… Hai gã đàn ông đưa Rafaël ra khỏi xà lim. Trong khi một tên túm tóc anh lôi đi thì tên kia dùng roi gân bò đánh tới tấp vào bắp chân Rafaël để không cho anh đứng thẳng dậy. Cơn đau ở đầu dữ dội đến mức anh tưởng như da đầu bật ra đến nơi; mỗi mét bước đi, Rafaël đều gắng gượng đứng dậy, nhưng hai đầu gối anh lại sụm xuống dưới đòn roi. Trò chơi tra tấn nho nhỏ này chỉ tạm thời dừng lại khi cả bọn đến trước một cánh cửa sắt.
Cánh cửa đó mở vào một căn phòng lớn hình vuông, không hề có cửa sổ.
Mấy bức tường lốm đốm những vệt dài màu đo đỏ, nền nhà đất nện sặc mùi máu khô cùng phân người, thứ mùi hắc không thể chịu nổi. Hai bóng điện treo lơ lửng trên trần.
Ánh sáng chói lóa cả mắt nếu không muốn nói là tương phản hoàn toàn với cảnh tranh tối tranh sáng trong xà lim mà anh đã ở suốt hai ngày qua, không được ai cho bất cứ đồ ăn thức uống nào.
Chúng lột áo sơ mi, quần dài và cả quần lót rồi buộc anh ngồi vào một chiếc ghế sắt, được gắn chắc bằng xi măng xuống nền nhà. Hai sợi dây trói bằng da ghì vào thành ghế, hai sợi khác ở phía chân ghế. Khi Rafaël bị trói chặt vào ghế, sợi dây da cứa đứt da thịt anh.
Một viên đại úy bước vào. Hắn mặc bộ đồng phục được là ủi thẳng thớm không chê vào đâu được. Tên đó ngồi xuống góc một chiếc bàn, lấy tay xoa xoa mặt gỗ để phủi bụi và đặt chiếc mũ cát két xuống. Rồi hắn lặng lẽ đứng dậy, tiến đến gần Rafaël, tung một cú đấm móc vào hàm anh. Rafaël cảm thấy máu chảy rần rật trong miệng. Anh không thể kêu hét, lưỡi anh đã bị dính chặt vào vòm miệng vì khô khốc.
– Antonio… (một cú đấm khiến mũi anh gãy vụn), Alfonso… (một cú khác vào cằm), Roberto… (cú thứ ba làm rách toạc vành xương lông mày)… Sánchez. Mày đã nhớ ra tên tao chưa hay là muốn tao nhắc lại?
Rafaël đã bất tỉnh nhân sự. Chúng tạt một xô nước thối inh vào mặt anh.
– Nhắc lại tên tao đi, đồ vô lại! Tên đại úy ra lệnh.
– Antonio, Alfonso, Roberto, con hoang gái điếm, Rafaël thì thào.
Tên đại úy giơ tay lên nhưng rồi lại rụt tay về; hắn vừa cười vừa ra hiệu cho hai tên bộ hạ chuẩn bị cho gã vô chính phủ mất dạy kia nếm mùi máy phát điện.
Chúng đặt nhiều tấm đúc bằng đồng lên ngực và đùi anh để dẫn điện, chúng nối dây điện trần vào mắt cá chân, cổ tay rồi cả hai bên tinh hoàn của anh.
Lần phóng điện đầu tiên đẩy cơ thể anh về phía trước, và anh đã hiểu vì sao chiếc ghế lại được gắn chặt xuống nền nhà. Hàng nghìn mũi kim châm chạy rần rật trong mạch máu anh, dưới da anh.
– Antonio Alfonso Roberto Sánchez! Tên đại úy thản nhiên nhắc lại.
Cứ khi nào Rafaël bất tỉnh thì một xô nước hôi thối lại buộc anh trở lại với màn tra tấn mà chúng đang bắt anh phải chịu.
– Ant… Alfonso… Rob… ánchez, anh thì thầm trong lần phóng điện thứ sáu.
