sư? – Cohen nói – Aziz sẽ dẫn đường trong lúc chúng ta ở trong vùng này.
Anh ta nhảy ra khỏi buồng lái và anh chàng người Kurd chạy quanh để ngồi vào sau tay lái. Ngay sau khi Cohen đã leo qua tấm bửng, anh ta đấm vào mui và Aziz nổ máy.
Họ tăng tốc quanh sân, lái thẳng qua hàng rào và ra Quảng trường Chiến thắng. Những chiếc xe duy nhất còn được trông thấy đã bị bỏ lại từ lâu, và không có bóng dáng một ai trên các đường phố.
– Khu vực này đã được sơ tán trong vòng năm cây số theo mỗi hướng, vì thế một lúc sau chúng ta mới qua nơi có người, – Aziz nói trong lúc anh ta quẹo trái vào đường Kindi.
Anh ta phóng nhanh chiếc xe tải tới gần một trăm cây số giờ, một tốc độ mà trước đây chỉ có Saddam mới trải qua trên con đường đặc biệt này.
– Tôi sẽ theo đường Baquba ra khỏi thành phố, chạy qua những khu vực gần như không có dấu vết quân sự, – Aziz giải thích trong lúc anh đi qua vòi nước đã được Ali Baba làm cho nổi tiếng. – Tôi vẫn còn hy vọng đến được xa lộ ra khỏi Baghdad trong vòng hai tiếng đồng hồ tuyệt diệu.
Aziz bất thần quẹo phải, đổi số nhưng hầu như không giảm tốc độ, trong lúc anh tiếp tục chạy qua nơi có vẻ như một thành phố ma. Scott nhìn lên mặt trời trong lúc họ qua một cây cầu tên sông Tigris; trong khoáng một tiếng đồng hồ nó biến mất phía sau những toà nhà cao nhất, và họ càng có hy vọng không bị phát hiện.
Aziz quẹo qua trường đại học Karmel Junlat rồi vào đường Jamila. Vẫn không có người trên lòng đường hoặc lề đường, và Scott có cảm tưởng rằng nếu lúc này có ai trông thấy họ, người ta sẽ phỏng đoán họ thuộc một đội quân đang đi tuần.
Chính Hannah đã phát hiện người đấu tiên; một ông già khòm lưng đang ngồi trên bờ lề đường tựa hồ như không có chuyện gì đặc biệt đã xảy ra. Họ chạy xe qua ông ta với tốc độ một trăm cây số giờ, thế mà ông ta vẫn không ngẩng nhìn lên.
Aziz quẹo vào đường kế tiếp và chạm trán với một nhóm cướp trẻ đang mang theo những máy truyền hình và thiết bị điện tử. Bọn chúng tản ra khi trông thấy chiếc xe tải. Qua góc đường kế tiếp lại có bọn cướp khác, nhưng vẫn không thấy bóng dáng cảnh sát hoặc quân nhân.
Khi Aziz phát hiện bằng người mặc đống phục xanh đen đầu tiên, anh ta bẻ ngoặt ngay sang bên phải theo một đường phụ mà vào bất cứ ngày thứ tư nào khác sẽ đầy những người mua sắm và một chiếc xe hơi may mắn lắm cũng chỉ có thể chạy qua với một tốc độ bảy tám cây số giờ.
Nhưng hôm nay, Aziz cố giữ tốc độ tên tám mươi. Anh ta lại quẹo phải, và họ đã trông thấy một vài người dân địa phương đầu tiên liều mạng quay trở về. Ngay sau khi họ đến cuối đường, Aziz có thể chạy vào con đường phố lớn ra khỏi Baghdad. Xe cộ lưu thông vẫn còn thưa thớt.
Aziz thận trọng cho xe ra làn đường bên ngoài, chốc lát lại xem kính chiếu hậu và cố giữ tốc độ giới hạn tám mươi cây số giờ. “Đừng bao giờ để bị chùn lại vì các lý do sai trái”, Kratz đã cảnh giác anh ta cả nghìn lần.
Khi Aziz bật đèn trước, những hy vọng của Scott bắt đầu dấy lên. Mặc dù hai tiếng đồng hồ đã trôi qua, anh nghĩ rằng vẫn chưa có ai truy tìm họ, và cũng hết sức dễ hiểu rằng càng ra xa Baghdad, người dân càng ít trung thành với Saddam.
Ngay sau khi Aziz bỏ lại sau lưng bảng hiệu ranh giới của Baghdad, anh ta đẩy tốc độ lên chín mươi lăm.
– Xin thánh Allah hãy cho con hai mươi phút nữa, – anh ta nói – Hãy cho con hai mươi phút nữa và con sẽ đưa họ đến Castle Post.
– Castle Post? – Scott nói. – Chúng ta đâu phải đang làm nhiệm vụ trinh sát của dân Da Đỏ.
Aziz bật cười.
