Luật im lặng

PHẦN KẾT



Nicole ném phịch ống nghe xuống và quát người thư ký của nàng
– Tôi phất ốm vì nghe tin đồng Euro quá yếu. Nếu được, hãy tìm ngay ngài Pryor. Có lẽ ông ấy đang ở một sân golf nào đó thôi.
Hai năm trôi qua, và Nicole đã đứng ra điều hành các nhà băng của Aprile. Khi chuẩn bị về hưu, ông Pryor đã khẳng định nàng là người thích hợp nhất cho công việc đó. Là một đấu thủ giàu kinh nghiệm, nàng chẳng chị khoanh tay trước áp lực từ phía các giám sát viên và khách hàng khó tính.
Hôm nay Nicole cuống cuồng dọn dẹp phòng làm việc của nàng. Đến đêm nàng và hai anh sẽ bay sang Sicily họp mặt gia đình với Astorre. Nhưng trước khi đi, nàng phải liên lạc vơi Aspinella Washington lúc này đang chờ đợi liệu Nicole có đại diện cho mụ trong đơn kháng cáo nhằm tránh án tử hình hay không. Chỉ nghĩ về việc đó thôi nàng đã thấy ngại, và không chỉ vì nàng đã có việc làm trọn ngày.
Lúc đầu, khi Nicole đề nghị được điều hành các nhà băng, Astorre đã lưỡng lự vì nhớ tới những ước muốn cuối cùng của ông trùm Aprile. Nhưng Pryor đã thuyết phục chàng rằng Nicole là con gái ông Trùm: Bất kỳ khoản cho vay lớn nào đến kỳ phải trả, nhà băng đều có thể tin tưởng nàng sẽ sử dụng hiệu quả sự kết hợp đầy thuyết phục giữa lời nói ngọt ngào và đe doạ ngầm. Nàng biết cách giành được kết quả.
Điện thoại nội bộ của Nicole đổ chuông, và ông Pryor chào nàng theo phong cách lịch sự quen thuộc
– Tôi có thể giúp gì đây hả cưng?
– Chúng ta đang chết dở vì tỷ giá hối đoái này, nàng nói. Bác nghĩ sao nếu ta đổi ồ ạt sang đồng Mác Đức?
– Tôi nghĩ đó là một ý kiến tuyệt vời, ông Pryor nói.
– Bác biết đấy, Nicole tiếp tục. Toàn bộ việc mua bán tiền tệ này cũng giống như đi Vegas chơi bài bac-carat thôi.
Pryor phá lên cười
– Điều đó có thể đúng, nhưng thua bài Baccarat đâu có được Cục dự trữ Liên bang bảo lãnh.
Sau khi cúp mày, Nicole ngồi lại một lát và hồi tưởng quá trình đi lên của nhà băng. Từ khi tiếp nhận vai tò điều hành nàng đã giành được thêm sáu nhà băng nữa ở các nước phát triển và tăng lợi nhuận lên gấp đôi. Nhưng việc nhà băng đang cung cấp những khoản cho vay rộng rãi cho các cơ sở kinh doanh mới mở mang tại các nước đang phát triển còn làm nàng vui hơn.
Nàng mỉm cười với chính mình khi nhớ lại ngày đầu của nàng.
Ngay sau khi đảm đương cương vị mới, Nicole thảo một bức thư gửi cho bộ trưởng tài chính Peru yêu cầu thanh toán toàn bộ những khoản nợ quá hạn của chính phủ. Đúng như nàng trông đợi, việc này đã gây ra một cuộc khủng hoảng kinh tế ở nước này, dẫn đến sự rối ren về chính trị và một cuộc thay đổi nội các. Chính đảng mới lên cầm quyền yêu cầu cách chức tổng lãnh sự Peru tại Liên hợp quốc Mariano Rubio.
Ít lâu sau, Nicole rất vui vì biết tin Rubio đã tuyên bố phá sản. Y còn phải đương đầu với một loạt vụ kiện phức tạp liên quan đến các nhà đầu tư Peru, những người đã tài trợ cho một trong số rất nhiều dự án của y – công viên giải trí. Rubio đã hứa hẹn nó sẽ trở thành một “Latino Disneyland”, nhưng tất cả những gì y có thể làm được chỉ là một vòng đu quay lớn và một ngọn tháp Taco.