– Thế mà cứ khoe mình là trí thức, đến phát âm đúng một cái tên cũng chẳng xong, tên đại úy cười khẩy.
Hắn dùng đầu cây gậy mảnh nâng cằm Rafaël lên rồi cứa nhanh, mạnh một nhát vào má anh.
Rafaël chỉ nghĩ đến Isabel, đến María Luz, và nhất quyết không chịu nhục xin tha.
– Cái nhà in chết tiệt của chúng mày ở đâu? Tên đại úy hỏi.
Khi nơi ấy được nhắc đến, Rafaël, mặt sưng vù, thân thể bầm giập, thả hồn đến với căn phòng có bức tường xanh tróc lở vữa. Anh cảm nhận được mùi giấy, mùi mực và mùi rượu metila mà các bạn anh thường sử dụng để làm máy in rônêô hoạt động. Ký ức thuộc về khứu giác này khiến anh trở nên minh mẫn hơn chút.
Một luồng điện phóng tiếp theo khiến người anh rung lên bần bật, anh bắt đầu co giật và không kiểm soát được các cơ thắt. Nước tiểu lẫn máu trong người anh chảy ra dọc hai cẳng chân. Đôi mắt, chiếc lưỡi cùng bộ phận sinh dục mất hết sức sống. Anh bất tỉnh nhân sự.
Tay bác sĩ phụ tá cho đại úy chạy đến nghe tim phổi, kiểm tra đồng tử rồi thông báo hôm nay thế là đủ rồi nếu chúng muốn giữ mạng sống của anh. Và tay đại úy Antonio Alfonso Roberto Sánchez dĩ nhiên là muốn giữ cho tù nhân của mình còn sống. Nếu muốn anh chết, hắn chỉ cần bắn một phát vào đầu là xong, nhưng còn hơn cả chết, hắn muốn anh phải chịu đau đớn bội phần để trả giá cho hành động phản bội.
Trong khi bị bọn tay chân lôi về xà lim, Rafaël bất tỉnh và chịu đòn tra tấn kinh khủng nhất khi nghe thấy, từ đầu kia hành lang, tên đại úy Sánchez hét lên: “Dẫn vợ hắn ta lại đây.”
Isabel và Rafaël trải qua hai tháng ròng ở trung tâm ESMA. Chúng đã dùng băng dính dán chặt mí mắt hai người để ngăn họ ngủ và khi họ dần chìm vào trạng thái mất ý thức, chúng lại đánh thức họ bằng những cú đá hay dùi cui.
Suốt hai tháng ròng, vốn chẳng bao giờ được gặp nhau trong hành lang dẫn tới phòng tra tấn, Isabel và Rafaël cứ dần dần rời xa cái thế giới mà họ từng biết loài người. Trong quãng thời gian lẫn lộn giữa ngày lẫn đêm mà họ chẳng tài nào phân biệt nổi đó, họ chìm đắm trong vực thẳm tăm tối mà những tín đồ sùng đạo nhất cũng chẳng thể hình dung nổi.
Tuy vậy, khi tên đại úy Sánchez dẫn họ đến căn phòng nơi họ bị tra tấn, hắn viện dẫn đến những hành động phản bội của họ, khi là phản bội Tổ quốc, khi là phản bội đức Chúa trời. Và khi nhắc đến Chúa trời, hắn lại càng đánh mạnh tay hơn.
Tên đại úy ra lệnh chọc mù mắt Isabel nhưng một tia sáng trong cô không hề lụi tắt, đó chính là ánh mắt của María Luz. Thi thoảng, cô những muốn các đường nét của khuôn mặt con gái bị xóa nhòa đi để cô được buông xuôi mà chết. Chỉ có cái chết mới có thể giải phóng cho cô, chỉ có cái chết mới đưa cô về với đồng loại của mình mà thôi.
Một tối, tên đại úy buồn chán, hắn ta ra lệnh cắt đứt bộ phận sinh dục của Rafaël. Một trong những tay chân của hắn dùng kéo cắt. Tay bác sĩ phụ trách việc khâu lại, không có chuyện để mặc Rafaël mất sạch máu.
