Mật Mã Tây Tạng

CHƯƠNG 30: TẠM THOÁT NGUY CƠ



Hết vòng này đến vòng khác, Lữ Cánh Nam dìu pháp sư Á La đi theo người trẻ tuổi, không biết đi đã đi qua bao nhiêu vòng trong những bức vách quây thành hình tròn này. Các bậc thang không ngừng xuất hiện trước mặt họ, lên rồi xuống, xuống xong lại lên, có lúc lỗi ra lại lơ lửng tít trên cao. Bờ vai, thắt lưng, cánh tay, đầu gối các pho tượng cao lớn đó đều có khả năng trở thành thông đạo nối liền hai vòng tròn. Nếu không có người trẻ tuổi dẫn đường, hai người họ thực tình cũng không biết phải làm sao mới đi qua được mê cung quanh co vòng vèo này nữa.
Mỗi lần qua một vòng, người trẻ tuổi lại dừng chân nghĩ ngợi giây lát. Pháp sư Á La càng lúc càng chắc chắn, kẻ này chưa từng đến đây, nhưng tại sao y lại nắm được bí mật cảu nơi này, nhớ được mọi thông đạo ở đây?
Không biết bao lâu sau, người trẻ tuổi đã tìm được hơn nửa số lính đánh thuê, nối đuôi nhau thành một hàng dài. Trông đám người lố nhố, Lữ Cánh Nam lại trông thấy Mẫn Mẫn, từ khi thân phận bi vạch trần, cô luôn lặng lẽ đi phía sau đội ngũ. Lữ Cánh Nam nghĩ rằng Mẫn Mẫn sẽ một mình bỏ đi, không ngờ cô vẫn lẽo đẽo bám theo nhóm người này như thế. Bọn lính đánh thuê đã có tên không nhịn nổi, bước tới trêu đùa cợt nhả, nhưng Mẫn Mẫn chẳng khóc cũng chẳng cười, tựa như một cái xác biết đi vậy. Khi mới xác nhận thân phận của Mẫn Mẫn, Lữ Cánh Nam chỉ hận không thể ăn tươi nuốt sống Mẫn Mẫn ngay tại chỗ, nhưng nhìn bộ dạng sống mà như chết ấy, cô lại thấy hơi mềm lòng. “Nên để cho Cường Ba quyết định, cô ấy tuy đáng giận thật, nhưng cũng không thể để mặc cho bọn lính đánh thuê này làm nhục cô ấy được.” Nghĩ vậy, Lữ Cánh Nam liền đi về phía sau đội ngũ, tới bên cạnh Mẫn Mẫn, không nói một lời, đột nhiên giơ tay chỉ thẳng vào mấy tên vừa giở trò hạ lưu với Mẫn Mẫn, ánh mắt dữ dội, trong vẻ điềm tĩnh lại toát lên sự uy nghiêm khôn tả.
Mấy tên lính đánh thuê ấy ngượng ngập lùi lại, bọn chúng hiểu rất rõ, người phụ nữ này cực kỳ lợi hại, một khi người trẻ tuổi kia và Khafu không đứng ra, bọn chúng cũng không dám làm bừa. Mẫn Mẫn hướng ánh mắt cảm kích về phía Lữ Cánh Nam, song lại thất vọng nhận ra, từ đầu chí cuối, Lữ Cánh Nam không buồn liếc nhìn cô lấy một lần.
Lữ Cánh Nam trở về chỗ, tâm trạng lẫn lộn đan xen ba phần tức giận, ba phần oán than, cộng với ba phần mâu thuẫn. Pháp sư Á La nở một nụ cười từ ái gật đầu với cô, tỏ ý khen cô làm rất tốt. Lữ Cánh Nam vẫn không nói một lời, cẩn thận dìu đỡ ông. Pháp sư Á La biết cô vẫn chưa bình tĩnh lại, cũng không nói gì thêm nữa.