Vụ việc mà các tờ báo khổ nhỏ đặt tên là “Cuộc tàn sát hàng loạt tại kho hàng Macaroni” đã trở thành một sự kiện quốc tế. Ngay khi Aspinella Washington bình phục vết thương do phát đạn của Cilke gây ra – một vết thương lủng phổ – mụ đã đưa ra một loạt tuyên bố với giới truyền thông. Trong lúc chờ đợi phiên toà, mụ khắc hoạ bản thân mình như một đấng tử vì đạo cỡ thánh Joan. Mụ kiện FBI vì đã âm mưu giết người, vu khống và xâm phạm quyền công dân của mụ. Mụ còn kiện cả Sở cảnh sát New York vì đã không trả lương cho mụ trong thời gian bị đình chỉ công tác.
Bất chấp những phản kháng của mụ, bồi thẩm đoàn chỉ mất ba giờ đồng hồ thảo luận để kết tội mụ. Khi toàn tuyên bố mụ có tội, Aspinella chửi như tát nước vào mặt các luật sư của mụ rồi thỉnh cầu Phong Trào Chống Án Tử Hình làm đại diện. Mụ đòi Nicole phải đảm đương vụ này. Từ xà lim án tử hình mụ tuyên bố với giới báo chí
– Em họ cô ta đã đẩy tôi vào đây thì bây giờ cô ta phải đưa tôi ra khỏi đây.
Lúc đầu Nicole từ chối gặp Aspinella với lý do bất kỳ luật sư giỏi nào cũng loại được nàng vì xung đột về quyền lợi rõ ràng như vậy. Nhưng sau đó Aspinella tố cáo Nicole phân biệt chủng tộc, và nàng cuối cùng đã đồng ý.
Ngày họ gặp nhau, Nicole phải chờ hai mươi phút trong khi đó Aspinella lại đến dự một hội nghị của các quan chức cấp cao ngoại quốc. Những vị này nghênh tiếp mụ như một chiến binh dũng cảm dám chống lại bộ luật hình sự man rợ của Hoa Kỳ. Cuối cùng Aspinella ra hiệu cho Nicole lại gần cửa sổ. Mụ đã quen đeo một miếng băng mắt màu vàng có thêu chữ TỰ DO.
Nicole tuôn ra một tràng tất cả những lý do nàng muốn từ chối vụ kiện và kết thúc bằng việc nêu rõ rằng nàng đã đại diện cho Astorre chống lại mụ trước đó rồi.
Aspinella chăm chú lắng nghe, tay vân vê những lọn tóc mới tết.
– Tôi nghe cô, mụ nói. Nhưng có nhiều điều cô không biết. Astorre đã đúng: Tôi phạm nhiều tội ác. Tôi đã bị kết án, và tôi sẽ dành phần còn lại của đời tôi chuộc lại chúng. Nhưng làm ơn hãy giúp tôi sống đủ lâu để đền bù những gì tôi có thể.
Lúc đầu Nicole cho rằng đây chỉ là một trong những mánh khoé nữa của Aspinella nhằm kiếm chút thiện cảm, nhưng có cái gì đó trong giọng nói của mụ làm nàng xúc động. Nàng vẫn tin rằng không ai có quyền kết án tử hình người khác. Nàng vẫn tin vào sự hoàn lương. Nàng thấy Aspinella cũng như tất cả những ai bị giam tỏng khám tử hình, đều đáng được bảo vệ. Nàng chỉ ước nàng không phải nhúng tay vào vụ này.
Trước khi đưa ra kết luận cuối cùng, nàng biết nàng còn phải đương đầu với một người.
Sau lễ tang theo nghi thức dành cho những anh hùng của Cilke, Georgette yêu cầu được gặp giám đốc. Một nhân viên FBI đón chị tại sân bay và đưa chị về tổng hành dinh của Cục.
Khi Georgette bước vào phòng giám đốc, lão ôm choàng lấy chị và hứa rằng Cục sẽ làm mọi thứ cần thiết để giúp mẹ con chị đương đầu với mất mát quá lớn của họ.
