Mật Mã Tài Năng

Phần kết: Thế giới Myelin



Nếu chúng ta vẽ sơ đồ mật mã tài năng, nó sẽ như thế này.

Điều hữu ích của mô hình này là nó linh hoạt như chính myelin, áp dụng cho mọi kỹ năng, trong mọi bối cảnh, nhỏ là ở các gia đình và lớn là ở cấp quốc gia. Tôi muốn kết thúc bằng phần trình bày ngắn gọn về cách áp dụng sơ đồ mật mã này cho các lĩnh vực khác nhau trong đời sống, cụ thể là cách chúng ta giáo dục trẻ em, làm việc và lớn lên, rồi trở thành những người làm cha làm mẹ, thành thạo những kỹ năng xã hội. Chúng ta bắt đầu đọc cuốn sách này với lời hứa sử dụng mật mã tài năng như một cặp kính X quang. Bây giờ, chúng ta sẽ xem xét nó làm việc với vai trò một chiếc kính viễn vọng tốt đến mức nào.

GIáO DỤC

Trong vòng 40 năm qua, hoặc lâu hơn, nền giáo dục Mỹ đã bị chia rẽ bởi Cuộc chiến tranh tập đọc. Một bên đại diện cho các lực lượng theo chủ nghĩa truyền thống của Ngữ âm học, gồm những người tin rằng cách tốt nhất để học đọc là thông qua ghi nhớ âm của các ký tự và nhóm ký tự. Bên kia là những đệ tử của chủ nghĩa Ngôngôn ngữ tổng thể, một lý thuyết ra đời từ những năm 1970, cho rằng tất cả trẻ em đều sở hữu khả năng đọc và viết bẩm sinh, khả năng đó sẽ đến tùy theo từng giai đoạn phát triển tự nhiên của trẻ. Họ tin rằng vai trò của giáo viên, như họ vẫn thường nói, là “một người hướng dẫn cùng đồng hành, chứ không phải là một nhà hiền triết đứng thuyết giảng.”

Đến những năm 1980, trào lưu Ngôngôn ngữ tổng thể rất phát triển. “Ghép các chữ cái với các âm là một quan điểm giống như coi trái đất là một cái đĩa phẳng,” Kenneth Goodman đã viết như vậy trong bài Tổng quan về Ngôngôn ngữ tổng thể. Các trường học bắt đầu tạo ra các môi trường học tập phong phú hơn, gồm có sách, từ ngữ, câu và những câu chuyện mà trong đó trẻ em có thể thể hiện khả năng đọc được cho là bẩm sinh của chúng. ý nghĩa được nhấn mạnh chứ không chỉ có âm. Hướng dẫn có hệ thống về ngữ pháp được coi là đã quá lỗi thời. Học sinh được khuyến khích bỏ qua những lỗi chính tả và sử dụng cách đánh vần mới. Phong trào này thu hút được giới giáo dục, và sau đó là các nhà chính trị cấp tiến. Năm 1987, bang California bắt buộc thực hiện lý thuyết Ngôngôn ngữ tổng thể cho việc dạy đọc và viết.

Đối với trẻ em từ các gia đình có thu nhập trung bình và trên trung bình, Ngôngôn ngữ tổng thể dường như có hiệu quả, hoặc ít nhất là không làm chúng bị tổn thương. Tuy nhiên, với trẻ em dân tộc thiểu số hoặc từ các gia đình có thu nhập thấp, đó là một thảm họa. Khoảng đầu những năm 1990, điểm tập đọc của trẻ em California, theo đánh giá của Ủy ban đánh giá tiến bộ giáo dục quốc gia, thấp hơn so với mọi bang khác, trừ bang Louisiana. Các tiểu bang khác áp dụng Ngôngôn ngữ tổng thể cũng có điểm chung như vậy. Năm 1998, với hai nỗ lực nghiên cứu lớn, Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia và Ủy ban Tập đọc quốc gia nhận thấy rằng việc thiếu chú trọng Ngữ âm học gây nên tình trạng thành tích học tập thấp cho hầu hết học sinh. Charles Sykes đã viết trong “Làm cho trẻ em của chúng ta không nói được”, rằng một học sinh lớp bốn được điểm trên trung bình với lời nhận xét của giáo viên: “ôi trời ơi!” cho bài tập viết đó. “Em xắp có một bộ pa-tanh thật nà kỳ riệu. Em đang đi đến Disene Lên. Em xẽ đi với bố, mẹ, anh chai và chị gái. Chúng tôi sẽ sem con chuột mickey.”

Theo đó, cán cân lại có vẻ nghiêng về phía Ngữ âm học. Những người bảo vệ Ngôngôn ngữ tổng thể đã giảm đi, hoặc kết hợp Ngữ âm học vào lý thuyết của họ nhưng vẫn vận động cho chân lý chủ yếu trong quan điểm của họ. Mặt khác, những người ủng hộ Ngữ âm học lại đưa ra danh sách các chương trình đầy hứa hẹn của họ. Tất cả các chương trình đó khiến cho nhiều giáo viên và trường học phải lưỡng lự giữa các lý thuyết dường như mâu thuẫn và chẳng biết ai sai ai đúng.

Nhìn lại vấn đề này qua lăng kính mật mã tài năng thì câu trả lời sẽ trở nên rõ ràng hơn. Mối quan hệ giữa Ngữ âm học và Ngôngôn ngữ tổng thể phản chiếu chính xác mối quan hệ giữa tập luyện sâu và đánh lửa. Ngữ âm học nhằm vào việc xây dựng những hệ mạch đáng tin cậy, chú ý đến các lỗi và sửa lỗi. Nó nói về sự chuyển biến: chia nhỏ một kỹ năng thành các phần nhỏ hơn và thực hành, nhắc đi nhắc lại mỗi hành động có liên quan đến kỹ năng đó. Nó nói về việc kích hoạt một cách hệ thống các tín hiệu tạo nên mạch kỹ năng có tốc độ cao và tin cậy mà bạn đang sử dụng ngay lúc này.

Mặt khác, Ngôngôn ngữ tổng thể lại nói về sự đánh lửa, về việc nạp đầy nhiên liệu động lực bằng cách tạo ra môi trường trong đó trẻ em yêu thích việc đọc và viết. Giống như bất kỳ sự đánh lửa nào, Ngôngôn ngữ Tổng thể có thể tạo ra khả năng tăng tốc cho những người đã có xu hướng và cơ hội tập luyện sâu, nhưng lại vô giá trị đối với những người không có cơ hội như vậy. Để hiểu đúng myelin thì phải hiểu rằng Cuộc chiến tranh tập đọc không nên xảy ra. Học sinh cần cả hai điều đó để thành công.

Một câu hỏi về giáo dục khác đáng được đặt ra là, tại sao trẻ em Phần Lan rất thông minh? Thiếu niên Phần Lan đạt điểm số vượt trội so với trẻ em trên thế giới trong Chương trình Đánh giá học sinh quốc tế, bất chấp một thực tế là văn hóa của học sinh Phần Lan (trái ngược với một số nước công nghệ cao khác) tương tự như Hoa Kỳ về nhiều khía cạnh. Theo Tạp chí Phố Wall, học sinh Phần Lan “phung phí thì giờ để lên mạng. Chúng nhuộm tóc, thích nói mỉa mai, nghe nhạc rap và nhạc heavy metal. Nhưng đến năm lớp chín, chúng tập trung vào học toán, các môn khoa học và đọc sách – và được định hướng để giữ cho người Phần Lan ở trong số những người làm việc năng suất nhất trên thế giới.” Hơn nữa, chi phí cho mỗi học sinh ở Phần Lan ít hơn ở Mỹ, chỉ 7.600 đô-la mỗi năm so với 8.700 đô-la. Khi một số nhà quan sát giải thích sự thành công này bằng cách chỉ ra truyền thống tự giác và tính đồng nhất của dân số Phần Lan, sự giải thích như vậy không vững chắc lắm. Trước những năm 1980, với những lợi thế đó, nền giáo dục Phần Lan vẫn chỉ được coi ở mức trung bình. Vậy đã có những gì thay đổi?

“Có ba lý do,” Kaisu Karkkainen, hiệu trưởng Trường phổ thông hỗn hợp Arabia tại Helsinki, nói với phóng viên tờ Bưu điện Washington. “Giáo viên, giáo viên và giáo viên.”

Tại Phần Lan, một giáo viên được coi là bình đẳng về mặt xã hội như bác sĩ hay luật sư và còn được thưởng thêm lương một cách hợp lý. Tất cả các giáo viên tiểu học đều có trình độ thạc sĩ sư phạm; trường học được điều hành như một phòng thí nghiệm giảng dạy, nơi những giáo viên trẻ được phân tích và đánh giá. Đó là sự cạnh tranh: một số trường nhận được bốn mươi đơn xin việc cho một vị trí giáo viên. Nhờ văn hóa có tính tiếp thu và sự kết hợp thông minh giữa kế hoạch và đầu tư, Phần Lan dường như đã tìm ra một cách để thể chế hóa việc giảng dạy có tập luyện sâu.

“Điều then chốt không phải là đầu tư bao nhiêu tiền mà đã đầu tư được cho bao nhiêu người”, theo Pekka Himanen, nhà văn, nhà triết học người Phần Lan. “Chất lượng cao của nền giáo dục Phần Lan phụ thuộc vào chất lượng cao của giáo viên Phần Lan. Nhiều học sinh xuất sắc muốn trở thành giáo viên. Điều này liên quan đến một thực tế là, chúng tôi thực sự tin rằng mình đang sống trong thời đại thông tin, vì vậy những người thuộc các ngành nghề quan trọng liên quan đến thông tin, như dạy học, rất được tôn trọng.”

Cuối cùng là câu hỏi thuộc lĩnh vực giáo dục thứ ba cần xem xét qua lăng kính myelin: đĩa DVD rèn luyện trí não cho trẻ, như đĩa DVD Em bé Einstein chẳng hạn (nguyên mẫu của công nghệ trị giá 500 triệu đô-la hiện nay) có làm cho trẻ em thông minh hơn không? Nếu quan niệm về tài năng theo suy nghĩ thông thường, tất nhiên sẽ dẫn đến câu trả lời: Có. Rốt cục, nếu tài năng là bẩm sinh thì chúng ta có thể dự đoán việc xem đĩa DVD này, với sự tiếp nối đơn giản và đầy mê hoặc của những hình khối và ánh sáng đầy màu sắc rực rỡ, có lẽ sẽ giúp phát triển bộ não của các bé (chưa kể đến việc những DVD này mang lại cho những bậc phụ huynh luôn bận rộn những khoảnh khắc bình yên).

