Lưới Điện Tử Thần

CHƯƠNG 42



Chàng cảnh sát trẻ kể cho họ nghe sự việc đã xảy ra.
“Lúc ấy, tôi hoàn toàn không nghĩ gì cả. Hoặc có thể tôi nghĩ quá nhiều. Tôi căng thẳng. Tôi lo lắng rằng Galt biết đâu đã tiếp cận được xe của tôi, giăng một cái bẫy hay gì đó.”
“Hắn có thể thực hiện bằng cách nào?” Rhyme hỏi.
“Tôi không biết.” Pulaski xúc động nói. “Tôi quên mình đã nổ máy xe. Tôi lại xoay chìa khóa và cái âm thanh đó… ôi, nó khiến tôi hốt hoảng. Tôi cho rằng tôi đã bị tuột chân khỏi bàn đạp phanh.”
“Ông ta là ai?”
“Một người nào đấy thôi. Tên là Palmer. Làm ca đêm tại một công ty vận chuyển hàng hóa bằng xe tải. Ông ta đang đi tắt về từ cửa hiệu thực phẩm… Tôi đâm ông ta khá mạnh.”
Rhyme nghĩ về chấn thương ở đầu mà chính bản thân Pulaski từng phải chịu đựng. Cậu ta sẽ gặp rắc rối với cái thực tế là sự bất cẩn của cậu ta bây giờ gây chấn thương nghiêm trọng cho một người khác.
“Cơ quan Nội vụ sẽ nói chuyện với tôi. Họ bảo thành phố có lẽ sẽ bị kiện. Họ bảo tôi hãy liên hệ với Hiệp hội Cảnh sát tương thân thu xếp một luật sư. Tôi…” Pulaski nghẹn lời. Cuối cùng, cậu ta nhắc lại hơi có chút lên đồng, “Chân tôi tuột khỏi bàn đạp phanh. Tôi thậm chí không nhớ trước đó đã cài số xe và nổ máy.”
“Thôi, cậu tân binh, dù có trách móc bản thân hay không, căn bản là cái tay Palmer đó chẳng đóng vai trò gì trong vụ Galt này, đúng chứ?”
“Vâng.”
“Vậy hãy quay lại giải quyết sau mấy tiếng đồng hồ nữa.” Rhyme nói dứt khoát.
“Vâng, thưa sếp. Tôi sẽ để đấy đã. Tôi xin lỗi.”
“Thế, cậu phát hiện được những gì?”
Pulaski trình bày về những trang văn bản cậu ta đã cố gắng lôi ra từ máy in của Galt. Rhyme khen ngợi cậu ta về việc đó – một sự động viên an ủi – nhưng chàng cảnh sát thậm chí có vẻ không để lọt tai. Pulaski tiếp tục, giải thích về chứng ung thư của Galt và các đường điện cao thế.
“Trả thù.” Rhyme trầm ngâm nói. “Một động cơ quá quen thuộc. Không thuộc số những động cơ ưa thích của anh. Là của em sao?” Anh liếc mắt qua Sachs.
“Không.” cô nghiêm túc đáp. “Những động cơ của em là thói tham lam, sự thèm khát. Trả thù thông thường là một biểu hiện của rối loạn nhân cách chống xã hội. Nhưng trường hợp này có thể ở mức độ cao hơn trả thù, Rhyme ạ. Lá thư yêu sách cho thấy hắn đang thực hiện tuyên truyền vận động. Cứu vớt mọi người khỏi tác hại của cái công ty năng lượng xấu xa. Một kiểu cuồng tín. Và em vẫn nghĩ chúng ta có lẽ sẽ phát hiện được một mối liên hệ với khủng bố.”
Tuy nhiên, ngoài động cơ và những chứng cứ buộc Galt vào với hiện trường các vụ tấn công, Pulaski không tìm thấy gì gợi ý về địa điểm ẩn náu hiện tại hay địa điểm tấn công tiếp theo của gã. Điều này đáng thất vọng nhưng chẳng làm Rhyme ngạc nhiên, các vụ tấn công rõ ràng, ví à viu\v lên kế hoạch chu đáo và Galt sở hữu trí thông minh. Ngay từ đầu gã đã biết rõ danh tính của gã có thể sẽ bị lộ, hẳn gã đã thu xếp sẵn sàng địa điểm ẩn náu rồi.
Rhyme tìm trong danh bạ, gọi một số điện thoại,
“Văn phòng Audi Jessen nghe đây!” Cái giọng mệt mỏi phát ra qua speakerphone.
Rhyme tự giới thiệu mình và một lát sau được kết nối với nữ CEO của công ty điện lực. Chị ta nói, “Tôi vừa trao đổi với Gary Noble và mật vụ McDaniel rồi, thấy bảo có năm người thiệt mạng. Và nhiều người hơn thế đang điều trị trong bệnh viện”.
“Đúng vậy!”
“Tôi lấy làm tiếc vô cùng. Thật khủng khiếp quá. Tôi đang xem xét hồ sơ nhân sự của Ray Galt. Ngay bây giờ, phía trước tôi đây là ảnh hắn. Hắn trông không có vẻ thuộc hạng người sẵn sàng làm một việc như thế này.”