– Cảm ơn ngài, Georgette nói. Nhưng đấy không phải là lý do tôi tới đây. Tôi cần biết tại sao chồng tôi bị giết.
Trước khi trả lời, giám đốc dừng lại hồi lâu. Lão biết chị đã nghe những lời đồn đại. Và những lời đồn đó có thể gây ra hiểm hoạ cho hình ảnh của FBI. Lão cần phải trấn an chị. Cuối cùng lão nói
– Tôi lấy làm xấu hổ phải thừa nhận rằng ngay cả chúng tôi cũng cần phải mở một cuộc điều tra. Chồng cô là một người mẫu mực mà mỗi nhân viên FBI phải noi theo. Cilke tận tâm với công việc và tuyệt đối tuân thủ pháp luật. Tôi biết cậu âấ không làm bất kỳ điều gì ảnh hưởng đến FBI và gia đình mình.
– Thế tại sao anh ấy lại đến cái kho hàng đó có một mình? Georgette hỏi. Và anh ấy có quan hệ thế nào với Portella?
Giám đốc chú ý từng ly từng tý đến đề tài thảo luận mà lão đã thực tập với ban tham mưu của mình trước cuộc gặp này.
– Chồng cô là một điều tra viên rất cừ. Cậu ấy được tự do lần theo các đầu mối của mình. Chúng tôi không tin cậu ấy nhận hối lộ và đi đêm với Portella hay bất cứ kẻ nào. Thành công của cậu ấy nói lên tất cả. Cậu ấy là người đã đập tan Mafia đấy.
Khi rời khỏi phòng giám đốc, Georgette nhận ra rằng chị không hề tin lão. Chị biết, muốn được thanh thản, chị phải tin vào sự thật mà chị cảm nhận đựoc trong tim mình: Chồng chị, bất chấp lòng hăng hái của ông, là một người tử tế như chị từng biết.
Sau khi chồng bị sát hại, Georgette Cilke vẫn tiếp tục tình nguyện có mặt tại các trụ sở chính của Phong Trào Chống Án Tử Hình ở New York, tuy nhiên Nicole chưa gặp lại chị kể từ cuộc nói chuyện định mệnh giữa hai người. Vì những trách nhiệm của mình tại nhà băng, Nicole nói nàng quá bận nên không thể tham gia các hoạt động của tổ chức này. Sự thật là, nàng không thể chịu đựng nổi việc giáp mặt với Georgette.
Tuy nhiên, khi Nicole bước qua cửa, Georgette đã chào nàng bằng một cái ô thắm thiết.
– Mình nhớ cậu, chị nói.
– Mình xin lỗi đã không liên lạc với cậu. Nicole đáp lại. Mình đã cố viết một bức thư chia buồn nhưng lại không tìm được từ ngữ thích hợp.
Georgette gật đầu nói,
– Mình hiểu mà.
– Không, Nicole nói, họng nàng nghẹn lại, cậu không hiểu đâu. Mình đáng chê trách vì những gì đã xảy ra với chồng cậu. Giá như mình không nói với cậu chiều hôm đó.
– Thì chuyện đó cũng vẫn xảy ra, Georgette ngắt lời. Nếu đấy không phải là em họ cậu, thì lại là một người khác. Một cái gì đó tương tự không sớm thì muộn chắc chắn sẽ xảy ra. Kurt biết thế, và mình cũng vậy. Georgette lưỡng lự một lát trước khi nói thêm, bây giờ điều quan trọng là chúng mình ghi nhớ lòng tốt của anh ấy. Vậy đừng nói về quá khứ nữa. Mình tin chắc tất cả chúng ta đều hối tiếc.
Nicole dã ao ước mọi chuyện dễ dàng như thế. Nàng hít một hơi thật sâu.
– Còn việc này nữa. Aspinella Washington muốn mình đại diện cho mụ ta.
Dù Georgette đã cố giấu, nhưng Nicole vẫn nhận ra sự e ngại của chị khi nghe thấy tên Aspinella. Georgette không phải là một phụ nữ mộ đạo, nhưng vào khoảnh khắc này chị đoán chắc Chúa đang kiểm tra sức mạnh lòng tin của chị.
– OK, chị nói môi mím chặt.
