Luật Giang Hồ

CHƯƠNG 37



Tất cả bốn người bị bắt, tay bị còng và nghe đọc to các quyền của họ. Rồi họ được chở xe tách rời nhau tới khu vực cành sát 19.
Khi họ bị thẩm vấn, ba người từ chối nếu không có sự hiện diện của một luật sư. Người thứ tư giải thích với viên trung sĩ tiếp tân rằng nếu cái túi xách mà ông vừa bị tước đoạt được mở ra bất cứ lúc nào chưa có sự hiện diện luật sư của ông, một cái trát sẽ được ban hành và sẽ có một vụ kiện riêng đối với Sở Cảnh sát New York.
Viên trung sĩ tiếp tân nhìn người đàn ông ăn mặc chỉnh tề có vẻ khác thường và quyết định không nên mạo hiểm. Anh ta gắn một cái nhãn đỏ vào cái túi và liệng nó vào chiếc tủ sắt.
Cũng chính người đàn ông đó yêu cầu gọi một cú điện thoại theo quyền hợp pháp của ông. Lời yêu cầu được chấp thuận, nhưng phải sau khi một mẩu giấy được điền vào và ký tên, Dexter Hutchins liền gọi cho vị Giám đốc của cơ quan CIA lúc 2 giờ 27 phút sáng.
Vị Giám đốc thú thực với cấp dưới rằng ông đã không thể nào ngú được. Ông chăm chú lắng nghe bản báo cáo của Hutchins và khen ông đã không tiết lộ danh sách hoặc bất cứ chi tiết nào về nhiệm vụ bí mật cho cảnh sát biết.
– Chúng ta không cần bất cứ người nào biết các anh là những ai, – Ông nói thêm. Chúng ta phải chắc chắn trong mọi lúc không làm bận tâm Tổng thống.
Ông dừng lại một lát rồi tiếp:
– Hoặc quan trọng hơn nữa, cho CIA.
Khi Phó giám đốc đặt điện thoại xuống, ông và ba đồng nghiệp của ông bị xô đẩy vào những phòng giam riêng.
Vị Giám đốc của cơ quan CIA mặc chiếc áo khoác và đi xuống phòng làm việc. Sau khi ông chép lại tóm tắt cuộc nói chuyện với viên phó của mình, ông kiểm tra một số trong máy vi tính trên bàn. Ông chậm rãi quay mã số vùng 212.
Vị Giám đốc Sở Cảnh sát New York thốt lên những lời nói chọn lọc kỹ khi ông trả lời điện thoại, cho tới lúc ông đủ cảnh giác để hiểu rõ người đang hết sức tỉnh táo ở đầu kia đường dây. Rồi ông bật sáng ngọn đèn bên cạnh giường và bắt đầu ghi chép lên một tập giấy. Vợ ông trở mình, và cũng nói mấy lời chọn lọc kỹ riêng phần bà.
Vị Giám đốc CIA chấm dứt câu chuyện với lời bình luận:
– Tôi mang ơn ông một việc.
– Hai chứ, – vị Giám đốc Sở Cảnh sát nói – Việc thứ nhất là tôi được cố gắng giải quyết vấn đề của ông.
– Còn việc thứ hai? – vị Giám đốc CIA hỏi.
– Đánh thức vợ tôi vào lúc ba giờ sáng.
Vị Giám đốc Sở Cảnh sát còn ngồi trên mép giường, trong khi ông tìm số điện thoại nhà riêng của viên Đại uý phụ trách khu vực cảnh sát đặc biệt kia.
Viên Đại uý nhận được giọng nói của cấp trên ngay lúc ông ta nhấc máy điện thoại lên, và chỉ nói như đây là một cú điện thoại trong đêm bình thường.
– Chào ông Giám đốc.
Vị Giám đốc tóm tắt mọi việc cho viên Đại ý nghe mà không hề nhắc tới cú điện thoại của vị Giám đốc CIA hoặc cho biết bất cứ manh mối nào về bốn người đang mòn mỏi chờ đợi trong phòng giam ban đêm là những ai – mặc dù bản thân ông biết rất rõ. Vị Đại uý hí hoáy viết các sự kiện chính yếu lên mặt sau tạp chí Good Housekeeping của bà vợ ông ta cũng không nghĩ tới chuyện tắm hoặc cạo râu, và nhanh chóng mặc lại bộ quần áo đã dùng ngày hôm trước. Ông ta rời khỏi nhà ở Queens lúc 3 giờ 21 và đích thân lái xe vào Manhattan, bỏ lại xe hơi bên ngoài trụ sở Cảnh sát khu vực lúc gần bốn giờ.
