Lưới Điện Tử Thần

CHƯƠNG 15



Làm sạch đôi găng cao su bằng con lăn dính lông chó mèo – và nhận được ánh mắt tán thành của Rhyme – chàng cảnh sát trẻ nhấc cánh cửa vẫn liền khung lên. Cánh cửa hình vuông, mỗi cạnh chừng bốn mươi lăm centimet, bề rộng khung chừng hai centimet. Sơn màu xám sẫm.
Sachs nói đúng. Nó thực sự hẹp. Đối tượng rất có thể đã bị trầy xước khi bò vào trạm điện.
Cánh cửa mở bằng bốn bản lề nhỏ được bắt vào cả mặt trong lẫn mặt ngoài. Sẽ rất khó khăn nếu dùng tay đeo găng tháo chúng, nên có khả năng hắn đã dùng tay trần, nhất là trong trường hợp hắn đã lên kế hoạch cho nổ tung cánh cửa bằng quả bom ắc-quy nhằm phá hủy mọi chứng cứ.
Dấu vân tay được xếp vào ba dạng. Dạng nhìn thấy bằng mắt thường (ví dụ đầu ngón cái chảy máu in lên tường trắng), dạng khuôn (để lại trong những vật liệu dẻo, ví dụ chất nổ dẻo), dạng ẩn (không nhìn thấy bằng mắt thường). Có hàng chục cách hữu hiệu để làm hiện dấu vân tay dạng ẩn, nhưng một trong những cách hữu hiệu nhất, đối với bề mặt kim loại, là chỉ cần dùng keo dán Super Glue vẫn bán ngoài các cửa hiệu, sản xuất từ cynanoacrylate. Bỏ vật chứng vào hộp kín khí cùng một tuýp keo dán, rồi đun nóng cho tới lúc bên trong hộp sinh hơi. Hơi sẽ quyện với các chất do ngón tay để lại – các axit amin, axit lactic, glucose, kali và carbon trioxide – phản ứng này làm dấu vân tay hiện lên.
Quá trình phản ứng là phép mầu nhiệm, làm hiện lên những dấu vân tay trước đó hoàn toàn vô hình.
Trừ trường hợp này.
“Chẳng có gì cả.” Pulaski chán chường nói, săm soi cánh cửa qua một cái kính lúp rất kiểu Sherlock Holme. “Chỉ có dấu găng tay thôi.”
“Không đáng ngạc nhiên. Cho tới lúc này, hắn khá là thận trọng. Nào, hãy thu thập dấu vết phía bên trong khung cửa, nơi hắn đã tiếp xúc.”
Đặt cánh cửa lên trên những tờ giấy để in báo, Pulaski dùng chiếc chổi mềm quét qua quét lại và gỡ những thứ bám ở đầu chổi. Cậu ta bỏ bất cứ thứ gì phát hiện được – đối với Rhyme thì xem chừng chẳng có gì mấy – vào từng túi, sắp xếp cho Cooper tiến hành phân tích.
Sellitto nhận một cuộc điện thoại, rồi bảo, “Đợi chút. Tôi mở loa ngoài.”
“Xin chào.” Giọng nói phát ra.
Rhyme nhìn Sellitto. “Ai thế?” Anh thì thào.
“Szamek.”
Chuyên gia của bộ phận Tội phạm Mạng Sở Cảnh sát New York.
“Anh có gì cho chúng tôi, Rodney?”
Szamek trả lời trên nền nhạc rock chát chúa. “Tôi gần như có thể cam đoan rằng dù kẻ nào chơi các máy chủ của Algonquin đi chăng nữa thì cũng đều đã có mật khẩu màn hình từ trước rồi. Thực tế, tôi xin cam đoan điều này. Thứ nhất, chúng tôi không phát hiện được bằng chứng của bất cứ sự thử bừa nào. Không có nỗ lực bẻ khóa. Không có mã rootkit, module trong nhân hệ điều hành hay trình điều khiển đáng ngờ nào…”
“Chỉ những thông tin căn bản thôi, nếu anh không phiền.”
“Được rồi, vấn đề tôi đang nói là chúng tôi đã xem tất cả các cổng…” Szamek ngập ngừng nghe tiếng thở dài của Rhyme. “À vâng, thông tin căn bản. Nó vừa từ bên trong vừa không phải từ bên trong công ty Algonquin.”
