Mùa hè định mệnh

Chương 3 phần 1



“Bà đã nghe thấy gì chưa? Idell nói là con trai bà ấy thấy Rachel Grant gặp ai đó ở bến xe bus chiều nay đấy, và bà có ngồi cả buổi cũng chẳng đoán ra là ai đâu!”

“Ai cơ?”

“Johnny Harris.”

“Johnny Harris! Sao cơ, hắn đang trong tù mà! Idell nhầm rồi.”

“Không, bà ấy thề là Jeff đã bảo thế. Hắn được khoan hồng hay sao ấy.”

“Giết người mà cũng được khoan hồng à!”

“Chắc vậy. Idell nói Jeff đã nhìn thấy rõ rành rành là Rachel đi với thằng ấy đấy, có tin được không chứ?”

“Làm gì có chuyện.”

“Đúng đấy, bà Ashton ạ,” Rachel cắt ngang cuộc trò chuyện. “Johnny Harris được khoan hồng, và cậu ấy sẽ làm việc ở cửa hàng dân dụng Grant.” Vẫn còn choáng váng sau vụ chạm trán với Johnny Harris như đã nói ở trên. Rachel phải cố gắng lắm mới nặn ra được một nụ cười bình thản với hai người hàng xóm của mình. Đây là điều hay nhất mà cũng là dở nhất ở Tylervilles: không thể nào tránh được việc bị người ta dòm ngó đời tư của bạn. Hai người phụ nữ đang đứng ở một quầy thu ngân của siêu thị Kroger [1], và bận buôn chuyện đến mức không để ý thấy Rachel ở quầy kế bên. Bà Ashton tầm sáu mươi tuổi, bạn của mẹ Rachel, rất hay dòm ngó. Pam Collier trẻ hơn, có lẽ là tầm bốn nhăm tuổi, có một đứa con trai mười sáu tuổi hiếu động sắp trở thành học sinh của Rachel vào mùa thu này. Rachel đã nghĩ rằng với một đứa con trai nghịch ngợm như vậy, Pam sẽ thông cảm đôi chút với hoàn cảnh của Johnny, nhưng hình như là không phải vậy.

[1] Hệ thống siêu thị được thành lập năm 1883 bởi Bernard Krogerd Cincinati, Ohio, Mỹ.

“Ồ, Rachel, thế còn nhà Edwards thì sao? Họ mà nghe tin đó thì sẽ chết ngất mất.” Nỗi thương cảm của bà Ashton dành cho gia đình của cô gái bị giết hiển hiện rõ trong đôi mắt.

“Cháu rất tiếc cho họ, bác biết là như thế mà,” Rachel nói, “nhưng cháu chưa bao giờ nghĩ rằng Johnny Harris đã giết Marybeth Edwards, và đến bây giờ vẫn vậy. Cháu dạy cậu ấy hồi cấp ba, xin bác nhớ cho như vậy, và cậu ấy không hư hỏng. Chí ít là không hư hỏng đến mức độ đó.”

Lương tâm bắt cô phải nói thêm câu cuối cùng ấy, Johnny Harris đã từng hư hỏng, theo kiểu hay bĩu môi, hay cãi, hay mặc áo khoác bằng dạ đen – từng ấy thứ đã đủ khiến những cư dân đàng hoàng của Tylerville ghét bỏ cậu trước rồi. Cậu ta say xỉn, đánh nhau túi bụi, đập vỡ bóng đèn và cửa sổ, nguyền rủa mọi người và đi xe máy. Những thằng con trai mà Johnny giao du cũng rác rưởi chẳng kém, và theo như lời đồn thổi thì cậu ta và bè lũ của mình đã tổ chức những bữa tiệc thác loạn chưa từng thấy ở Tylerville. Johnny góp mặt trong hầu hết những vụ gây rối cả trong lẫn ngoài trường, và miệng lưỡi sắc sảo của cậu ta cũng chẳng lấp liếm được tai tiếng lẫy lừng vốn có. Nhưng bù lại trong con mắt của Rachel, cậu ta thích đọc. Thật ra, đó là điều đầu tiên khiến cô nghĩ rằng cậu ta có thể khác so với vẻ bề ngoài.

