Một Ngàn Con Đường Quê

Chương 08



Mùa thu năm 1981

Ba mươi sáu năm và ba tháng sau mùa thu trên bãi biển Big Sur, tháng Mười một ở Nam Dakota vẫn còn nấn ná, gay gắt và khó chịu, là khúc dạo đầu ấn tượng của một mùa đông khắc nghiệt. Nhiều loài vật đã bay, chạy về phương nam hoặc chui xuống đất. Carlisle McMillan nhận thấy thái độ của con người đã thay đổi, các bộ mặt sắt lại cam chịu, sẵn sàng cho cuộc sống trong nhà vài tháng liền. Ngay cả cơ thể của họ cũng trở nên lom khom, hình như họ đã mọc một cái mai và rúc đầu vào trong, giữ hơi thở cho đến tháng Ba hoặc tháng Tư, lúc tuyết tan.

Thư viện trong thành phố Falls lại quá ấm, các lò sưởi thuộc thời kỳ cuối của hệ thống sưởi bằng than cổ lỗ, kêu lách tách và xì xì. Vào giữa buổi sáng, ngôi nhà gần như vắng vẻ, ngoài tiếng lò sưởi, âm thanh duy nhất là tiếng loạt soạt của một bà già đang giở báo, cùng với việc thay sách trên giá của người thủ thư gần như không có tiếng động. Đã hai lần, người thủ thư nhìn về phía Carlisle, tự hỏi anh chàng Da Đỏ kia là dân Kosebud hay Wounded Knee (Các ngôi làng thổ dâj ở Nam Dakota, từng chịu cảnh tàn sát vào cuối thế kỷ 19).

Carlisle kiểm tra cuốn Who’s Who tìm tên Robert L. Kincaid và không thấy gì. Người thủ thư làm việc ở bàn tham khảo đã khuyên anh tra trong danh bạ điện thoại, và thông báo với Carlisle là có một cuốn chỉ dẫn dành riêng cho những người làm nghề nhiếp ảnh.

– Tôi tin là nó ở hàng thứ hai trên các giá ở phần tham khảo, gần với chỗ anh tìm thấy cuốn Who’s Who.

Ngồi bên cái bàn bóng láng, kết cấu chắc chắn và đặc biệt hấp dẫn với anh, Carlisle lướt ngón tay lên lớp gỗ sồi trắng và nhìn trừng trừng vào cuốn sách trước mặt. Anh mở đến chữ “K” và chầm chậm lướt mắt xuống các cột.

Kincaid, Robert L., sinh ngày 1 tháng Tám 1913, Barnesville, OH; Cha: Thomas H., mẹ: Agnes, Vợ: Marian Waterson, kết hôn 1953, ly hôn 1957. Quân đội Mỹ 1931-35; Quân đoàn Lính thủy đánh bộ Mỹ 1943-45. Những giải thưởng đáng kể: “Thành tựu xuất sắc”, Hội Nhiếp ảnh Mỹ; “Ưu tú suốt đời”, Intemational Joumal of Photography. Làm nghề tự do, trước hết cho tờ National Geographic.

Các báo khác là Life, Time, Globetrotter, cùng nhiều tạp chí tương tự. Là phóng viên ảnh chuyên ở nước ngoài, nhiều khi ở những nơi nguy hiểm. Nổi tiếng vì những bản dịch thơ về các đề tài thế tục và nhiều chủ đề khác. Địa chỉ: không biết.

Robert Kincaid, dù là ai đi nữa, đã sáu mươi tám tuổi, Carlisle nghĩ lúc nghiên cứu thông tin này. Anh lục nhiều đống báo chí trong thư viện, tìm được nhiều tờ National Geographk đóng thành tập và ôm một chồng nặng trĩu, từ năm 1978 trở đi, đến một bàn khác. Anh mất gần một giờ giở qua các trang, đọc lướt hai bài báo anh thích thú nhất. Nhưng không thấy người nào có tên là Robert Kincaid.

Anh bắt đầu tìm kiếm có phương pháp hơn, lật giở các ấn phẩm lùi về trước từng năm. Vào tháng Hai 1975, có một chuyên đề về gặt đập lúa mì ở Great Plains kèm ảnh của Kincaid. Anh tìm thấy nhiều bức ảnh khác trong năm 1974 và 1973. Ghi chú trong một bài báo năm 1972 ở Công viên Quốc gia Acadia cho biết Kincaid bị vỡ mắt cá chân trong lúc chụp ảnh. Carlisle không những thán phục các bức ảnh của ông Kincaid này, mà còn đánh giá cao ý chí và khả năng chịu đựng của ông già. Ở tuổi năm mươi chín, Kincaid vẫn đi chụp ảnh ngoài trời, xách máy leo lên các vách đá.