– Được hả? Nicole hỏi có phần ngạc nhiên. Nàng đã hy vọng Georgette sẽ phản đối, ngăn cản việc này và thế là nàng có thể từ chối Aspinella vì lòng trung thành với bạn mình. Nàng có thể nghe thấy cha nàng đang nói với nàng. Danh dự thể hiện ở lòng trung thành như vậy đấy.
– Ừ, Georgette nói, mắt nhắm nghiền. Cậu phải bảo vệ cho mụ ta.
Nicole sửng sốt,
– Mình không cần phải làm việc này. Mọi người sẽ hiểu thôi.
– Đó là thói đạo đức giả, Georgette nói. Chúng ta không thể thay đổi cái mà chúng ta tin chỉ vì nó làm chúng ta đau đớn.
Georgette im lặng rồi đưa tay cho Nicole suốt cả ngày. Cuối cùng nàng gọi điện cho Aspinella và, với vẻ miễn cưỡng, nhận vụ kiện. Một tiếng sau nàng bay sang Sicily.
Một tuần sau Georgette gửi một bức thư ngắn cho điều phối viên của Phong Trào Chống Án Tử Hình. Chị viết rằng hai mẹ con chị sẽ chuyển đến một thành phố khác để bắt đầu một cuộc sống mới và chị chúc mọi người mạnh khoẻ. Chị không để lại địa chỉ sẽ đến.
Astorre đã vẹn lời thề với ông Trùm, giữ gìn các nhà băng và bảo đảm mang lại thịnh vượng cho gia đình lão. Trong tâm trí chàng hiện giờ, chàng không còn bị ràng buộc vào bất kỳ trách nhiệm nào.
Một tuần sau khi được tuyên bố là vô tội trong vụ án mạng tại kho hàng, Astorre tiếp Trùm Craxxi và Octavióu Bianco tại phòng làm việc của mình. Chàng nói với họ về nguyện vọng trở lại Sicily. Chàng giải thích rằng chàng cảm thấy khát khao chính miền đất ấy, rằng từ lâu nó đã len vào tận những giấc mơ của chàng. Chàng có nhiều kỷ niệm thời thơ ấu tại Villa Grazia, cái miền quê biệt lập của ông Trùm Aprile, và chàng luôn hy vọng sẽ có ngày trở lại. Đó là con đường sống mới, đơn giản hơn nhưng có giá trị hơn về nhiều mặt.
Thế rồi Bianco bảo chàng.
– Cậu không cần quay lại Villa Grazia. Có một gia sản rất lớn ở Sicily thuộc về cậu. Toàn bộ làng Castellammare del Golfo.
Astorre kinh ngạc
– Sao lại có chuyện đó?
Benito Craxxi kể cho chàng nghe cái ngày ông trùm Mafia, Don Zeno, cho gọi ba người bạn của lão đến bên giường bệnh khi lão đang hấp hối.
– Cậu là quý tử của ngài, lão nói. Bây giờ cậu là người thừa kế duy nhất của ngài. Ngôi làng được cha đẻ của cậu để lại. Cậu có quyền thừa kế.
– Khi Don Aprile đưa cậu sang Mỹ, Don Zeno đã dự liệu mọi thứ cho đến ngày cậu quay về nhận lại. Theo ước nguyện của cha cậu, bọn ta được giao nhiệm vụ bảo vệ ngôi làng sau khi ngài mất. Khi nông dân gặp thời vụ khó khăn, bọn ta bỏ tiền ra mua trái cây và ngũ cốc giúp họ.
– Sao trước đây các ngài không nói với tôi? Astorre hỏi.
– Don Aprile bắt bọn ta giữ bí mật, Bianco nói. Cha cậu muốn cậu an toàn và Don Aprile muốn cậu là một phần của gia đình ông ấy. Ông ấy còn cần cậu bảo vệ các con mình. Thực ra, cậu có hai người cha, cậu thật may mắn.
Astorre đáp xuống Sicily vào một ngày nắng đẹp. Hai trong số các vệ sĩ của Michael Grazziella đón chàng tại sân bay và hộ tống chàng tới một chiếc Mercedes màu xanh đen.