Các viên cảnh sát vẫn còn thức đầy đủ vào giờ giấc sáng sớm đó đều ngạc nhiên khi trông thấy cấp trên chạy lên mấy bậc thềm vào tiền sảnh, nhất là vì ông ta có vẻ nhếch nhác, không cạo râu, và kẹp thêm một cuốn Good Housekeepingdưới nách.
Ông ta sải bước vào phòng của viên trung uý trực ban khiến anh ta vội rút hai chân khỏi mặt bàn.
Viên trung uý có vẻ hoang mang khi được hỏi về bốn người vừa bị bắt trước đó. vì ông ta chỉ mới lấy khẩu cung một tên bán lậu ma tuý.
Viên Trung sĩ tiếp tân được gọi vào gặp viên Đại uý trong văn phòng viên trung uý trực ban. Viên cảnh sát dày dạn từng trải, luôn luôn nghĩ mình đã chứng kiến nhiều chuyện nhất trong ngành, nhìn nhận đang giam giữ bốn người nhưng vẫn còn lúng túng vì toàn bộ sự việc, bởi vì anh ta không sao nghĩ ra bất cứ điều gì để buộc tội họ – cho dù sự thật là một trong số gia chủ, một người tên Antollio Cavalli, đã gọi điện thoại cách đây mấy phút để hỏi bốn người có còn bị tạm giam hay không, vì một chuyện rắc rối đã nảy sinh. Không một ai trong số cư dân báo cáo có vật gì bị lấy mất, như vậy không thể kết tội ăn trộm. Không thể buộc tội vào nhà bât hợp pháp, vì trong mỗi lần họ đều được mời vào. Chắc chắn không thể khép họ vào tội dính líu tới chuyện tấn công và xâm phạm, vì họ rời khỏi nhà ngay lúc họ được yêu cầu. Tội trạng duy nhất viên Trung sĩ có thể nghĩ tới là giả dạng các viên chức của thành phố.
Viên Đại uý tỏ ra không hề quan tâm đến việc viên Trung sĩ tiếp tân có thể tìm ra lý do nào để buộc tội họ hay không. Tất cả những gì ông ta muốn biết là:
– Cái túi đã được mở ra chưa?
– Chưa thưa Đại uý. – viên Trung sĩ vừa nói vừa cố nghĩ anh ta đã để nó ở đâu.
– Thế thì Trung sĩ hãy thả họ ra sau khi đóng tiền bảo lãnh, chờ luận tội sau, – viên Đại uý chỉ thị. – Tôi sẽ giải quyết công việc giấy tờ.
Công việc giấy tờ khiến viên Đại uý mất một thời gian đáng kể, và mãi tới sáu giờ quá mấy phút, họ mới được thả ra.
Khi họ cùng nhau bước xuống thềm trụ sở Sở cảnh sát khu vực, người nhỏ nhắn mang kính trắng nắm chặt cái túi vẫn chưa được mở ra.
 
Antonio Cavalli giật mình thức dậy. Y đã nằm mơ thấy mình bị lôi ra khỏi giường vứt ra ngoài đường phố vào giữa đêm khuya.
Y bật ngọn đèn bên cạnh giường và chụp lấy chiếc đồng hồ. Lúc bấy giờ là 0 giờ 47. Y bắt đầu nhớ lại chuyện đã xảy ra vài giờ trước đó.
Ngay sau khi họ ra ngoài đường, Martin đã đi theo bốn người đàn ông trở vào trong nhà. Quá nhiều đối với một vụ rò rỉ khí đến đơn giản, Cavalli nghĩ. Và viên chức của công ty khí đến nào mà lại hút xì gà và có đủ tiền mua một bộ com lê ở cửa hàng Saks trên Đại lộ 5. Sau khi họ đã ở bên trong khoảng mười lăm phút, Cavalli lại càng nghi ngờ hơn nữa. Y liền hỏi viên trưởng Sở Cứu hoả là ông ta có quen biết với bốn người kia không. Viên Trưởng Sở nhìn nhận rằng, mặc dù họ đã có thể cho ông ta biết đúng mã số qua điện thoại, ông ta chưa từng gặp họ bao giờ. Ông ta cho rằng Cavalli có lý khi y gợi ý rằng có lẽ đã đến lúc kiểm tra lại với Consolidated Edison. Nhân viên phụ trách tổng đài của nơi này cho y biết rằng họ không có các kỹ sư nào ra ngoài vì được gọi điện thoại đêm hôm ấy để xuống Đường 75. Viên trưởng Sở Cứu hoả chuyển ngay tin tức này cho Sở Cảnh sát. Vài phút sau, sáu cảnh sát viên đã tiến vào nhà số 23 và bắt cả bốn người đàn ông.