“Nghĩa là?” Rhyme làu bàu.
“Vụ tấn công mạng máy tính được thực hiện bên ngoài tòa nhà Algonquin.”
“Chúng tôi biết điều đó.”
“Nhưng thủ phạm phải lấy mật khẩu từ bên trong trụ sở ở Queens. Hoặc bản thân hắn hoặc qua đồng phạm. Mật khẩu được giữ dưới dạng bản in ra giấy từ phần mềm tạo mật khẩu ngẫu nhiên, hoàn toàn không kết nối với các mạng.”
“Vậy…” Nhà hình sự học tóm tắt lại cho chắc chắn, “không có hacker từ bên ngoài, dù trong nước hay quốc tế.”
“Gần như không thể. Tôi nói nghiêm túc đấy, Lincoln. Không hề có bất cứ rootkit…”
“Hiểu rồi, Rodney. Có dấu vết gì về việc truy cập của hắn từ tiệm cà phê không?”
“Điện thoại di động dùng thẻ trả trước kết nối mạng bằng một cổng USB. Thông qua một proxy ở châu Âu.”
Kiến thức về công nghệ của Rhyme đủ để biết như thế có nghĩa câu trả lời cho câu hỏi anh đưa ra là không.
“Cảm ơn, Rodney. Làm sao anh giải quyết được công việc với thứ âm nhạc đó?”
Szamek cười khoái trá. “Hãy gọi tôi bất cứ khi nào.”
Tiếng trống thình thình biến mất sau tiếng gác máy kêu đánh cạch.
Cooper cũng vừa nói chuyện điện thoại. Anh ta kết thúc cuộc gọi và nói, “Tôi tìm được một người ở bộ phận Phân tích Vật liệu. Cô ấy có kiến thức tốt về địa chất. Cô ấy biết những trường học thường xuyên tổ chức triển lãm cho mọi người vào xem. Cô ấy sẽ kiểm tra các triển lãm liên quan đến tro núi lửa và dung nham.”
Pulaski, đang mải mê nghiên cứu cánh cửa, nheo nheo mắt. “Tôi nghĩ có gì đó ở đây”.
Cậu ta chỉ một vị trí gần bản lề trên cùng. “Trông như hắn đã lau chùi nó.” Anh ta vớ lấy chiếc kính lúp. “Và có gờ. Sắc.. Tôi nghĩ hắn đã đứt tay, chảy máu.”
“Thật à?” Rhyme phấn chấn. Trong khám nghiệm pháp y, chẳng gì so sánh được với ADN.
Sellitto nói, “Nhưng nếu hắn đã lau chùi rồi, liệu nó có còn hữu ích không?”
Trước khi Rhyme kịp phát biểu ý kiến, Pulaski, vẫn gập người quan sát phát hiện của mình, giọng trầm ngâm, “Nhưng hắn lấy cái gì mà lau? Có lẽ là nước bọt. Nước bọt cũng giá trị không kém máu.”
Thực tế, Rhyme đã đi tới kết luận y như vậy. “Hãy sử dụng đèn ALS.”
Đèn ALS, loại đèn tạo ra ánh sáng đơn sắc ở những bước sóng nhất định, có thể làm hiện dấu vết các chất dịch cơ thể như nước bọt, tinh dịch và mồ hôi, tất cả đều chứa ADN.
Tất cả các cơ quan thực thi pháp luật ngày nay đều thu thập mẫu ADN của các đối tượng theo từng loại hình tội phạm – như tội phạm tình dục chẳng hạn – và nhiều nơi còn phân chia chi tiết hơn. Nếu đối tượng chưa xác định của họ từng phạm tội mà có lưu lại dấu vết ADN, hắn sẽ được tìm thấy trong Hệ thống Danh mục ADN Phối hợp.
Một lát sau, Pulaski, mắt đeo kính bảo hộ, dừng ngọn đèn ở vị trí cậu ta đã phát hiện ra vết lau chùi. Có một quầng sáng bé tí tẹo màu vàng vàng. Cậu ta gọi, “Đây sếp, có cái gì này. Không nhiều”.