Khi xe chạy qua Palermo, Astorre ngạc nhiên trước vẻ đẹp của thành phố: Những cột đá cẩm thạch, những bức phù điêu về những nhân vật trong thần thoại tạo dáng cho một số ngôi đền Hy Lạp, những nhà thờ Tây Ban Nha với những vị thánh và thiên thần được chạm sâu vào đá xám. Mất hơn hai tiếng đồng hồ trên một con đường độc đạo mới tơi được Castellammare del Golfo. Với Astorre, lúc nào cũng vậy, nét quyến rũ nhất của Sicily là vẻ đẹp của miền quê với phong cảnh nên thơ của Địa Trung Hải.
Nằm sâu trong thung lũng được những dãy núi vây quanh, ngôi làng là một hệ thống đường sá rải sỏi chằng chịt với những ngôi nhà nhỏ hai tầng chay dọc hai bên. Astorre nhận thấy có vài người đang nhìn trộm qua kẽ những cánh cửa chớp sơn trắng được đóng lại để chống ánh nắng như thiêu như đốt lúc ban trưa.
Chàng được chào đón bởi trưởng làng, một người đàn ông lùn tịt trong bộ đồ nông dân. Ông ta giới thiệu mình là Leo Di Marco rồi kính cẩn cúi chào.
– Il Pardone, ông ta nói. Xin chào.
Astorre trong lòng khó chịu, mỉm cười và hỏi bằng thổ ngữ Sicily
– Liệu ngài có thể dẫn tôi qua làng được không?
Họ đi ngang qua mấy ông già đang đánh bài trên những chiếc ghế gỗ dài. Ở góc xa của quảng trường là một nhà thờ Thiên Chúa giáo uy nghi. Trưởng làng dẫn Astorre vào nhà thờ đó, nhà thờ thánh Sebastian. Từ ngày ông Trùm Aprile bị sát hại chàng chưa một lần cầu nguyện. Astorre quỳ gối, đầu cúi xuống để Cha Del Vecchio, vị linh mục của làng ban phước.
Sau đó Di Marco dẫn Astorre đến một ngôi nhà nhỏ nơi chàng sẽ ở. Dọc đường Astorre phát hiện ra vài Canabinieri, hay cảnh sát quốc gia của Italy, đang tựa vào những ngôi nhà, súng ống trong tư thế sẵn sàng.
– Khi đêm xuống ở đây an toàn hơn, trưởng làng giải thích. Nhưng ban ngày ở ngoài đồng cũng vui lắm.
Liên tiếp mấy ngày sau Astorre làm những chuyến đi dài ngày qua miền thôn dã thơm ngát mùi hương của những vườn cam và chanh. Mục đích chính của chàng là gặp gỡ dân làng và tham quan những ngôi nhà cổ bằng đá được xây như những biệt thự thời La Mã. Chàng muốn tìm một ngôi làm nhà ở cho mình.
Đến ngày thứ ba thì chàng biết chàng sẽ tìm được hạnh phúc tại nơi đây. Dân làng chào đón chàng ngoài đường phố, và khi chàng ngồi trong quán cà phê trên quảng trường, những người già và lũ trẻ trêu trọc chàng một cách vui vẻ.
Chàng chỉ phải làm hai việc nữa.
Sáng hôm sau Astorre nhờ trưởng làng chỉ cho chàng đường ra nghĩa trang.
– Để làm gì chứ? Di Marco hỏi.
– Để viếng cha tôi và mẹ tôi, Astorre đáp.
Di Marco gật đầu rồi nhanh nhẹn giật lấy chiếc chìa khóa bằng thép rèn rộng bản treo trên tường phòng làm việc.
– Ngài có biết nhiều về cha tôi không? Astorre hỏi ông ta.
Di Marco làm dấu thánh giá trên ngực
– Ai mà không biết Don Zeno cơ chứ? Chúng tôi nợ ông cuộc sống của mình. Ông đã cứu con cái chúng tôi bằng thuốc men đắt tiền mua từ Palermo. Ông đã bảo vệ chúng tôi khỏi lũ hôi của và kẻ cướp.
– Nhưng với tư cách một con người thì ông ấy ra sao? Astorre hỏi.
Di Marco nhún vai.