Người trẻ tuổi rót cuộc cũng từ bỏ việc tìm kiếm những tên lính đánh thuê bị thất lạc, y quay lại dặn dò đám còn lại: “Nhớ cho kỹ, nơi này không chỉ là một tòa cung điện hoa lệ, mà còn là một mê động đầy rẫy những cơ quan cạm bẫy. Mỗi gian đại điên đều ê hề châu báu, chỉ sợ chúng mày không mang đi hết được thôi, nhưng nhất định phải giữ lấy cái mạng nhỏ của mình thì mới có cơ hội tiêu tiền được, đừng có giống như lời cảnh cáo ngoài kia, chỉ nhìn thấy châu báu trước mắt, rồi chết không có đất chôn thây”
Dứt1ời, y lại quay sang bảo Khafu: “Phải quản chặt bọn chúng đấy.” Nhưng lúc này, đã không còn ai đủ nhẫn nại nghe y nói tiếp nữa rồi, trong đầu tất cả mọi người chỉ còn bốn chữ “mỗi gian đại điện” bay lởn và lởn vởn. Bọn lính đánh thuê chấn động, Khafu kinh ngạc, ngay cả Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La cũng thầm rung động trong lòng. Mọi người vốntưởng rằng, nơi này chính là chủ thể của thần miếu, là khu vưc hạch tâm lớn nhất, đẹp đẽ nhất rồi, nhưng nghe người trẻ tuổi kia nói, dường như đây mới chỉ là một gian điện đường trong Bạc Ba La thần miếu mà thôi. Rốt cuộc Bạc Ba La thần miếu có bao nhiêu gian đại điện như thế này?
Trông thấy phản ứng của cả bọn, người trẻ tuổi kia nhếch mép cười khinh bỉ: “Có gì đáng ngạc nhiên đâu chứ? Đại điện này tuy lớn, nhưng cũng không đến nỗi mấy triệu con người, tổng cộng sáu đời tốn mất hơn trăm năm mới xây dựng xong, phải không? Đây chẳng qua chỉ là một gian đại điện bên trong thần miếu mà thôi, toàn bộ Bạc Ba La thần miếu là một tòađàn thành. Đàn thành là cái gì? Pháp sư đại nhân, các người là Mật tu giả, chắc hẳn phải rõ hơn tôi chứ nhỉ?”
Pháp sư Á La tuy vẫn giữ vẻ trấn định, nhưng trong đầu cũng không khỏi “oong oong” một chập, tim đập gấp gáp. Đàn thành được chia làm rất nhiều loại, phổ biến nhất là đàn thành Mật tông, thường thấy nhất là Thai tạng giới Mạn đà la, Kim cương giới Mạn đà la(15), đều có hơn bốn trăm vị chủ tôn Phật, mỗi vị một gian điện đường, nếu gian nào cũng có quy mô gỉống đại điện này, vậy thì miếu phải lớn chừng nào? Đương nhiên, điều tiên ông nghĩ tới là Thời luân Kim cương đàn thành, nhưng pháp sư Á La cũng biết, đó là do người đời sau dựa vào các truyền thuyết về Shangri-la tạo ra. Khả năng lớn nhất là nơi này vẫn được xây dựng theo mô hình Thai tạng Mạn đà la hoặc Kim cương giới Mạn đà la được miêu tả trong Đại Nhật kinh và Kim Cương Đỉnh kinh.
Có điều, sau khi nghe người trẻ tuổi kia nói vậy, vẫn có không ít lính đánh thuê liếc mắt nhìnba lô và túi của mình, trên mặt lộ rõ vẻ tiến thoái lưỡng nan. Hiển nhiên, bọn chúng đã thỏa mãn, tin rằng chỉ cần mình mang đống châu báu này trở về, mấy đởi sau cũng không phải lo thiếu thốn rồi. Những tên này muốn rời đi ngay lập tức.
Người trẻ tuổi cũng nhìn ra tâm tư ấy, lại nói tiếp: “Đương nhiên, những kẻ nào cảm thấy mình đã giàu có rồi, muốn rời khỏi đây thì cứ tự tiện. Nhưng tao vẫn muốn tiến vào sâu hơn nữa thăm dò, không thể dẫn đường cho chúng mày được. Ai muốn có nhiều hơn nữa thì đi theo tao.”
Bọn lính đánh thuê đã nếm mùi lợi hại của mê cung vòng tròn này, lại biết đường vào đã bị bít kín, nếu không có người trẻ tuổi dẫn đường, kẻ nào có thể ra khỏi đây được chứ? Đối mặt với kiểu uy hiếp biến tướng này, bọn chúng đành bất lực, hoàn toàn không thể phản kháng. Pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam đưa mắt nhìn nhau, rõ ràng, người trẻ tuổi này cũng giống như hai người họ, hoàn toàn không động tâm với những thứ châu báu rực rỡ chói mắt ở đây. Vậy y muốn tìm kiếm thứ gì? Chẳng lẽ mục đích của y cũng giống họ, muốn tìm kiếm Thánh điển ư? Nhưng Thánh điển có tác dụng gì với y chứ? Vả lại, nếu cũng muốn tìm kiếm Thánh điển, chắc chắn y sẽ không giữ hai người họ lại làm gì.