“Bọn chúng có bao giờ trông giống sát nhân đâu”.
Rhyme giải thích, “Hắn đinh ninh rằng hắn mắc chứng ung thư vì làm việc với các đường điện.”
“Đó là lý do hắn đang xử sự như thế này sao?”
” Có vẻ. Hẳn đang tuyên truyền vận động. Hắn nghĩ làm việc với các đường điện cao thế là rất rủi ro.”
Jessen thở dài “Chúng tôi đang có dăm bảy đơn kiện về vấn đề này. Cáp cao thế tạo ra điện từ trường. Chất cách điện và tường xây che chắn được điện trường, nhưng không che chắn được từ trường. Có những ý kiến cho rằng nó có thể dẫn đến bệnh máu trắng”.
Đọc các trang văn bản lấy từ máy in của Galt, lúc bấy giờ đã được scan và chiếu lên màn hình trước mặt anh, Rhyme nói, ““Hắn cũng đề cặp tới việc đường dây cao thế vốn vẫn hút các loại bụi có thể gây ung thư phổi”.
“Người ta chưa hề chứng minh được điều này. Tôi nghi ngờ nó. Tôi nghi ngờ cả căn bệnh máu trắng kia nữa.
“Chà, Galt lại không nghi ngờ!”
“Hắn muốn chúng tôi làm gì?”
“Tôi nghĩ chúng ta sẽ không biết được, chừng nào mà hắn chưa gửi cho chúng ta một thư yêu sách nữa hoặc liên lạc với chị theo cách khác”.
“Tôi sẽ soạn tuyên bố, kêu gọi hắn đầu hàng”
“Thế cũng tốt”. Tuy nhiên Rhyme nghĩ Galt đã đi quá xa nên không thể đơn giản nghe theo lời kêu gọi đầu hàng. Họ phải xác định rằng hắn vẫn còn nung nấu những kế hoạch khác.
Hai mươi ba mét cáp và một tá bu lông có chốt hãm. Hiện tại, gã đã dùng chừng chín mét cáp ăn trộm được.
Khi kết thúc cuộc gọi, Rhyme để ý thấy Pulaski đang nói chuyện điện thoại, mặt cúi gằm. Chàng cảnh sát ngẩng nhìn, bắt gặp ánh mắt sếp. Cậu ta vội vã kết thúc cuộc gọi, vẻ tội lỗi, rồi bước tới chỗ chiếc bàn bày chứng cứ. cậu ta sắp sửa vươn tay ra cầm lấy một trong số các dụng cụ thì bỗng khựng lại, nhận ra rằng mình chưa đeo găng cao su. Cậu ta đeo găng, làm vệ sinh những ngón tay và lòng bàn tay đã đeo găng bằng con lăn dính lông chó mèo. Sau đấy, cậu ta cầm chiếc kìm bắt bu lông lên.
So sánh dấu vết thì thấy cả chiếc kéo và chiếc cưa kim loại đều là các dụng cụ được dùng để bố trí cái bẫy tại điểm đỗ xe buýt, đôi giày to cổ cũng cùng kích cỡ, nhãn hiệu.
Nhưng chúng chỉ khẳng định điều mà họ đã biết: Raymon Galt chính là thủ phạm.
Họ xem xét những thếp giấy và những chiếc bút chàng cảnh sát trẻ thu được ở căn hộ của Galt. Họ không thể xác định được nguồn gốc, nhưng loại giấy và loại mực trong những chiếc bút Bic gần như y hệt loại đã được dùngđể viết bức thư yêu sách.
Khám phá tiếp theo khiến họ hoang mang hơn rất nhiều.
Cooper đang nghiên cứu kết quả từ máy sắc ký khí/khối phổ, Anh ta nói, “Có dấu vết ở đây này. Ở hai địa điểm riêng biệt: trên dây giày cao cổ và cán kéo cắt bu lông tìm thấy trong căn hộ của Galt. Rồi trên tay áo người công nhân đã bị Galt tấn công dưới đường hầm khu trung tâm, Joey Barzan.”
“Và?” Rhyme hỏi.
“Đó là một chất dẫn xuất của dầu hỏa, cộng với chút ít phenol và axit dinonylnaphthylsulfonic.”
Rhymenói, “Xăng Jet A tiêu chuẩn. Phenol là chất chống dính và axit kia là chất chống tĩnh điện.”
“Nhưng chưa hết.” Cooper tiếp tục. “Có cái này kỳ lạ, một dạng khí tự nhiên. Hóa lỏng, nhưng bền vững trong biên độ nhiệt rộng. Và… cái này nữa, dấu vết của diesel sinh học.”
“Kiểm tra cơ sở dữ liệu về nhiên liệu đi, Mel.”
Một lát sau, người kỹ thuật viên nói, “Đây rồi. Nó là một loại xăng máy bay thay thế đang được thử nghiệm. Chủ yếu với máy bay chiến đấu. Nó sạch hơn và sẽ hạn chế việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch. Người ta bảo rằng nó là làn sóng của tương lai.”