– Có quá ít người còn sống biết ông về phương diện đó, thậm chí số người sẽ kể cho cậu nghe về ông còn ít hơn. Ông đã trở thành một huyền thoại. Vì vậy ai còn muốn biết về con người thực của ông?
– Tôi muốn, Astorre thầm nghĩ.
Họ đi qua miền quê và sau đó leo lên một ngọn đồi dốc đứng. Chốc chốc Di Marcon lại dừng lại để lấy hơi. Cuối cùng Astorre cũng nhìn thấy nghĩa trang. Nhưng thay cho mộ chí, ở đây có những dãy nhà nhỏ bằng đá. Những lăng mộ, tất cả được vây quanh bởi một hàng rào gang. Bảng hiệu phía trên có dòng chữ: BÊN TRONG NHỮNG CÁNH CỔNG NÀY TẤT CẢ ĐỀU VÔ TỘI.
Trưởng làng mở khoá cổng rồi dẫn Astorre tới lăng mộ bằng đá cẩm thạch xám của cha chàng được đánh dấu bằng tấm bia VICENZO ZENO: MỘT NGƯỜI TỐT BỤNG VÀ HÀO PHÓNG. Chàng bước vào trong lăng và xem kỹ hình cha trên bàn thờ. Đây là lần đầu tiên chàng nhìn thấy hình ông và chàng ngạc nhiên sao chàng giống cha đến thế.
Sau đó Di Marco đưa Astorre tới một công trình kiến trúc khác nhỏ hơn cách đó vài dãy. Lăng mộ này được xây bằng đá cẩm thạch trắng, duy chỉ có bộ đồ của Đức Mẹ Đồng Trinh được chạm sâu vào vòm cuốn của cửa vào là có màu xanh nhạt. Astorre bước vào và xem kỹ tấm hình. Người con gái không quá hai hai tuổi, nhưng đôi mắt xanh mở to và nụ cười rạng rỡ của nàng làm sưởi ấm lòng chàng.
Trở ra ngoài chàng nói với Di Marco
– Khi còn nhỏ, tôi đã từng mơ thấy một phụ nữ giống bà, nhưng tôi lại nghĩ đó là một thiên thần.
Di Marco gật đầu
– Bà là một cô gái xinh đạp. Và cậu nói đúng. Bà hát y như một thiên thần.
Astorre cưỡi ngựa không yên qua miền quê, chỉ dừng lại để ăn phó mát làm từ sữa dê tươi và bánh mỳ vỏ cứng, thứ phụ nữ trong làng thường tích trữ.
Cuối cùng chàng đến Corleone. Chàng không thể trì hoãn việc viếng thăm Michael Grazziella lâu hơn được nữa. Ít ra chàng cũng nợ lão lần giúp đỡ đó.
Lúc nào cũng ở ngoài trời nên da chàng rám năng. Grazziella đón chàng với vòng tay rộng mở và một cái ôm rõ chặt.
– Mặt trời Sicily quả là tốt cho cậu, lão nói.
Astorre tạo ra ấn tượng phù hợp với lòng biết ơn
– Cảm ơn ngài vì tất cả. Đặc biệt là sự giúp đỡ của ngài.
Grazziella cùng chàng thả bộ về phía ngôi biệt thự của lão.
– Và cái gì đưa cậu đến Corleone vậy?
– Tôi nghĩ ngài biết vì sao tôi có mặt ở đây, Astorre đáp.
Grazziella nở nụ cười.
– Vì một người còn trẻ và mạnh mẽ như cậu phải không? Tất nhiên rồi! Tôi sẽ đưa cậu đến chỗ cô ấy ngay lập tức. Cô ấy mang lại niềm vui cho tất cả những người cô ấy gặp.
Hiểu rõ ham muốn tình dục của Rosie, Astorre tự hỏi liệu có phải Grazziella đang định nói cho chàng điều gì đó chăng. Nhưng chàng nhanh chóng dừng lại. Grazziella quá đàng hoàng nên không thể nói một chuyện như vậy được và quá Sicily nên không thể cho phép hành vi sai trái như vậy xảy ra dưới con mắt xoi mói của lão.