Sau bữa trưa tại một hiệu cà phê trên quảng trường thành phố, Carlisle trở lại thư viện và tiếp tục tìm kiếm. Càng lùi lại những năm trước, càng có nhiều tác phẩm của Kincaid xuất hiện trên tạp chí. Cuối cùng, những bài báo năm 1967 về các rừng rậm Đông Phi biến mất, Carlisle McMillan tìm thấy thứ anh muốn: một bức ảnh của người đó trên trang bìa sau của tạp chí. Robert Kincaid ngồi xổm bên một dòng sông châu Phi, rõ là đang chăm chú xem xét thứ gì đó ngay trước mặt, máy ảnh giơ lên ngang ngực.

Mái tóc dài của ông bay tung trên cổ áo, và ông đeo dây chuyền bạc quanh cổ, trên dây có một trái tim lồng ảnh.

Lúc đó Carlisle nhún vai và dựa lưng vào ghế một lát, nhìn đăm đăm lên trần cao của tòa nhà Camegie. Người đàn ông trong ảnh đeo dây quần to bản màu cam. Wynn đã nhớ ra các dây đeo quần.

Một nhóm đông các em học sinh vào thư viện, trò chuyện râm ran và trượt trên sàn nhà, bất chấp giáo viên cố kiềm chế các em. Carlisle ngồi thêm vài phút nữa, chăm chú ngắm ảnh người đàn ông cặm cụi làm việc tận Đông Phi, người cầm máy ảnh và đeo dây quần. Anh đánh dấu trang bằng một mẩu giấy tham khảo của thư viện và bắt đầu lục tìm xa hơn trong các tập.

Anh tìm thấy hai mươi tám bài báo, một số đề ngày tháng vào cuối những năm 1930, có Robert Kincaid chụp ảnh. Sáu bài do chính ông viết. Còn có bốn bức ảnh khác của Kincaid, một cái từ năm 1948. Thời gian đó, mái tóc dài của ông chưa ngả hoa râm, tuy Carlisle nhận ra rằng có lẽ do trí tưởng tượng của anh, nó có màu nâu y như tóc anh. Mũi và xương gò má cũng giống, nét mặt điển hình của người Da Đỏ Mỹ. Tuy vậy, Carlisle lực lưỡng hơn Kincaid, một sản phẩm của chiến binh hoang dã, thừa hưởng của các thành viên thị tộc Scotland, như mẹ anh thích nói thế.

Carlisle chụp lại từng trang các bài báo có Kincaid tham gia, cộng thêm bốn bức ảnh ông. Anh có ý định nghiên cứu các tạp chí khác từ những năm 30 đến nay, nhưng hôm đó thư viện đóng cửa sớm để họp nhân viên. Anh chụp xong và ra xe. Lái bốn chục dặm về ngôi nhà ở tây bắc Salamander, Carlisle nhận ra rằng anh tập trung tìm kiếm Robert Kincaid để loại trừ các khả năng khác. Tất nhiên là “các Robert” khác, nhưng vì lý do nào dó, Kincaid dường như có miếng võ khóa chặt tâm trí Carlisle, làm anh không buồn để ý đến bất cứ nhà nhiếp ảnh nào khác có tên và bài trong National Gcographic nữa.

Nhìn xuống các ngọn đèn pha rọi vào bóng tối tháng Mười một, anh tự hỏi phải chăng cách liên hệ, ráp nối của anh khiến anh xoáy vào người đàn ông khó nắm bắt tên là Kincaid. Anh tự thuyết phục mình rằng vì nó gần với những lời mẹ anh tả về người mà bà quen biết ở Big Sur, cộng với biên bản về chiếc xe máy.

Tối hôm đó, Carlisle trải các bản chụp lên sàn và sắp xếp chúng theo địa điểm. Phần lớn là ở những nơi xa xôi như Ấn Độ, châu Phi, Guatemala, Tây Ban Nha, Australia. Hai bài ở Canada. Ở Mỹ, có một bài ở Iowa, bài khác ở Lousiana, một ở Maine và hai ở Viễn Tây.