Sau khi bọn họ được đưa về Sở Cảnh sát, bố y và Martin đã giúp Tony kiểm tra từng phòng trong nhà, nhưng theo họ trông thấy thì không thiếu món gì. Họ đi ngủ lại lúc 1 giờ 45.
Giờ đây, Cavalli hoàn toàn tỉnh táo, mặc dù y có ý nghĩ mình vừa nghe một tiếng động từ tầng trệt. Có phải đó cũng chính là tiếng động đã đánh thức y? Tony xem đồng hồ một lần nữa. Bố y và Martin vẫn thường dậy sớm, nhưng ít khi vào khoảng giữa ba và bốn giờ sáng.
Cavalli xoay mình ra khỏi giường và đặt chân lên nền nhà. Y vẫn còn có cảm tưởng rằng chắc chắn y đã nghe được nhiều tiếng nói.
Y choàng một chiếc áo khoác và bước tới cửa phòng ngủ. Y từ từ mở cửa, đi ra ngoài tới đầu cầu thang và liếc qua dãy lan can. Y có thể trông thấy một làn ánh sáng chiếu ra từ phía dưới cửa phòng làm việc của bố y.
Y liền di chuyển nhanh qua dãy cầu thang độc nhất và lặng lẽ băng qua hành lang lót thảm cho đến khi dừng lại bên ngoài phòng làm việc. Y cố nhớ lại khẩu súng gần nhất ở nơi nào.
Y thận trọng lắng nghe, nhưng không sao nghe được một tiếng chuyển động nào từ bên trong. Rồi đột nhiên, một giọng nói tầm bắt đầu lớn tiếng nguyền rủa! Tony liền mở tung cửa và tìm thấy bố y, cũng đang mặc một chiếc áo khoác, đứng phía trước bản Tuyên ngôn Độc lập và cầm một cái kính lúp trong bàn tay phải. Ông đang nghiên cứu từ “British”
– Bố cảm thấy ổn cả chứ? – Tony hỏi bố y.
– Lẽ ra con phải giết chết Dollar Bill khi ba đã bảo con. – đó là lời bình luận duy nhất của bố y.
– Nhưng tại sao? – Tony hỏi.
– Bởi vì bọn chúng đã lấy trộm bản Tuyên ngôn đọc lập!
– Nhưng bố đang đứng phía trước nó kia mà, – Tony nói.
– Không, không phải thế, – bố y nói – Con vẫn chưa hiểu bọn chúng đã làm gì hay sao?
– Không, con không biết, – Tony nhìn nhận.
– Bọn chúng đã đổi bản gốc bằng bản sao vô giá trị mà con đã đặt vào trong Viện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia.
– Nhưng bản sao trên tường chính là một bản khác do Dollar Bill tạo ra, – Tony nói – Con đã trông thấy ông ta trao cho bố.
– Không, – bố y nói – Bản của bố là bản gốc, chứ không phải bản sao.
– Con không hiểu, – Tony nói, lúc này hoàn toàn rối tinh rối mù.
Ông già liền quay lại và nhìn thẳng vào mặt con trai ông lần đầu tiên.
– Nick Vicente và bố đã hoán đổi chúng khi con mang bản Tuyên ngôn trở ra khỏi Washington.
Tony nhìn chằm chằm vào bố y trong lúc ông nói tiếp:
– Con không nghĩ ba đã cho phép một phần di sản của đất nước chúng ta rơi vào tay của Saddam Hussein đấy chứ?
– Nhưng tại sao bố đã không cho con hay? – Tony hỏi.
– Và để cho con đi Geneva, mặc dù bố biết con đang giữ một bản giả, trong khi hợp đồng vẫn còn chưa kết thúc hay sao? Không, một phần kế hoạch của bố vẫn là con sẽ tin tưởng bản gốc đã được gởi đến công ty Franchard, bởi vì nếu con tin tưởng như thế, Al Obaydi cũng sẽ tin tưởng như con.
Tony không nói gì.
– Và chắc chắn con sẽ không cãi vã kịch liệt như vậy khi bị mất năm mươi triệu nếu con biết tỏng tòng tong trong tài liệu con đang có ở Geneva chỉ là một bản giả.
– Thế thì bản gốc hiện giờ ở đâu? – Tony hỏi.