Khafu đứng bên cạnh hỏi: “Đàn thành rốt cuộc là thế nào?”
Người trẻ tuổi tiện tay vạch lên bức tường một hình “ ”, đoạn nói: “Đàn thành trông như thế này, đã được vẽ rất nhiều trên các bức Thangka và bích họa, chỉ có điều, chúng đều là mặt phẳng nên không thể thể hiện hoàn toàn hình dáng của đàn thành thôi. Không biết bọn chúng mày đã thằng nào đến Thiên đàn ở Bắc Kinh chưa, đại điện của đàn thành cũng khá giống nơi đó, từng tầng từng tầng một, các giai tầng khác nhau thì bái phỏng các điện Phật khác nhau. Kết cấu của toàn bộ đàn thành và mỗi gian điện về cơ bản là giống nhau, trong vuôngco tròn, trong tròn có vuông, bao la vạn tượng, hết thảy đều quán thông.”
Khafu lập tức hiểu ra: “Giống như Kim tự tháp.”
Người trẻ tuổi gật đầu: “Đúng thế, chỉ có một điểm khác biệt, phải nói là giống bánh ga tô nhiều tầng thì đúng hơn. Đàn thành là sự kết hợp giữa vuông và tròn, còn Kim tự tháp thì chỉ thuần hình vuông, pháp sư đại nhân, ông cảm thấy tòa đàn thành này sẽ thế nào đây nhỉ?”
Pháp sư Á La chắp tay bắt ấn không nói gì, ông vẫn chìm trong dòng suy tư. Chỉ nghe người trẻ tuổi kia tiếp lời: “Thực ra đạo vuông tròn của phật gia và đạo âm dương của Đạo gia có rất nhiều điểm tương đồng. Đại đạo trong thiên hạ, xét cho cùng đều quy về một mối. Vạn vật cấu thành đều là một âm một dương; quỹ đạo của vạn vật, đều là một cong một thẳng; luân hồi của vạn vật, thảy đều một vuông một tròn; đạo lý trên thế gian này cũng chỉ có thế mà thôi.”
Pháp sư Á La giật mình sực tỉnh, bất giác ngẩng đầu lên nhìn người trẻ tuổi kia, thầm nhủ: “Mới chừng này tuổi không ngờ đã có thể nói ra những lời như thế, tâm tính và ngộ tính củangười này cao hơn ta rất nhiều. Không đúng, nhất định là y đã đọc được câu này từ đâu đó, tuy giọng điệu ấy đượm vẻ khinh bạc, nhưng sự lĩnh ngộ của y với câu này rõ ràng vẫn cao hơn ta một bậc.”
Trong lúc pháp sư Á La ngẫm nghĩ, người trẻ tuổi đã dẫn cả đội ngũ tiến lên phía trước. Chỉ nghe loáng thoáng y nói với Khafu: “Thứ này… rất khó giải thích… chúng ta đang đi bên trong, không thể nhìn toàn bộ diện mạo của nơi này từ bên ngoài… mày coi nó như một quả thông vậy… đại khái là thế, một đàn thành, một bóng ngược, bóng ngược trong nước ấy, mày hiểu không? Đạo âm dương… thôi bỏ đi, có nói mày cũng không thể hiểu đươc đâu.”
“Đạo âm dương, bóng ngược.” pháp sư Á La cúi đầu trầm ngầm, đột nhiên thốt lên. “ta hiểu rồi.”
Lữ Cánh Nam bên cạnh vội hỏi: “Pháp sư đại nhân?” Pháp sư Á La vẽ thêm một hình “ ” lên chỗ mảng tường người trẻ tuổi kia vừa vẽ, có điều hình này ngược hướng với hình phía trên, đầu nhỏ chúc xuống dưới, hai hình ghép lại với nhau thành một hình thoi. Pháp sư Á La chỉ tay lên tường nói: “Đây chính là toàn bộ diện mạo của đàn thành, một chính một phản, một âm một dương, chúng ta đang ở đây.” Ngón tay ông dịch lên đầu nhỏ của hình phía trên, sau đó lại chỉ xuồng đầu mút của hình phía dưới nói tiếp: “Y muốn đến chỗ này.”