“Cậu tân binh, cậu biết thân thể người có bao nhiêu tế bào chứ?”
“Dạ.. không, không biết ạ.”
“Hơn ba tỷ tỷ.”
“Thế thì nhiều…”
“Và cậu biết cần có bao nhiêu tế bào để xét nghiệm được ADN không?”
Pulaski trả lời, “Theo sách sếp viết thì cần chừng một trăm tế bào.”
Rhyme nhướn một bên lông mày. “Ấn tượng đấy.” Rồi anh nói thêm, “Cậu nghĩ là cậu có được một trăm tế bào trong cái vết bẩn to tướng này không?”
“Theo tôi chắc được.”
“Chắc chắn được. Sachs, trông có vẻ vụ đi bơi của em không hề vô ích. Nếu để ắc-quy nổ, cái vết đó đã chẳng còn. Được rồi, Mel, cho cậu ấy xem phải thu nó như thế nào đi.”
Pulaski trao nhiệm vụ phức tạp này cho Cooper.
Người kỹ thuật viên thu mẫu ADN và gọi phòng thí nghiệm đến lấy. “Tôi biết, sớm nhất có thể.” Anh ta bảo Rhyme đúng lúc nhà hình sự học định đưa ra mệnh lệnh.
“Và đừng tiếc tiền.”
“Tiền của anh đấy hả, Linc?” Sellitto làu bàu.
“Tôi sẽ cho anh mức giảm giá đối với khách hàng thân thiết nhất, Lon ạ. Và một phát hiện hữu ích đấy, Pulaski.”
Khen ngợi đủ rồi, Rhyme tiếp tục, “Những dấu vết ở bên trong cánh cửa thì sao, Mel? Anh biết đấy, chỗ này chúng ta đang đi không được nhanh cho lắm.”
Cooper lấy các mẫu ra, quan sát chúng trên tấm khám nghiệm hoặc dưới kính hiển vi. “Không có gì không khớp với các mẫu đối chứng, trừ cái này.” Đó là một chấm bé tí tẹo màu hồng.
“Chạy qua máy sắc ký khí đi.” Rhyrne đưa ra mệnh lệnh.
Thoáng cái, Mel đã đọc được kết quả từ máy sắc ký khí/khối phổ và một số phân tích khác. “Chúng ta có nồng độ pH mang tính axit, khoảng bằng hai axit citric, đường sucrose. Tiếp theo là… chà, tôi sẽ chiếu lên màn hình”.
Một dòng chữ xuất hiện: Quercetin 3-0- rutinoside-7- 0-glucoside và chrysoeriol 6,8-di-C- glucoside (stellarin 2).
“Tốt”, Rhyme sốt ruột nói. “Nước quả. Với độ pH như thế, có khả năng là nước chanh.”
Pulaski không nén nổi mà phải bật cười. “Làm sao sếp biết? Tôi xin lỗi, nhưng làm sao sếp biết được?”“
“Cậu tân binh, cậu chuẩn bị trước được đến mức nào thì sẽ thực hiện nhiệm vụ được đến mức ấy. Làm bài tập ở nhà đi! Hãy nhớ như vậy!” Rhyme quay lại với Cooper.
“Tiếp theo là dầu thực vật rất nhiều muối và một hợp chất tôi hoàn toàn không biết là gì.”
“Thành phần ra sao?”
“Giàu protein. Các axit amin là aninine, histidine, isoleucine, lysine và methionine. Cũng bao gồm cực kỳ nhiều lipid, chủ yếu là cholesterol và lecithin, rồi vitamin A, B2, B6, BI2, niacin, axit pantothenic, axit folic. Một lượng lớn calcium, magnesiuni phosphorus, kali.”
“Ngon nhỉ.” Rhyme nói.
Cooper gật dầu. “Là thức ăn, chắc chắn rồi. Nhưng là món gì?”
Mặc dù vị giác của anh không thay đổi sau tai nạn, song đối với Lincoln Rhyme bây giờ, thức ăn căn bản chỉ là nhiên liệu, anh không cảm thấy thích thú mấy, khác với whisky, tất nhiên.
“Thom?” Không có tiếng trả lời nên anh hít sâu một hơi. Anh chưa kịp gọi lại, anh chàng phụ tá đã thò đầu qua cửa.
