Made In Japan: Chế tạo tại Nhật Bản

HÒA BÌNH Một cuộc sống mới bắt đầu 1.



Cuộc sống của chúng tôi bỗng thay đổi đột ngột. Nhật Hoàng, người chưa bao giờ phát ngôn trực tiếp trước quốc dân, đã nhận định tương lai trước mắt của nước Nhật không lấy gì làm sáng sủa. Hoàng đế tuyên bố “chúng ta có khả năng kiến tạo một nền hòa bình huy hoàng cho thế hệ mai sau. Chúng ta phải làm được điều đó nhưng phải vượt qua những gian khó tưởng chừng không thể chịu đựng nổi”. Người kêu gọi mọi người dân hướng về phía trước. “Tất cả hãy đoàn kết một lòng và dồn toàn sức lực cho công cuộc kiến thiết tương lai”. Nhật Hoàng còn khuyến dụ toàn dân “cố gắng theo kịp đà tiến chung của thế giới”.
Tôi hiểu nhiệm vụ của mình là quay về trạm nghiên cứu và cống hiến hết sức mình. Chúng tôi đều biết cuộc chiến đã chấm dứt nhưng không một ai biết tương lai sẽ ra sao. Tôi dự đoán sẽ xảy ra tình trạng hỗn loạn trên diện rộng và có thể hình dung ra tình cảnh những người làm việc tại trạm nghiên cứu Zushi. Họ sẽ hoang mang không biết nên làm gì. Sĩ quan quân sự của trạm là những người còn rất trẻ và đa số là nữ giới.
Tôi có nhiệm vụ phải giúp đỡ họ vì tôi là một sĩ quan thường trực và tôi cảm thấy tốt hơn hết nên để họ trở về với gia đình càng sớm càng tốt. Chúng tôi không biết liệu một thời kỳ chiếm đóng khắc nghiệt có xảy đến không hay quân nhân Nhật sẽ bị đối xử như thế nào, liệu chúng tôi có bị bắt và tống giam không?
Tôi nói với mẹ: “Dù thế nào đi chăng nữa, con cũng phải quay lại trạm” và tôi nhờ mẹ chuẩn bị một ít lương thực ăn đường. Bà đã làm rất nhiều cơm nắm và bọc lá kỹ càng để tôi có thể bỏ vào túi xách. Tôi dự tính phải mất ba ngày mới về được trạm nếu xe buýt và tàu hỏa không chạy. Tôi đoán định hầu hết các phương tiện vận tải địa phương đều ngừng hoạt động, tôi sẽ phải xin đi nhờ xe để về trạm và trên đường đi, thực phẩm sẽ rất khan hiếm. Tôi mượn một chiếc xe đạp đi ra ga cách nhà 4 dặm, và vì là quân nhân nên tôi mua vé chuyến tàu đêm chẳng khó khăn gì. Tôi ngồi trên sân ga chờ tàu và cho rằng còn lâu tàu mới tới, nhưng thật ngạc nhiên tàu đến rất đúng giờ, rất chính xác theo kiểu Nhật như người ta thường nói. Tôi lên tàu và nghĩ rằng chắc rất khó kiếm được một chỗ ngồi nhưng tàu lại vắng khách, cho nên tôi qua một đêm khá thoải mái trên đường trở về trạm ở Zushi. Và như vậy, tôi vẫn còn phần lớn số cơm nắm cho ba ngày ăn đường.
Sứ mệnh của tôi hóa ra lại dễ dàng hơn tôi tưởng hay ít nhất cũng khác hẳn so với tôi nghĩ. Mặc dù tôi trực tiếp chứng kiến những hỗn loạn xảy ra trên khắp nước Nhật và như đoán trước, có một số m ưu đồ của giới quân sự nhằm ngăn chặn việc đầu hàng. Một trong những sự kiện đó xảy ra rất gần chỗ chúng tôi, ở Atsugi, do đại uý hải quân Yasuna Kozono, một phi đội trưởng, chỉ huy.
Ông đã tập hợp lực lượng của mình lại và bảo họ rằng đầu hàng là phản bội. Nhiều phi đội máy bay trong khu vực đe dọa sẽ tiến hành các cuộc tiến công cảm tử vào hạm đội Mỹ khi hạm đội này tiến vào Vịnh Tokyo để nhận lễ đầu hàng của Nhật. Ngay lập tức, phòng quân vụ phải đề phòng bằng cách ra lệnh tháo bỏ vũ khí trên các máy bay và hút cạn khoang đựng nhiên liệu. Tuy nhiên, vẫn có những sự cố xảy ra, nhưng không phải từ phía hải quân. Mãi về sau, chúng tôi mới biết đã có âm mưu ngăn chặn việc tuyên bố của Nhật Hoàng trên sóng radio. Một vài sĩ quan trẻ đặt kế hoạch chiếm đóng hoàng cung để cố khích động quân đội tham gia vào cuộc nổi loạn chống đầu hàng. Một nhóm khác tấn công nơi ở của thủ tướng. Nhờ nhanh trí, thủ tướng Kantaro Suzuki đã chạy thoát theo lối ra bí mật ở nhà riêng. Những người nổi loạn còn đi tìm Đô đốc hải quân Kido, nhưng lúc đó, ông đã an toàn trong hoàng cung. Một số phi công của quân đội và hải quân thậm chí bay trên bầu trời Tokyo để thả truyền đơn kêu gọi dân chúng phản kháng và nói rằng tuyên bố của Hoàng đế là vô giá trị. Một số sĩ quan tự sát để phản đối việc đầu hàng, bởi thật ra, quân đội vẫn chưa bị đánh bại, dù bị thiệt hại lớn – không dưới 2.750.000 quân bộ binh, hải quân và không quân đã thiệt mạng trong cuộc chiến. Cuối cùng, ngay cả những phái cuồng tín quân sự cũng phải cúi đầu trước sự thật hiển nhiên, “phải chịu đựng điều không chịu đựng nổi”.