Nhưng những nghiên cứu cho thấy, các DVD phát triển trí não cho trẻ không làm cho trẻ em thông minh hơn. Thực tế, chúng làm cho trẻ kém thông minh đi. Một nghiên cứu của Đại học Washington năm 2007 cho thấy, với trẻ từ 8 đến 16 tháng tuổi, việc dành 1 giờ mỗi ngày để xem đĩa DVD “khoa học trí não” sẽ làm giảm 17% vốn từ vựng. Và khi nghĩ về điều này trong phạm vi mô hình myelin, bạn sẽ thấy nó hoàn toàn hợp lý. Đĩa DVD nói trên không hiệu quả vì nó không tạo ra tập luyện sâu – thực tế nó lại ngăn cản tập luyện sâu bằng cách lấy đi khoảng thời gian có thể dùng cho việc kích hoạt các mạch điện của hệ thần kinh. Các hình ảnh và âm thanh trên đĩa DVD tác động lên đứa trẻ chỉ như việc tắm nước nóng mà thôi – thư giãn một chút nhưng vô dụng khi so sánh với những hình thức tương tác, mắc lỗi và học tập phong phú diễn ra khi đứa trẻ sửng sốt trước thế giới thực. Hoặc, nói cách khác: Kỹ năng là lớp bọc cách điện quanh những mạch điện thần kinh và phát triển tùy theo những tín hiệu nhất định.

KINH DOANH

Khi nói đến việc sản sinh ra những phép ẩn dụ mang tính khái niệm cao, có rất ít lĩnh vực trong cuộc sống có thể cạnh tranh với ngành tư vấn kinh doanh. Theo những người có uy tín trong lĩnh vực kinh doanh, các tổ chức tốt giống như một đội thể thao đang thi đấu. Hoặc chúng như những con tàu đang đi trên một đại dương nguy hiểm. Hoặc một nhóm vận động viên đang leo lên đỉnh núi Everest, hoặc chiến tranh ở các thành bang Hy Lạp, hay vô vàn những sự tương đồng có cấu trúc phức tạp, kịch tính thú vị khác. Tất cả đều kèm theo một tập hợp những vai trò, quy tắc và cấu trúc để cải tiến, ít nhiều trung thực và có tính phụ thuộc.

Myelin cho chúng ta một mô hình bỏ đi những trang trí mang tính ẩn dụ. Mô hình đó đơn giản nói rằng các tổ chức tốt được tạo nên từ myelin, thông qua tập luyện sâu. Doanh nghiệp là nhóm người đang xây dựng và mài giũa những mạch kỹ năng giống hệt công việc của những cầu thủ quần vợt tại Spartak hoặc các nhạc công vĩ cầm ở Meadowmount. Một tổ chức càng nắm chắc được các nguyên tắc cốt lõi của sự đánh lửa, tập luyện sâu và phương pháp huấn luyện bậc thầy thì càng tạo ra được nhiều myelin, càng gặt hái được nhiều thành công.

Ba mươi năm trước, Toyota chỉ là một công ty sản xuất ô tô tầm trung. Còn bây giờ, nó là công ty sản xuất ô tô lớn nhất thế giới. Hầu hết các nhà phân tích đều nói, thành công mà Toyota đạt được là nhờ họ có chiến lược kaizen, đó là một từ Nhật Bản để chỉ sự “cải tiến liên tục” và điều đó có thể dễ dàng được gọi là tập luyện sâu trên quy mô toàn công ty. Kaizen là quá trình tìm kiếm và cải tiến các vấn đề nhỏ. Mỗi nhân viên, từ người gác cổng trở đi, đều có quyền dừng dây chuyền sản xuất nếu họ phát hiện ra vấn đề gì đó. (Mỗi nhà máy đều có thanh kéo để dừng dây chuyền sản xuất trên sàn nhà máy, được gọi là andons). Phần lớn các cải tiến đến từ nhân viên, và phần lớn những thay đổi đều rất nhỏ, ví dụ: dịch chuyển vị trí giá để các chi tiết máy đi khoảng 30 cm, nhưng chúng rất có giá trị. Ước tính rằng, mỗi năm Toyota thực hiện khoảng một nghìn lần sửa lỗi nhỏ trong từng dây chuyền lắp ráp, cho đến nay đã có tổng cộng khoảng một triệu lần sửa lỗi. Toyota, tiếp tục tiến lên bằng các bước đi nhỏ chập chững của một em bé, giống như một Clarrisa khổng lồ, để chế tạo ô tô. Những thay đổi nhỏ giống như những lớp bao bọc bé li ti của myelin, giúp cho kết cấu mạch điện thực hiện từng phần việc nhanh hơn, suôn sẻ hơn và chính xác hơn. Khẩu hiệu trên cánh cửa của Toyota ở Georgetown, bang Kentucky, đã ghi nhận ý trên theo ngôngôn ngữ tập luyện sâu hoàn hảo: “Khi có điều gì sai, hãy hỏi TẠI SAO năm lần.”

Điều này nghe như một việc đơn giản. Nhưng trên thực tế, giống như tất cả các hình thức tập luyện sâu, trước tiên, một người phải vượt qua những xu hướng tự nhiên để đơn giản hóa vấn đề – một việc đặc biệt khó khăn trong doanh nghiệp. James Wiseman, hiện đang là Phó chủ tịch phụ trách công tác hành chính quản trị của Toyota, đã kể với Tạp chí Fast Company về ngày đầu tiên của mình tại công ty. “Trong những công việc trước đó, luôn luôn có rất nhiều người tìm kiếm những giải pháp ‘kỳ diệu’, những cải tiến thật lớn, thật ấn tượng.” Khi đến Toyota, ông nhận ra mọi thứ hoàn toàn khác. “Vào một ngày thứ sáu, tôi nộp báo cáo về một hoạt động mà chúng tôi đang thực hiện [mở rộng nhà máy] và phát biểu rất tích cực, cũng hơi khoe khoang một chút. Sau hai hoặc ba phút, tôi ngồi xuống. Và ông Cho [Fujio Cho, nay là Chủ tịch Toyota toàn cầu] nhìn tôi. Tôi có thể thấy ông ấy hơi bối rối. ông nói, ‘Jim-san, chúng tôi đều biết anh là một nhà quản lý giỏi, nếu không chúng tôi đã không thuê anh. Nhưng xin hãy nói với chúng tôi về các vấn đề của anh để chúng ta có thể cùng nhau giải quyết.'”

TâM Lý HỌC

Phòng chẩn trị tính nhút nhát tọa lạc tại một khu văn phòng không có gì nổi bật trên một con đường náo nhiệt ở Palo Alto, bang California. Với các bức tường đá màu xám và đồ nội thất màu đỏ phổ biến. Dấu hiệu duy nhất của sự sống là một bức ảnh chụp dưới nước của con cá hề đang thận trọng ló ra khỏi đám xúc tu an toàn của một con hải quỳ. Bệnh viện này được xây dựng xoay quanh ý tưởng: các kỹ năng xã hội cũng giống như những kỹ năng khác. Những người sáng lập, Philip Zimbardo và Lynne Henderson, gọi khái niệm này là huấn luyện cho phù hợp với xã hội – với ngôngôn ngữ của chúng ta, đó là tạo myelin thông qua tập luyện sâu.

“Chúng tôi tin rằng con người xấu hổ không phải vì họ thiếu kỹ năng xã hội mà vì họ đã không được thực hành đầy đủ”, nhà trị liệu Nicole Shiloff nói. “Việc nói chuyện qua điện thoại hay yêu cầu một người nào đó tập trung vào một kỹ năng có thể học được, cũng như chơi quần vợt vậy. Điều quan trọng là mọi người phải nán lại trong khu vực không lấy gì làm thoải mái đó, và học cách khoan dung với những lo âu của mình. Nếu rèn luyện, bạn có thể đạt được mức độ mong muốn.” Cha đẻ của loại hình điều trị này là tiến sĩ Albert Ellis. ông sinh năm 1913 và lớn lên ở Bronx, vốn là một thiếu niên vô cùng nhút nhát, không thể nói chuyện với phụ nữ. Nhưng một buổi chiều, ông quyết định tạo ra sự thay đổi. ông ngồi trên ghế đá gần Vườn bách thảo New York và nói chuyện với bất kỳ người phụ nữ nào ngồi xuống chiếc ghế đó. Trong một tháng, ông đã tiếp cận được 130 phụ nữ. “Có 30 người bỏ đi ngay lập tức,” ông nói. “Tôi đã nói chuyện với 100 người phụ nữ khác, lần đầu tiên trong đời, bất kể lo âu đến đâu. Không ai buồn nôn và bỏ chạy. Không có ai gọi cảnh sát cả.”

Ellis đã tiếp tục viết hàng chục cuốn sách, xây dựng cách tiếp cận dựa trên việc nói chuyện thẳng thắn và hành động có định hướng. Phương pháp này đã thách thức mô hình kiểm tra những trải nghiệm thời thơ ấu của Freud. “Chứng loạn thần kinh chỉ là một từ cao cấp để chỉ sự than vãn,” ông nói. “Điểm rắc rối của đa số các liệu pháp là giúp bạn cảm thấy khá hơn. Nhưng bạn không thực sự khá hơn. Bạn phải ủng hộ nó bằng hành động, hành động, và hành động.”

Phương pháp tiếp cận của Ellis, kết hợp với phương pháp của tiến sĩ Aaron Beck, được biết đến với tên gọi liệu pháp nhận thức – hành vi. Theo nhận xét của tờ Thời báo New York, liệu pháp này có tác dụng tương đương hay thậm chí tốt hơn thuốc uống theo toa để chống chứng trầm cảm, lo lắng và rối loạn do ám ảnh. Ellis thích thú chỉ ra rằng ý tưởng của ông không hoàn toàn mới: nó đến từ các nhà triết học khắc kỷ như Epictetus, người đã nói, “Không phải các sự kiện, mà là ý kiến của chúng ta về chúng khiến chúng ta đau khổ.” Ellis qua đời năm 2007, và đã được Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ coi là nhà tâm lý học có ảnh hưởng lớn thứ hai trong thế kỷ XX. (Carl Rogers là người thứ nhất, Freud là người thứ ba).