Vào đầu tháng cầm tù thứ hai, chúng tháo băng dính để giật mí mắt họ. Mỗi lần tên đại úy cho gọi nạn nhân của mình đi là họ lại mất một phần dáng vẻ con người. Không còn có thể nhận ra Isabel được nữa. Khuôn mặt cùng bầu vú của cô bị bỏng vô số chỗ do đầu mẩu thuốc lá của tên đại úy dúi vào da cô. (Và hắn ta hút hai bao mỗi ngày.) Ruột gan cô, vốn cũng bị bỏng nặng do tác động của các luồng điện chạy qua người, khó khăn lắm mới chịu đựng được những ngụm nước nóng mà chúng bắt cô uống bằng thìa. Đã từ lâu lắm rồi, lỗ mũi cô chẳng còn ngửi thấy mùi phân của chính mình mà cô đang ngập ngụa trong đó. Bị đưa trở về trạng thái súc vật, Isabel mang vào trong cảnh tối tăm này hình ảnh khuôn mặt của cô con gái María Luz mà cô không lúc nào ngơi thầm gọi tên.
Một sáng, tên đại úy không còn cảm thấy hứng thú với việc mình làm nữa. Cả Rafaël lẫn Isabel đều không chịu khai ra địa chỉ của xưởng in. Hắn ta cóc quan tâm, ngay từ đầu hắn đã cóc quan tâm. Một viên đại úy tầm cỡ như hắn còn có những nhiệm vụ khác chứ không chỉ chăm chăm truy lùng cái máy in sao tầm thường đó. Khi nhìn những nạn nhân của mình vẻ kinh tởm, hắn vui mừng vì đã đạt được mục đích. Hắn đã hoàn thành nhiệm vụ, làm cho hai kẻ vô đạo đức dám chối bỏ Tổ quốc, dám từ chối phục tùng một mệnh lệnh duy nhất có khả năng mang lại vinh quang cho đất nước Argentina sự vĩ đại mà nó đáng được hưởng, phải sức cùng lực kiệt. Tên đại úy Sánchez là một kẻ yêu nước tận tâm và có Chúa công nhận tấm lòng đó của hắn.
Vào lúc xế chiều, tay bác sĩ bước vào xà lim giam Isabel. Thật mỉa mai thay, khi phải tiêm mũi penthotan, hắn còn khử trùng vùng lõm khuỷu tay bằng một miếng bông thấm cồn. Thứ thuốc độc đó khiến cô ngủ sâu nhưng không giết chết cô. Mục đích chính là thế. Rồi đến lượt Rafaël cũng chịu chung số phận trong buồng giam anh nằm ở tận cuối hành lang.
Đêm đến, chúng chuyển cả hai lên một chiếc xe tải nhỏ cho đến tận một sân bay bí mật nằm ở vùng ngoại ô rộng lớn của Buenos Aires. Một chiếc máy bay hai động cơ của không quân đang đợi trong nhà để máy bay. Isabel và Rafaël được đặt nằm dài trong khoang sau cùng khoảng hai chục tù nhân khác, dưới sự canh gác của bốn tên lính có nhiệm vụ áp giải những con người bất tỉnh nhân sự. Chiếc máy bay chở đầy hàng này cất cánh mà không hề bật đèn hiệu. Tay thiếu tá đã nhận được chỉ dẫn lái thẳng đến dòng sông rồi đổi hướng về phía Đông Nam, ở độ cao thấp lè tè. Đường bay không bao giờ được xáp lại gần bờ biển Uruguay. Đến cửa sông đổ ra đại dương, hắn quay ngược lại rồi quay trở về điểm xuất phát. Một nhiệm vụ quen thuộc.
Và thiếu tá Ortiz theo những chỉ dẫn này từng li từng tí một. Chiếc máy bay lao lên bầu trời Argentina, bay lượn phía trên bồn địa Rio de La Plata và hoàn thành nhiệm vụ một giờ sau đó.