– Không đâu. Ông giáo sư. Đó là một cái đồn của quân đội Anh trong Thế chiến thứ I. Tại đó chúng ta có thể trốn tránh qua đêm. Nếu tôi có thể đến đó trước…
Cả ba người chợt phát hiện chiếc quân xa đầu tiên hướng về phía họ. Aziz liền ngoặt sang bên trái, chạy vào một đường phụ, và lập tức phải giảm tốc độ.
– Thế thì bây giờ chúng ta chạy đi đâu? – Scott hỏi.
– Khan Beng Saad, – Aziz nói, – làng nơi tôi sinh ra. Chúng ta chỉ có thể ở lại đó một đêm, nhưng sẽ không có ai nghĩ đến việc tìm chúng ta ở đấy. Ngày mai ông giáo sư phải quyết định chúng ta sẽ vượt qua biên giới nào trong số sáu biên giới 1.
 
Đại tướng Hamil đã đi tới đi lui quanh văn phòng của ông ta suốt tiếng đồng hồ vừa qua. Hai tiếng đồng hồ đã trôi qua dài dằng dặc, và ông ta đang bắt đầu tự hỏi Kratz có thể thắng thế hay không. Nhưng ông ta không thể hiểu như thế nào.
Thậm chí ông ta đang bắt đầu hối tiếc vì đã giết chết người đàn ông đó. Nếu Kratz vẫn còn sống, tối thiểu ông ta có thể sử dụng phương pháp tra tấn đáng tin cậy. Giờ đây Kratz sẽ không bao giờ biết ông ta đã hưởng ứng kỹ thuật cạo đầu đặc biệt như thế nào.
Hamil đã ra lệnh cho một viên trung uý tân binh vào trung đội của anh ta trở xuống tầng hầm của đại bản doanh Đaeng Baath. Viên trung uý đã trở lại ngay sau đó và báo cáo rằng cửa tủ sắt mở toang và chiếc xe tải đã biến mất, cũng như bản tài liệu treo trên tường. Viên Đại tướng mỉm cười ông ta vẫn tin tưởng rằng mình đang giữ bản Tuyên ngôn gốc, nhưng ông ta rút tấm giấy da ra khỏi cái ống và đặt lên bàn để kiểm ta lại. Khi ông ta xem tới từ “British”, mặt ông ta thoạt tiên tái mét, rồi dần dần đỏ bừng.
Ông ta ngay lập tức ra lệnh huỷ bỏ toàn bộ việc nghỉ phép của quân nhân, rồi điều động năm sư đoàn Vệ binh ưu tú để tổ chức một cuộc truy nã những kẻ khủng bố. Nhưng ông ta không có cách nào biết được bọn họ đã xuất phát trước ông ta bao lâu, họ đã có thể đi được bao xa, và theo hướng nào.
Tuy nhiên, ông ta đã biết chắc rằng bọn họ không thể cứ theo các con đường cái trong chiếc xe tải đó mà không bị phát hiện. Khi trời tối, có thể họ sẽ rút vào sa mạc để nghỉ qua đêm. Nhưng họ sẽ phải ra khỏi sáng hôm sau, khi họ phải cố gắng vượt qua một trong sáu biên giới. Viên Đại tướng đã ban bố một mệnh lệnh rằng cho dù một tên trong bọn khủng bố thoát qua khỏi bất cứ biên giới nào, các nhân viên hải quan ở tất cả các trạm sẽ bị bắt và tống vào nhà giam, bất kể họ đang ở phiên trực hay không. Hai quân nhân có nhiệm vụ đóng chiếc tủ sắt đã bị xử bắn vì tội không thi hành mệnh lệnh của ông ta, và viên thiếu tá được phân công giám sát việc di chuyển chiếc tủ sắt đã bị bắt ngay lập tức. Tối thiểu quyết định tự kết liễu tính mạng của thiếu tá Saeed đã giúp Hamil thoát khói một toà án quân sự: trong vòng một tiếng đồng hồ, viên thiếu tá đã được phát hiện treo cổ trong phòng giam. Rõ ràng việc bỏ lại một cuộn dây thừng ở giữa sàn bên dưới một cái móc ở trên trần đã tỏ ra là một sự gợi ý đủ thuyết phục. Riêng về hai anh chàng sinh viên y khoa đã phụ trách việc tiêm thuốc và đã chứng kiến cuộc trò chuyện của ông ta với Kratz, họ đã lên đường đến biên giới phía nam để thi hành nghĩa vụ quân sự trong một trung đoàn không lấy gì làm ưu tú. Họ đúng là những chàng trai có vẻ dễ mến, viên Đại tướng nghĩ, ông ta cho họ một tuần lễ là tối đa.
Hamil nhấc máy điện thoại lên và quay một số riêng giúp ông ta liên lạc với dinh Tổng thống. Ông ta cần chắc chắn rằng ông ta là người đầu tiên giải thích cho Tổng thống sự việc đã xảy ra chiều hôm nay.
Chú thích
1.Iraq ở giữa sáu quốc gia Trung Đông: Thổ Nhì Kỳ (Băc), Iran (Đông), Kuwait (Nam), Saudi Arabia (Tây Nam), Jordan (Tây) và Syria (Tây Bắc).

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.