Buổi chữa bệnh tại Phòng chẩn trị tính nhút nhát mà tôi đã tham dự – có tám người được chẩn đoán nhút nhát lâm sàng – là một buổi làm việc điển hình. Người ta không nói về quá khứ của bất cứ ai, không cố gắng tìm ra nguyên nhân gốc rễ của sự nhút nhát. Chỉ có thực hành và phản hồi, được giám sát bởi sự huấn luyện nhẹ nhàng nhưng không nhượng bộ của Shiloff, nhằm điều chỉnh bất cứ nhận thức không chính xác nào và buộc họ phải cố gắng hơn, và cố gắng nữa. Giống như đang ở Meadowmount, Spartak hay bất cứ vườn ươm tài năng nào khác.

Các bệnh nhân bắt đầu bằng cách cố gắng vượt qua những thử thách đơn giản: tán gẫu, đóng vai người khuyên giải và nghe/gọi điện thoại. Sau vài tháng, họ dần dần tiến tới những nhiệm vụ khó khăn hơn, chẳng hạn đề nghị được hẹn hò. Ở cấp độ cao nhất của chương trình, họ thực hiện những bài thi Olympic bên ngoài bệnh viện như tự làm mình bẽ mặt khi đánh rơi một quả dưa hấu giữa siêu thị đông đúc. Mục đích là, Shiloff giải thích, để kích hoạt các mạch điện và kéo dài thời gian duy trì trong vùng khó chịu lâu thêm một chút. Đó chính là quá trình chập chững tập đi của một đứa bé, mặc dù bệnh viện có nhiều cách phù hợp hơn để mô tả cảm giác này. Một trong những khách hàng của Shiloff, một sinh viên đại học tôi tạm gọi là David, so sánh sự tiến bộ của mình với việc được lên cấp trong một trò chơi video. “Ban đầu, tôi có vẻ thực sự bối rối, giống như tất cả mọi thứ đang đến với mình từ mọi góc độ,” anh nói. “Nhưng sau đó, tôi hiểu ra, và rất nhanh chóng, tôi cảm thấy hết sức tự nhiên.”

Một nhân viên máy tính 26 tuổi luôn luôn mỉm cười, tên là Andre, đã nói với tôi rằng anh đã không dám nói chuyện với một người phụ nữ nào trong nhiều tháng trước khi tham dự khóa huấn luyện của bệnh viện này. Bây giờ, anh vừa mới có ba cuộc hẹn hò và đã ghi tên vào lớp học khiêu vũ cổ điển. “Khi nghĩ rằng mình sinh ra đã như vậy, tôi thường tự hỏi liệu luyện tập liệu có ích gì không,” Andre nói. “Nhưng khi coi nó là một kỹ năng thì thì mọi thứ đều thay đổi.”

Tập luyện sâu và myelin cũng có trong sự thành công của Kỹ thuật I-rắc ảo, một kỹ thuật mới đang được sử dụng để giúp các binh sĩ Hoa Kỳ bị rối loạn do căng thẳng sau chấn thương (PTSD), tình trạng mà một sự kiện thường ngày (âm thanh xe ô tô đang nổ máy hoặc tiếng bước chân) cũng gợi lên những ký ức làm con người suy yếu và đau đớn. Kỹ thuật I-rắc ảo sử dụng một phần mềm như trò chơi video để giúp bệnh nhân trải qua sự tái tạo sinh động chấn thương của họ, có đủ mùi vị, âm thanh và cảm giác. Mục đích là để bệnh nhân hồi tưởng những ký ức và xóa đi sức mạnh của nó, một kỹ thuật mà các chuyên gia trị liệu gọi là “liệu pháp phơi nhiễm kéo dài”.

Kỹ thuật I-rắc ảo vận hành hệt như Phòng chẩn trị tính nhút nhát hay bất cứ vườn ươm tài năng nào. Kỹ năng mong muốn ở đây là trải nghiệm những sự kiện đã gây cho người bệnh chấn thương (tiếng bước chân, tiếng động lớn) mà không gợi lên sự kết nối đã bị suy nhược. Họ không thể không xây dựng hệ mạch này (hãy nhớ, myelin chỉ bao bọc; nó không thể bị tháo ra), do đó cách tốt nhất để đạt được kỹ năng mới là thiết lập và tập luyện sâu một mạch điện thần kinh mới kết nối tác nhân kích thích chấn thương với những sự kiện bình thường hàng ngày. Lúc đầu, điều này thật khó khăn. Nhưng bệnh nhân càng kích hoạt các mạch điện nhiều, họ càng điều khiển hoạt động của chúng thuận lợi. Như một binh sĩ đã được điều trị thành công nói với phóng viên tờ Người New York, “Hầu hết các ý nghĩ ám ảnh đã mất đi. Bạn không bao giờ thực sự tống khứ được PTSD mà phải học cách sống chung với nó. Tôi có những bức ảnh của người trưởng nhóm [đã hy sinh] và tôi đã không dám nhìn vào đó suốt ba năm. Hiện chúng đang được treo trên tường nhà tôi.”

QUá TRìNH LãO HóA

Ngày càng có nhiều nghiên cứu về nhận thức và sự lão hóa, mỗi nghiên cứu mới đều nói lên một điệp khúc như nhau: sử dụng hay đánh mất nó. Cụm từ đơn giản, “dự trữ nhận thức”, nghe thật trừu tượng cho đến khi George Bartzokis quấn khăn ăn quanh một cây bút để giải thích những gì đang thực sự xảy ra. Cây bút là sợi dây thần kinh, và khăn ăn là myelin. Theo giải thích của Bartsokis, sự lão hóa của não bộ xảy ra khi khoảng cách giữa khăn ăn và cây bút bắt đầu xuất hiện.

“Khi đến tuổi già, myelin bắt đầu rời ra,” Bartzokis nói. “Đây là lý do tại sao những người cao tuổi bạn từng gặp đều di chuyển chậm chạp hơn khi họ còn trẻ. Cơ bắp của họ chưa thay đổi, nhưng tốc độ của các xung điện họ có thể gửi đến các cơ đã thay đổi, bởi vì các myelin đã già đi.”

Nhưng tin tốt lành là trong khi quá trình tạo myelin tự nhiên kết thúc vào tuổi 30 thì thể tích myelin tổng cộng của chúng ta lại tăng lên cho đến khoảng 50 tuổi, và chúng ta luôn duy trì được khả năng có thêm myelin thông qua tập luyện sâu. “Bạn phải nhớ myelin là một tế bào sống, luôn được tạo ra rồi lại thoái hóa đi, giống như một cuộc chiến tranh.” Bartzokis nói. “Khi còn trẻ, chúng ta xây dựng nên myelin một cách dễ dàng. Khi chúng ta già đi, cán cân tổng thể nghiêng về quá trình thoái hóa nhưng chúng ta vẫn có thể tiếp tục có thêm myelin. Ngay cả khi myelin bị phá vỡ, chúng ta vẫn có thể xây dựng nó, đến tận cuối đời.”

Đây là lý do tại sao trình độ văn hóa là một trong những nhân tố dự báo đáng tin cậy nhất cho sự khởi phát bệnh Alzheimer, Bartzokis nói. Được giáo dục nhiều hơn sẽ tạo ra mạch thần kinh dày hơn, mạnh mẽ hơn, có thể bù đắp tốt hơn cho giai đoạn đầu của bệnh. Nó cũng giải thích tại sao gần đây chúng ta đã thấy hàng loạt nghiên cứu mới, sách, và các trò chơi video được xây dựng trên nguyên tắc lấy myelin làm trung tâm, rèn luyện con người chống lại sự suy giảm nhận thức. Mô hình myelin cũng nêu bật tầm quan trọng của việc tìm kiếm những thách thức mới. Các thí nghiệm đã chỉ ra rằng, những tình huống con người bị buộc phải thích ứng và làm cho mình hòa hợp với những thách thức mới (ví dụ, mắc lỗi, chú tâm, tập luyện sâu) có xu hướng tăng dự trữ nhận thức. Một nghiên cứu cho thấy người già tham gia hoạt động giải trí nhiều hơn thì giảm được nguy cơ mắc chứng mất trí nhớ 38%. Như một nhà thần kinh học đã chỉ ra, câu thần chú “Sử dụng hay đánh mất nó” cần được làm mới. Chúng ta nên nói là “Sử dụng và nhận được nó nhiều hơn.”

ĐƯA VàO GIA ĐìNH

Giống như rất nhiều bậc cha mẹ khác, vợ tôi – Jen, và tôi đã dành hơi thái quá những năm đầu đời của con cái vào việc luôn để mắt đến những điềm báo trước. Khi bốn đứa con của chúng tôi đã biết bò, biết đi và biết chạy, chúng tôi luôn tự hỏi liệu chúng có còn tài năng tiềm ẩn nào không. Số phận của nó là thành một nhạc sĩ? Hay một vận động viên? Một nhà khoa học? Kiểu tư duy này có khía cạnh tích cực – thật hào hứng khi tin rằng con cái bạn sẽ trở thành những tài năng đặc biệt. Nhưng nó cũng dựa trên một số giả định sai lầm, và chắc chắn sẽ tạo nên những kỳ vọng sai lầm, cùng những điều khác nữa dẫn đến tình trạng phải xoay xở mệt mỏi. Các lớp học nghệ thuật? Sao lại không! Học khúc côn cầu chăng? Lớp học khiêu vũ? Thể dục dụng cụ? Có chứ! Khi là người chăm lo cho một tài năng tiềm ẩn, bạn không có lý do chính đáng nào để bỏ lỡ một cơ hội có thể cho phép tài năng đó được bộc lộ.