“Mọi thứ bình thường chứ?”
“Sao cậu cứ hỏi vậy?”
“Anh muốn gì?”
“Nước chanh, dầu thực vật và trứng.”
“Anh đói à?”
“Không, không, không. Những nguyên liệu đó có trong loại thực phẩm gì?”
“Mayonnaise.”
Rhyme nhướn một bên mắt với Cooper, anh ta lắc đầu. “Lổn nhổn và hơi hồng hồng.”
Anh chàng phụ tá cân nhắc lại, “Vậy tôi nghĩ là tamarasalata”.
“Cái gì thế? Một tiệm ăn à?”
Thom cười to. “Một món khai vị của Hy Lạp. Một món để phết.”
“Trứng cá muối, phải không? Ăn kèm bánh mì.”
Thom trả lời Sachs, “Ờ, nó là trứng cá, nhưng là cá tuyết, không phải cá tầm. Bởi vậy về nguyên tắc, nó không phải là trứng cá muối.”
Rhyme gật đầu. “A, nước muối ưu trương (dung dịch nước muối với nồng độ cao). Cá. Chắc chắn rồi. Nó có phổ biến không?”
“Các cửa hiệu thực phẩm, các cửa hiệu bán thức ăn sẵn và các tiệm ăn Hy Lạp”.
“Có chỗ nào trong thành phố phổ biến món này hơn những chỗ khác không? Khu vực người Hy Lạp sinh sống à?”
“Queens.” Pulaski, người sống ở quận này, nói. “Astoria. Có rất nhiều tiệm ăn Hy Lạp ở đó.”
“Tôi quay lại chỗ của mình được chưa?” Thom hỏi.
“Được, được, được…”
“Cảm ơn.” Sachs nói với theo.
Anh chàng phụ tá phẩy bàn tay đeo găng hiệu Playtex màu vàng và biến mất.
Sellitto hỏi, “Có lẽ hắn đang bố trí địa điểm nào đó ở Queens cho vụ tấn công tiếp theo chăng?”
Rhyme nhún vai, một trong số vài cử chỉ anh vẫn thực hiện được. Anh nghĩ: Thủ phạm sẽ phải chuẩn bị địa điểm, đúng là như thế. Tuy nhiên, anh đang ngả theo một chiều hướng khác.
Sachs bắt gặp ánh mắt anh. “Anh đang nghĩ, trụ sở chính của Algonquin nằm ở Astoria, phải không?”
“Chính xác. Và mọi điều đều đang chỉ ra rằng thủ phạm chính là người nội bộ.” Rhyme hỏi, “Ai đứng đầu công ty?”
Ron Pulaski nói cậu ta đã trao đổi với các công nhân bên ngoài trạm điện. “Họ có nhắc đến chủ tịch và CEO. Tên là Jessen. Andy Jessen. Tất cả xem chừng đều hơi e sợ.”
Rhyme nhìn bảng chứng cứ một lát, rồi bảo, “Sachs, em thích chạy một vòng trong chiếc xe mới mẻ ngon nghẻ của em không?”
“Là cái chắc.” Cô nói, và thỏa thuận với trợ lý của CEO Algonquin về một cuộc gặp sau nửa tiếng đồng hồ nữa.
Đúng lúc ấy, điện thoại Sellitto reo chuông. Anh ta rút điện thoại, nhìn tên người gọi trên màn hình. “Algonquin.” Anh ta nhấn phím. “Thám tử Sellitto nghe đây.” Rhyme để ý thấy anh ta lắng nghe và nét mặt lặng phắc đi. Rồi anh ta nói, “Anh chắc chứ?… Được rồi. Ai có thể truy cập?… Cảm ơn!” Anh ta kết thúc cuộc gọi. “Đồ khốn!”
“Có chuyện gì?”
“Nhân viên giám sát bộ phận cung cấp gọi. Anh ta bảo một trong những nhà kho của Algonquin ở khu Harlem bị ăn trộm tuần trước. Phố Một trăm mười tám. Họ nghĩ chính người công ty đã ăn trộm. Thủ phạm sử dụng chìa khóa. Không phải là bẻ khóa đột nhập.”