Xe Rác đứng dậy khỏi chỗ, dưới cái bếp đun củi và đến nằm trên đống ảnh, kêu rừ rừ.

– Đến giờ ăn tối rồi, hở cậu cả? Xin lỗi nhé, ta quên mất mi.

Trong lúc Xe Rác ăn hộp cá ngừ, Carlisle giơ một trong các bản chụp vào dưới ngọn đèn bếp và ngắm nghía kỹ càng. Bản sao hơi cứng, và người đàn ông tên là Robert Kincaid từ trong ảnh nhìn anh. Anh đặt xuống, rồi lại cầm lên, chăm chú ngắm. Lạy Chúa, anh đã bỏ qua một thứ, đó là: chiếc vòng trên cổ tay phải của ông ta. Mẹ anh có nói đến chiếc vòng tay. Dây đeo quần, vòng tay, một chữ “A” trên bình xăng xe máy, và một Robert L. Kincaid đã đăng ký môtô trong năm 1945.

Carlisle trở lại bàn, nghiên cứu biểu đồ anh vẽ trước đây và danh sách các manh mối anh đã ghi lúc đầu, rồi tóm tắt thành một bảng trên tờ giấy màu vàng, anh hơi run lúc bắt đầu đối chiếu các manh mối. Lúc làm xong, không còn chỗ nào trống so với danh sách ban đầu của anh.

Robert L. Kincaid

“A” = Ariel Four Bike

Reg. SF. 9/45

Nhà nhiếp ảnh

Đi du lịch nhiều

Làm nghề tự do

Các tạp chí

Thế chiến II

Lính thủy đánh bộ

Vòng tay

Dây đeo quần

“Đầu những năm 30” = 32 tuổi năm 1945

– Xe Rác ơi, sự việc hơi rùng rợn đây, – anh nói với con mèo ngồi trên sàn phòng khách, liếm láp bằng những cái lướt dài. Carlisle dựa lên bậu cửa sổ, nhìn ra bóng tối của miền Nam Dakota.

Đêm hôm đó, anh nằm thao thức hồi lâu. Anh nghĩ đến Robert Kincaid, đến những bài báo anh đã đọc, trong tiếng cúi nổ lách tách dễ chịu trong lò ở phòng khách. Người đàn ông mặc quần jeans và sơmi kaki thực sự sống một cuộc đời lang thang nay đây mai đó, một người lãng du khắp bề mặt trái đất. Nếu ông là người trong trí nhớ của Wynn, chẳng lạ gì khi họ mất hút nhau. Trong những năm tuổi trẻ, mẹ anh đã chuyển loanh quanh khá nhiều, còn Kincaid cho đến gần đây vẫn chưa ở nơi nào lâu dài. Anh nhớ lại cặp mắt của Robert Kincaid trong tâm trí, và người đàn ông từ nơi nào đó tận Đông Phi ngoảnh nhìn lại anh.

* * *

Hai ngày sau cuộc tìm kiếm ở thư viện thành phố Falls, Carlisle McMillan đặt một cú điện đàm tới Washington DC, văn phòng của tờ National Geographic. Anh quên bẵng múi giờ khác biệt một tiếng đồng hồ, và lúc cô thư ký nói mọi người đã đi ăn trưa, liệu cô ta có thể giúp gì chăng.

– Xin anh nói lại, anh tìm ai ạ?

– Tên ông ấy là Robert Kincaid. Theo một số bài báo tôi có, ông ấy đã làm việc nhiều cho tạp chí từ những năm 1930 đến năm 1975. Tôi đang cố tìm xem ông ta ở đâu. Có khi ông ấy là một người họ hàng.

– Vâng, hình như ngày nay ai cũng đang làm một bảng phả hệ. Chồng tôi đang theo vết cây phả hệ của anh ấy. Xin anh đợi một phút. Anh có thể giữ máy?

– Vâng, tôi sẽ giữ. – Carlisle gõ cây bút chì lên sổ tay và đợi. Con Xe Rác nhảy lên lòng Carlisle và đập vào cây bút. Carlisle chuyển cây bút chì tới, lui thật nhanh theo mép bàn, và đầu con mèo chăm chú theo những cử động giữa các cú đập. Bên ngoài, bầu trời thấp và ảm đạm, những giọt mưa buốt giá đập vào cửa sổ.