Nhưng khi nghĩ về tài năng với tư cách là myelin – khi hình dung ra những sợi dây nhỏ bé và ngọn đèn đêm Giáng sinh, khi tìm thấy một khoảnh khắc đánh lửa vô cùng nhạy cảm, khi điều chỉnh những tín hiệu giảng dạy mà bạn gửi đi – cuộc sống sẽ thay đổi. Giống như hầu hết những thay đổi lớn, điều này thể hiện qua những cách thức rất đơn giản. Giống như khi con trai của chúng tôi, Aidan, có một bài học mới và khó về piano, Jen đã khuyến khích nó thử năm nốt đầu tiên, thử đi thử lại, làm từng bước nhỏ cho đến khi mọi việc bắt đầu trở nên dễ dàng. Hoặc khi các con gái Katie và Lia của chúng tôi trượt tuyết và chúng hào hứng thông báo rằng chúng đã bị ngã nhiều lần, thì có lẽ đó là dấu hiệu chúng đang tiến bộ. (Khái niệm này đặc biệt tốt khi bọn trẻ đang trượt tuyết chứ không phải lúc học lái xe ô tô.) Hoặc có lẽ, đó là khi ba cô gái của chúng tôi, trong một cơn bốc đồng giống như chị em nhà Bronte, bắt đầu viết truyện ngắn và trao đổi thư từ với nhau. Jen đã mua bút chì màu và các cuốn sổ tay để nạp thêm nhiên liệu cho niềm đam mê sáng tác của chúng. Mặc dù vậy, tôi cảm thấy thái độ đối với thất bại của các con đã thay đổi, chúng không còn muốn thoái lui hoặc cảm thấy bất hạnh nữa, mà chúng thấy thất bại giống như một con đường tiến về phía trước.

Mùa hè năm ngoái, Zoe, đứa con gái út, đã sẵn sàng để bắt đầu tập piano. Nó rất thích khua loạn xạ trên bàn phím; các chị gái đã chỉ cho con bé cách chơi một vài bài hát. Sau đó, một buổi chiều Zoe bắt đầu nói về violin – tiếng của cây đàn đó nghe mới hay làm sao, nó rất muốn biết học như thế nào. Khi ý tưởng này nảy sinh, chúng tôi không chắc chắn lắm. (Có phải vì nó đã xem buổi hòa nhạc đồng quê chăng? Hay các bạn của nó đang chơi violin?) Nhưng chúng tôi cũng chọn một cây violin đã qua sử dụng và tìm được một giáo viên giỏi đã được đào tạo theo chương trình của Suzuki. Nói tóm lại, trong những bữa ăn tối của gia đình bây giờ đã có một người nghệ sĩ vĩ cầm biểu diễn rong (và không hề xấu hổ khi yêu cầu tiền thưởng).

Carol Dweck, nhà tâm lý học nghiên cứu về động lực, thích thú phát biểu rằng lời khuyên của các bậc phụ huynh trên toàn thế giới này có thể được chia thành hai quy tắc đơn giản: chú ý đến những gì con mình đang say mê, và khen ngợi chúng vì có những nỗ lực. Tôi rất muốn nói thêm một điều nữa: nói cho chúng biết cơ chế myelin hoạt động như thế nào, như Dweck đã làm trong một nghiên cứu cho thấy sức mạnh của việc truyền bá thông điệp này. Bà bắt đầu bằng cách chia 700 học sinh trung học đạt kết quả thấp thành hai nhóm. Nhóm đầu tiên được tập huấn 8 tuần về kỹ năng học tập; nhóm thứ hai được tập huấn cũng như vậy nhưng có thêm các bài ngoại khóa: một buổi học kéo dài 50 phút, mô tả bộ não phát triển như thế nào khi nó được thử thách. Trong một học kỳ, nhóm thứ hai đã cải thiện đáng kể điểm số và thói quen học tập. Những người tiến hành thí nghiệm đã không nói cho các giáo viên biết chính xác bọn trẻ ở trong nhóm nào, nhưng họ vẫn có thể chỉ ra chính xác điều này. Các giáo viên không tìm hiểu lý do, nhưng họ biết đã có một thay đổi lớn lao.

Tháng sáu vừa qua, tôi đã được yêu cầu huấn luyện một đội bóng chày của thị trấn nhà, những cậu bé từ 11 đến 12 tuổi. Công việc đã không được như mong muốn vì lý do rất rõ ràng. Tại Homer, nơi chúng tôi đang sống, các đội thi đấu toàn sao đã có một truyền thống lâu đời: toàn thất bại. Trong hầu hết các thập kỷ vừa qua, giải đấu đã diễn ra đúng như cuộc thảm sát Boston. Thị trấn nhỏ ven biển của chúng tôi (chắp vá, khẳng khiu, trang bị thiếu thốn) phải thi đấu với các phân đội kị binh được huấn luyện tốt, mặc đồng phục đẹp, đến từ các cộng đồng lớn hơn, ở những vùng xa xôi. Hai năm trước, chúng tôi đã thua trong mọi trận đấu, chỉ trong 10 lượt chạy hoặc hơn một chút xíu.

Chỉ với ba mươi đứa trẻ trong đoàn và ba tuần để tập luyện, hai huấn luyện viên nữa và tôi không có gì để kén chọn hơn nữa. Vì thế, danh sách 12 chàng trai của chúng tôi bao gồm một lượng ít ỏi các cầu thủ nhỏ người nhưng rắn rỏi và rất nhiều sự giúp đỡ hào phóng của các cầu thủ trẻ hơn nhưng mới làm quen với thể thao. Sam, người chơi ở khu vực sân ngoài và chốt thứ nhất, đã phải rất vất vả để chống đỡ với các cuộc tấn công. Ghen, cậu bé thích đội mũ len thay cho đội mũ lưỡi trai của môn bóng chày, không nắm chắc được một số luật chơi, ví dụ như một cầu thủ chạy chốt có được chạy khi bóng vẫn còn đang bay hay không. Một số người khác thì sợ bóng – với lý do chính đáng là Ben đã bị tím bầm mắt và vỡ mũi, một món quà lưu niệm trong một trận đấu đầy khinh suất. Tại buổi tập đầu tiên, khi các cầu thủ khởi động bằng cách chơi đuổi bắt, hai huấn luyện viên khác và tôi đã đưa ra một thách thức: mỗi cặp có thể làm tốt mười lần ném-bắt mà không trượt hay không? Sau 15 phút, chúng tôi quyết định đó là cách tốt nhất để chuyển sang một bài tập khác.

Chỉ có một cách duy nhất để làm. Giống như Mike Feinberg và Dave Levin ở KIPP, tôi đã làm theo phương pháp của Butch Cassidy. Trong ba tuần tiếp theo, tôi ăn cắp ý tưởng của những người và những nơi tôi đã ghé thăm trong vòng một năm qua và cùng với hai huấn luyện viên còn lại áp dụng chúng vào đội bóng chày của mình.

Giống như các giáo viên âm nhạc tại Meadowmount, chúng tôi dạy phát bóng và đánh bóng bằng cách làm các động tác thật chậm, thực hiện mẫu tại điểm phát bóng cho các cầu thủ xem rồi bắt chước cách vung gậy cho đúng, và cứ lặp đi lặp lại như vậy.

Giống như John Wooden hoặc Linda Septien, chúng tôi đã cố gắng dạy chúng với những hướng dẫn nhanh, có thông tin, theo đúng phong cách phản xạ GPS. Trong những năm huấn luyện trước đây của mình, tôi thường coi cả nhóm là một khối thống nhất, dạy một phương pháp cho tất cả mọi người. Giờ đây, tôi cố gắng nhắm đến từng cầu thủ, tìm cách để kết nối và khi chúng đã làm điều gì chính xác thì bảo chúng dừng lại và ghi nhớ cảm giác đó.

Giống như các cầu thủ futsal của Brazil, chúng tôi tìm cách ép sân và tăng tốc độ trận đấu. Chúng tôi tập ném và đánh bóng từ khoảng cách 10 mét thay vì 15 mét, buộc các tay đánh bóng phải phản ứng nhanh hơn.

Giống như Tom Martinez, chúng tôi đã dạy cách chọn vị trí phòng thủ bằng cách bày ra một sân bóng chày thu nhỏ và cô lập các yếu tố tinh thần của trận đấu – ai chịu trách nhiệm chặn bóng đầu tiên, ai ném bóng từ vị trí ngoài sân vào vị trí phát bóng của đội nhà. Tôi chẳng xấu hổ khi chuyển tải chủ nghĩa Martinez đến bọn trẻ. Ném bóng dứt điểm đi. Hãy tự hào về động tác của em. Thật dễ dàng, đúng không?

Đến ngày thi đấu, chúng tôi thuê một chiếc RV và đi về phía bắc tới Kenai, thành phố đăng cai giải đấu kéo dài bốn ngày. Chúng tôi lập một khu trại ở sân bóng và nhanh chóng lắp ráp các vũ khí bí mật của mình: con búp bê gấu Bắc cực may mắn, bữa ăn có món cá hồi trước ngày thi đấu, những cái dây chun bằng cao su và những bím tóc mà các cô con gái của tôi đã cho đội bóng mượn để phân biệt với đội bóng khác, kiểu tóc của đội Bjork. Chúng tôi cảm thấy đã sẵn sàng. Nhưng khi đối thủ đầu tiên, đội Kodiak, chạy khởi động trên sân, đội chúng tôi đột nhiên bối rối và e ngại. Các bậc phụ huynh trên khán đài cũng vậy, một số người đã từng chứng kiến trận đấu với đội Kodiak vào năm ngoái, trận mà chúng tôi đã bị họ giã cho thua đậm với tỉ số 15-1. Đội Kodiak thực hiện một màn khởi động đã được dàn dựng rất tốt. Bọn trẻ nhìn họ im lặng. “Họ hoành tráng quá…á…á…,” Ben nói với cảm giác kính nể.

Như thể chứng minh cho điều đó, cầu thủ khởi xướng của Kodiak mở màn trận đấu bằng cách chuẩn bị một cú chặn bóng thật hoàn hảo, bóng nhẹ nhàng lăn về vạch kẻ
ở chốt ba – một cú đánh chắc thắng. Nhưng cậu ta đã không thành công. Brian, cầu thủ chơi ở chốt ba của chúng tôi, căng thẳng hất bóng lên bằng bàn tay trần và ném mạnh về chốt một, nơi Johan, một cầu thủ đứng chốt, đang chờ để đón bóng, giống những gì chúng tôi đã tập kỹ. Chúng tôi đã làm cho họ không ghi được điểm nào trong ba lượt chơi; rồi chúng tôi ghi điểm trong hai lượt chạy với hai cú đánh bóng rất căng để vượt lên dẫn trước. Kodiak đáp trả với bốn lượt chạy ghi điểm và sau đó chúng tôi đã giành lại vị trí dẫn trước, khi Brian, với sự ngạc nhiên của chính mình cũng như của tất cả chúng tôi, đánh một cú như của Andruw Jones – một cú chạy về chốt nhà rất có giá trị, vượt qua hàng phòng thủ cánh trái. Đó là một trận đấu căng thẳng, hồi hộp, chúng tôi chỉ còn chút xíu nữa là chiến thắng. Tuy nhiên, khi toàn đội đi về khu trại, tất cả đều choáng váng và cảm thấy thật hạnh phúc với những gì mình làm được. Chúng tôi cảm thấy sự hồi hộp kỳ lạ của HSE. Như một vị phụ huynh đã nói, “Nó giống như một phép màu.”