Ngày 16 tháng Tám, tôi trở về trạm nghiên cứu. Một vài sĩ quan đồng nghiệp rất ngạc nhiên khi trông thấy tôi, đặc biệt là viên sĩ quan mà tôi đã có lần đùa rằng sẽ không quay lại nếu có lệnh cấp trên bắt phải tự sát. Tôi nghĩ anh ta không hiểu rõ tôi. Hình như tất cả các sĩ quan còn đang trong tình trạng choáng váng.
Chẳng bao lâu sau, binh lính Nhật được phép giải ngũ từ tất cả các căn cứ trên khắp nước Nhật. Họ ngồi chật các chuyến xe lửa và xe buýt. Việc Nhật đầu hàng rất khó hiểu đối với một số người. Mặc dù phần lớn quân đội Nhật vẫn chưa bị đánh bại trên mặt trận, dù đã bị dàn mỏng trên toàn châu Á, thiệt hại khủng khiếp ở Leyte, Iwo Jima, Saipan, Okinawa… và tiềm lực áp đảo của không quân Mỹ ở trên các đảo của Nhật cũng như việc Mỹ ném bom nguyên tử là những bằng chứng khẳng định việc Nhật Bản không thể thắng trong cuộc chiến này. Và sau đó, khi Liên Xô tham gia cuộc chiến chống Nhật sau khi Mỹ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima, mọi người lo sợ kẻ thù của Nhật sẽ lợi dụng tình hình suy yếu này để tìm cách xâm chiếm nước Nhật. Xô viết đã chiếm giữ một nửa đảo Sakhalin và bốn hòn đảo phía bắc Hokkaido- một trong những đảo chính của Nhật Bản- và cho tới ngày nay, họ vẫn chiếm giữ những hòn đảo này. Hoa Kỳ trả lại Okinawa, nơi họ chiếm đóng năm 1945 về chủ quyền của Nhật Bản vào năm 1972.
Năm 1945, Xô viết đã ném bom xuống Mãn Châu Lý – tấm đệm chắn giữa Xô viết và Nhật Bản trong nhiều năm qua – trong khi lực lượng của chúng tôi lại quá mỏng, không đủ sức chống lại quân đội Xô viết hùng mạnh. Tình trạng ở đó rất hỗn loạn, dân thường và binh lính Nhật Bản cố gắng thoát khỏi quân Nga, nhưng rốt cuộc khoảng 500 quân nhân Nhật Bản đã bị bắt và bị đưa tới trại lao động tại Siberia và những nơi khác thuộc khối Xô viết. Một vài người trong số đó vẫn bị giam giữ trong trại lao động tới 12 năm. Rất nhiều gia đình Nhật Bản ở Mãn Châu Lý đã bị phân ly, trong cuộc hỗn loạn đó. Nhiều trẻ mồ côi được người Trung Quốc nhận nuôi, một số gia đình không trốn thoát được đã cố gắng thuyết phục các gia đình Trung Quốc nhận nuôi và bảo vệ con cái của họ. Thậm chí cho tới tận ngày nay, đã 40 năm sau cuộc chiến, mỗi năm những người Trung Quốc, những người tin rằng mình là những đứa trẻ bị xa rời cha mẹ do cuộc chiến, được đưa về Nhật Bản và được giúp đỡ để tìm kiếm người thân mà họ thất lạc từ lâu. Thật ngạc nhiên là một số người đã tìm thấy cha mẹ hoặc người thân của mình, đôi khi là nhờ kể lại những gì mà họ nhớ được trước khi bị phân ly, hay chỉ là nhờ một vết sẹo hay một đặc điểm nhận dạng nào đó. Tuy nhiên, đáng tiếc là do thời gian chia cắt quá lâu nên ngày càng ít người tìm thấy cha mẹ của mình vì họ đã qua đời. Ngày nay, vẫn có những người cho rằng tuyên bố đầu hàng của Nhật Hoàng đã làm cho dân chúng sợ hãi Liên Xô, sợ rằng nước Nhật sẽ bị xâm chiếm hoặc chia tách giống như nước Đức cũng như sự sợ hãi do thảm họa tại Hiroshima và Nagasaki gây ra.

Đối với phần lớn người Nhật, chiến tranh kết thúc là trút được gánh nặng lớn, nhưng cũng là tấn bi kịch quốc gia. Báo chí Nhật đưa tin về buổi đầu thời kỳ chiếm đóng với những bài báo giật gân mô tả khác thường việc chiếm đóng với những kẻ chiếm đóng. Thí dụ, hãng thông tấn Domei mô tả một nhóm phi công hải quân Mỹ là “những người rất dễ mến. Họ không hề tỏ thái độ kỳ thị trong lời nói hoặc cung cách, không huênh hoang chiến thắng… Thái độ dễ mến này của các phi công là điều mọi người Nhật từ nay, đều nhớ đến mỗi khi tiếp xúc với lực lượng chiếm đóng Mỹ…”. Thậm chí một số người còn ăn mừng việc người Mỹ đến, nhưng hầu hết nhìn họ với con mắt sợ hãi, và nghi ngại.
Trong khi đó, chúng tôi chưa được lệnh từ cấp trên. Chúng tôi chờ đợi hết ngày này qua ngày khác, không còn gì để làm ngoài việc uống rượu sake. Lệnh đầu tiên trạm của chúng tôi nhận được là phải đốt hết hồ sơ, tài liệu quan trọng, và đôi khi, tôi cho rằng chúng tôi đã quá cực đoan. Tôi đốt hết giấy tờ, kể cả những báo cáo và số liệu thu được qua các cuộc thí nghiệm. Tôi còn đốt nốt một số sổ tay và hồ sơ cá nhân. Sau đó, tôi cứ nghĩ giá mình giữ lại đến nay thì thật giá trị nhưng đã dại dột đem đốt hết rồi. Sau đó, chúng tôi lại nhận được một bức điện của cấp trên ra lệnh giữ lại một số dữ liệu quan trọng nhưng đã quá muộn vì tất cả đều đã thành tro bụi. Nhiều người Nhật thời đó cũng đốt hết những sổ sách ghi chép vì họ không biết người Mỹ thắng trận sẽ đối xử với họ thế nào. Có thể những giấy tờ sót lại sẽ được sử dụng làm chứng cứ để buộc tội họ sau này hay tương tự như vậy. Các tòa báo cũng đốt hết văn thư, phim ảnh.