Cô thư ký trở lại đường dây.

– Xin lỗi để anh phải đợi lâu. Tôi đã lục các hồ sơ không dùng nữa. Nếu anh nói đến ông Robert Kincaid đó, thì anh đúng. Ông ấy làm nhiều việc cho tạp chí trong nhiều năm. Các ghi chép của chúng tôi cho thấy nhiệm vụ cuối cùng của ông ấy vào năm 1975. Nhìn bên ngoài, ông ta như một người thích ngao du. Có ai đó đã ghi lên đầu hồ sơ của ông ấy: “Sẽ đến bất cứ nơi nào và ở lại, miễn là hoàn thành công việc. Có thể tin cậy đạt thắng lợi trong công việc.”

– Các bản lý lịch của các vị có nói gì về ông ấy trong quân đội hồi Thế chiến II không? – Carlisle hỏi. Anh có thể nghe thấy tiếng giở các trang giấy loạt soạt ở đầu dây bên kia.

– Có, ông ấy trong quân đoàn Lính thủy đánh bộ. Ở đầy có một bản lý lịch cũ, nói ông ấy xuất ngũ tháng Chín năm 1945, lúc ba mươi hai tuổi. Đấy là lần thứ hai ông ta nhập ngũ. Trước kia ông ấy đã gia nhập quân đội và xuất ngũ năm 1935 rồi đến làm việc với chúng tôi, sau đó hình như khi thế chiến II bắt đầu, quân đội muốn ông ấy trở lại, nhưng lần này ông ấy vào binh chủng Lính thủy đánh bộ. Ông ấy sinh ở Barnesville, bang Ohio, và tốt nghiệp trung học ở đấy. Đấy là tất cả, ngoài một danh sách dài các bài ông ấy làm cho chúng tôi mà hình như anh đã biết.

Cô ta ngừng một tí..

– Gượm đã, tôi chợt nhớ ra một điều. Hình như một năm trước đây tôi đã rút hồ sơ của ông Kincaid này. Một người nào đó hỏi ông ấy.

– Cô có biết là ai không? Nam hay nữ?

– Để tôi nhớ xem. Tôi nghĩ có lẽ là nữ, nhưng tôi không chắc. Tôi mới bắt đầu làm việc ở đây và tôi chuyển cuộc gọi đó cho phó tổng biên tập, nhưng ông ấy cũng rời tạp chí rồi, và tôi không biết ông ấy giờ ở đâu.

– Cô có địa chỉ hoặc số điện thoại của ông Kincaid không?

– Tôi biết một địa chỉ ở Bellingham, Washington, và một số điện thoại.

Carlisle ghi lại địa chỉ và số điện thoại, anh cảm ơn người phụ nữ rồi đặt máy. Suy nghĩ một lát, rồi anh quay số điện thoại ở Bellingham, không biết là sẽ nói gì nếu Robert Kincaid trả lời. Anh không phải lo việc đó. Một đại lý của công ty bảo hiểm trả lời và cho anh biết công ty đã dùng số này từ hai năm trước, khi mở văn phòng của chi nhánh mới. Rất tiếc về việc đó, nhưng có lẽ Carlisle sẽ quan tâm trò chuyện về chương trình trả góp hàng năm đổi mới của công ty chăng? Carlisle không quan tâm.

Tiếp theo, anh thử gọi cho Phòng Thương mại Bellingham. Theo danh bạ của thành phố, không có ai là Robert Kincaid sống ở Bellingham. Địa chỉ người ta cho anh nay là một trung tâm thương mại, xây từ năm 1979. Carlisle thất vọng, và trong chốc lát gần như ngã lòng, cảm thấy như mình đang nhìn vào nhầm đầu kính thiên văn. Gần như sắp đến chỗ bế tắc, nhưng lúc này anh cảm thấy khác. Vấn đề là người có tên Robert Kincaid có thể ở đâu đó, hoặc đã vùi sâu dưới ba thước đất.

Hầu như sắp đến lúc anh phải từ bỏ toàn bộ chuyện này. Anh nhớ lại những năm tháng gặp quá nhiều ngõ cụt, và anh đang lần theo một cái bóng khó nắm bắt với những bằng chứng mơ hồ. Cách duy nhất có thể tin được là tìm ra ông Kincaid này và hỏi ông ta có làm tình với một phụ nữ ở Big Sur vào mùa thu năm 1945 hay không. Dù là có đi nữa, vẫn chưa chứng tỏ điều gì. Nếu các sự việc ở Big Sur tự do và thoải mái như Wynn nhớ, biết đâu trong thời gian đó bà còn quan hệ với người đàn ông khác. Anh không nghĩ đến khả năng đó và không biết hỏi mẹ như thế nào.