– Một nơi nào đó trong văn phòng của khu vực Cảnh sát 19, ba dám cá như vậy, – bố y trả lời. – Và đó là điều ba định tìm hiểu ngay bây giờ.
Nói đoạn. Ông bước tới bàn làm việc và nhấc cuốn niên giám điện thoại lên.
Ông chủ tịch quay bảy con số và yêu cầu nói với sĩ quan trực ban. Ông xem đồng hồ trong khi chờ nối đường dây. Lúc đó là 4 giờ 22.
Khi viên Trung sĩ tiếp tân đến nghe, Cavalli giải thích ông là ai, và hỏi hai câu. Ông cẩn thận lắng nghe hai câu trả lời rồi đặt máy điện thoại lên móc.
Tony khẽ nhếch mày.
– Bọn chúng vẫn còn bị nhốt trong phòng giam và cái túi được cất trong tủ sắt. Chúng ta có trả lương cho một người nào ở khu vực Cảnh sát 19 hay không? – bố y hỏi.
– Có một Trung uý đã làm việc rất ít cho chúng ta trong thời gian gần đây.
– Thế thì đã đến lúc anh ta thi hành nghĩa vụ để đền đáp lại cho chúng ta, – bố y nói trong lúc ông bước về phía cửa.
Tony vượt qua ông. Lên cầu thang từng ba nấc một để trở về phòng ngủ của y. Y mặc y phục trong vòng mấy phút và bước trở xuống cầu thang, tưởng sẽ phải chờ một lúc bố y mới xuất hiện, nhưng ông đứng sẵn ở cửa trước.
Bố y mở khoá cửa và Tony đi theo ông ra ngoài lề đường, vượt qua y để nhìn ngược đường tìm một chiếc taxi vùng. Nhưng không có một chiếc nào chịu quẹo phải vào đường 75 vào giờ giấc này trong buổi sáng.
– Chúng ta sẽ phải đi xe của mình, – bố y lớn tiếng nói trong lúc đã bắt đầu băng qua đường về phía nhà để xe thâu đêm. – Chúng ta không thể lãng phí một phút nào nữa.
Tony phóng trở vào nhà và lấy chùm chìa khoá xe trong hộc bàn ở tiền sảnh. Y bắt kịp bố y trước khi ông tới nơi đậu xe của họ.
Trong lúc Tony buộc dây an toàn, y quay người và hỏi bố y.
– Nếu chúng ta tìm được cách lấy lại bản Tuyên ngôn. lúc đó bố định làm gì?
– Để bắt đầu, bố sẽ đích thân hạ sát Dollar Bill, như thế bố mới chắc chắn rằng hắn ta sẽ không bao giờ tạo ra một bản sao nào nữa. Rồi sau đó…
Tony quay chìa khoá công tắc.
Tiếng nổ kế tiếp đánh thức tất cả mọi người trong vùng lân cận lần thứ hai trong sáng hôm ấy.
 
Bốn người chạy xuống thềm trụ sở Cảnh sát khu vực. Người nhỏ nhắn nhất trong bọn nắm chặt cái túi xách. Một chiếc xe hơi mà động cơ đã nổ sẵn sàng trong suốt giờ qua liền quẹo qua đường và ngừng lại bên cạnh họ. Một trong bốn người chậm bước lại trong ánh sáng lờ mờ của ban mai, vẫn còn chưa chắc tại sao kiến thức chuyên môn của mình đã được đòi hỏi ngay từ đầu.
Dexter Hutchins ngồi vào ghế bên cạnh tài xế, trong khi Scott và chuyên gia bảo vệ trèo nhanh lên băng sau.
– La Guardia, – Dexter nói rồi cám ơn người nhân viên vì đã phải thức nửa đêm.
Scott nhìn qua khoảng giữa hai chiếc ghế phía trước trong lúc đồng hồ điện tử chuyển từ 6:11 sang 6:12.
Viên tài xế lạng ra làn đường bên ngoài.
– Đừng vượt quá tốc độ giới hạn, – Dexter ra lệnh. – Chúng ta không được trễ nải vì bất cứ lý do nào trong giai đoạn này.
Viên tài xế liền thận trọng di chuyển trở vào làn giữa.
– Chuyến bay thường xuyên kế tiếp vào lúc nào? – Scott hỏi.
– Delta, bảy giờ ba mươi. viên tài xế trả lời.
Dexter nhấc máy điện thoại lên và bấm mười số. Một giọng nói ở dầu dây bên kia lên tiếng:
– Tôi đây.