Lúc bấy giờ, đám lính canh mở cửa hậu và chúng chỉ mất vài phút để ném mười người đàn ông cùng mười người phụ nữ bất tỉnh nhân sự, nhưng vẫn còn sống, xuống biển. Tiếng ồn inh tai của động cơ giúp chúng không phải nghe thấy âm thanh trầm đục của các cơ thể khi đập vào sóng biển trước khi bị cuốn đi. Từng đàn cá mập đã hình thành thói quen lảng vảng ở vùng nước đục này để rình đợi khẩu phần ăn hằng ngày từ trên trời rơi xuống vào cùng một giờ mỗi tối
Isabel và Rafaël đã trải qua những giờ phút cuối cùng trong đời bên nhau mà không hề hay biết. Khi chiếc máy bay quay ngược trở lại nhà để máy bay, họ mãi mãi thuộc về hàng ngũ gồm ba mươi nghìn người bị chế độ độc tài Argentina tính là mất tích…
Valérie đặt mấy tờ giấy xuống rồi đi ra phía cửa sổ, cô cảm thấy một nhu cầu cấp thiết là phải hít thở không khí trong lành, cô không thể thốt lên lời nào.
Andrew ôm cô từ sau lưng rồi ghì thật chặt.
– Chính em đã nài nỉ anh đấy nhé, anh đã bảo em đừng đọc rồi còn gì.
– Thế còn María Luz thì sao? Valérie hỏi.
– Chúng không giết trẻ con. Chúng giao bọn trẻ cho các gia đình thân chính quyền, hoặc bạn bè của những kẻ thân chính quyền. Chính quyền tạo cho chúng nhân thân mới với tên cha mẹ nhận nuôi chúng. María Luz được hai tuổi khi Rafaël và Isabel bị bắt cóc, nhưng có hàng trăm phụ nữ đang mang thai vào thời điểm bị bắt.
– Thế những kẻ đểu cáng đó tra tấn cả những phụ nữ có mang ư?
– Đúng vậy, bằng cách canh chừng giữ cho họ sống đến lúc sinh nở, rồi chúng bắt luôn những đứa trẻ sơ sinh. Quân đội khoe khoang rằng đã cứu rỗi những linh hồn vô tội khỏi sự đồi bại bằng cách trao chúng cho những bậc cha mẹ có đủ tư cách đảm bảo cho chúng một nền giáo dục xứng đáng với những giá trị của nền độc tài. Họ cho rằng đó là việc tốt theo đúng tinh thần đạo Cơ Đốc và các giới chức Nhà thờ, vốn biết rõ những gì đang diễn ra, cũng một mực đảm bảo cho điều đó. Vào những tháng cuối thai kỳ, các bà mẹ tương lai được trú trong những nhà hộ sinh tạm bợ được dựng trong trại giam. Ngay khi lọt lòng, con của họ bị lấy đi ngay lập tức… em biết số phận đang chờ những người phụ nữ này là gì rồi đó. Phần lớn những đứa trẻ đó, giờ đã khôn lớn, không hề hay biết rằng cha mẹ đẻ của chúng đã bị tra tấn dã man trước khi bị ném sống xuống đại dương. Có thể trường hợp của María Luz cũng như vậy.
Valérie quay lại nhìn Andrew. Anh chưa bao giờ từng thấy cô xáo động và giận dữ cùng lúc như vậy, và những gì anh nhận thấy trong đôi mắt cô gần như khiến anh thấy sợ.
– Hãy nói với em là cho đến giờ, những kẻ chưa chết thì vẫn trong nhà lao và chúng sẽ ở đó cho đến hết đời.