Cuối buổi chiều hôm đó, sau khi chẻ củi hai giờ liền rồi tắm, Carlisle đứng ở hành lang đằng trước và nhìn khắp miền miền quê tới Wolf Butte chìm trong sương mù. Anh vào trong nhà và ngồi bên lò sưởi, đọc lại những bài báo dã chụp lại ở thư viện thành phố Falls, lục lọi một mamh mối, một dẫn dắt nào đấy mà anh đã bỏ sót.

****

Cách chỗ Carlisle McMillan ngồi tám dặm, một cái xe tải màu xanh lá cây cũ kỹ, với dòng chữ “Hiệu ảnh Kincaid, Bellingham, Washington” đã nhòa và các chữ cái gần như không dọc được trên cả hai cửa, chạy vào phố chính của Salamartder, Nam Dakota lúc tối. Robert Kincaid đỗ xe rồi vào một quán rượu tên là Leroy. Ba người đàn ông đội mũ rộng vành, đi ủng cao bồi đang cười nói bên quầy, nhưng ngay lập tức im bặt và nhìn người mới đến với con mắt không mấy thiện cảm. Leroy ra sau quầy và hỏi người lạ muốn uống gì.

Robert Kincaid im lặng một lát, ông cảm ơn rồi hỏi thăm về người dẫn đường cho ông mấy năm trước, khi Kincaid đi chụp cuộc khai quật khảo cổ ở phía tây thành phố.

– À, ông ta sống ở bên kia phố, bên trên nơi đề Lester – TV và thiết bị, vẫn hay gắt gỏng như trước.

Suy đi tính lại, Kincaid mua một hộp sáu lon bia của Leroy và băng qua đường phố. Trong căn phòng bên trên hiệu Lester có một ngọn đèn. Kincaid trèo lên cầu thang và gõ cửa, rồi với tay xuống xoa bóp mắt cá chân đau trong lúc đợi.

– Ai đấy, muốn cái quái gì hở? – Bên trong có tiếng càu nhàu của một ông già.

Kincaid nói ông là ai, và cửa bật mở.

– Trời đất ơi, cái ông chụp ảnh hippie từ phía tây đến đây mà! – Ông già nắm chặt vai Kincaid. – Tôi biết ông không phải là hippie, nhưng cái mớ tóc dài khỉ nợ của ông làm tôi luôn nghĩ đến những thằng khốn chẳng-chịu-làm-gì-ngoài-tỏ-ra-lập-dị. Vào đi và xách bia của ông vào cùng. Ờ… mà từ ngày ông đến làm đủ thứ về ảnh đã bao lâu rồi nhỉ?

Kincaid nói đã tám năm rồi, và hồi liệu ông có thể đưa con Con Đường vào hay để nó ngoài xe.

– Khỉ ạ, được chứ, – ông già nói. – Nói chung là tôi thích chó. Hầu như không gặp một con chó nào thiếu tính tốt – đáng tin, trung thành, biết kính trọng, đủ hết. Với phần lớn những người tôi đã gặp, không thể nói như thế.

Với quan điểm của mình, ông già có thể điều hành một khách sạn ở Astoria, Oregon, Kincaid nghĩ lúc dẫn Con Đường lên cái cầu thang cót két, chỉ có một bóng đèn duy nhất trên đầu cầu thang chiếu sáng.

Rồi đêm tới. Họ trò chuyện về cuộc sống và đường sá, về những năm chiếu tranh, khi những vấn đề về đúng và sai thật rõ ràng, để tất cả mọi người nhìn thấy, tự do như thủy tinh dễ vỡ, bị tung hứng trong tay của những người quá trẻ. Họ nói đến tình yêu cao cả của ông già và một cô gái Pháp trong những ngày Thế chiến II, sau khi giải phóng Paris.

Kincaid hỏi thăm về người kéo phong cầm thỉnh thoảng chơi đàn ở quán Leroy.