Vào một ngày mùa thu trong kì dạy đầu tiên, cô là một giáo viên tình nguyện. Hồi đó cô mới sắp sang tuổi hai mươi hai, và cô đã thấy một cậu Johnny Harris mười sáu tuổi đi đứng nghênh ngang ngoài cổng trường như thể cậu ta có tất cả quyền trên thế giới này để làm như thế. Cô đi theo, nghi ngờ cậu này lén hút thuốc hay làm gì đó tệ hại hơn, và cuối cùng cô phát hiện ra cậu ta ở bãi đậu xe, đang nằm duỗi chân trên ghế sau xe của một sinh viên nào đó. Một mình, đôi giày cao cổ bị thủng một lỗ ở bên trái thò ra ngoài cửa sổ, đôi chân dài của cậu ta bắt tréo chỗ mắt cá chân, một cánh tay gập lại dưới đầu làm gối. Một cuốn sách để mở úp trên ngực áo dài tay.

Sự kinh ngạc của cô gần như đến cùng lúc với sự bực mình khi bị phát hiện của cậu học sinh.

“Cái lũ nhà Harris đó đều xấu xa, từng đứa từng đứa một! Cháu còn nhớ hồi Buck Harris tuyên bố là đã đi tu rồi tự xưng là giáo sĩ, sau đó tự lập nhà thờ riêng chứ? Hắn đã thu không biết bao nhiêu tiền quyên góp, bảo là để hỗ trợ cho những trẻ em đang chết đói ở Appalachia. Thế rồi hắn lấy tiền đó đi đánh bạc, uống rượu và sống như một ông hoàng. Hắn phải ngồi tù gần một năm vì vụ đó, mà đấy chưa phải là điều tồi tệ nhất mà hắn từng làm đâu. Không đời nào, nếu chúng ta biết được tất cả sự thật.” Bà Ashton mím chặt môi, nhớ lại.

Rachel băn khoăn không biết mình có quyên tiền cho “nhà thờ” của Buck Harris không nữa. Chuyện đó ầm ĩ khắp thị trấn đến mức chỉ có những người khờ khạo mới bị lừa. Dù sao thì ai mà tin Buck Harris cơ chứ? Cô nhỏ nhẹ nói, “Bác không thể kết tội Johnny vì những việc anh trai cậu ta làm được.”

“Hừm!” Bà Ashton nói, rõ ràng là không thấy thuyết phục.

Rachel nhẹ nhõm vì thấy Betty Nichos, nhân viên thu ngân, vẫn nhanh nhẹn đóng gói đống đồ tạp phẩm của mình ngay cả khi đang tròn mắt lên nghe câu chuyện ngồi lê đôi mách. Máu dồn lên thái dương cô báo hiệu cơn đau đầu sắp đến. Cô đã bị chứng bệnh đó nhiều năm rồi, từ hồi nhận ra rằng mình sẽ không bao giờ rời Tylerville. Không bao giờ. Những mối ràng buộc về tình cảm và trách nhiệm bao chặt lấy cô, và bây giờ nó quấn quanh cô như những vòng kim loại. Cô đã chấp nhận điều đó, đã chịu thua trước nó, và cảm thấy sự trào lộng đến trớ trêu trước số phận của mình. Cô, người luôn mơ ước được bay xa đến một cuộc đời hoàn toàn khác, cuối cùng đã tự cắt đi đôi cánh của mình. Cô cũng là một nạn nhân của chính cái mùa hè định mệnh cách đây mười một năm.