Một số công ty cũng đốt hết sổ sách giấy tờ, thật là việc làm vô ích. Một số người đem chôn các giấy tờ quan trọng và gia phả trong vườn. Trên đây chỉ là một vài thí dụ cho thấy tình trạng hỗn loạn xảy ra trên toàn đất nước, chứ không riêng gì ở đại bản doanh hải quân. Chúng tôi còn nhận được lệnh phải phá huỷ các máy móc quan trọng nhưng chúng tôi chẳng có loại máy móc nào đặc biệt cả và cũng chẳng có bất kỳ vũ khí gì. Sau cùng, cấp trên ra lệnh cho tôi là giải tán trạm, cho nhân viên trở về gia đình. Đây chính là lệnh mà tôi chờ đợi từ lâu nhưng thi hành lệnh đó lại chẳng dễ dàng gì. Phương tiện đi lại phục vụ người dân rất thiếu thốn, trong khi đó nhiều gia đình nhân viên của trạm lại ở nơi sơ tán rất xa nơi ở cũ của họ. Do đó, tôi phải vạch ra một kế hoạch đưa nhân viên về với gia đình càng sớm càng tốt. Thiếu cả lương thực lẫn phương tiện vận tải, chúng tôi phải làm thế nào đây? Lúc đó, anh chàng thiếu uý có sáng kiến đổi rượu sake lấy cá – một ý kiến tuyệt vời.
Chúng tôi biết rõ các đồ đạc dụng cụ văn phòng và thiết bị thí nghiệm là những thứ rất có giá trị, có lẽ còn giá trị hơn cả tiền bạc trong thời kỳ khan hiếm sau chiến tranh. Chúng tôi được lệnh phải phá huỷ tất cả những thứ đó, nhưng nhân viên ở một số đội đã khuân các thứ đó về nhà và sau đó đem bán ngoài chợ đen. Theo chỉ dẫn của những kẻ đầu cơ, chúng tôi tìm đến công ty vận tải lớn nhất vùng để thỏa thuận nhờ họ chuyển đồ đạc của nhân viên về nhà họ với cước phí trả bằng các bình ắc quy chúng tôi đã sử dụng trong phòng thí nghiệm. Công ty này đang thiếu ắc quy cho xe tải nên họ rất vui vẻ chấp nhận việc trao đổi này. Chúng tôi còn thêm cho họ một số thiết bị văn phòng, ổ khóa, bàn giấy. Giám đốc ga xe lửa Quốc gia ở Zushi cũng rất vui mừng nhận của chúng tôi một vài thứ đồ đạc văn phòng, cấp cho nhân viên của tôi vé xe lửa và vận chuyển hành lý giúp các nhân viên của tôi trở về quê quán.
Trước hết, tôi gửi thực tập sinh và phụ nữ trẻ về nhà trước, vì lúc đó có nhiều tin đồn rằng các sĩ quan hải quân như chúng tôi, có thể bị coi là tội phạm chiến tranh và những người dân thường làm việc cho hải quân cũng có thể bị bắt giam. Tôi cho những tin đồn đó là vô căn cứ và cũng chẳng hợp lý vì chúng tôi chưa từng đánh nhau với người Mỹ nhưng dù sao thì những tin kiểu đó cũng làm cho mọi người hoang mang sợ hãi, nên tôi quyết định đưa mọi người về gia đình càng sớm càng tốt để tránh hậu họa. Chúng tôi không biết động thái của quân đội Mỹ ra sao nên chúng tôi muốn phụ nữ ở nhà. Trong thời kỳ chiến tranh, trạm chúng tôi thiếu rất nhiều kỹ sư, nên cấp trên đã gửi cho chúng tôi khoảng 20 sinh viên đang học năm thứ ba trường cao đẳng kỹ thuật. Những học sinh này được tôi quyết định cho trở về gia đình đầu tiên. Nhưng trong số đó có hai đứa trẻ không còn nơi chốn để về vì cha mẹ các em đang sống tại Triều Tiên hay Mãn Châu Lý. Tôi gửi tạm hai em về sống với cha mẹ tôi. Tôi đưa hai em bức thư tôi gửi về cho mẹ “Con chưa thể biết trước con bị giữ lại ở trạm bao lâu. Thậm chí, chúng con còn có thể bị người Mỹ giết. Vậy mong mẹ hãy chăm sóc giúp con hai em này”. Về sau, mẹ tôi có rầy la tôi là đã gửi cho mẹ tôi nuôi hai đứa ăn như ma đói đúng vào lúc lương thực khan hiếm.
Tại trạm, sau khi đưa các em về nhà, chúng tôi cũng chẳng còn việc gì làm.
Chúng tôi chờ rất lâu mới có lệnh của cấp trên. Với cái kính viễn vọng của trạm, chúng tôi thay nhau theo dõi hoạt động của các tàu chiến Mỹ từ ngoài khơi tiến vào vịnh Sagami rồi sau đó rẽ lên vịnh Tokyo chuẩn bị ký kết hiệp ước Nhật đầu hàng trên chiến hạm USS Missouri. Thật là một quang cảnh ngoạn mục, cứ như thể toàn bộ hạm đội Mỹ tiến vào vịnh ngay trước mắt chúng tôi. Tôi rất nóng lòng muốn rời khỏi trạm, và khi được phép, tôi ra ga ngay, lên chuyến tàu đầu tiên trở về nhà. Thật là một dịp gia đình sum họp đầy đủ vì cả hai em trai tôi cũng được về nhà vào dịp này. Tất cả đều bình yên, mạnh khỏe, nên bố mẹ tôi hết sức vui vẻ và sung sướng. Trong chiến tranh, chúng tôi đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà không bị một vết thương nào. Chúng tôi cũng khác với đa số các thanh niên Nhật cùng trang lứa thường bị nhồi sọ lý tưởng tôn thờ Hoàng đế và sẵn sàng hi sinh mạng sống. Ở Nhật, chúng tôi thường nói đến bầu không khí gây cho mọi người tâm lý đồng tâm hiệp lực, cứ như mọi người đều hít thở một bầu không khí đặc biệt. Trong thời kỳ chiến tranh, các nhà cầm quyền đã lợi dụng đặc điểm này để phát động các phong trào tình nguyện tòng quân như đã xảy ra ở lớp trung học của em trai tôi. Bị bầu không khí này tác động, nhiều thanh niên Nhật đã tình nguyện đăng ký nghĩa vụ quân sự.