Vị Phó giám đốc chỉ trả lời.
– Chúng tôi đang trên đường đi, thưa ngài. Tất cả có mặt và đúng lúc.
Dexter đặt máy điện thoại và xoay quanh để an tâm rằng viên chuyên gia bảo vệ im lặng vẫn còn ở bên họ. Ông ôm chặt cái túi lúc này đang nằm yên trên chân ông.
– Tốt hơn nên lấy tất cả mọi thứ ra khỏi cái túi, ngoại trừ ống giấy. – Dexter nói – Nếu không chúng ta sẽ không bao giờ có thể qua khỏi lực lượng an ninh.
Mendelssohn liền mở dây kéo của cái túi và cho phép Scott lấy ra những cây tuốc nơ vít, dao, đục và cuối cùng là cần khoan rồi để tất cả lên sàn xe khoảng giữa họ. Sau đó ông ta đóng ngay dây kéo lại.
Lúc 6 giờ 43, viên tài xế tách ra khỏi xa lộ và chạy theo các bảng hiệu tới La Guardia. Không một ai nói gì cho đến khi xe hơi đừng lại ở lề đường lót đá đối diện với lối vào phòng đợi Không lực của Thuỷ quân Lục chiến.
Trong lúc Dexter bước ra khỏi xe hơi, ba người đàn ông nhảy ra khỏi chiếc xe, lách vào lề đường ngay phía sau họ, và dẫn vị Phó giám đốc vào phòng đợi của sân bay. Một người đàn ông khác mặc một com lê chỉnh tề màu xám than, với một chiếc áo mưa trên cánh tay, đưa ra một phong bì trong lúc Dexter đi qua ông ta. Vị Phó giám đốc lấy gói đồ như một vận động viên chạy tiếp sức mà không chậm bước, trong lúc ông tiếp tục về phía phòng đợi lên máy bay: nơi đây ba nhân viên nữa đang chờ đợi ông.
Sau khi đã đăng ký, Dexter Hutchins chỉ thích bước tới bước lui trong lúc chờ lên máy bay, nhưng ông cứ phải đứng bồn chồn bên cạnh bản Tuyên ngôn Độc lập, vây quanh bởi một vòng nhân viên.
“Chuyến bay đi Washington sắp khởi hành ở cổng số 4” – một tiếng nói thông báo trên loa.
Chín người chờ đợi cho tới lúc những người khác đã lên máy bay. Khi nhân viên đứng bên cạnh gật đầu, Dexter dẫn cả đội qua người thu vé, lên cầu thang và vào trong máy bay. Họ ngồi vào các ghế 1A-F và 2A-F. Ghế 2E chỉ dành riêng cho cái túi, còn ghế 2D và F cho hai người đàn ông trong bọn nặng trên hai trăm ký.
Viên phi công chào mừng họ lên máy bay và báo cho họ biết có thể trễ một chút. Dexter xem đồng hồ: 7 giờ 27. Ông bắt đầu nhịp ngón tay tên chỗ tựa tay phân chia ông với Scott. Tiếp viên chuyến bay đưa cho mỗi người trong số chín người ở hàng ghế thứ nhất một tờ USA Today. Chỉ có Mendelssohn nhận tờ báo.
Lúc 7 giờ 59, chiếc máy bay chạy ra phi đạo để chuẩn bị cất cánh. Khi nó chợt dừng lại, Dexter hỏi cô tiếp viên chuyện gì đang gây chậm trễ.
– Sáng sớm nào cũng thế, – cô ta trả lời. – Ông Đại uý vừa cho tôi hay chúng ta là số bảy trong hàng, vì thế chúng ta sẽ cất cánh vào khoảng mười hoặc mười lăm phút nữa.
Dexter tiếp tục nhịp ngón tay lên chỗ tựa tay, trong khi Scott không thể rời mắt khỏi cái túi. Mendelssohn giở một trang khác của tờ USA Today.
Chiếc máy bay quay tròn trên phi đạo, cất cánh lúc 7 giờ 51. Các động cơ phản lực rú mạnh ga trước khi di chuyển từ từ về phía trước, rồi tăng tốc độ. Các bánh xe rời khỏi mặt đất lúc 7 giờ 53.
Trong chốc lát, cô tiếp viên trở lại, dọn điểm tâm cho tất cả mọi người. Cô ta không trả lời một câu rõ ràng cho tới lúc tới hàng ghế thứ bảy. Sau đó cô ta đưa cà phê như thường lệ mỗi sáng cho ba nhân viên phi hành đoàn, cô ta hỏi vị Đại uý tại sao các dãy ghế từ ba tới sáu đều không có người ngồi, nhất là vì hôm nay là ngày lễ Độc lập.