Cuộc đời cô bây giờ gắn chặt với lối mòn mà nó chắc chắn sẽ đi trong vòng năm mươi năm nữa: cuộc đời của một giáo viên cấp ba ở một thị trấn nhỏ. Trách nhiệm của cô là phải mở mang đầu óc cho giới trẻ của Tylerville, dạy cho chúng sức mạnh và vẻ đẹp của ngôn từ. Lúc đầu, viễn cảnh đó làm cô hứng thú. Nhưng qua nhiều năm, cô nhận ra rằng việc khơi lên trí tưởng tượng và sự sáng tạo không có thành tựu, chẳng khác nào tìm ngọc quý dưới đáy biển đầy hàu. Mà công việc gì cũng cần đôi lần thành công để làm động lực.

Johnny Harris từng là một trường hợp thành công như thế. Có khi lại là thành công chắc chắn nhất.

Vừa nghĩ về hắn, đầu cô đã bắt đầu đau nhức. Nhăn mặt, cô rờ rẫm trong túi xách để tìm quyển séc, cách này sẽ giúp cô sớm thoát khỏi cửa hàng tạp hóa. Lúc này, cô cần tránh cái áp lực phải bảo vệ Johnny Harris trước bất kì người nào trước khi bản thân cô thấy thoải mái với hắn (dù hắn có không phạm tội giết người đi chăng nữa thì cũng không còn là cậu con trai mà cô nhớ). Bây giờ, cô chỉ khát khao được ở một mình, mười phút thôi là đủ. Đồ của bà Ashton đang được chất lên chiếc xe đẩy, và vài món hàng cuối cùng của Pam Collier đang được đưa đến chỗ máy quét giá. Tạ ơn Chúa, sẽ không còn lâu nữa. Vài phút nữa thôi cô sẽ thoát được ra ngoài.

“Sue Ann Harris đúng là một người đàn bà hư hỏng. Bây giờ cô ta đang sống ở Detroit, nghe nói cô ta là một trong số những bà mẹ tốt phúc có hẳn ba đứa con với ba người đàn ông khác nhau. Và cô ta cũng chẳng cưới ai trong số họ cả.”

“Không phải thế chứ!” Bà Ashton lắc đầu.

Pam gật đầu. “Đấy là tôi nghe thế. Và ai cũng biết Grady Harris từng là kẻ buôn ma túy tầm cỡ nhất trong bang cho tới lúc chết đuối cách đây ba năm. Mà nếu hắn không dùng ma túy quá liều thì đã chả chết đuối.“

Rachel hít một hơi thật sâu để lấy bình tĩnh. Đầu nhức như búa bổ nhưng cô phớt lờ cơn đau. “Cháu lại nghe nói là cậu ta và mấy người bạn tổ chức tiệc trên một con thuyền, rồi cậu ta ngã xuống và đập đầu vào đâu đó. Không ai có thể minh chứng được cậu ta có làm gì khác ngoài uống rượu bourbon không. Và nếu uống bourbon là một tội thì quanh đây có nhiều tội phạm lắm đấy ạ.” Mặc dù bản thân cô cũng nghi ngờ anh em nhà Harris, nhưng cô thấy mình vẫn phải nói ra sự thật. Như những người khác trong thị trấn, cô cũng biết về những tin đồn. Điều mà cô và mọi người không biết là những lời đồn đại đó đúng đến đâu. Tất nhiên là chuyện đó không thể ngăn người ta nhắc đi nhắc lại chúng được rồi. Chuyện ngồi lê đôi mách là nguồn sống của Tylerville. Nếu ngăn chúng lại thì cô ngờ rằng rất nhiều người dân nơi đây sẽ chết mất.

Mặc dù nếu thẳng thắn đối mặt với vấn đề, cô sẽ phải thừa nhận rằng lời nói của Pam và bà Ashton chứa khá nhiều sự thật. Xét về tổng thể thì nhà Harris không phải là những công dân được yêu mến nhất ở Tylerville. Rachel không nghi ngờ gì về điều đó. Tất cả những gì mà cô muốn làm là cho một cậu con trai – không, giờ là một người đàn ông rồi – cơ hội thứ hai trong đời, và cô tin người này xứng đáng. Cô không cố tôn vinh Johnny Harris lên làm thần thánh. Cô chỉ cảm thấy rằng trong vụ giết người liên quan đến Marybeth Edwards, hắn đã bị oan.