– Anh cũng muốn có thể nói với em như vậy lắm. Những kẻ phạm tội ác tàn bạo đó đã hưởng lợi từ một đạo luật ân xá, được thông qua nhân danh sự hòa giải dân tộc, và khi luật đó bị bãi bỏ, phần lớn chúng đã biết cách để bị lãng quên hoặc thay đổi nhân thân. Chúng không hề thiếu kinh nghiệm trong việc này và cũng chẳng thiếu sự trợ giúp về chính trị để tạo điều kiện thuận lợi cho việc đó.
– Anh sẽ quay lại đó rồi kết thúc cuộc điều tra của mình. Anh sẽ tìm lại được tên Ortiz và tất cả những kẻ khốn nạn đó. Hứa với em như vậy đi!
– Đó chính là mong muốn của anh kể từ khi tiến hành cuộc điều tra này. Em đã hiểu tại sao anh lại phải lao tâm khổ tứ đến vậy rồi chứ? Em đã trách anh là không quan tâm nhiều đến em phải không? Andrew hỏi.
– Em muốn moi gan móc mật bè lũ kia.
– Anh hiểu, anh cũng thế mà, nhưng giờ thì em hãy bình tâm lại.
– Đối diện với kẻ rác rưởi đó, anh không thể hình dung những điều em có thể làm đâu. Em sẽ chẳng thấy chút cắn rứt nào nếu phải loại bỏ lũ quái vật đang tâm tra tấn cả phụ nữ có thai như sát hại một đàn chó dại ấy.
– Để em ngồi bóc lịch trong tù đến tận cuối đời à… quả là rất thông minh.
– Tin em đi, em biết cách làm thế nào mà không để lại dấu vết, Valérie tiếp lời mà vẫn chưa nguôi giận.
Andrew quan sát cô rồi ghì cô chặt hơn nữa trong vòng tay.
– Anh không nghĩ là những trang viết kia lại khiến em rơi vào trạng thái như lúc này. Lẽ ra anh không nên đưa em đọc mới phải.
– Em chưa bao giờ đọc cái gì gây phẫn nộ đến vậy, em rất muốn được cùng anh đến đấy lùng tìm lũ quái vật đó.
– Anh không chắc đó là ý hay đâu.
– Sao vậy? Valérie nổi khùng.
– Bởi lũ quái vật đó, như em vẫn gọi, phần lớn đang còn sống, và dĩ nhiên năm tháng qua đi không chắc đã khiến chúng trở nên vô hại đâu.
– Thế mà anh còn sợ lũ ngựa cơ đấy…
°
Sáng hôm sau, lúc rời nhà, Andrew ngạc nhiên khi gặp Simon ở dưới tòa nhà mình sống.
– Cậu có thời gian đi uống cà phê không? Cậu bạn lên tiếng hỏi anh.
– Dù sao cũng chào cậu…
– Đi theo tớ, Simon nói, vẻ lo lắng hơn bao giờ hết.
Cả hai đi ngược lên phố Charles, Simon vẫn lặng thinh không nói một lời.
– Có chuyện gì thế? Andrew lo lắng hỏi khi bước vào quán Starbucks.
– Cậu đi lấy hai cốc cà phê đi, tớ sẽ giữ bàn này, Simon vừa ngồi xuống chiếc ghế bành gần cửa kính vừa nói.
– Tuân lệnh!
Andrew xếp hàng đợi đến lượt, mắt vẫn không rời khỏi Simon, thái độ của cậu bạn khiến anh tò mò.
– Một mocaccino cho tôi, còn cappuccino cho quý ngài Hoàng thân, Andrew nói khi ra chỗ bạn vài phút sau đó.
– Tớ có tin xấu đây, Simon thông báo.
– Tớ nghe đây.
– Liên quan đến tay Freddy Olson đó.
– Cậu đã theo dõi hắn và cậu thấy hắn chẳng đi đâu cả… Tớ biết điều này từ lâu rồi.
– Nực cười quá đấy. Tớ đã dành cả tối mùa đông lạnh giá ngồi trước máy tính lần mò trong website của tờ báo nhà cậu để tìm kiếm các bài báo cậu đã viết.
– Lẽ ra cậu nên gọi cho tớ nếu cậu buồn chán đến vậy, Simon của tớ à.