Viên Đại uý không sao nghĩ ra lý do và chỉ nói:
– Cô hãy để mắt tới các hành khách ngồi ở hàng ghế một và hai.
Ông ta lại càng thêm tò mò về chín người ở phía trước máy bay khi ông ta được phép hạ cánh ngay lúc ông ta vừa thông báo cho ban kiếm soát không lưu rằng ông ta còn cách Washington một trăm mười cây số.
Ông ta bắt đầu hạ cánh lúc 8 giờ 33 và đến cổng đúng thời biểu lần đầu tiên từ nhiều tháng nay. Khi ông ta tắt động cơ, ba người lập tức chặn lối đi giữa hai hàng ghế và vẫn đứng đó cho tới lúc vị Phó giám đốc và đoàn người của ông đã vào hết trong phòng đợi của phi trường. Khi Dexter Hutchins ló mặt trong khu vực cổng hãng hàng không Delta, một nhân viên đóng vai John the Baptist 1, trong khi ba người khác ủng hộ phía sau, trong vai môn đồ của ông.
Vị Giám đốc rõ ràng đã xem việc bảo vệ và lôi cuốn sự chú ý là quan trọng. Dexter phát hiện bốn nhân viên khác trong lúc ông đi qua phòng đợi, và tin chắc tối thiểu còn có hai mươi người khác ẩn nấp tại các điểm chiến lược trênđoạn đường ông đi tới chiếc xe hơi.
Trong lúc Dexter đi qua phía dưới đồng hồ điện tử, mấy chữ số màu đỏ chớp sáng 9:01. Hai cánh cửa trượt mở và ông bước ra lề đường. Ba chiếc xe sắp hàng chờ đợi với tài xế bên cạnh cửa.
Ngay lúc họ trông thấy vị Phó giám đốc, tài xế của xe đầu và thứ ba nhảy vào sau tay lái và cho máy nổ, trong khi tài xế xe thứ hai vẫn giữ cửa sau mở để Scott và Mendelsohn bước lên. Vị Phó giám đốc theo nhân viên ở phía trước.
Chiếc xe hơi dẫn đầu hướng về phía Đại lộ George Washington, và trong mấy phút đoàn xe qua cầu đường 14.
Lúc đài kỷ niệm Jefferson hiện ra, Dexter xem đồng hồ một lần nữa. Lúc này là 9 giờ 12.
– Đủ thì giờ chán, – Ông nhận xét.
– Chưa đầy một phút sau, họ đã bị kẹt xe.
– Khỉ thật! – Dexter nói – Tôi đã quên các đường phố sẽ bị ngăn chặn để diễu hành ngày Độc lập.
– Ngay khi họ chỉ di chuyển được thêm tám trăm mét trong ba phút kế tiếp, Dexter liền bảo tài xế họ không còn cách lựa chọn nào khác.
– Hú còi đi! – Ông nói.
Viên tài xế bật đèn chớp, cho còi hù tối đa và quan sát trong lúc chiếc xe dẫn đầu đổi hướng vào làn đường trong và cố giữ một tốc độ đều sáu mươi lăm cây số cho tới khi họ đến xa lộ siêu tốc.
Đến đây, Dexter xem đồng hồ từng ba mươi giây một trong lúc ba chiếc xe hơi cố khéo léo đổi làn đường, nhưng một vài ba công dân Washington chằng thèm xê dịch vì tiếng còi và đèn chớp vẫn không chịu để cho họ chạy qua.
Chiếc xe dẫn đầu ngoặt vào giữa hai rào cản của cảnh sát và quẹo vào đại lộ Constitution lúc 9 giờ 37. Khi Dexter trông thấy những chiếc xe diễu hành đang sắp hàng chờ xuất phát. Ông ra lệnh tắt còi. Điểm cuối cùng ông cần là tránh những con mắt tọc mạch khi rốt cuộc họ dừng lại bên ngoài Viện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia.
Chính Scott là người đầu tiên trông thấy họ. Anh vỗ nhẹ lên vai Dexter và chỉ tay về phía trước. Một đội quay phim của đài truyền hình đang đứng ở đầu một hàng người bên ngoài cổng của Viện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia.
– Chúng ta sẽ không bao giờ qua mặt được họ, – Dexter nói, rồi quay sang Mendelssohn hỏi tiếp – Có đường nào khác vào trong toà nhà không?