Nhưng khá nhiều phi công lái máy bay cảm tử Thần Phong đã thất vọng vì không được bay chuyến cảm tử cuối cùng. Sau này, họ cảm thấy may mắn là đã không phải hứng chịu cái chết. Sau chiến tranh, khi Nhật Hoàng đọc tuyên bố trước quốc dân và công du khắp nước Nhật với biểu tượng là một bậc phụ mẫu đáng kính chứ không phải một ông thánh, tâm lý bình an bắt đầu trở lại. Đối với nhiều người, bây giờ chiến tranh đã đi qua, nhưng dường như cả đất nước vừa trải qua một thảm họa tàn khốc chẳng khác gì một thảm họa thiên nhiên.
Thời kỳ hòa bình mới được lập lại thật xa lạ. Không còn những cuộc ném bom, nhưng nhiều thành phố trông chẳng còn gì để ném bom nữa. Ở trung tâm các thành phố lớn như Osaka, Nagoya, Yokohama và Tokyo, chỉ những tòa nhà kiên cố đúc bằng bê tông hoặc đá còn trụ vững sau các cuộc ném bom.
Những ngôi nhà ọp ẹp, những cửa hàng, những nhà máy dựng bằng gỗ và giấy dầu bị cháy trụi sau trận mưa bom do máy bay B.29 thả xuống. Những khoảng trống ngăn cách các khu dân cư chẳng còn tác dụng vì gió đem tàn lửa dễ dàng vượt qua bắt cháy các khu vực khác. Trước chiến tranh, dân số Tokyo là 7 triệu người nay, sau các cuộc ném bom, không còn đến một nửa trụ lại thành phố.
Gần 4 triệu người đã sơ tán về các vùng nông thôn hoặc các đô thị nhỏ. Thảm họa này còn khủng khiếp hơn cả vụ động đất xảy ra tại Tokyo năm 1923, nhưng sức tàn phá của lửa thì chẳng khác gì nhau. Do đó, đối với một số người Tokyo, họ đã chứng kiến thành phố bị huỷ hoại hai lần trong cuộc đời mình.
Khi chiến tranh kết thúc, chỉ có 10% xe cộ trong phố còn hoạt động được. Chỉ có 60 chiếc xe buýt và một số nhỏ xe tải là còn chạy được. Hầu hết các xe này đều chuyển sang chạy than hoặc chạy củi vì nhiên liệu lỏng đã cạn kiệt.
Bệnh tật hoành hành khắp mọi nơi và tỷ lệ người mắc bệnh lao lên tới 22%. Bệnh viện thiếu thốn đủ thứ, kể cả bông, băng và thuốc sát trùng. Các cửa hàng bách hóa đều chẳng còn gì ngoài những thứ chẳng bán được như cần kéo violon, vợt tennis v.v… Vài rạp chiếu bóng vẫn mở cửa, đông nghịt người xem vì họ cũng rỗi việc, không biết làm gì, không biết phải đi đâu và muốn quên đi nỗi thống khổ trong vài giờ đồng hồ.
Gia đình Morita chúng tôi thật may mắn vì không ai hy sinh trong chiến tranh. Ngay cả văn phòng của công ty và nhà máy tại Nagoya, thậm chí cả nhà riêng của gia đình chúng tôi cũng chẳng bị hư hại gì lớn sau các trận bom. Sau vài ngày đoàn tụ và nghỉ ngơi, chúng tôi bắt đầu bàn bạc về tương lai, đặc biệt là tôi, với vai trò con trưởng trong gia đình. Cha tôi còn rất mạnh khỏe và tráng kiện, ông vẫn điều hành công việc kinh doanh và tôi cũng chưa cần đứng ra quản lý công ty Morita. Trong thời kỳ chiến tranh, nhà máy vẫn hoạt động sản xuất phục vụ chiến tranh bột miso và rượu, nhờ đó, công việc kinh doanh không hề bị gián đoạn. Tôi đề nghị một vài ý kiến cải tiến kinh doanh nhưng sự có mặt của tôi ở nhà máy chưa thật cần thiết vì đã có cha tôi, các trưởng phòng quản lý cùng các nhân viên thừa hành khác. Hơn nữa, lúc đó tôi mới 24 tuổi và mọi người đều cho rằng tôi còn rất nhiều thời gian để tham gia công việc kinh doanh sau này.
Trong vài tuần đầu ở nhà, tôi nhận được thư của giáo sư Hattori, người thầy giáo dạy vật lý đã chỉ bảo tôi rất nhiều khi tôi còn học ở trường cao đẳng. Ông thông báo rằng ông đã chuyển lên khoa vật lý Viện Công nghệ Tokyo và ông đang hỗ trợ thành lập một trường đào tạo đặc biệt dành cho những sinh viên theo học ngành kỹ thuật nhưng bị gián đoạn bởi chiến tranh… Hiện đang thiếu giáo viên cho trường nên ông tha thiết mời tôi tham gia giảng dạy ở khoa này. Tôi nghĩ đây là một ý tưởng hay để tiếp tục nghiên cứu vật lý và hơn nữa được tới Tokyo. Tôi hy vọng tìm được một công việc thú vị vì hiện tại lực lượng hải quân và toàn bộ lực lượng quân sự Nhật Bản đã bị giải thể. Cha mẹ tôi đều đồng ý cho tôi theo nghề giáo viên, và thật may mắn tôi còn liên lạc được với Ibuka, một kỹ sư tài năng cùng làm việc với tôi trong nhóm nghiên cứu hải quân, lúc này vừa lập một phòng thí nghiệm mới ở Tokyo.
Trong vài tháng cuối của cuộc chiến, tôi ít khi liên lạc với Ibuka. Khi chiến tranh sắp kết thúc, do nhà máy và phòng thí nghiệm Tokyo nằm trong khu vực mục tiêu, nơi có nhiều nhà máy nhỏ nên Ibuka chuyển nhà máy về Nagano – Tây Bắc Tokyo, mất vài giờ đi tàu nên anh cũng ít đến nhà chúng tôi hơn.