“Willie Harris có con ở khắp nơi nữa chứ. Thậm chí một số đứa ở Perrytown cũng là con của ông ta nữa, tôi nghe người ta nói vậy.” Pam hạ giọng khi thuật lại chi tiết hay hớm đó. Để hiểu được tầm quan trọng của nó, người ta phải biết rằng Perrytown là một khu vực tách biệt của người da đen nằm ở ngoại ô thị trấn. Mặc dù luật pháp quy định phải có sự đoàn kết và gần như tất cả mọi người ở Tylerville đều là những người lớn tiếng phản đối phân biệt chủng tộc, nhưng thực tế là đa số những người da đen vẫn sống cùng nhau trong cộng đồng bé nhỏ của họ.

“Ồ, tôi không tin điều đó đâu!” Thậm chí cả bà Ashton cũng có vẻ sốc trước lời nói xấu về cha của Johnny.

“Tôi nghe thế mà.”

“Tất cả là ba mươi bảy đô sáu mươi hai xu ạ, thưa cô Grant.”

“Sao cơ?”

Betty Nichos kiên nhẫn nhắc lại số tiền. Nhẹ nhõm vì thấy có việc để làm, Rachel vội vã viết một tờ séc và đưa nó cho Betty. Tất cả mọi người ở Tylerville đều biết nhau. Betty là học sinh cũ của cô, vậy nên cô không cần phải trình giấy phép lái xe hay giấy tờ gì đó tương tự. Cả thị trấn biết séc của nhà Grant có giá trị như vàng, cũng như cả thị trấn không ai chấp nhận bất kì tờ séc nào của nhà Harris.

Đó là cuộc sống ở Tylerville.

“Chào bà Ashton. Chào chị, Pam.” Rachel xách mỗi tay một túi và đi ra phía bãi đậu xe.

“Chờ chút, Rachel!” Bà Ashton gọi với theo sau. Pam cũng nói với theo điều gì đó, nhưng Rachel đã đi qua cửa tự động và không nghe được nữa. Cô cũng chẳng bận tâm.

Lái xe về nhà, đầu như búa bổ, Rachel thấy chưa bao giờ mình khốn khổ đến thế trong đời. Có lẽ là do nóng quá. Hoặc là do sự căng thẳng vì phải bảo vệ Johnny Harris.

Ví cô nằm trên ghế hành khách. Kéo nó về phía mình và dò dẫm tìm bên trong, Rachel tìm thấy hộp thuốc đau đầu cô luôn mang theo mình. Mở cái nắp nhỏ bằng kim loại mà không lạc tay lái quả là khó khăn, nhưng cô đã làm được và nuốt khan hai viên thuốc.

“Đây là bức thư của tôi dành cho thế giới/cái thế giới chưa bao giờ viết cho tôi…”

Những từ ngữ của Emili Dickinson vụt qua tâm trí Rachel. Cô vẫn luôn yêu thích thơ ca, và gần đây, cô cảm thấy dòng thơ đó dường như là bản tóm tắt chính xác cuộc đời của mình vậy. Với cô, nó là biểu tượng cho một tâm hồn đầy khát khao bị khóa chặt trong sự nhàm chán của một cuộc đời tầm thường. Như Emili Dickinson, dạo này Rachel nhận ra mình khao khát nhiều hơn, mặc dù cô không biết đích xác mình mong muốn điều gì. Cô thường cảm thấy cô đơn kinh khủng cho dù xung quanh cô không thiếu bạn bè. Nhưng không ai trong số những người cô quen biết có thể trở thành một người tri âm tri kỉ.