– Có một cửa giao hàng ở đường 7, Mendelssohn trả lời.
– Tốt quá, – Dexter Hutchins nói.
– Hãy chạy xe qua cổng trước rồi thả tôi xuống ở góc đường. – viên chuyên gia bảo vệ nói – Tôi sẽ băng ngang đại lộ Constitution và vào theo cửa giao hàng.
– Thả ông xuống ở góc đường à? – Dexter nói với vẻ hoài nghi.
– Nếu tôi bị các nhân viên của ông vây quanh, mọi người sẽ… – Mendelssohn cố gắng giải thích.
– Phải, phải, phải, – vị Phó giám đốc vừa nói vừa cố suy nghĩ.
Ông nhấc máy điện thoại lên và chỉ thị cho hai chiếc xe kia chạy đi chỗ khác.
– Chúng tôi sẽ phải mạo hiểm thôi, – Scott nói.
– Tôi biết, – Dexter nói – Nhưng tối thiểu anh có thể đi với ông ấy. Xét cho cùng, anh không bao giờ có vẻ như một điệp viên.
Scott không sao biết chắc chắn anh có nên xem nhận xét đó có phải là lời khen ngợi hay không.
Trong lúc họ chạy xe từ từ qua Viện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, Dexter mới rời mắt khỏi đội quay phim đang nôn nóng.
Họ gồm bao nhiêu người? – Ông hỏi.
– Khoảng sáu người. – Scott nói – Và tôi nghĩ chắc là Shaw đang quay lưng về phía chúng ta.
– Ông hãy chỉ cho tôi chính xác nơi ông muốn ngừng lại – vị Phó giám đốc vừa nói vừa quay lại nhìn thẳng vào mặt Mendelsohn.
– Thêm năm chục mét nữa, – Ông ta đáp.
– Anh lấy cái túi đi, Scott.
– Nhưng… – Mendelssohn lên tiếng.
Khi ông ta trông thấy sắc mặt của Dexter Hutchins. Ông ta không dám nói thêm một tiếng nào.
Chiếc xe hơi chạy chậm lại trên đoạn đường dốc rồi ngừng lại. Scott nắm chặt cái túi, nhảy ra và giữ cửa mở cho Mendelssohn. Tám nhân viên đang bước tới bước lui trên đường cố làm ra vẻ ngây thơ, không một ai trong bọn họ nhìn về phía thềm Viện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia. Hai ngươi có vẻ không giống bạn đồng hành băng nhanh qua đại lộ Constitution và bắt đầu chạy tới đường 7.
Khi họ đến cửa giao hàng, Scott đối mặt với một người mà anh mới biết ngày hôm trước, là Calder Marshall. Ông đã lo lắng bước qua lại nãy giờ ở cuối đoạn đường dốc.
– Tạ ơn Chúa, – vị Viện trưởng chỉ nói có thế khi ông trông thấy Scott và viên chuyên gia bảo vệ chạy xuống đoạn đường dốc.
Ông lặng lẽ dẫn họ vào thang máy đã mở cửa sẵn. Họ lên hai tầng lầu rồi chạy dọc theo hành lang cho tới lúc họ tới cầu thang dẫn xuống tầng hầm ngầm. Marshall quay lại để xem hai người còn ở bên cạnh ông hay không, trước khi bắt đầu chạy xuống các bậc thang, điều mà không một nhân viên nào từng trông thấy trước đây. Scott đuổi theo vị Viện trưởng, theo sau là Mendelssohn. Không một ai ngừng lại cho tới lúc họ đến một bộ cửa thép đồ sộ.
Marshall gật đầu và viên chuyên gia bảo vệ nín thở cúi người về phía trước, bấm một mã số vào cái hộp nhỏ bên cạnh cửa. Tấm lưới bằng thép từ từ mở ra để cho ba người bước vào tầng hầm ngầm. Ngay sau khi họ đã ở bên trong, viên chuyên gia bảo vệ bấm một nút khác, và cánh cửa trượt trở lại vị trí.
Họ dừng lại trước khối bê tông lớn đã được xây dựng để cất giữ bản Tuyên ngôn Độc lập. Y hệt một linh mục trước một bàn thờ, Scott xem đồng hồ. Lúc này đã là 9 giờ 51.
Mendelssohn bấm một nút đỏ và tiếng loảng xoảng cùng tiếng quay tròn quen thuộc bắt đầu khi khối bê tông tách ra rồi các khung trống đồ sộ từ từ hiện rõ. Ông ta lại sờ cái nút khi khung kính tới ngang ngực.