– Ờ, Gabe vẫn kéo đàn ở đấy. Chỉ vào các tối thứ Bảy thôi, vì thế ông đến hơi sớm. Nếu ông có thể ở lại đến thứ Bảy, chúng ta sẽ đến đó, uống thật say và la hét man rợ khi bọn họ phàn nàn Gabe chơi quá nhiều bản tango và không đủ chất yêng hùng tứ xứ. Tình cờ, Gabe ở Paris cùng thời gian với tôi và học được các bản tango của các nhạc công ở quán cà phê nhỏ. Nhạc thế mới là nhạc chứ. Nghe những bản nhạc ấy, lúc nào tôi cũng cảm thấy chơi vơi khi băng qua đường vào những đêm thứ Bảy. Làm tôi nhớ đến Paris… và Amélie.

Kincaid nói ông rất thích ở lại, nhưng sáng mai phải đi rồi.

– Ờ vậy thì nếu muốn, ông có thể lăn kềnh lên sofa của tôi mà qua đêm. Cho tôi một điếu thuốc, tôi thấy bao thuốc thò ra miệng túi sơmi của ông kìa. Tôi hết thuốc lá hai ngày rồi, cái chân khốn nạn của tôi bị một phu khuân vác làm gãy, một hay hai năm sau khi ông đến hồi năm 73, nó giở chứng nên tôi không sao rời khỏi nhà suốt hai ngày nay rồi.

Kincaid đưa Con Đường đi dạo buổi tối, để nó tung tăng làm gì tùy ý. Mưa lẫn những hạt nước đá bắt dầu rơi, con phố chính của Salamander rất vắng vẻ, ngoại trừ vài chiếc xe đỗ trước quán Leroy. Dừng lại cạnh xe, Kincaid lấy cái túi ngủ trước khi trèo lên cầu thang vào nhà ông già lần nữa. Lên được nửa chừng, một cơn đau nhói dội lên trong ngực, ông phải dựa vào tường, cảm thấy đoản hơi và hơi buồn nôn, như thể toàn bộ lục phủ ngũ tạng của ông bị đe dọa ngừng hoạt động mãi mãi. Sau một, hai phút, cảm giác ấy qua đi, ông trèo hết cầu thang, lấy làm lạ về bản thân.

Trước khi đi ngủ, ông già nói:

– Ông có nghe được những tin đồn lăng nhăng về cái vụ khai quật khảo cổ sau khi ông chụp ảnh không?

Kincaid lắc đầu.

– Bắt đầu khoảng một hay hai tháng sau khi ông rời đi. Nhiều tin đồn rộ lên một thời gian, đủ thứ huyền bí diễn ra, nào ánh sáng lóe lên trên Wolf Butte, nhiều người còn quả quyết là vào ban đêm, có một con chim khổng lồ bay lượn trên chỗ khai quật. Tôi đã bảo mà, đủ thứ rồ dại. Người phụ trách chính của cuộc khai quật ngã khỏi ụ đất và bị va đập mạnh đến chết. Sau chuyện ấy không lâu, toàn bộ những người khác làm việc ở đấy cuốn gói hết.

Kincai suy nghĩ một lát rồi trả lời:

– Thế thì lạ thật. Tôi nhớ lại cuộc trò chuyện giữa các nhà khảo cổ về một nghi lễ cổ xưa dành để thờ phụng một nữ tư tế nào đó, họ tìm những dấu vết cuối cùng của một nền văn minh tình cờ gặp ở các vùng đất liên lục địa từ châu Á.

– Thôi, không quan trọng. Chuyện gì thì cũng qua rồi, – ông già thở dài. – Có một thanh niên dọn đến nhà của ông già Williston, cách Wolf Butte không xa, và hình như cậu ta chẳng sợ sệt gì. Mà này, tôi nghĩ cả hai chúng ta gần như quỵ rồi, tôi tắt đèn nhé.

– Vâng, nghe hay đấy, – Kincaiđ nói. – Tôi cũng mệt rồi.

Trong bóng tối, tuyết bắt đầu nhẹ rơi, và đến sáng, Kincaid mất vài phút mới đưa được Harry đi. Trên tầng hai của ngồi nhà gần đó, ông già nhoài ra cửa sổ và gọi với theo:

– Lần sau nhớ ghé vào nhá, đừng lâu thế. Lúc nào ở đây cũng có chỗ cho ông ở lại.

Kincaid vẫy ông già, lái chiếc Harry vào phố và rẽ về hướng Đông, thẳng tới Iowa.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.