Trước đây, anh nhiều lần đến thăm tôi tại phòng thí nghiệm ở Zuchi, và tôi cũng nhiều lần đến khu vườn táo ở Nagano, nơi anh lập nhà máy mới. Một hôm ở Nagano, khi cả hai chúng tôi đều biết tin thua trận do nghe đài sóng ngắn, tôi nói chuyện với lbuka về dự định công việc sau chiến tranh.
Ibuka còn biết tin mật khác. Bố vợ anh là Tamon Maeda, cánh tay phải của Hoàng thân Fumimaro Konoe. Konoe từng là Thủ tướng Nhật và đã chống lại bè phái quân sự, những kẻ sau này khống chế Chính phủ và đẩy Nhật Bản vào cuộc chiến. Về sau, Maeda được chọn làm bộ trưởng giáo dục đầu tiên sau chiến tranh của Nhật, nhưng mới được 6 tháng đã buộc phải từ chức trong một cuộc thanh trừng vì ông dính líu đến các quan chức chính phủ thời chiến. Khi chiến tranh sắp kết thúc, dinh thự của Maeda bị bom phá huỷ, ông phải chuyển đến khu núi Karuizawa, không xa Nagano lắm. Ibuka thường đến thăm ông ở đó và được nghe rất nhiều chuyện về ngoại giao và quân sự.
lbuka quản lý công ty Nihon Sokuteiki (Công ty dụng cụ đo lường Nhật Bản). Nhà máy của công ty nằm trong địa phận quận Nagano, anh thuê tới 1.500 công nhân chuyên sản xuất các bộ phận cơ khí nhỏ dùng để kiểm tra tần số của các thiết bị rada. Các thiết bị này dao động cần chính xác tới 1.000 chu kỳ/giây nên Ibuka có sáng kiến thuê các sinh viên trường nhạc kiểm tra độ chính xác của các phần tử mà không dùng đến âm thoa một nghìn chu kỳ. Sở dĩ tôi kể chuyện này để nhấn mạnh tới óc sáng tạo và sự minh mẫn của anh trong công việc. Chính điều đó đã gây cho tôi một ấn tượng khá sâu sắc và khiến tôi muốn làm việc chung với anh.
Nhưng Ibuka chưa cảm thấy vừa lòng khi chỉ chuyên sản xuất hàng hoạt các linh kiện ở vùng nông thôn. Ibuka đã nói với Taija Uemura, chủ tịch công ty rằng anh muốn quay về Tokyo làm việc. Uemura miễn cưỡng để anh ra đi và hứa sẽ giúp anh trong công việc kinh doanh mới. Ibuka có một người bạn là chủ một cửa hàng bách hóa Shirokiya ở khu Nihonbashi (Tokyo) nay bỏ không do bị ném bom phá huỷ hoàn toàn. Sở dĩ, tòa nhà trở thành mục tiêu oanh tạc vì dưới tầng hầm có một xưởng sản xuất bóng đèn chân không.
Chính trong tòa nhà cũ kỹ, trơ trụi, trống rỗng nằm trong khu vực đổ nát, điêu tàn mà xưa kia có thời là khu sầm uất của Tokyo, Ibuka đã xây dựng và thành lập Phòng thí nghiệm nghiên cứu viễn thông Tokyo, với vẻn vẹn bảy nhân viên lấy từ nhà máy Tokyo cũ trước đây đã cùng với anh chuyển tới Nagano. Tất cả làm việc chen chúc trong một tổng đài điện thoại cũ ở tầng ba của tòa nhà rồi sau đó dùng thêm mặt bằng trên tầng bảy. Ibuka có lần nói với tôi rằng những nhân viên lúc đầu rời khỏi Tokyo không muốn trở về sinh sống ở Tokyo nữa vì họ lo không kiếm được nơi ở và hơn nữa lương thực lại khan hiếm. Họ biết rằng công ty cũng chẳng còn nhiều tiền và tiền đồ của công ty cũng chẳng lấy gì làm sáng sủa.
Tất cả tài sản của Ibuka nằm trong túi áo và trong trí óc anh (số tiền anh hiện có là tiền bán von kế của công ty cũ). Những người còn lại này họp bàn kế hoạch trong một quang cảnh hoang tàn của cửa hàng bách hóa bị bom làm cháy rụi và hàng tuần liền, họ cố tìm ra phương thức kinh doanh phù hợp để công ty mới có khả năng hoạt động. Vào thời điểm đó, chỉ có chợ đen là hoạt động sôi nổi và chỉ ở đó mới mua được những linh kiện cần thiết. Các công ty điện tử lớn và lâu năm cũng bắt đầu sản xuất trở lại và không muốn bán các linh kiện cho đối thủ cạnh tranh với họ. Ibuka muốn kinh doanh mặt hàng nào đó mới mẻ nhưng trước tiên, anh cần có một cơ sở tài chính vững chắc. Trong những buổi họp đầu, có rất nhiều ý kiến mới lạ được đưa ra. Ví dụ, một người trong nhóm gợi ý công ty nên cho thuê một mảnh đất bỏ không nào đó và mở một sân gôn vì hầu hết khu vực trung tâm Tokyo đã bị phá trụi và san bằng. Họ lý giải rằng nhân dân đang rất cần giải trí. Rạp chiếu bóng đã quá đông nên người ta muốn cái gì đó mới mẻ. Một người khác lại cho rằng kinh doanh thực phẩm là chắc ăn nhất, lại dễ kiếm tiền và bán bánh rán nhân đậu xanh chắc cũng kiếm được khá.