– Cậu sẽ bớt huênh hoang đi trong ít phút nữa thôi. Không phải tớ quan tâm đến văn vẻ của cậu mà là những bình luận của độc giả cơ. Tớ muốn kiểm tra xem liệu có tên gàn dở nào viết bậy bạ linh tinh về bài báo cậu viết không.
– Tớ nghĩ là cũng phải có vài tên…
– Tớ không nói đến những kẻ nghĩ cậu là tay nhà báo kém cỏi.
– Có những độc giả đăng những bình luận như thế trên website tờ báo ư?
– Đúng là có một số, nhưng…
– Cậu chỉ tớ biết đi, Andrew cắt ngang.
– Cậu để tớ nói hết chứ?
– Đó không phải là tin xấu của cậu à?
– Tớ nhận thấy có một loạt bình luận mang thái độ thù nghịch chẳng hề liên quan đến việc đánh giá phẩm cách nghề nghiệp của cậu. Lời lẽ thô bạo đến sững sờ.
– Như thế nào?
– Đại loại như chẳng ai thèm đọc bài của hắn đâu. Trong số những bình luận hung hăng nhất, tớ chú ý đến bình luận của một tay Spookie-Kid nào đó do số lượng lời bình nhiều kinh lên được. Tớ không rõ cậu đã làm gì hắn, nhưng hắn chẳng hề yêu thích cậu tẹo nào. Tớ đã mở rộng phạm vi tìm kiếm để tìm hiểu xem liệu cái gã giấu mình sau biệt danh kia có tham gia vào các forum hay hắn có blog hay không.
– Thế rồi sao?
– Hắn quả thật đã đưa cậu vào ống ngắm. Mỗi lần cậu có bài đăng, hắn liền nhiếc móc cậu ngay, và thậm chí ngay cả khi cậu không có bài. Nếu cậu đọc tất cả những gì tớ có thể tìm thấy trên mạng do nickname này viết ra thì cậu sẽ là người đầu tiên phải kinh ngạc ấy, à mà không, là người thứ hai, sau tớ.
– Nếu tớ hiểu đúng thì đang có một tay bút quèn hẳn ngất ngây trước mấy tấm poster của Marilyn Manson căm ghét công việc của tớ, đó có đúng là tin xấu của cậu không?
– Sao lại là Marilyn Manson?
– Tớ không biết, tự dưng tớ nghĩ thế thôi, tiếp đi.
– Nghiêm túc nào, sao cậu lại nghĩ thế?
– Spookie Kids là tên thời kỳ đầu của nhóm rock Marilyn Manson.
– Sao cậu lại biết?
– Bởi tớ là một tay nhà báo kém cỏi mà, tiếp nào!
– Trong các mối quen biết của tớ, có một tay thiên tài tin học trẻ tuổi, nếu cậu hiểu điều tớ muốn nói…
– Không hề.
– Một trong những tay tin tặc ấy, cứ mỗi Chủ nhật lại thử xâm nhập vào hệ thống máy chủ của Lầu Năm Góc hay CIA để giải trí. Tớ ấy à, thời đôi mươi, tớ thích đám con gái hơn, nhưng thôi, cậu còn muốn gì chứ, thời thế đã thay đổi rồi…
– Duyên chưa! Sao cậu lại quen được một tay hacker nhỉ?
– Cách đây vài năm, khi mới mở xưởng, tớ hay cho đám choai choai con nhà giàu thuê xe vào cuối tuần để kiếm cơm. Một trong số chúng, khi đem trả chiếc Corvette, đã để quên thứ gì đó dưới hộp tì tay ở giữa.
– Hàng nóng à?