Lữ Cánh Nam bừng tỉnh ngộ, liền gật đầu rồi đỡ pháp sư Á La đi theo đội lính đánh thuê.
Cái xích đu khổng lồ chuyển trạng thái từ tĩnh sang động, từ từ tăng tốc, gió lớn dần, Trác Mộc Cường Ba và Merkin như thể đang đạp trên tấm ván lướt sóng, lao một mạch về phía trước. Nửa chặng đầu, cảm giác như lướt trên mây, nửa chặng sau, tim hai người đều trầm xuống, trọng tâm dồn hết xuống chân.
Mắt thấy vách đá ở ngay trước mắt, ánh đèn lấp loáng đã hiện lên rõ mồn một nhưng xích đu đã hết đà, bắt đầu lăng trở về phía bên kia. Merkin kinh ngạc hỏi: “Chuyện gì thế này?”
Theo thiết kế, bàn xích đu này lẽ ra phải trực tiếp đưa họ sang bình đài phía đối diện mới đúng chứ? Sao vẫn còn cách đến một hai chục mét, dây móc của Trác Mộc Cường Ba bắn ra cũng không tới, đã bắt đầu giật ngược trở về? Hai người vội tìm kiếm nguyên nhân, cúi đầu nhìn xuống, lập tức giật nẩy mình. Thì ra, khi hai người họ nhảy lên xích du, một đám người đáy hang cũng tung người bổ tới, tuy không kẻ nào lên được bàn đu, song lại chộp được vòng sắt ở phía dưới. Người đầu tiên nắm lấy vòng sắt, người phía sau lại ôm chặt hai chân người phía trước, cứ như bầy khỉ bám đuôi nhau đu qua khe núi, xâu thành một chuỗi dài.
Bàn xích đu này rất lớn, Trác Mộc Cường Ba và Merkin lúc xông tới đã dùng hết toàn lực, sau khi lên được, tầm nhìn lại bị cản trở, thêm ánh sáng mập mờ nên vẫn không phát hiện ra. Đến khi đu sang phía bên này, đầy đủ ánh sáng, hai người mới trông thấy.
Mỗi chuỗi dài như vậy có khoảng bốn năm người đáy hang bám vào, dưới chân Trác Mộc Cường Ba có một chuỗi, bên phía Merkin có hai chuỗi. Đám người này làm thay đổi trọng tâm của xích đu, chẳng trách chưa sang đến bờ vực bên kia, nó đã bắt đầu văng ngược trở về rồi.
“Tính sao đây?” Merkin hỏi.
Nếu không xua những người đáy hang đang bám bên dưới xuống, sợ rằng xích đu sẽ càng lúc càng chậm lại, cuối cùng dừng lơ lửng giữa không trung. Có điều, phía dưới kia là vực thẳm sâu hun hút, những người này rơi xuống, e là cũng khó sống nổi. Tuy trước đây, Trác Mộc Cường Ba đã chiến đấu với quân du kích, bọn buôn ma túy, về sau lại nhiều lần xung đột với bọn lính đánh thuê dưới trướng Merkin, nhưng đó đều là kẻ địch, gã nã súng chỉ để tự bảo vệ mình, cũng không hổ thẹn với lòng. Nhưng đám người đáy hang này thì khác, trí tuệ của họ chẳng khác nào đứa trẻ sơ sinh, hành vi thì như loài dã thú, họ hành động chỉ vì miếng ăn, vì sinh tồn. Vả lại sức tấn công của họ cũng rất yếu ớt, nếu không chiếm ưu thế vế số lượng, có thể nói là hoàn toàn không uy hiếp gì được Merkin và Trác Mộc Cường Ba cả. Lúc này, họ cũng khó lòng leo lên được phía trên bàn xích đu để làm gì hai người bọn gã. Đồng thời, dưới ánh sáng từ phía bên kia hắt sang, Trác Mộc Cường Ba còn phát hiện có hai phụ nữ bụng hơi gồ lên, rõ ràng là đang mang thai. Lẽ nào, giết chết một người hành vi điên cuồng, trí lực thấp kém, lại không có năng lực phản kháng, không phải là giết người hay sao?