Biệt thự của nàng nằm cách đó không xa. Khi họ tới nơi, Grazziella gọi,
– Rosie thân mến, cô có khách đấy.
Nàng mặc chiếc váy hở vai giản dị màu thanh thiên với lọn tóc vàng được cột ra phía sau. Không trang điểm trông nàng trẻ hơn và ngây thơ hơn chàng tưởng.
Nàng dừng lại khi nhìn thấy chàng. Nhưng rồi nàng hét lên
– Astorre! Nàng nhào vào chàng, hôn chàng, và bắt đầu nói giọng đầy kích động. Em đã học nói lưu loát thổ ngữ Sicily. Và em cũng học được công thức nấu một vài món ăn nổi tiếng. Anh có muốn thưởng thức không?
Chàng đưa nàng về Castellammare del Golfo và dành cả tuần sau đó dẫn nàng đi khắp làng và miền thôn dã. Ngày nào họ cũng đi bơi, chuyện phiếm hàng tiếng đồng hồ và làm tình với nhau.
Astorre chăm chú quan sát Rosie để xem nàng có chán chàng, có khó chịu với cuộc sống giản dị hay không. Nhưng dường như nàng thực sự thanh thản. Cả chàng và Rosie đều có những bí mật phải bảo vệ – những cái chàng không muốn nhớ hoặc chia sẻ. Nhưng Rosie biết chàng và vẫn còn yêu chàng. Nàng sẽ giữ kín những bí mật của chàng, và chàng sẽ giữ kín những bí mật của nàng.
– Em không thể tin em lại ở đây lâu đến thế, Rosie nói khi hai người nghỉ ngơi bên nhau trên bãi cỏ.
Đôi mắt xanh của Astorre ngời sáng
– Em có nghĩ rằng em có thể ở lại đây lâu hơn chút nữa không.
Rosie có vẻ ngạc nhiên.
– Anh nghĩ gì vậy?
Astorre quỳ một chân xuống và chìa tay ra.
– Có thể là năm mươi hoặc sáu mươi năm cơ đấy, chàng nói với một nụ cười chân thành. Trong bàn tay chàng là một chiếc nhẫn đồng giản dị. Em có lấy anh không? Chàng hỏi.
Astorre tìm một dấu hiệu ưỡng lự nào đó trong mắt Rosie, một chút thất vọng nào đó vì giá trị của chiếc nhẫn, nhưng nàng đáp lại ngay lập tức. Nàng vòng tay ôm lấy cổ chàng rồi hôn chàng tới tấp. Sau đó họ lăn ra đất và cuốn lấy nhau trong những dãy đồi.
Một tháng sau Astorre và Rosie làm đám cưới tại một trong số những vườn chanh của chàng. Cha Del Vecchio cử hành hôn lễ. Tất cả mọi người ở cả hai làng đều đến dự. Quả đồi phủ dầy hoa tử đằng tía, và hương chanh thơm nức không gian. Astorre mặc bộ đồ trắng kiểu nông dân, còn Rosie mặc một chiếc váy dài bằng lụa hồng.
Một con lợn trên xiên đang quay trên đống than hồng và những trái cà chua chín đỏ từ ngoài đồng đưa về. Lại còn cả những ổ bánh mì nóng hổi và phó mát tươi. Rượu nhà làm chảy tràn như suối.
Khi buổi lễ kết thúc và hai người đang trao cho nhau lời thề thốt, Astorre hát cho vị hôn thê của mình nghe những bản Ballard ưa thích của chàng. Mọi người uống và hát nhiều đến nỗi cuộc vui kéo dài đến tận bình minh.
Sáng hôm sau, khi thức dậy Rosie thấy Astorre đang chuẩn bị ngựa.
– Đi cùng anh chứ? Chàng hỏi
Họ rong ruổi suốt ngày cho đến khi Astorre tìm được cái chàng đang kiếm tìm – Villa Grazzia. – Thiên đường bí mật của bác anh đấy. anh đã có những ngày đẹp nhất ở đây thời thơ ấu.
Chàng vòng ra sau nhà đi vào khu vườn, Rosie theo sau. Cuối cùng họ đến bên cây ô liu của chàng, cây ô liu chàng trồng hồi nhỏ. Nó đã cao bằng chàng và thân nó to có cỡ. Chàng lấy từ trong túi ra một lưỡi dao cạo sắc lẹm và cắt lấy một cành.