“Năng lượng thay thế.” Rhyme trầm ngâm nói, băn khoăn không biết phải lắp mảnh ghép này như thế nào. Nhưng anh biết một điều. “Sachs, gọi cho Bộ An ninh Nội địa và Bộ Quốc phòng. Cả Cơ quan Hàng không liên bang. Bảo họ rằng thằng cha của chúng ta có lẽ đã kiểm tra các kho nhiên liệu hoặc các căn cứ không quân.”
Một vụ hồ quang điện đã đủ tồi tệ. Nếu kết hợp với nhiên liệu phản lực nữa, Rhyme thậm chí chẳng thể tưởng tượng ra sức phá hủy của nó.
HIỆN TRƯỜNG VỤ ÁN:
KHÁCH SẠN CÔNG VIÊN BATTERY VÀ KHU VỰC LÂN CẬN
– Các nạn nhân (đã tử vong):
+ Linda Kepler, thành phố Oklahoma, khách du lịch.
+ Morris Kepler, thành phố Oklahoma, khách du lịch.
+ Samuel Vetter, Scottsdale, doanh nhân.
+ Ali Mamoud, thành phố New York, phục vụ bàn.
+ Gerhart Schiller, Frankfurt, Đức, giám đốc quảng cáo.
– Điện được đóng bằng thiết bị điều khiển từ xa.
– Các bộ phận không thể truy nguyên.
– Cáp Bennington và bu lông có chốt hãm, hoàn toàn giống ở vụ tấn công thứ nhất
– Đồng phục Algonquin của Galt, mũ bảo hộ và túỉ đựng dụng cụ chỉ có dấu vân tay của hắn, không có dấu vân tay của ai khác.
– Cờ lê tạo dấu vết có thể liên hệ vớỉ dấu vết để lại trên bu lông ở hiện trường thứ nhất.
– Giũa đuôi chuột bám bụi thủy tinh có thể liên hệ với chiếc chai được tìm thấy ở hiện trường trạm điện khu Harlem.
– Có khả năng hành động một mình.
– Dấu vết từ công nhân của Algonquin, Joey Barzan, nạn nhân bị Galt tấn công.
– Nhiên liệu thay thế sử dụng cho máy bay phản lực.
– Dự định tấn công căn cứ quân sự?
HIỆN TRƯỜNG VỤ ÁN: CĂN HỘ CỦA GALT,
227 PHỐ SUFFOLK, KHU BỜ ĐÔNG HẠ
– Bút Bic SoftFeel ngòi nhỏ, mực màu xanh lam, giống mực được sử dụng trong thư yêu sách.
– Giấy dùng cho máy in loại thông thường màu trắng, khổ A4, giống với thư yêu sách.
– Phong bì loại thông thường cỡ 10, giống với phong bì đựng thư yêu sách.
– Kéo cắt bu lông, cưa kim loại có dấu vết phù hợp với dấu vết để lại tại hiện trường thứ nhất.
– Các trang in ra từ máy tính:
+ Các nghiên cứu y khoa về chứng ung thư và mối liên quan tới đường điện cao thế.
+ Các bài viết của Galt đăng trên blog, cùng một nội dung như trên.
– Giày cao cổ nhãn hiệu Albertson-Fenwick Model E-20 dành cho công nhân điện lực, cỡ 11, rãnh đế phù hợp với dấu vết để lại tại hiện trường thứ nhất.
– Bổ sung dấu vết của nhiên liệu thay thế dùng cho máy bay phản lực.
– Dự định tấn công căn cứ quân sự?
– Không phát hiện được manh mối rõ ràng nào về nơi hắn có thể đang ẩn náu hay những địa điểm tấn công tiếp theo.
HIỆN TRƯỜNG VỤ ÁN: TRẠM MH-7 CỦA ALGONQUIN PHỐ 119 MẠN ĐÔNG, KHU HARLEM
– Chai cháy: vỏ chai rượu vang 750ml, không thể xác định nguồn gốc.
– Xăng BP được sử dụng làm chất xúc tác.
– Những dải vải bông, có lẽ từ một chiếc áo phông màu trắng, được sử dụng làm tim dầu, không thể xác định nguồn gốc.
Hồ SƠ THỦ PHẠM
– Được xác định danh tính là Raymond Galt, 40 tuổi, độc thân, sống ở quận Manhattan, số 227 phố Suffolk.
– Liên quan đến khủng bố? Có quan hệ với Công lý cho (chưa xác định)? Nhóm khủng bố? Cá nhân mang tên Rahman dính líu vào? Có những tín hiệu mã hóa về các khoản tiền chi trả, các động thái nhân sự và thứ gì đó lớn”.
– Sự vi phạm an ninh tại trạm điện của Algonquin ở Philadelphia có thể có liên quan.
– Thông tin từ SIGINT: từ ngữ mã hóa ám chỉ vũ khí, “giấy và các nguyên vật liệu” (súng, thuốc nổ? ).
– Những người dính líu tới bao gồm một phụ nữ, một nam giới.
– Chưa xác định được sự dính líu của Galt.
– Bệnh nhân ung thư; trữ nhiều vinblastine và prednisone, có dấu vết của etoposide. Máu trắng.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.