Có điều, đúng lúc ấy, những người đáy hang kia cũng không cầm cự được thêm nữa, người đầu tiên bám vào vòng sắt tuột tay ra, tất cả những người bám phía sau liền rơi xuống vực sâu, tiếng kêu thảm vang lên không khác gì loài dã thú. Bàn xích đu văng trở lại chưa được nửa chặng đường, ba chuỗi người bám bên dưới đều đã lần lượt rơi rụng, chỉ còn lại tiếng kêu rít văng vẳng trong không gian.
Người đáy hang bám bên dưới đã rơi xuống, song bàn đu vẫn mỗi lúc một chậm lại, lần thứ hai còn cách xa bờ đối diện xa hơn lần thứ nhất. Merkin và Trác Mộc Cường Ba ngoảnh lại nhìn nhau, cùng bật ra tiếng hỏi: “Anh… ông biết đu cái này không?”
“Anh cũng không biết đu xích đu à?”
Câu hỏi vừa thốt ra khỏi miệng, hai người lập tức tắc tị. Hai cao thủ am tường cơ quan cạm bẫy, không ngờ lại bị rnột cái xích đu vớ vẩn làm khó. Trác Mộc Cường Ba và Merkin đều hiểu rất rõ, cứ đứng trên phiến đá mà không có động tác gì, biên độ dao động của xích đu chắc chắn sẽ càng lúc càng thu hẹp lại. Nhưng khốn nỗi, cả hai đều không biết phải hành động thế nào. Thứ vô cùng đơn giản này rõ ràng không hề được đưa vào trong giáo trình huấn luyện của bọn họ.
Merkin còn đưa ra một vấn đề nghiêm trọng hơn: “Anh có phát hiện, lần áp mạn này vị trícủa chúng ta cao hơn lần đầu một chút không?”
“Ý ông là, dây thừng có vấn đề?”
“Phía trên chắc chắn có thứ gì đó đang cuộn dây thừng buộc hai bên phiến đá này, biên độ dao động của bàn xích đu sẽ nhỏ dần, nếu không nghĩ ra cách, chúng ta sẽ bị kẹt ở giữa vực sâu đấy.”
“Thử xem, thế nào cũng có cách. Thử cách trượt tuyết xem.” Trác Mộc Cường Ba đề nghị. Merkin gật đầu đồng ý, khi bàn đu lên đến điểm cao nhất bắt đầu rơi xuống, hai người chia nhau nắm lấy một sợi dây thừng, đầu gối rùn xuống, dồn trọng tâm cơ thể ra phía trước, tư thế như đang trượt tuyết. Lực cản giảm đi, tốc độ rơi xuống của bàn đu tăng lên rõ rêt, nhưng sau khi qua điểm giữa, tư thế này dường như lại không ổn định. Hai người tiếp tục lần mò, cuối cùng cũng tìm ra cách tối ưu. Khi bàn đu lên đến điểm cao nhất, họ liền giậm mạnh chân, dồn sức đè mạnh xuống, sau đó giữ tư thế trượt tuyết đến khi qua điểm giữa, Lúc ấy, Trác Mộc Cường Ba hét lớn: “Lên”. Hai người lại cùng lúc bật người, dồn sức vào hai chân đẩy cho bàn đu lên cao hơn chút nữa. Họ cứ lặp đi lặp lại như thế, bàn đu rốt cuộc cũng tăng dần biên độ dao đông, đến lần áp ngạn thứ mười ba, bàn du đã đạt đến biên độ lớn nhất. Có điều, luc snayf, họ đã ở cao hơn bình đài kia đến mười mấy mét. Trác Mộc Cường Ba bắn dây móc ra, Merkin cũng lao bổ theo, tay người này bám chặt vào cánh tay người kia. Trác Mộc Cường Ba vung tay ném Merkin lên bình đài, còn mình thì trượt tường leo xuống.
Sau khi chạm đất, Trác Mộc Cường Ba mới phát hiện, đây không phải một bình đài, mà là một bệ hõm xuống ở giữa, kiểu như ban công chìa ra của tòa nhà vậy. Chỉ có điều, tỷ lệ được phóng to lên vô số lần, bọn họ chẳng qua chỉ đáp xuống thành lan can của ban công khổng lồ ấy, giống như hai con kiến nhỏ mà thôi.