– Chúng mình sẽ trồng nó trong vườn nhà. Để rồi khi chúng mình có con, nó cũng sẽ có những kỷ niệm đẹp đẽ.
Một năm sau, Astorre và Rosie ăn mừng sinh con trai, Raymonde Zeno. Ngày đặt tên thánh cho con, họ mời gia đình Aprile cùng tham dự tại nhà thờ thánh Sebastian.
Khi cha Del Vecchio kết thúc thánh lễ, Valerious với tư cách là con trưởng của nhà Aprile nâng ly rượu vang và đề nghị mọi người cùng nâng cốc.
– Cầu cho cô chú làm ăn phát đạt và sống hạnh phúc. Cầu cho con trai của cô chú lớn lên với tình cảm nồng nhiệt của Sicily và tính lãng mạn của nước Mỹ ngấm sâu vào trong máu.
Marcantonio nâng ly rượu của mình và nói thêm
– Và bất cứ lúc nào cu cậu muốn góp mặt trong các vở kịch hài thì cô chú biết phải phôn cho ai rồi đấy.
Bây giờ, khi các nhà băng của Aprile làm ăn có lãi, Marcantonio đã thiết lập được một mức tín dụng tối đa hai mươi triệu đô la để khuyếch trương cơ sở kịch nghệ của riêng mình. Anh và Valerious đang cùng nhau viết một kịch bản dựa vào những hồ sơ của FBI về cha mình. Nicole nghĩ đó là một ý tưởng khủng khiếp, nhưng tất cả bọn họ đều đồng ý rằng ông Trùm hẳn sẽ đánh giá cao cái ý tưởng mang lại nhiều tiền bạc vì đã dàn dựng huyền thoại về những tội lỗi của lão.
– Những tội lỗi bị gán ghép, Nicole bổ sung.
Astorre lấy làm lạ tại sao mọi người vẫn còn lo lắng. Thế hệ Mafia già đã chết. Các ông trùm đã đạt được mục đích của họ và uyển chuyển hoà nhập vào xã hội như những tên tội phạm cự phách nhất vẫn làm. Một ít kẻ đòi kế vị còn sót lại chỉ là một đám ô hợp đầy thất vọng bao gồm những tên tội phạm loại hai ngu ngốc và lũ côn đồ vô tích sự. Tại sao ai cũng muốn mất thì giờ vào những thủ đoạn kiếm tiền bất lương trong khi ăn cắp hàng triệu đôla bằng việc thành lập công ty và bán cổ phần cho công chúng còn dễ hơn nhiều?
– Này Astorre, chú có thể làm cố vấn đặc biệt trong lĩnh vực điện ảnh của chúng tôi không? Marcantonio hỏi. Chúng tôi muốn bộ phim này càng gần sự thực càng tốt.
– Được thôi, Astorre cười nói. Tôi sẽ cử đại diệ của tôi lại chỗ các anh.
Khuya đêm hôm đó, đang nằm trên giường, Rosie quay sang Astorre.
– Anh có muốn quay trở về không?
– Về đâu cơ? Astorre hỏi. Về New York hay về Mỹ?
– Anh biết rõ mà, Rosie ngập ngừng nói. Về với cuộc sống cũ của anh.
– Anh thuộc về nơi này, bên em, tại đây.
– Thế là ổn rồi, Rosie nói. Nhưng còn thằng bé thì sao/ Nó có phải liều nếm trải tất cả những gì nước Mỹ tạo ra không?
Astorre tưởng tượng ra Raymonde đang chạy qua những dãy đồi của miền thôn dã, đang ăn quả ô liu lấy từ thùng ngâm, nghe truyền thuyết về những ông trùm vĩ đại và mảnh đất Sicily của thời xa xưa. Chàng rất mong được kể cho con nghe những câu chuyện đó. Tuy nhiên chàng cũng biết rằng những truyền thuyết kia sẽ là chưa đủ.
Một ngày nào dó con trai chàng sẽ tới nước Mỹ, xứ sở của sự trả thù, của lòng nhân từ và của những khả năng kỳ diệu.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.