Thật tuyệt vời khi nói rằng chúng tôi đã thắng một cách kỳ diệu trong giải đấu này. Nhưng chúng tôi đã không thắng chung cuộc. Chúng tôi đã chơi tốt, thắng một trận và thua hai trận nghẹt thở, một trận phải thêm lượt đánh luân lưu. Mỗi trận đấu được đánh dấu bằng những thời điểm tỏa sáng: Ghen chạy hết tốc lực trong một cú đánh, Aidan ném một cú ghi điểm kết thúc trận đấu, Ben bắt bóng không hề sợ hãi, và Sam – chiến binh sói xám – đã thực hiện một cú ghi điểm hoàn hảo tại chốt nhà. Và khi trận đấu cuối cùng kết thúc, khu cắm trại được dỡ bỏ nhưng vài thành viên đội bóng của chúng tôi vẫn mặc nguyên đồng phục và ở lại trên sân chơi trò chụp bóng. Có lẽ họ đã chơi suốt đêm đó.

Khi bắt đầu làm dự án này, tôi đã tìm kiếm một bức ảnh của myelin chụp qua kính hiển vi điện tử. Nó không phải là một hình ảnh tuyệt vời đúng theo nghĩa thông thường của từ này, ảnh bị rạn và mờ. Nhưng tôi thích nhìn vào nó, bởi vì có thể thấy từng vỏ bọc riêng lẻ, giống như các lớp trên vòng tăng trưởng của thân cây. Mỗi vỏ bọc của myelin là một dấu vết độc đáo của một sự kiện trong quá khứ. Có lẽ vỏ bọc đó được tạo ra do sự hướng dẫn của huấn luyện viên; có thể do cái nhìn đầy khuyến khích của cha mẹ; có thể nhờ được nghe một bài hát mà người đó yêu thích. Những lớp bọc myelin chứa đựng câu chuyện bí ẩn về một con người, dòng chảy của các tương tác và những ảnh hưởng tạo nên cuộc sống. Những chiếc đèn đêm Giáng sinh, vì một lý do nào đó, đã sáng lên.

Ở nhà, đôi khi tôi thấy mình đang hình dung ra những chuỗi đèn đó, nhấp nháy và lóe láng khi cả gia đình chơi một trò chơi, chìm đắm trong các cuốn sách, hoặc trò chuyện quanh bàn ăn tối. Dường như không thể chắc chắn rằng những con người bé bỏng này sẽ sớm lớn lên, sẽ làm được những điều phức tạp và kỳ diệu không thể tưởng tượng nổi, nhưng không hẳn như vậy. Điều đó sẽ xảy ra. Rốt cục, chúng ta là những sinh vật myelin.

Một ngày khác, con gái của chúng tôi, Zoe, cầm cây violin lên và bị vấp khi chơi bài hát mới nói về ông vua béo phì và bà hoàng hậu có một con chó cưng. Nó thường phải dừng lại. Nó mắc lỗi. Rồi nó làm lại từ đầu. Mặc dù có vẻ hơi ngập ngừng, nhưng điều đó có vẻ thật tuyệt vời. “Con sẽ tập bài này hàng triệu triệu lần”, cô bé nói. “Và con sẽ chơi cực hay.”

NGUỒN TàI LIỆU THAM KHẢO

PHẦN MỞ ĐẦU

Để biết thêm về Clarissa và các bài luyện tập tốc độ cao của cô bé, xin mời xem Gary E. McPherson và James M. Renwick, “Interest and Choice: Student-Selected Repertoire and its Effect on Practising Behavior,” British Journal of Music Education, số 19 (tháng 6 năm 2002), tr.173-188, và “I’ve Got to Do My Scales First!” Proceeding of the Sixth International Conference on Musicerception and Cognition (Keele, Staffordshire, U,K.: Đại học Keele, Khoa Tâm lý học, 2000). CD-ROM.

CHƯƠNG 1: ĐIỂM NHẠY CẢM

Trong khi trực giác của chúng ta nói rằng những người phi thường đã được số phận định sẵn sự vĩ đại, có rất nhiều dữ liệu khoa học cho thấy không phải như vậy. Để có thêm thông tin, hãy xem “The Role of Gifts and Markers in the Development of Talent,” trong cuốn Exceptional Children, số 48 (1982), tr.510-521 của Benjamin Bloom; và “Developing Talent: Time, Task, and Context” của Lauren A. Sosniak trong Handbook of Gifted Education của N. Colangelo và G. Davis (New York: Allyn & Bacon, 2003). Để biết những nghiên cứu trường hợp rất hay về chủ đề này, xem Nghiên cứu dài hạn về những học sinh có chỉ số IQ cao tại một trường học ở New York dành cho học sinh năng khiếu của Rena Suhotnik, Lee Kassan, Ellen Summers, và Alan Wasser:, trong Gienius Revisited: High IQ Children Grown Up (Nor¬wood, N.J.: Ablex, 1993) hoặc nhiều mô tả các nghiên cứu dài hạn với đối tượng là trẻ em có chỉ số IQ cao của nhà tâm lý học thuộc Đại học Standford là Lewis Terman. Để có cái nhìn tổng quan sâu sắc về chủ đề này và nhiều thông tin nữa, xem Outliers: The Story of Success của Malcolm Gladwell (New York: Little, Brown, 2008).

Quan điểm của Robert Bjork về điểm nhạy cảm của việc học tập được khái niệm hóa bởi những tác giả khác, nổi bật nhất là nhà tâm lý học người Nga Lev Vygotsky trong những năm 1920, những người đã đặt cho nó một cái tên không mấy hấp dẫn: khu vực phát triển ở đầu gần. Để biết thêm về công trình của Bjork, xem “Memory and Metamemory Considerations in the Training of Human Beings,” trong Metacognition: Knowing About Knowing (Cambridge, Mass.: MIT Press, 1994), tr.185-205, và “Assessing Our Own Competence: Heuristics và Illusions,” Attention and Performance XVII. Cognitive Regulation of Per¬formance: Interaction of Theory and Application (Cambridge, Mass.: MIT Press, 1999), tr.435-459, và bài báo của ông viết cùng với Nate Cornell, “Learning Concepts and Categories: Is Spacing the Enemy of Induction?” Psychological Science, số 19 (2008), tr.585-591.

Một trong những điều thú vị về tập luyện sâu là nó dường như có thể phân biệt được với rèn luyện nông, thứ được Bjork gọi là “ảo giác của sức mạnh.” Trong một số nghiên cứu thích đáng và thú vị nhất liên quan đến những người đưa thư của ngành bưu chính ở nước Anh, những người đã trải qua các phương pháp đào tạo khác nhau để học về hệ thống bàn phím mới. Phát hiện: Những người đưa thư học ít nhất lại cảm thấy họ đã học được nhiều nhất và ngược lại. Xem A. D. Baddeley và D. J. A. “The Influence of Length and Frequency of Training Session on the Rate of Learning to Type,” Ergonomics, số 21 (1978), tr. 627-635

Để có thêm các ví dụ về tập luyện sâu trong quảng cáo, xem Jaideep Sengupta và Gerald J. Gorn, “Absence Makes the Mind Grow Sharper: Effects of Element Omission on Subsequent, Recall Journal of Marketing Research, số 39 (tháng 5 năm 2002), tr. 186-201.

Để có cái nhìn sâu sắc về sự cải thiện thành tích ném xa tự do của Shaquille O’Neal, xem R. Kerr và B. Booth, “Specific and Varied Practice of Motor Skill,” Perceptual and Motor Skills, số 46 (1978), tr.395-401.

Về Edwin Link và việc huấn luyện bay của ông, xem Lloyd L. Kelly, cũng như Robert B. Parke, The Pilot Maker (New York; Grosset & Dunlap, 1970); Norman E. Borden, Jr., Air Mail Emergency 1934 (Freeport, Me.: Bond Wheelwright, 1968); và D. J. Allerton, “Flight Simulation: Past, Present, and Future,” Aeronautical Journal 104 (2000), tr.651- 663. Những bài mô tả hay cũng có thể tìm thấy tại địa chỉ http://www.link.com/history.htm và Virginia Van der Veer, “Barnstorming the US. Mail,” American Heritage, tháng 5, 1974.

Để có thêm thông tin về những tác dụng của việc xây dựng kỹ năng trong môn futsal, xem J. D. Allen, R. Butterly, M. A. Welsch, và R. Wood, “The Physical and Physiological Value of 5-a-side Soccer Training to 11-a-Side Match Play,” Journal of Human Movement Studies, số 31 (1998), tr.1-11, cũng như Play the Brazilian Way của Simon Clifford (London: MacMillan, 1999).

CHƯƠNG 2: TẾ BàO TẬP LUYỆN SâU

Để có cái nhìn tổng quan về những gì có thể được gọi là cuộc cách mạng myelin trong thời gian sắp tới, xem R. Douglas Fields “White Matter Matters,” Scientific American (March 2008), tr.54—61 cũng như “Myelination: An Overlooked Mechanism of Synaptic Plasticity?” Neuroscientist 11, số 6 (2005), tr.528-31. Để có một cái nhìn tổng quát về quan hệ của myelin với các bệnh và các rối loạn như tâm thần phân liệt, rối loạn xung lực ám ảnh, trầm cảm mãn tính, rối loạn lưỡng cực, tự kỷ, khó đọc và viết, hiếu động thái quá do thiếu sự quan tâm, mời xem “White Matter in Learning, Cognition, and Psychiatric Disorders,” Trends in Neurosciences 31, số 7 (July 2008), tr. 361-370. Để có tài liệu giáo dục đầy đủ hơn, hãy xem cuốn sách sắp xuất bản của Field với tựa đề dự kiến là The Other Brain, do Simon & Schuster xuất bản.