Đứng từ đây nhìn vào bên trong, chỉ thấy đèn đuốc sáng trưng, không gian mở rộng ra vô hạn, ngước nhìn lên trên, chỉ thấy một mảng lam sẫm nhấp nháy như dòng ngân hà chảy trên bầu trời đêm. Một sáng một tối giao hòa vào nhau, như thể bọn họ đang nhìn hai thế giới hoàn toàn khác biệt.
Chỗ mép tường có cầu thang, hai người cẩn thận leo xuống chừng mấy chục mét, rồi bước vào khoảng không gian sáng sủa ấy, cùng lúc hít sâu một hơi, rồi lại cùng lúc cảm thán thốt lên: “A!” Hệt như nhóm người của pháp sư Á La lúc bước vào gian đại điện có ngàn vạn vị thần Phật, đang nghĩ ngợi về ý nghĩa của sự tồn tại kia, hai người đều có cảm giác lạc vào một vùng bát ngát, tầm nhìn đột ngột mở rộng ra tít tắp.
Một từ “rộng lớn” làm sao có thể hình dung được nơi này? Chỗ này không thể gọi là cung điện hay đại sảnh gì được. Trác Mộc Cường Ba có cảm giác như mình vừa lạc bứoc vào chốn đào nguyên tiên cảnh, chỉ thấy một vùng xanh mướt tràn ngập ý xuân, đập vào mắt toàn cây rừng tươoi tốt, tán lá xào xạc. Hai người dụi mắt liên tục không hiểu có phải mình gặp ảo giác hay không nữa. Chỗ này nằm sâu dưới lòng đất, chiếu sáng bằng ánh lửa, sao lại córừng cây được? Rốt cuộc đây là một đại điện, hay là một mảng rừng rậm đây?
Dưới chân họ là một bãi cỏ xanh mướt, những đóa hoa nhỏ màu trắng, màu đỏ nở xen kẽ giửa cỏ xanh, mềm mại như tấm thảm trải dài. Cách đó không xa là những cây lớn san sát, cành lá rậm rạp, đường kính thân cây mấy người ôm, cao đến cả trăm mét, dường như còn có suối chảy qua bụi cỏ, chỉ nghe tiếng róc rách, không thấy dòng nước.
Merkin không dám tin vào mắt mình, liền ngồi xổm xuống, vân vê một cọng cỏ, ngay sau đó ngẩng đầu lên, cười khổ, nói với Trác Mộc Cường Ba: “Đồ giả.” Cọng cỏ ấy trơn nhẵn, bẻ mà không gãy, chỉ phát ra tiếng sột soạt như giấy bóng kính. Không biết những bông hoa trắng, hoa đỏ kia làm bằng thứ gì mà cũng giống hệt như thật, cũng không biết người xưa đi tốn bao nhiêu công sức mới cắt ra được hàng triệu cọng cỏ như vậy, phủ kín toàn bộ đại điện này.
Trác Mộc Cường Ba lặng lẽ gật đầu, những thứ này đương nhiên là đồ giả rồi. Nơi này ởsâu dưới lòng đất, nếu chẳng phải do cơ quan đã khởi động thì thậm chí còn không có cả ánh sáng, làm sao có rừng rậm được chứ? Trên các thân cây lớn kia, từ khoảng hai phần ba chiều cao trở lên, đều có gắn bồn lửa cháy bập bùng. Nếu 1à cây thật, làm sao có thể cho lửa cháy như vậy được?
Thế nhưng, làm giả mà có khí phách này, làm giả mà giống thật đến nhường này, khiến người ta như rơi vào giữa đám mây mù ảo ảnh, Trác Mộc Cường Ba cũng không thể không cảm thán trước kỹ thuật tinh xảo của các nghệ nhân nghìn năm trước. Suy nghĩ của họ thực kỳ diệu, khiến người ta chỉ biết thở dài thán phục. Gã ngẩng đầu nhìn lên trên, ở độ cao hơn trăm mét, nơi tường và vòm trần tiếp xúc, có vô số tượng thần Phật cúi xuống theo góc bốn nhăm độ, chân đạp mây lành, mắt nhìn chăm chú.