Vị Viện trưởng và viên chuyên gia bảo vệ bước về phía trước trong khi Scott mở dây kéo của cái túi. Vị Viện trưởng lấy hai chìa khoá ra khỏi túi áo vét tông và đưa một chiếc cho người đồng nghiệp của ông. Họ lập tức bắt ta vào việc tháo mười hai bù loong cách đều nhau quanh vành đồng dày. Ngay sau khi họ hoàn tất công việc, họ cúi xuống và nhấc cái khung lên cho tới lúc trông nó giống như một cuốn sách mở.
Scott liền lấy cái ống giấy ra và đưa cho vị Viện trưởng Marshall mở nắp ống, để cho Mendelssohn thận trọng kéo vật để từ bên trong ra.
Scott quan sát trong lúc vị Viện trưởng và viên chuvên gia bảo vệ từ từ trải bản Tuyên ngôn Độc lập ra, từng phân một trên mặt kính đang chờ đợi, cho tới lúc tấm giấy da nguyên bản cuối cùng trở về với vị trí chính đáng của nó.
Scott cúi xuống và nhìn một lần cuối từ sai chính tà trước khi hai người đặt cái khung bằng đồng trở lại như cũ.
– Lạy Chúa, người Anh còn phải chịu trách nhiệm dài dài, – đó là tất cả những gì viên Viện trưởng nói.
Calder Marshall và viên chuyên gia nhanh chóng siết lại mười hai bù loong chung quanh khung và thụt lùi một bước trước bàn Tuyên ngôn.
Họ chỉ ngừng một giây trong khi Scott lại xem đòng hồ tay, 9 giờ 57. Anh nhìn lên và nhận thấy Marshall và Mendelssohn ôm chặt nhau và nhảy nhót như những càu bé vừa nhận được một món quà bất ngờ.
Scott khẽ ho một tiếng rồi nói:
– 9 giờ 58 rồi đấy. quý ngài!
Hai người lập tức trở lại với cá tính của mình.
Vị Viện trưởng bước trở lại khối bê tông. Ông ngừng một lát rồi bấm nút đỏ. Cái khung đồ sộ dâng cao tiếp tục cuộc hành trình lên phía trên tới phòng triển lãm để cho công chúng đang chờ đợi được xem.
Calder Marshall quay người lại nhìn thẳng vào mặt Scott. Một nụ cười thoáng qua bộc lộ sự nhẹ nhõm của ông.
Ông cúi chào như một chiến sĩ Nhật bản để ngụ ý rằng ông cảm thấy danh dự đã được mãn nguyện. Viên chuyên gia bảo vệ bắt tay Scott rồi bước tới cửa, ấn một mã số vào cái hộp nhỏ và quan sát chiếc lưới mở ra.
Marshall đi theo Scott ra ngoài hành lang, lên cầu thang và trở xuống tầng hầm bằng thang máy để ra cửa giao hàng.
– Cám ơn giáo sư! – Ông nói trong lúc bắt tay nhau trên cầu lên hàng.
Scott phóng lên đoạn đường dốc và quay lại nhìn ngay sau khi đã tới lề đường. Không thấy bóng dáng vị viện trưởng.
Ông bước nhanh qua đường 7 và đến gặp Dexter trong chiếc xe đang chờ đợi.
– Có vấn đề gì không, giáo sư? – Phó giám đốc CIA hỏi.
– Không, không có gì, loại trừ ông tính đến hai con người đứng đắn có vẻ như họ đã già thêm mười tuổi trong hai tháng vừa qua.
Tiếng chuông thứ mười đổ trên chiếc đồng hồ tháp Bưu điện cũ. Những cánh cửa của Viện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia mở toang và một đội quay phim chạy ào vào.
Chiếc xe hơi của vị Phó giám đốc chạy ra giữa đại lộ Constitution, nơi đây nó bị kẹt vào giữa hai chiếc xe điều hành của Tennesse và Texas. Một sĩ quan cảnh sát chạy qua và ra lệnh cho tài xế rẽ vào đường 7.
Khi xe dừng lại. Dexter cho kính cửa chạy xuống, mỉm cười với viên sĩ quan và nói:
– Tôi là Phó giám đốc của cơ quan CIA.
– Còn tôi là Chú Sam 2 – viên sĩ quan vừa đáp lại vừa bắt đầu viết một giấy phạt.
Chú thích
1.John the Baptist: theo Thánh kinh, là người mở đường và rửa tội cho Jesus.
2.Chú Sam (tiếng lóng): nước Mỹ.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.