Pulaski hỏi, “Và dù là ai đi chăng nữa, hắn cũng đã đánh cắp sợi cáp?”
Sellitto gật đầu. “Cả những cái bu lông có chốt hãm.”
Nhưng Rhyme còn đọc được một thông điệp khác nữa trên gương mặt tròn của viên thám tử. “Bao nhiêu?” Anh hỏi, giọng thì thào. “Hắn đánh cắp bao nhiêu cáp?”
“Anh hiểu vấn đề đấy, Linc. Gần hai mươi ba mét cáp và một tá bu lông. McDaniel đã nói cái con khỉ gì ấy nhỉ, vụ việc chỉ xảy ra một lần? Rõ vớ vẩn. Đối tượng sẽ tiếp tục ra tay.”
HIỆN TRƯỜNG VỤ ÁN:
TRẠM MANHATTAN-10 CÔNG TY ALGONQUIN PHỐ NĂM MƯƠI BẢY MẠN TÂY
– Nạn nhân (đã tử vong): Luis Martin, phó quản lý cửa hàng sản phẩm âm nhạc.
– Không có dấu vân tay trên bất cứ bề mặt nào.
– Mảnh kim loại nóng chảy, hậu quả của tia hồ quang.
– Sợi cáp cỡ 0 bện bằng dây nhôm có bọc lớp cách điện.
– Nhà máy sản xuất linh kiện điện Bennington, AM-MV-60, chịu được dòng điện lên tới 60.000V.
– Cắt tay, bằng cưa kim loại, lưỡi mới, gãy một răng.
– Hai bu lông có chốt hãm, đường kính trong lòng 1,9cm.
– Không thể truy nguyên.
– Dấu vết riêng biệt của dụng cụ để lại trên bu lông.
– Lỗi dẫn điện đồng thau, đấu với sợi cáp bằng hai bu lông đường kính 0,6cm.
– Tất cả đều không thể truy nguyên.
– Dấu giày cao cổ.
– Sản phẩm của Albertson-Fenwick Model E-20 dành cho thợ điện, cỡ 11.
– Lưới kim loại được cắt ra để chui vào trạm điện, có dấu vết riêng biệt của dụng cụ là kéo cắt bu lông.
– Cánh cửa và khung cửa dưới tầng hầm.
– Lấy được ADN. Đã gửi xét nghiệm.
– Đồ ăn Hy Lạp, taramasalata.
– Tóc vàng, dài 2,5cmt tự nhiên, của người từ 50 tuổi trở xuống, được phát hiện ở tiệm cà phê bên kia phố đối diện trạm điện.
– Đã gửi phân tích độc tố – hóa chất
– Dấu vết khoáng chất tro núi lửa.
– Không tìm thấy trong tự nhiên khu vực New York.
– Từ triển lãm, bảo tàng, trường đào tạo về địa chất chăng?
– Phần mềm Trung tâm Điều khiển Algonquin bị truy cập bằng mật khẩu nội bộ, không phải bởi hacker bên ngoài.
HỒ SƠ ĐỐI TƯỢNG CHƯA XÁC ĐỊNH
– Nam giới.
– Độ tuổi 40.
– Có khả năng là da trắng.
– Có khả năng đeo kính, đội mũ.
– Có khả năng tóc ngắn, màu vàng.
– Quần yếm màu xanh lam thẫm, tương tự đồng phục của công nhân Algonquin.
– Rất thành thạo các hệ thống điện.
– Dấu giày gợi ý rằng không có vấn đề thể chất nào ảnh hưởng đến tư thế, dáng đi.
– Có khả năng là kẻ đã ăn trộm gần 23m cáp loại tương tự của Bennington và 12 bu lông có chốt hãm. Dự tính tiếp tục tấn công? Mở cửa vào nhà kho của Algonquin ăn trộm bằng chìa khóa.
– Có khả năng là nhân viên của Algonquin hoặc có quan hệ với nhân viên của Algonquin.
– Liên quan đến khủng bố? Có quan hệ với Công lý cho (chưa xác định)? Nhóm khủng bố? Cá nhân mang tên Rahman dính líu vào? Có những tín hiệu mã hóa về các khoản tiền chi trả, các động thái nhân sự và thứ gì đó lớn.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.