Merkin đứng choãi hai chân, chầm chậm đảo mắt một vòng. Sự biến đổi to lớn về không gian và màu sắc này khiến tâm thái con người lập tức từ chỗ nơm nớp nguy cơ chuyển thành hào hùng ngùn ngụt, như thể vừa lên đến đỉnh cao của ngọn núi. Chỉ một thế đứng đơn giản như vậy thôi, y đã có cảm giác mình đang sừng sững giữa đất trời bao la. Y từng đến vô số mộ cổ, ghé qua vô số di tích, nhưng chưa gặp nơi nào thế này bao giờ. Trong cung điện cóhồ nước, trong cung điện có rừng sâu. Đây không đơn giản là một thứ nghệ thuật, mà là một thứ cảnh giới bao hàm tư tưởng chí cao vô thượng của Thiền tông. Hai người chậm rãi thả bước trong rừng, thả hồn theo gió, lớp cỏ dưới chân phát ra những tiếng rì rào như lời thỏ thẻ của tình nhân, như dòng suối ngầm hòa nhịp, tràn ngập thiền ý. Những cây lớn này không hiểu làm từ chất liệu gì, trong ánh lửa cháy hừng hực, trong không khí tràn ngập một mùi hương tươi mới, thoang thoảng như hương lan, lại hơi giống mùi đàn hương, khiến tinh thần người ta trở nên thư thái, từ đầu đến chân cơ hồ được tắm trong một vòng sáng thánh khiết.
Không rõ đi được bao lâu, Trác Mộc Cường Ba chợt ngẩn người, chầm chậm giơ tay lên chỉ ra phía xa. Không hiểu sao Merkin lại chợt thấy bồi hồi xúc cảm. sống mũi cay cay. Y vội vàng quẹt quẹt mũi, áp chế xúc cảm bất chợt dâng tràn ấy.
Cái cây lớn quá?
Thân cây tựa như đâm thủng bầu không, đội trời đạp đất, tán cây xòe rộng như cái ô khổng lồ che phủ mặt đất. Những cây lớn xung quanh chỉ tựa như đàn con cháu xúm xít quanh nó mà thôi. Những hình Phi Thiên(16) vẽ trên vòm trần đều đang chên lấn xô đẩy tràn về phía tán cây thần này.
Trác Mộc Cường Ba đột nhiên có cảm ngộ, một thứ cảm ngộ không thể nói bằng lời, gã chỉ thấy đất trời tĩnh lặng, giả là thật mà thật cũng là giả, tựa hồ như nghe thấy được cả tiếng của loài sâu kiến, bao nhiêu phiền não thảy đều tiêu tan.
Còn Merkin thì tựa như nhìn thấy cây cổ thụ trước căn nhà tổ của y, trong đầu hiện lên hình ảnh hai ông cháu đang ngồi dưới gốc cây luận đạo.
Chú thích
(15) Thai tạng giới Mạn đà la, Kim cương giới Mạn đà la: Mật giáo đã thiết lập hai Mạn đà la: Thai tạng giới Mạn đà la và Kim cương giới Mạn đà la, có nguồn gốc xuất phát từ tư tưởng của hai bộ kinh Đại Nhật và Kim Cương Đỉnh. Theo quan điểm tư tưởng của Phật giáo thì vũ trụ gồm hai phần, một phần là nhân cách và phần kia là thế giới của nhân cách, là những pháp sở chứng và thọ dụng của Phật. Hai Mạn đà la này là sự hội nhập giữa thụ tri và sở tri.
Thai tạng giới Mạn đà la (Garbhadhatu mandala) là yếu tố thụ động, mô tả vũ trụ về mặt tĩnh, mặt lý tính, như thai mẹ chứ đựng con và từ lý tính thai tạng mà sinh công đức, biểu hiện đại bi tâm của Phật.
Kim cương giới Mạn đà la (Vajradhatu mandala) là yếu tố tác động, biểu hiện cho trí tuệ viên mãn, trí tuệ sở chứng của Phật. Ngũ Trí Như Lai là trọng tâm của Mạn đà la này. Bí tạng ký viết: “Thai tạng là lý, Kim cương là trí.”
Phần lớn các Mạn đà la Phật giáo được vẽ, in hoặc thêu những mẫu hoa văn kỷ hà. Một trong những loại Mạn đà la lớn thường bắt gặp là Mạn đà la bằng cát. Những Mạn đà la này được tạo ra trong nhiều tuần lễ và sau đó lại được quét bỏ đi để nói lên tính vô thường của hiện hữu. Ngoài ra, ở Tây Tạng còn có các Mạn đà la ba chiều giống như cung điện.
Chú thích
(16) Phi Thiên: Thiên thần

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.