Thực vậy, lương thực là vấn đề nan giải luôn luẩn quẩn trong trí óc mọi người. Vì vậy, cuối cùng, toàn nhóm quyết định chế tạo một chiếc nồi cơm điện đơn giản. Nhưng họ không bao giờ hoàn thiện được nó, dù đã tiến hành thí nghiệm nhiều kiểu mẫu. Chiếc nồi làm bằng gỗ, dưới đáy đặt những cực điện xoắn ốc. Nguyên lý hoạt động của chiếc nồi này là đổ gạo với nước vào nồi sẽ làm mạch điện hoạt động, nồi được đun nóng làm chín cơm. Mục đích là khi cơm chín, mạch sẽ tự động ngắt điện và chỉ việc ngồi vào bàn ăn. Nhưng kết quả lại không luôn như mong đợi, lúc thì cơm khê lúc thì cơm sượng. Sau cùng, họ đành phải bỏ cuộc. Họ thậm chí đã nghĩ đến lò nướng bánh dựa trên nguyên lý tương tự – bột ướt làm thông mạch các mối kim loại của một hộp gỗ – nhưng họ thực sự chưa bao giờ tạo ra nó. Cuối cùng, họ phải nhờ tới các bà vợ giúp trong việc chế tạo các tấm đệm sưởi điện, đính dây điện lên vải. Các tấm đệm sưởi điện này được bán đầy chợ phố và là nguồn thu chính cho gia đình các nhân viên trong công ty.
Nhưng Ibuka không chuyển lên Tokyo vì mục đích kinh doanh giải trí, thực phẩm hay thiết bị sưởi gia đình. Anh luôn có một ý nghĩ ám ảnh: vì các máy thu thanh sóng ngắn bị cấm sử dụng trong chiến tranh, bấy giờ người ta rất quan tâm đến tin tức từ các đài sóng ngắn. Nay không còn cấm đoán, nhu cầu đó có thể được đáp ứng, lbuka nghĩ ra một cách. Bởi đài thu thanh rất quan trọng để nghe báo động và tin tức trong chiến tranh nên mọi người giữ gìn radio rất cẩn thận, nhưng họ chỉ bắt được sóng tầm trung và sóng AM thông thường. Vì thế, Ibuka thiết kế một bộ điều chỉnh sóng ngắn gồm một hộp gỗ nhỏ và một mạch điện đơn giản chỉ cần một ống chân không. Bộ điều chỉnh này có thể gắn thêm vào bất kỳ máy thu thanh nào và có thể bắt được sóng ngắn. Nhân viên phải kiếm bóng đèn ở chợ đen, một số rất đắt tiền nhưng sản phẩm rất được ưa chuộng và đem lại niềm tin cho mọi người trong công ty.

Ông Maeda có một người bạn làm ở tờ báo ngày lớn nhất ở Nhật Bản thời bấy giờ, đó là Asahi Shimbun. Người bạn này tên là Ryuzo Kaji, thường xuyên viết mục “Bút chì xanh”. Vì thiếu giấy in nên hồi đó, báo Asahi chỉ có một trang, nhưng ngày 6 tháng Mười năm 1945 báo đã dành một bài viết ca ngợi công ty:
“Một số người đã có radio nay chỉ cần điều chỉnh chút ít để bắt được sóng ngắn, đó là một tin tốt lành. Anh Masuru Ibuka, trước đây là giảng viên môn khoa học và cơ khí trường đại học Waseda và là con rể bộ trưởng bộ giáo dục Tamon Maeda, gần đây đã mở Phòng thí nghiệm nghiên cứu viễn thông Tokyo, tại tầng ba tòa nhà Shirokiya ở khu Nihonbashi. Xuất phát từ động cơ phi thương mại, anh đã tìm tòi nghiên cứu mở rộng việc sử dụng máy thu sóng ngắn bằng cách chuyển đổi những máy thu thông thường thành máy thu sóng ngắn nhờ việc gắn thêm một bộ phận phụ trợ. Với máy thu loại tốt có nhiều băng tần có thể chuyển ngay thành một máy thu sóng ngắn rất nhạy”.
Bài báo còn dự đoán các đài phát tư nhân sẽ được nhà cầm quyền của các lực lượng chiếm đóng cho phép hoạt động, nên việc nâng cấp các máy thu thanh hiện có là điều hết sức cần thiết vì có thể sẽ bị lẫn sóng do nhiều đài cùng phát. Bài báo cho rằng gắn thêm bộ phận sóng ngắn sẽ nghe được nhiều đài phát khác nhau. Để tả thêm con người Ibuka, tác giả bài báo viết: “Trước kia, anh phụ trách một công ty sản xuất vũ khí nhưng nay mong muốn sử dụng những hiểu biết kỹ thuật của mình phục vụ dân sinh. Hiện nay, anh là một trí thức của thành phố. Anh sẵn sàng trả lời bất kỳ câu hỏi nào kể cả những đề nghị có liên quan đến việc sửa chữa máy thu thanh thường dùng”.
Nhưng hóa ra là có một vài điều Kaji đã không viết đúng về Ibuka. Thực tế là trước đây, Ibuka chưa từng làm việc trong ngành chế tạo vũ khí, anh cũng chẳng quan tâm lắm đến việc sửa chữa máy thu thanh. Không những thế, không phải Ibuka không có động cơ thương mại, vì thực sự anh rất cần tiền, ít nhất cũng để trả lương nhân viên. Nhưng nhờ có bài báo đó, tôi biết Ibuka đang làm gì và ở đâu: Tôi vội viết thư cho Ibuka nói rằng tôi muốn gặp anh ở Tokyo, muốn giúp anh bất cứ việc gì có thể. Ibuka viết thư trả lời tôi ngay, anh mời tôi đến thăm anh và công ty mới của anh. Nhưng anh cũng cho tôi biết công việc còn đang khó khăn và anh phải trả lương nhân viên bằng chính tiền túi của mình và đang tìm tài trợ.
Tôi lên Tokyo nhận công tác giảng dạy, và sau khi đã ổn định nơi ở tại nhà một người bạn ở khu vực phía tây thành phố, nơi ít bị ném bom hơn khu trung tâm, tôi vội đến ngay khu Nihonbashi thăm Ibuka. Trụ sở văn phòng mới của Ibuka nằm trong một cửa hàng bách hóa trông tồi tàn đến thảm hại. Nhưng trên nét mặt Ibuka có vẻ phấn khởi, anh và các nhân viên của anh rất sung sướng khi được làm việc trong khi không ít những người khác còn chưa biết số phận họ ra sao.