Đối với các nghiên cứu cụ thể liên kết myelin với những kỹ năng và tài năng đang nổi lên, xem “Myelination of Language-Related Areas in the Developing Brain,” Neurology 66 (2006), tr.339-43 của J. Pujol; F. Ullen và các tác giả khác, “Extensive Piano Practicing Has Regionally Specific Effects on White Matter Development,” Nature Neuroscience 8 (2005), tr.1148-1150; T. Klingberg và những tác giả khác, “Microstructure of Temporo-Parietal White Matter as a Basis for Reading Ability,” Neuron 25 (2000), tr.493-500; B. J. Casey và các tác giả khác, “Structural and Functional Brain Development and lis Relation to Cognitive Development,” Biological Psychology 54 (2000), tr.241-257; K. B. Walhovd và A. M-Fjell, “White Mailer Volume Predicts Reaction Time Instability,” Neuro-psychologia 45 (2007), tr.2277-2284; V. J. Schmithorst và các tác giả khác, “Cognitive Functions Correlate with White Matter Architecture in Normal Pediatric Population,” Human Brain Mapping 26 (2005), tr.139-147; E. M. Miller, “Intelligence and Brain Myelination: A Hypothesis,” Personality and Individual Differences 17 (1994), tr.803-32; và B. T. Gold và cộng sự, “Speed of Lexical Decision Correlates with Diffusion Anisotropy in Left Parietal and Frontal White Matter,” Neuropsychologia 45 (2007), tr.2439-46.

Một bài mẫu của công trình nghiên cứu của Anders Ericsson về rèn luyện có tính toán có thể tìm thấy trong Cambridge Handbook of Expertise and Expert Performance (New York: Cambridge University Press, 2006), đồng biên soạn với Neil Charness, Paul Feltovich và Robert Hoffman; Expert Performance in Sports (Champaign, Ill.: Human Kinetics, 2003), cùng biên soạn với Janet L. Starkes; và cuốn The Road to Excellence (Mahwah, N.J.; Lawrence Erlbaum Associates, 1996). Một quan điểm tổng thể cũng có thể tìm thấy trong bài báo của ông, viết cùng với Neil Charness, “Expert Performance: Its Structure and Acquisition,” American Psychologist 49, số 8 (1994), tr.725-47; và trong Michael J. A. Howe, Jane W. Davidson, and John A. Sloboda, “Innate Talents: Reality or Myth,” Behavioral and Brain Sciences 21 (1998), tr.399-407.

Không phải là thiết yếu, nhưng có thể để giải trí, là thực tế rằng tập luyện sâu cũng có tác dụng đối với các loài vật khác (rốt cục, myelin dù sao cũng vẫn là myelin). Xem W. S. Helton, “Deliberate Practice in Dogs: A Canine Model of Expertise,” Journal of Gieneral Psychology 134, số 2 (2007), tr.247-257.

CHƯƠNG 3: CHỊ EM NHà BRONTËS, NHóM Z-BOYS, Và THỜI KỲ PHỤC HƯNG

Chị em nhà Brontes (New York: St. Martin’s Griffin, 1994) của Juliet Barker là một công trình rất xuất sắc trong lĩnh vực tiểu sử. Cũng xem Ann Loftus McGreevy, “The Parsonage Children: An Analysis of the Creative Early Years of the Brontes at Haworth,” Gifted Child Quarterly 39, số 3 (1995), tr.146-53, cũng như các phân tích rất rõ ràng về Bronte, George Eliot, và Charles Dickens trong Gienius Explained của Michael J. A. Howe (Cambridge, U.K.: Cambridge University Press, 1999).

Một câu chuyện đầy màu sắc về những ngày đầu thành lập của nhóm Z-Boys có thể tìm thấy trong “Lords of Dogtown” của Greg Beato, Spin, March 1999.

Để có thêm thông tin về hệ thống phường hội thời Phục Hưng, mời xem thêm cuốn “Craft Guilds, Apprenticeship, and Technological Change in Preindustrial Europe,” Journal of Economic History 58, số 3 (1998), tr.684-713 và Wage Labor and Guilds in Medieval Europe (Chapel Hill: University of North Carolina Press, 1991) của S.R.Epstein.

Để có thêm thông tin về việc học nghề thời Phục Hưng, xem cuốn The Craft of Art: Originality and Industry in the Italian Renaissance and Baroque Workshop (Athens: University of Georgia Press, 1995) của Andrew Ladis và Carolyn H. Wood; cuốn Key Monuments of the Italian Renaissance (Boulder, Colo.: Westview Press, 2000) của Laurie Schneider Adams; The World of Michelangelo (New York: Time-Life Books, 1966) của Robert Coughlan; và cuốn Leonardo da Vinci: Flights of the Mind (New York: Viking Penguin, 2004) của Charles Nicholl.

Nghiên cứu về “Ngài Myelin” chỉ ra tại sao Michael Jordan (và những vận động viên điền kinh khác, những người phụ thuộc vào tốc độ) đã nghỉ hưu vào độ tuổi bốn mươi, xem cuốn “Lifespan Trajectory of Myelin Integrity and Maximum Motor Speed,” Neurobiology of Aging (2008) của George Bartzokis, cũng có ở trên mạng Internet qua PubMed.

Về vai trò của gien di truyền với kỹ năng, xem cuốn The Selfish Gene (Oxford, U.K.: Oxford University Press, 1976) của Richard Dawkin.

Có một câu chuyện thú vị liên quan đến việc dư thừa myelin của Einstein. Một nhà nghiên cứu bệnh học, Thomas Harvey, gần như đã đánh cắp não của Einstein, rồi dành cả đời để bảo quản nó và sau đó gửi cho một số nhà nghiên cứu may mắn khác. Toàn bộ câu chuyện được kể trong cuốn Driving Mr. Albert của Michael Paterniti (New York: Dial Press, 2000). Marian Diamond là một trong những nhà nghiên cứu đó, và năm 1985, bà đã công bố phân tích toàn diện về một số vùng chủ yếu, cả bên phải và bên trái của bộ não này. Bà đã so sánh não của Einstein với một số vùng tương tự của 11 bộ não siêu việt khác của những người có cùng độ tuổi và phát hiện ra rằng, khi xem xét các neuron thần kinh thì chúng như nhau. Tuy nhiên, khi xem xét các tế bào hỗ trợ myelin thì não của Einstein có nhiều gấp đôi. Xem cuốn “On the Brain of a Scientist: Albert Einstein,” Experimental Neurology 88, số 1 (1985), tr.198-204 của Diamond.

CHƯƠNG 4: BA QUY LUẬT CỦA TẬP LUYỆN SâU

Công trình của Adriaan de Groot có thể tìm thấy trong bản dịch Thought and Choice in Chess (The Hague, Netherlands: Mouton, 1965), cũng như trong cuốn “In Memoriam: Adriaan Dingeman de Groot,” Association for Psychological Science Observer 19, số 11 (November 2006) Vittorio Busato.

Các công trình khác về chuyển động gồm có: “Perception in Chess,” Cognitive Psychology 4 (1973), tr.55-81 của W. G. Chase và H. A. Simon; “Hierarchical Control of Rapid Movement Sequences,” Journal of Experimental Psychology. Human Perception and Performance 9 (1983), tr.86-102, của D. A. Rosenbaum, S. B. Kenny, và M. A. Derr.

Một nguồn thông tin thú vị và hữu ích về Câu lạc bộ quần vợt Spartak của Moscow trong bộ phim tài liệu của Peter Geisler và Philip Johnston với nhan đề Anna’s Army: Behind the Rise of Russian Women’s Tennis (Byzantium Productions, 2005). Để biết thêm về lịch sử của Trường âm nhạc Meadowmount, xem cuốn Miraculous Teacher: Ivan Galamian and the Meadowmount Experience (self-published, 1993) của Elizabeth A. H. Green.

Về việc học tự điều chỉnh, xem cuốn Self-Regulated Learning: From Teaching to Self- Reflective Practice (New York: Guilford Press, 1998) của Barry Zimmerman và Dale H. Schunk; và cuốn Developing Self-Regulated Learners: Beyond Achievement to Self-Efficacy (Washington, DC: American Psychological Association, 1996) của Harry Zimmerman, Sebastian Bonner và Robert Kovach. Về cú giao bóng trong môn bóng chuyền, xem cuốn “Comparing Self-Regulatory Processes Among Novice, Non-Expert, and Expert Volleyball Players: A Microanalytic Study,” Journal of Applied Sport Psychology 14 (2002), tr.91-105 của Barry Zimmerman và Anastasia Kitsantas.

Với những gì chúng ta đã biết về các mạch thần kinh và kỹ năng, có vẻ là hợp lý khi khuyên những chuyên gia đầy tham vọng cần chuyên môn hóa lĩnh vực của mình ngay từ sớm. Tuy nhiên, trên thực tế, một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc chuyên môn hóa sớm không hiệu quả bằng một phương pháp tiếp cận rộng hơn, đặc biệt trong lĩnh vực thể thao. Ban đầu, điều này có vẻ như mâu thuẫn, nhưng nó sẽ có ý nghĩa nhiều hơn nếu xem xét kỹ năng thể thao theo nghĩa rộng nhất: các mạch giữ thăng bằng, sự phối hợp và kiểm soát cơ thể. Hãy xem xét một số vận động viên đẳng cấp thế giới xác định hướng chuyên môn của mình tương đối muộn, trong đó có cầu thủ quần vợt Roger Federer và ngôi sao NBA là Steve Nash, Kobe Bryant (tất cả đều chơi bóng đá) và LeBron James (môn bóng bầu dục). Để có thêm thông tin, hãy xem công trình của Joseph Baker: “Early Specialization in Youth Sport: A Requirement for Adult Expertise?” High Ability Studies 14 (2003). tr.85-94.

Để có một cái nhìn rõ ràng về sự tương phản giữa các trường học của Mỹ, Nhật Bản và Đức, xem cuốn The Teaching Gap: Best Ideas from the World’s Teachers for Improving Education in the Classroom (New York: Free Press, 1999) của James W. Stigler và Hiebert James; đồng thời xem cuốn “Cultural Support for Schooling: Contrasts fietween Japan and the United States,” Educational Researcher 20, no. 9 (1991), tr.2-8, và Robert Hess và Hiroshi Azuma.