Qua nhiều năm, cô đã nhận ra rằng mình không phù hợp với cuộc sống ở Tylerville. Cô khác với gia đình mình, khác hàng xóm của mình, khác đồng nghiệp và học sinh của mình. Cô đọc tất cả những thứ mà mình có thể chạm tay vào: tiểu thuyết và kịch, tiểu sử và thơ ca, báo chí, tạp chí, hộp ngũ cốc… Tất cả mọi thứ. Mẹ và em gái cô đọc sách nấu ăn và tạp chí thời trang. Bố cô đọc Tuần báo Kinh doanh và Thể thao. Cô có thể ở một mình nhiều giờ liền. Nếu được lựa chọn, cô còn thích được ở một mình hơn. Họ lại không thể vui vẻ nếu không được trò chuyện giao tiếp liên tục. Cô thậm chí còn làm thơ và mơ mộng rằng một ngày nào đó chúng sẽ được xuất bản nữa.

Gia đình cô cười bao dung trước những dòng thơ nguệch ngoạc của cô.

Tuy vậy, cô vẫn yêu họ và họ cũng thế.

Đôi khi cô thấy mình như con thiên nga vụng về trong câu chuyện về chú vịt con xấu xí. Dù có cố gắng đến mấy để giống với những người khác – và cô đã cố thật, suốt bao nhiêu năm – cô vẫn không thể làm được điều đó. Cuối cùng cô học được một cách đơn giản là giả vờ mình cũng giống như họ. Chuyện đó khiến cuộc sống dễ dàng hơn, và lại không hề khó thực hiện. Tất cả những gì cô phải làm là giữ lại tám mươi phần trăm những suy nghĩ và cảm nhận cho riêng mình.

Lái xe vào giữa hai cột đá lớn đánh dấu lối vào trang trại rộng 250 mẫu Anh có tên là Walnut Grove của bao thế hệ gia đình Grant, Rachel cảm thấy sự căng thẳng bắt đầu thoát ra khỏi cơ thể mình. Cơn đau hai bên thái dương bắt đầu giảm dần, và cô nhẹ cả người khi nhận thấy điều đó. Cứ về nhà là cô thấy dễ chịu. Cô yêu ngôi nhà rộng rãi có tuổi đời tính theo thế kỉ mà mình đã lớn lên. Cô yêu con đường lái xe thật dài dẫn vào nhà mới được mở cách đây mười năm, con đường đó uốn lượn quanh co qua các hàng sồi và phong cao chót vót. Cô yêu những bụi sơn phù du và muồng búp đỏ luôn biến khu nhà thành một mảnh đất thần tiên đẹp rực rỡ trong mùa xuân, những cây đào mọc ở đằng sau cho quả sai trĩu trịt, và cả những cây óc chó rải rác trên đoạn đường gần tới sân, ra những quả cứng màu xanh lục vào mùa thu, chờ đến đông là ăn được. Cô yêu cảnh những con ngựa nhà nuôi đứng nhai cỏ giữa những cánh đồng có hàng rào gỗ phía trước ngôi nhà. Cô yêu chuồng gia súc mà ông nội và cụ của cô đã xây nên, ba cái ao, và cả cánh rừng trải dài ở phía sau ngôi nhà nữa. Cô yêu chiếc cổng ra vào cũ kĩ được mở rộng từ phần hông của ngôi nhà, nơi cô thường đậu xe. Cô yêu nước sơn trắng mềm bị bong đôi chỗ để lộ ra màu của đám gạch hồng xây nên ngôi nhà, cả màu đỏ của mái tôn tạo thành ngôi nhà ba tầng rưỡi với những chóp nhọn và đầu hồi. Cô yêu mái hiên rộng với những hàng, cột to màu trắng tôn thêm vẻ duyên dáng cho mặt tiền của ngôi nhà, cả lối đi lát đá dẫn ra sau nhà nữa. Cô xuôi theo lối đi ấy, hai tay ôm đầy những đồ tạp phẩm, để mặc cho cảnh tượng, mùi hương và âm thanh của nơi này vuốt ve những dây thần kinh đang căng cứng của mình. Như thường lệ, về nhà thật thoải mái.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.