Tôi hiểu Ibuka gặp khó khăn với việc trả lương nhân viên, nên tôi định làm việc ở công ty nửa buổi và dạy học nửa buổi. Như thế, tôi sẽ có tiền lương dạy học và Ibuka không phải trả lương tôi nhiều và cả hai đều thoải mái. Ibuka và tôi bàn bạc rất kỹ về việc lập một công ty chung, chúng tôi đã có ý định này từ trước khi chúng tôi quen nhau và cuối cùng chúng tôi đi đến quyết định triển khai vào tháng Ba năm 1946 khi đã chuẩn bị xong mọi thứ. Như vậy, tôi vừa là một giảng viên đại học ăn lương nhà nước, đồng thời là một nhà nghiên cứu làm việc nửa buổi tại công ty mới của lbuka với các kế hoạch thành lập công ty chung mới. Chúng tôi hiểu rằng trước khi thực sự mở công ty chung, còn có một vấn đề khá tế nhị phải giải quyết đó là trách nhiệm của tôi đối với gia đình Morita. Cho nên tôi cùng Ibuka và ông Maeda, lúc đó, đã từ chức bộ trưởng Bộ Giáo dục đi chuyến tàu đêm về Kosugaya vào tháng Tư năm 1946 để xin phép cha tôi cho tôi tham gia vào công ty mới. Cả Ibuka và ông Maeda đều biết là việc xin cho tôi, người con trưởng, được rời bỏ công việc kinh doanh truyền thống của gia đình là một điều rất khó khăn và tế nhị.
Ở Nhật Bản, người ta coi việc đưa người con trai, đặc biệt là người con cả, ra khỏi môi trường kinh doanh gia đình để đi theo một ngành kinh doanh mới là một điều nghiêm trọng. Trong một số trường hợp, điều này được coi như việc xin nhận con nuôi. Ngày nay, việc này vẫn còn diễn ra trong một số ngành kinh doanh, đặc biệt ở các doanh nghiệp nhỏ. Nhưng kể cả ở các doanh nghiệp lớn, khi một thanh niên tham gia vào công việc kinh doanh của gia đình, thì lý lịch gia đình, việc giới thiệu và cam kết trung thành với gia đình dù chỉ là ngầm hiểu vẫn được coi trọng. Vì nó đảm bảo rằng anh ta sẽ làm công việc đó suốt đời, chứ không phải chỉ làm việc một vài năm như ở một số nước nơi nhân công thay đổi chỗ làm dễ dàng. Thực tế là, tôi sẽ làm việc cho một gia đình khác, gánh vác trách nhiệm khác.
Hành trình chúng tôi trải qua thật vất vả. Toa xe chúng tôi ngồi kính cửa sổ bị vỡ, nên chúng tôi phải ngồi trong gió lạnh, khói tàu và bồ hóng suốt dọc đường. Nhưng chúng tôi lại được nhà Mortita đón tiếp tại Kosugaya thật ấm cúng. Sau này khi nhớ lại, Ibuka còn nói anh không thể nào quên được lòng mến khách sự đón tiếp nồng hậu gia đình tôi đã giành cho anh và ông Maeda. “Mặc dù sự nồng nhiệt đó chỉ thể hiện bằng bánh mì, thứ bánh mì ngon tuyệt do chính gia đình Morita làm ăn với bơ, mứt và trà”. Sau chiến tranh, ngay cả những thức ăn thông thường đó cũng trở nên quý hiếm, thường thì chỉ có đồ dùng thiết yếu. Mọi người đều phải thắt lưng buộc bụng, chắt chiu từng hạt gạo để nuôi trẻ nhỏ. Rất nhiều người không có đủ cơm ăn. Trong chiến tranh, dân Nhật đã quen sống khổ hạnh, họ thường trộn lúa mạch và khoai tây vào cùng nhúm gạo để thổi cơm. Cuộc chiến đã làm cả nước phá sản và thoái chí, hàng triệu người đã bị buộc phải sống cầm hơi qua ngày đoạn tháng.
Sau vài câu chuyện xã giao, Ibuka cùng ông Maeda kể cho cha tôi về công việc kinh doanh mới, mục tiêu họ muốn đạt được và khẳng định tôi rất cần thiết cho công việc kinh doanh mới. Trình bày xong, ba chúng tôi đều căng thẳng chờ đợi câu trả lời. Có vẻ như cha tôi lúc ấy đã chuẩn bị trước nên ông nói không chút do dự rằng ông muốn tôi nối nghiệp ông. Rồi ông quay sang phía ông Maeda và Ibuka nói: “Nhưng nếu con tôi thấy cần phải làm một công việc nào đó để phát huy khả năng và sở trường thì tôi cũng không ngăn trở”. Ông nhìn tôi, mỉm cười và nói: “Con hãy làm những gì con muốn”. Tôi vui sướng, còn Ibuka thì kinh ngạc. Về sau anh kể với tôi rằng ông tưởng phải rất khó khăn mới thuyết phục được cha tôi. Em trai tôi, Kazuaki, lúc đó đang theo học ở trường đại học Wasada đã tự nguyện nối nghiệp gia đình Morita làm nghề sản xuất rượu sake khi cha tôi tới lúc nghỉ hưu. Mọi việc đều được dàn xếp ổn thỏa. Ai nấy đều thở phào nhẹ nhõm.
Khi quay trở về Tokyo, chúng tôi tập trung mọi nguồn lực để mở công ty mới, lấy tên hiệu là Tokio Tsushin Kogyo (Công ty Cơ khí vô tuyến viễn thông Tokyo). Tổng số vốn ban đầu vào khoảng 500 đô la. Số tiền này chẳng phải to tát gì và thậm chí cũng không đủ để kinh doanh. Công ty của chúng tôi chẳng bao lâu thiếu vốn hoạt động và chúng tôi thường phải cầu cứu vay tiền cha tôi. Ông tin vào công việc chúng tôi làm, nên không buộc chúng tôi phải trả ngay. Vì thế chúng tôi quyết định đưa ông trở thành cổ đông của công ty. Điều này hóa ra là một vụ đầu tư may mắn đối với ông vì ông đã được đền bù xứng đáng với số cổ phiếu ngày càng nhiều và ông trở thành một cổ đông lớn của công ty.