Để biết thêm về những trẻ em tham gia tập luyện sâu, xem K. E. Adolph, PE. Shrout, và B. Veretjken, “What Changes in Infant Walking and Why,” Child Development 74, no. 2 (2003), tr.475-97. Một bản tóm tắt hữu ích về nghiên cứu này có thể tìm thấy trên blog Greta and Dave Hunger’s Cognitive Daily: http://science blogs.com/cognitivedaily.

CHƯƠNG 5: NHỮNG TíN HIỆU ĐIỀU KHIỂN CĂN BẢN

Để biết thêm về nghiên cứu của Gary McPherson về các nhạc sĩ đã được kích thích phát triển tài năng, xem “Commitment and Practice: Key Ingredients for Achievement During the Early Stages of Learning a Musical Instrument,” Council for Research in Music Education 147 (2001), tr.122-127. Cũng xem “From Child to Musician: Skill Development During the Beginning Stages of Learning an Instrument,” Psychology of Music 33, no. 1 (2003), tr.5-35, cũng như bài viết của ông cùng với Barry Zimmerman, “Self-Regulation of Musical Learning,” trong The New Handbook on Research on Music Teaching and Learning (Oxford, UK.: Oxford University Press, 2002), tr.327- 47. Nghiên cứu của McPherson vẫn chưa kết thúc – những trẻ em ông bắt đầu nghiên cứu từ khi chúng mới bảy tuổi và bây giờ bắt đầu vào đại học; một số người đến nay đã tạo được khá nhiều myelin.

Để rõ hơn về tính tự động, xem cuốn The New Unconscious (New York: Oxford University Press, 2005) của John Bargh, Ran Hassin, và James Uleman; và cuốn Making Up the Mind: How the Brain Creates Our Mental World (New Jersey: Wilcy-Blackwell, 2007) của Chris Frith. Ngoài ra, hãy xem Situationist (http://thesituationist.wordpress.com), một bản trích yếu các nghiên cứu và thảo luận về một loạt các môn học liên quan đến tính tự động và hậu quả xã hội của nó.

Gregory Walton và thí nghiệm của Geoffrey Cohen về tác động của việc sinh cùng ngày được trình bày trong cuốn “Mere Belonging”, chưa được xuất bản. Để biết thêm về công trình của họ, xem “Sharing Motivation” trong cuốn The Handbook of Social Motivation (sắp xuất bản) của D. Dunning. Với một nghiên cứu minh họa những hiệu ứng tương tự, trong đó các đối tượng được ngầm chỉ dẫn để gia tăng nỗ lực, thay đổi mục tiêu và cải thiện hiệu quả, xem cuốn “Thinking of You: Nonconscious Pursuit of Interpersonal Goals Associated with Relationship Partners,” Journal of Personality and Social Psychology84, số 1 (2003), tr.148-64 của G. M. Fitzsimons và J. A. Bargh.

Những nghiên cứu khác bàn về công tắc đánh lửa theo một hướng khác – chúng châm mồi cho các đối tượng và làm giảm bớt nỗ lực, trí thông minh và thành tích của họ. Ví dụ, xem cuốn “Effects of Social Exclusion on Cognitive Processes: Anticipated Aloneness Reduces Intelligient Thought,” Journal of Personality imd Social Psychology 83, số 4 (2002), tr.817-27 của R. Baumeister, C. Nuss, và J. Twenge.

Nghiên cứu về những đứa trẻ mồ côi trở nên xuất chúng của Marvin Eisenstadt có thể tìm thấy trong cuốn Parental Loss and Achievement (Madison, Conn.: International Universities Press, 1989). Một cuộc thảo luận khác về hiện tượng này xuất hiện trong cuốn Origins of Gienius: A Darwinian Perspective on Creativity (New York: Oxford University Press, 1999) của Dean Keith Simonton. Nghiên cứu tổng quát có thể tìm thấy trong cuốn Cradles of Eminence: The Childhoods of More than 700 Famous Men and Women, (Scottsdale, Ariz.: Great Potential Press, 2004) của Victor Goertzel và các cộng sự.

CHƯƠNG 6: THỬ NGHIỆM CURAÇAO

Cuốn The Hope, The Hype and the Glory of the Greatest World Series Ever Played (Naperville, 111.: Source¬books, 2006) của Charles Euchner, Little League, Big Dreams sẽ cung cấp một cái nhìn sinh động về chương trình bóng chày của Curaçao.

Để có một cái nhìn toàn diện và mang tính học thuật về động lực, xem cuốn The Handbook of Competence and Motivation (New York: Guilford Press, 2005) của Carol Dweck và Andrew Eliot. Với nghiên cứu của Dweck về đo lường sức mạnh của một lời khen ngợi, xem cuốn “Subtle Linguistic Clues Affect Children’s Motivation,” Psychological Science 18 (2007), tr.314-16 của A. Cimpian và các cộng sự. Dweck cũng là tác giả của cuốn Mindset: The New Psychology of Success (New York: Random House, 2006).

Để có thể nghiên cứu sâu về sức mạnh của ngôn ngữ, xem cuốn “How Not to Talk to Your Kids: The Inverse Power of Praise,” New York, February 12, 2007 của Po Bronson.

CHƯƠNG 7: ĐáNH LỬA CHO VƯỜN ƯƠM TàI NĂNG

Câu chuyện về KIPP thu hút rất nhiều nhà báo, đặc biệt nhất là Jay Mathews của tờ Bưu điện Washington và Paul Tough của Tạp chí Thời báo New York. Để biết thêm, xem cuốn Work Hard, Be Nice: How Two Inspired Teachers Created America‘s Best Schools (Chapel Hill, N.C.; Algonquin Books, 2009) của Jay Mathews.

CHƯƠNG 8: NHỮNG NGƯỜI NóI THẦMTRUYỀN ĐẠT MỤC TIêU

ĐẦY TàI NĂNG

Câu chuyện về “Nam tước” Herman Lamm xuất phát từ The Days Dillinger của John Toland (New York: Da Capo Press, 1995), và cuốn This Here’s a Stick-Up (Indianapolis, Ind.: Alpha Books, 2002) của Swierczynski Duane. (Hơi tiếc là không có bằng chứng ngôn ngữ nào liên kết tên tuổi của Lamm với nguồn gốc của cụm từ mà giới găng-xtơ hay dùng “on the lam” – đào tẩu)

Đối với câu chuyện dài hơn về trường học thử nghiệm của Ron Gallimore và Roland Tharp, hãy tìm đọc cuốn Rousing Minds to Life: Teaching, Learning, and Schooling in a Social Context (New York: Cambridge University Press, 1988). Chúng ta không thiếu những cuốn sách rất hay về John Wooden; tuy nhiên từ góc độ sư phạm, thật khó có thể có cuốn sách nào sánh được với You Haven’t Taught Until They Have Learned (Morgantown, W.V.: Fitness Information Technology, 2006) của Swen Nater và Ron Gallimore; Nater là một cựu cầu thủ bóng rổ của UCLA. Ngoài ra, Gallimore và Tharp đã cập nhật nghiên cứu ban đầu của họ trong “What a Coach Can Teach a Teacher. 1975-2004: Reflections and Reanalysis of John Wooden’s Teaching Practices,” Sport Psychologist 18, số 2 (2004), tr.119- 137.

Để biết thêm về nghiên cứu của Benjamin Bloom về 120 tài năng hàng đầu, xem Developing Talent in Young People (New York: Ballantine, 1985).

PHẦN KẾT: THẾ GIỚI MYELIN

Trong số rất nhiều lời giải thích về cuộc tranh luận giữa Ngữ âm học và Ngôn ngữ tổng thể, hai cuốn sách nổi bật là “The Reading Wars” của Nicholas Lemann, Atlantic Monthly, February 1997 và “Read It and Weep,” Weekly Standard, July 16,2007 của Charlotte Allen.

Để biết thêm tại sao bộ đĩa DVD rèn luyện trí não cho trẻ làm chậm quá trình phát triển từ vựng, xem cuốn “Associations Between Media Viewing and Language Development in Children Under Age 2 Years,” Journal of Pediatrics 151, số 4 (2007), tr.364-68 của F. J. Zimmerman, D. A. Christakis và A. N. Meltzoff,. Để biết thêm về chủ đề này, xem cuốn The Scientist in Crib: What Early Learning Tells Us Abot the Mind (New York: Harper, 2000) của A. N. Meltzoff, Alison Gopnik, và Patricia Kuhl.

Nghiên cứu về nhận thức dự trữ và lão hóa đến từ cuốn “Influence of Leisure Activity on the Incidence of Alzheimer’s Disease,” Neurology 57 (2001), tr.2236-2242 của N. Scarmeas và cộng sự.

Để biết thêm về nghiên cứu tiến hành trên các học sinh trung học của Carol Dweck, tìm đọc cuốn “Implicit Theories of Intelligence Predict Achievement Across an Adolescent Transition: A Longitudinal Study and an Intervention,” Child Development 78 (2007), tr.246-263 của L. S. Blackwell, K. H. Tvzceniewski, và C. S. Dweck.

Tôi đã dựa vào rất nhiều cuốn sách nói về kỹ năng và tài năng. Sayu đây, tôi xin được liệt kê một số cuốn hay nhất. Một số cuốn là hồi ký và tiểu sử, chúng nằm trong danh sách này bởi đã đưa ra những mô tả sinh động về quá trình xây dựng kỹ năng. Có thể chúng không bao giờ sử dụng từ myelin, nhưng các bạn có thể cảm thấy sự hiện diện của nó trên từng trang sách.

Cuốn The Sweet Spot in Time: The Search for Athletic Perfection (New York: Breakaway Books, 1980) của John Jerome; Practicing: A Musician’s Return to Music (New York: Alfred A. Knopf, 2007) của Glenn Kurtz; cuốn The Creative Habit (New York: Simon & Schuster, 2003) của Twyla Tharp; cuốn A Sense of Where You Are:

Bill Bradley at Princeton (New York: Farrar, Straus & Giroux, 1965) của John McPhee; và cuốn Born Standing Up (New York: Simon & Schuster, 2007) của Steve Martin.