– Có, nhưng với số lượng đủ cho cả một đàn bò gặm. Hút hít chưa bao giờ là món của tớ cả. Nếu tớ báo vụ này với cảnh sát thì hẳn thằng nhóc đó sẽ có đủ thời gian để chữa trị đám mụn trứng cá trước khi có thể làm lại từ đầu với máy tính vào một ngày nào đó. Nhưng vì chẳng phải là cán cân công lý nên tớ đã trả lại nó thứ thuộc về nó. Thằng nhóc thấy tớ “thật thà quá” và nó đã hứa với tớ rằng nếu một ngày nào đó tớ cần bất cứ thứ gì thì tớ có thể trông cậy vào nó. Thế là đêm qua, đúng lúc 11 giờ, tớ tự nhủ mình đúng là đang cần làm một việc trong tầm tay nó. Đừng hỏi tớ là nó đã làm như thế nào nhé, tớ hoàn toàn mù tịt về tin học, nhưng sáng nay nó đã gọi cho tớ sau khi xác định được địa chỉ IP của Spookie. Một dạng đăng ký địa chỉ máy tính của cậu khi cậu kết nối Internet ấy mà.
– Gã tin tặc của cậu đã xác định được danh tính tên Spookie, kẻ đã buông những lời cay độc với tớ ư?
– Không phải danh tính hắn mà là nơi hắn tung những lời cay độc đó. Và cậu sẽ ngạc nhiên khi biết rằng Spookie đã đăng những bình luận của hắn từ mạng của The New York Times.
Andrew sững sờ nhìn Simon.
– Cậu có thể nhắc lại điều đó được không?
– Cậu vừa nghe tớ nói rất rõ rồi còn gì. Tớ đã in cho cậu xem vài ví dụ rồi đó, đó không hẳn là những lời đe dọa tính mạng nhưng ở mức độ hằn thù như vậy thì cũng là cận kề nguy hiểm. Trong tòa soạn, ai có thể viết những điều bậy bạ như vậy về cậu cơ chứ? Ví dụ như bình luận gần đây nhất nhé, vừa nói Simon vừa chìa một tờ giấy cho Andrew, “Nếu một chiếc xe buýt có cán bẹp được cái bọc tội lỗi đó của Andrew Stilman thì mấy cái lốp xe hẳn sẽ bết cứt bẩn và nền báo chí nước nhà sẽ thoát khỏi thảm họa”.
– Có lẽ là tớ có ý tưởng về câu trả lời, Andrew, choáng váng vì những lời lẽ anh vừa đọc được, đáp lời. Tớ sẽ để ý Olson nếu cậu muốn.
– Cậu sẽ chẳng làm gì hết, bạn thân mến à. Trước tiên, tớ chẳng có bất cứ bằng chứng chính thức nào chống lại hắn, hắn cũng không phải là kẻ duy nhất cày như trâu tại The New York Times. Và nếu cậu xen vào thì hắn sẽ dè chừng. Cậu cứ để tớ làm và đừng có động cựa gì hết trước khi tớ bật đèn xanh. Chúng ta thống nhất thế chứ?
– Nhất trí, Andrew tán đồng.
– Cứ tiếp tục hành xử như thể chẳng có gì xảy ra ở tòa soạn. Cậu sẽ biết kẻ hận thù mình đến vậy có khả năng làm được những gì và điều quan trọng là chắc chắn nhận dạng được hắn ta. Còn về phần liên quan đến tớ, dù có phải là Freddy Olson hay không, tên Spookie-Kid kia cũng đứng đầu danh sách những kẻ muốn lấy mạng cậu và hắn sẽ không chịu nhịn để bộc lộ ra cho biết đâu.
Andrew chào bạn rồi đứng dậy. Vừa rời bàn, Simon vừa mỉm cười hỏi bạn:
– Tớ tiếp tục vụ theo dõi hay cậu vẫn luôn thấy tớ nực cười vậy?
°
Andrew dành hết thời gian còn lại trong ngày vào tập hồ sơ về Argentina, gọi điện thoại hết cuộc này đến cuộc khác để chuẩn bị sắp xếp cho chuyến đi tới. Và, vào lúc xế chiều, trong khi anh vẫn đang nghiên cứu hồ sơ đó, hình bóng một bé gái chợt hiện ra trong giấc mộng của anh. Cô bé đứng bất động, đơn độc ở cuối một lối đi dài rợp bóng cây bách dẫn lên một ngọn đồi. Andrew gác chân lên bàn rồi ngả người ra sau tựa vào phô tơi.