Mặc dù phải nói rằng chính nghề dạy học đã nuôi tôi, nhưng tôi không chú tâm vào công việc này. Tôi nóng lòng được cống hiến toàn bộ công sức vào công ty mới. Rồi đến một ngày, tôi cảm thấy rất hài lòng khi đọc trên một tờ báo rằng chính quyền do các lực lượng đồng minh chiếm đóng ra quyết định thanh trừng các giáo viên trước đây đã từng làm việc trong cho quân đội hoặc hải quân Nhật. Tôi nghĩ ngay là trong số đó có tôi vì tôi cũng đã là một sĩ quan kỹ thuật chuyện nghiệp, nguyện cống hiến cả cuộc đời phục vụ lực lượng hải quân Hoàng gia Nhật. Lệnh thanh trừng này do Tổng Hành dinh các lực lượng đồng minh đưa ra dựa trên quan điểm các quân nhân chuyên nghiệp, bị coi là tội phạm chiến tranh, cần phải loại ra khỏi ngành giáo dục vì họ có thể gây ảnh hưởng tới tâm trí còn non nớt của lớp học sinh, sinh viên Nhật sau chiến tranh. Với tôi, lệnh thanh trừng này lại là một tin tốt lành, đó là cái cớ để tôi xin thôi giảng dạy ở trường và tôi sẽ có thể dành toàn bộ thời gian cho công việc kinh doanh của công ty.
Tôi đã đến chơi nhà giáo sư Hattori và trình bày với ông rằng mặc dù tôi rất biết ơn nghề dạy học nhưng tôi không thể tiếp tục được do có lệnh này. Giáo sư Hattori đến ngay cơ quan để kiểm tra lại và ông được cho biết rằng Bộ giáo dục cũng chưa có ý kiến chính thức là nên làm thế nào. Vì vậy, nhà trường đề nghị tôi cứ tiếp tục giảng dạy trong khi chờ đợi thông báo chính thức. Thế nên, tôi phải giảng dạy thêm một vài tháng nữa để chiều lòng người thấy đáng kính của tôi, giáo sư Hattori. Sau đó một thời gian vẫn không có một thông báo nào về lệnh thanh trừng này, nên tôi đã có một ý nghĩ táo bạo là mang bài báo đăng tin này lên chủ nhiệm khoa là ông Koroku Wada, trình bày lo lắng rằng nếu tôi tiếp tục dạy học và bị phát giác, thì nhà trường có thể bị liên quan hoặc bị phạt vì đã bao che cho tôi. Tôi nói với ông: “Theo như tin đăng ở tờ báo này, tôi nằm trong số những người bị thanh trừng, nếu tôi cứ tiếp tục giảng dạy sẽ gây phiền phức cho nhà trường và tôi không muốn vậy”. Ông chủ nhiệm khoa cân nhắc những lý lẽ tôi đưa ra, cuối cùng ông quyết định: “Thôi được, anh có thể thôi dạy học ngay từ ngày hôm nay”. Và nghề dạy học của tôi đến đây là chấm dứt.
Tôi đến chào từ biệt giáo sư Hattori và vui mừng quay về công ty.
Nhiều tháng sau cũng chẳng thấy có thông báo nào về lệnh thanh trừng và cứ mỗi tháng, nhà trường vẫn gọi điện giục tôi đến lĩnh lương như thường lệ, chắc vì lý do nào đó mà tên tôi vẫn nằm trong sổ lương nhà trường. Hơn nữa, tuy tôi tuy đã nghỉ dạy nhưng, lương của tôi vẫn tăng thêm cứ hai hoặc ba tháng một lần do có sự điều chỉnh lương theo tình hình lạm phát. Tôi vẫn tiếp tục được lĩnh lương cho tới tận tháng Mười năm 1946 khi Bộ giáo dục có công văn chính thức thải hồi tôi. Tôi hết sức hoan nghênh việc được nhận lương vì công ty mới của tôi chưa có doanh thu đáng kể nào vào thời điểm đó.
Tháng Tám năm 1946, cửa hàng bách hóa Shirokiya chuẩn bị xây dựng lại. Họ thông báo rằng chúng tôi phải chuyển đi. Chúng tôi đành phải chuyển trụ sở sang khu vực khác một thời gian, khu Kichijoji, một trong những khu cổ nhất ở Tokyo nhưng chúng tôi thấy chưa thỏa mãn với địa điểm này. Cuối cùng, chúng tôi lại chuyến công ty tới một căn nhà gỗ tồi tàn, đổ nát nhưng tiền thuê rất rẻ ở Gotenyama, thuộc khu vực Shinagawa ngoại vi phía nam thành phố. Đó là một ngọn đồi trước đây từng nổi tiếng với rừng hoa anh đào. Năm 1853, đồi Gotenyama được xây thành công sự để bảo vệ Vịnh Tokyo, nhưng khi chúng tôi dọn đến ở tòa nhà cũ kỹ, bốn bề lộng gió, vào một ngày lạnh lẽo tháng Giêng năm 1947, Gotenyama trông chẳng còn giống pháo đài khi xưa nữa, mọi thứ quanh đây đều hoang tàn, đổ nát vì bom đạn. Mỗi khi trời mưa, nước thấm dột từ mái nhà xuống và đôi khi chúng tôi phải giương ô che bàn làm việc. Mặc dù địa điểm mới này xa trung tâm thành phố, nhưng chúng tôi lại cảm thấy thoải mái hơn và diện tích cũng rộng hơn trụ sở cũ ở cửa hàng bách hóa.
Để có thể tới giao dịch với công ty Tokyo Tsushin Kogyo, khách phải luồn qua dây phơi tã lót trẻ em do các bà láng giềng đem ra hong gió. Có lần, họ hàng thân thuộc đến thăm tôi và họ thấy kinh ngạc vì điều kiện ở đây quá tồi tàn đến nỗi cho là tôi đã trở thành một người sống vô tổ chức. Việc này cuối cùng cũng đến tai mẹ tôi. Họ không hiểu nổi tại sao một người cấp tiến như tôi lại chọn làm việc ở một nơi như vậy, trong khi tôi có thể sống đàng hoàng ở Nagoya với tư cách là con trai cả trong gia đình có một truyền thống kinh doanh lâu đời.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.