CHỈ MỤC

Albert Ellis, 285

Anders Ericsson, 106, 110, 112, 302

Andruw Jones, 169, 172, 179, 181, 195, 206, 296

Anna Kournikova, 115, 136, 171

bệnh Alzheimer, 95, 290

Benjamin Bloom, 231, 298, 311

Bill Greenough, 57

bóng đá futsal, 40

cái nôi tài năng, 21, 22, 24, 67, 137, 138, 140

Carol Dweck, 185, 292, 310, 312

chất trắng, 46, 56, 58, 59

Chị em nhà Brontë, 303 chỉ số IQ, 95, 142, 204, 299

Chia mảng, 109

Cuộc chiến tranh tập đọc, 277, 279

Curaçao, 124, 167, 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175, 177, 180, 181, 188, 190, 203, 309, 310 đánh lửa, 134, 140, 141, 145, 146, 148, 150, 153, 156, 157, 158, 164, 165, 168, 172, 173, 174, 181, 188, 189, 190, 196, 217, 236, 240, 279, 282, 291, 309

Dave Levin, 190, 294

điểm nhạy cảm, 31

Douglas Fields, 46, 47, 61, 301

DTI, 58, 73

DVD Em bé Einstein, 281

Edwin Link, 38, 300

ESP, 214, 221

Florence, 11, 88, 89, 90, 92, 174

Frank Curiel, 170, 175, 176, 179, 181, 203

Gary McPherson, 11, 141, 164, 307

George Bartzokis, 17, 47, 93, 158, 289, 304

Hans Jensen, 214, 218, 223, 264

Herman Lamm, 215, 311

Hiệu ứng quái dị, 104

HSE, 104, 105, 106, 108, 110, 296

James Renwich, 11

John Wooden, 225, 226, 230, 231, 236, 248, 262, 264, 294, 311 kaizen, 283

KEEP, 224, 230 kích hoạt mạch điện, 16, 59, 63, 110, 119, 123, 262

Larisa Preobrazhenskaya, 116, 140, 254, 264 liệu pháp phơi nhiễm kéo dài, 288

Linda Septien, 241, 250, 294

Lolita Jackson, 199, 207, 255

LPGA, 11, 135, 136

Ma trận kiến thức, 240 mạch điện thần kinh, 18, 49, 64, 130, 132, 161, 282, 288 mạch kỹ năng, 55, 60, 63, 65, 66, 100, 189, 223, 239, 252, 258, 259, 260, 261, 271, 279, 282

Martin Eisenstadt, 154

Meadowmount, 117, 118, 119, 121, 124, 126, 129, 130, 146, 208, 218, 219, 282, 286, 294, 306

Mike Feinberg, 190, 294 myelin, 16, 18, 46, 48, 49, 50, 51, 53, 55, 56, 57, 58, 59, 60, 61, 62, 63, 64, 65, 66, 67, 68, 73, 74, 76, 78, 81, 84, 87, 93, 94, 95, 96, 101, 102, 109, 119, 123, 125, 128, 130, 132, 134, 140, 141, 157, 158, 160, 161, 171, 189, 211, 223, 229, 236, 237, 238, 239, 240, 253, 257, 258, 262, 276, 279, 281, 282, 283, 287, 288, 289, 290, 291, 292, 297, 301, 303, 304, 308, 312

myelin hóa, 48, 49

Ngài Myelin, 93, 96, 103, 110, 304

Ngôn ngữ tổng thể, 277, 278, 279, 311

Ngữ âm học, 277, 278, 279, 311 oligo, 62, 65

Phòng chẩn trị tính nhút nhát, 284, 286, 288

PTSD, 287, 288

Quy luật 10 năm, 74 rìa tới hạn của khả năng, 29, 38, 66, 124, 129, 239

Robert Bjork, 29, 129, 299

Robert Lansdorp, 125, 250, 254

Roland Tharp, 223, 311

São Paolo, 20, 23, 39, 42, 175, 203

Se Ri Pak, 135, 211

Simon Clifford, 39, 43, 301 sinh vật myelin, 96, 101, 297 Skip Engblom, 85, 182 tác nhân kích thích, 98, 99, 288 tạo myelin, 285, 289 tập luyện sâu, 26, 27, 28, 31, 32, 38, 43, 49, 50, 62, 63, 64, 66, 67, 74, 75, 81, 83, 86, 87, 90, 93, 102, 110, 111, 112, 119, 121, 124, 125, 130, 131, 132, 134, 137, 140, 145, 153, 157, 160, 161, 172, 189, 205, 208, 211, 212, 217, 229, 230, 236, 238, 240, 260, 262, 279, 280, 281, 282, 283, 285, 288, 289, 290, 299, 300, 303, 307

Thời kỳ Phục hưng, 87, 88, 89, 91, 92 tín hiệu điều khiển căn bản, 149, 151, 153, 154, 157, 160, 161, 164, 172, 174, 175, 181, 182, 203 tính tự động, 55, 150, 308

Tom Martinez, 119, 249, 265, 266, 295 trung tâm đào tạo tài năng, 124, 128, 134, 173, 208 vườn ươm tài năng, 17, 50, 105, 111, 130, 140, 150, 174, 239, 253, 286, 288

Albert Ellis, 323

Anders Ericsson, 123, 127, 129, 343

Andruw Jones, 191, 195, 203, 205, 222, 233, 335

Anna Kournikova, 132, 156, 194 bệnh Alzheimer, 110, 328

Benjamin Bloom, 262, 339, 353

Bill Greenough, 68 bóng đá futsal, 47 cái nôi tài năng, 27, 29, 80, 157, 158, 160

Carol Dweck, 210, 331, 351, 354 chất trắng, 55, 67, 69, 70 chỉ số IQ, 110, 162, 232, 339

Chia mảng, 126

Cuộc chiến tranh tập đọc, 314, 317

Curaçao, 142, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196, 198, 201, 204, 205, 213, 216, 231, 351 đánh lửa, 154, 160, 161, 166, 167, 170, 171, 175, 178, 179, 180, 186, 188, 191, 195, 196, 197, 205, 206, 213, 214, 216, 222, 247, 267, 273, 316, 320, 330, 350

Dave Levin, 217, 333

điểm nhạy cảm, 37, 45, 142, 147, 148, 159, 271, 339

Douglas Fields, 56, 57, 73, 341

DTI, 69, 87

DVD Em bé Einstein, 318

Edwin Link, 44, 341

ESP, 243, 251

Florence, 15, 102, 103, 104, 105, 107, 197

Frank Curiel, 193, 198, 199, 202, 205, 231

Gary McPherson, 15, 161, 186, 349

George Bartzokis, 21, 57, 108, 180, 327, 345

Hans Jensen, 243, 248, 253, 299

Herman Lamm, 245, 352

Hiệu ứng quái dị, 120

HSE, 120, 121, 122, 124, 127, 336

James Renwich, 15

John Wooden, 255, 256, 261, 262, 267, 281, 296, 299, 333, 353

kaizen, 321

KEEP, 254, 261

kích hoạt mạch điện, 20, 71, 76, 126, 137, 141, 297

Larisa Preobrazhenskaya, 133, 160, 288, 299

liệu pháp phơi nhiễm kéo dài, 326

Linda Septien, 273, 284, 334

Lolita Jackson, 225, 235, 289

LPGA, 14, 156, 157

Ma trận kiến thức, 272 mạch điện thần kinh, 22, 60, 77, 148, 150, 183, 320, 327 mạch kỹ năng, 65, 72, 76, 77, 79, 116, 214, 253, 271, 285, 293, 294, 295, 307, 316, 320

Martin Eisenstadt, 176

Meadowmount, 134, 135, 136, 139, 142, 144, 146, 148, 167, 236, 248, 249, 320, 325, 333, 347

Mike Feinberg, 217, 333

myelin, 8, 9, 10, 19, 20, 22, 55, 56, 58, 59, 60, 61, 64, 66, 67, 68, 69, 70, 71, 73, 74, 75, 76, 77, 78, 80, 81, 87, 88, 90, 92, 95, 99, 101, 108, 109, 110, 111, 112, 117, 118, 126, 137, 141, 143, 146, 148, 150, 155, 160, 161, 180, 181, 182, 183, 194, 214, 239, 253, 259, 268, 270, 271, 272, 286, 291, 293, 297, 313, 317, 318, 319, 320, 321, 323, 326, 327, 328, 329, 330, 331, 336, 337, 341, 342, 344, 345, 349, 355 myelin hóa, 58, 59

Ngài Myelin, 109, 112, 119, 127, 345

Ngôn ngữ tổng thể, 314, 315, 316, 353

Ngữ âm học, 314, 315, 316, 353 oligo, 74, 78

Phòng chẩn trị tính nhút nhát, 322, 324, 326

PTSD, 326, 327

Quy luật 10 năm, 88 rìa tới hạn của khả năng, 35, 45, 79, 142, 147, 271

Robert Bjork, 35, 147, 339

Robert Lansdorp, 143, 283, 287

Roland Tharp, 253, 353

São Paolo, 26, 28, 46, 49, 50, 198, 230, 294, 295

Se Ri Pak, 156, 239

Simon Clifford, 45, 50, 341 sinh vật myelin, 112, 117, 337

Skip Engblom, 99, 206 tác nhân kích thích, 114, 115, 327 tạo myelin, 323, 328 tập luyện sâu, 5, 9, 10, 32, 34, 37, 38, 44, 45, 50, 60, 61, 74, 75, 77, 79, 80, 88, 89, 96, 97, 100, 101, 105, 108, 118, 127, 128, 129, 136, 139, 141, 142, 143, 148, 150, 154, 157, 160, 166, 175, 179, 182, 183, 195, 214, 232, 236, 239, 247, 259, 260, 267, 270, 273, 295, 297, 316, 317, 318, 319, 320, 321, 322, 323, 327, 328, 329, 340, 344, 348

Thời kỳ Phục hưng, 102, 103, 104, 106, 107, 108 tín hiệu điều khiển căn bản, 5, 9, 170, 173, 174, 176, 178, 179, 182, 183, 186, 187, 195, 197, 199, 205, 206, 230 tính tự động, 66, 171, 172, 349 Tom Martinez, 6, 137, 282, 300, 301, 302, 334 trung tâm đào tạo tài năng, 142, 146, 155, 196, 236 vườn ươm tài năng, 5, 21, 60, 121, 128, 148, 160, 172, 197, 272, 286, 325, 326


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.