Cô bé dẫn anh đến tận ngôi làng chênh vênh trên núi. Mỗi khi anh tưởng như bắt kịp cô bé thì cô bé lại rảo bước và cách xa anh hơn. Tiếng cười lanh lảnh của cô bé dẫn lối anh trong cuộc rượt đuổi điên rồ này. Làn gió đêm nổi lên cùng bóng tối. Andrew rùng mình, anh thấy lạnh, lạnh đến mức anh bắt đầu run lập cập. Một kho thóc bỏ hoang hiện ra trước mắt anh, anh bước vào trong, cô bé đang ngồi đợi anh trên khung cửa sổ dưới mái nhà, hai chân đung đưa trong không trung. Andrew lại gần chân tường, nhưng không tài nào phân định nổi đường nét của đứa bé. Anh chỉ nhìn thấy nụ cười của cô bé, một nụ cười kỳ lạ, gần như của người trưởng thành. Cô bé thì thầm mấy lời được gió đưa tới bên anh.
– Hãy đi tìm cháu, hãy tìm ra cháu, chú Andrew, đừng bỏ cuộc, cháu tin vào chú, chúng ta không có quyền mắc sai lầm, cháu cần chú.
Cô bé buông mình ngã vào khoảng không hư vô. Andrew vội vàng chạy đến giữ cô bé lại nhưng cô bé đã biến mất trước khi chạm đất.
Một mình trong kho thóc, Andrew quỳ phục xuống, toàn thân run bắn. Lưng anh đau nhói, cơn đau quặn thắt khiến anh ngất lịm. Khi hồi tỉnh lại, anh thấy mình đang bị trói chặt vào một chiếc ghế kim loại. Anh không thở nổi, hai lá phổi của anh bỏng cháy, anh thấy nghẹt thở. Một luồng điện chạy dọc cơ thể anh, tất cả các cơ co quắp lại và anh cảm thấy bị một lực rất mạnh ném văng ra phía trước. Anh vẳng nghe thấy từ xa xa tiếng hét “tiếp”, một cú sốc với sức mạnh không thể chịu nổi đẩy anh đi, động mạch anh đập dữ dội còn tim thì bỏng cháy. Mùi da thịt cháy xộc lên mũi, đám dây nhợ buộc chặt tứ chi khiến anh đau, đầu óc anh quay cuồng rồi anh van xin người ta ngừng màn tra tấn này lại. Nhịp đập tim anh dịu lại. Lượng không khí lúc trước còn thiếu giờ tràn vào phổi anh, anh hít lấy hít để như vừa thoát khỏi lần nín thở dài dằng dặc.
Một bàn tay đặt lên vai anh, lay người anh không chút nể nang.
– Stilman! Stilman!
Andrew choàng mở mắt thì nhận thấy khuôn mặt của Olson đang gần như gí sát vào mặt mình.
– Anh có thể ngủ ở văn phòng tùy ý nhưng ít ra cũng nên mơ trong trật tự chứ, vẫn còn có người làm việc ở đây đấy!
Andrew giật nảy người bật dậy.
– Khỉ thật, anh làm gì ở đây đấy, Freddy?
– Tôi đã phải nghe anh rên rỉ đến mười phút rồi, anh khiến tôi không tài nào tập trung nổi. Tôi cứ tưởng anh bị khó ở và tôi đến để xem thế nào, nhưng nếu anh đuổi tôi như vậy thì có lẽ tôi nên tránh đi thì hơn.
Mồ hôi rịn thành giọt trên trán nhưng Andrew lại thấy lạnh buốt.
– Anh nên về nhà nghỉ ngơi đi, anh hẳn đang ủ bệnh gì đó. Tôi rất buồn lòng khi thấy anh trong tình trạng này, Freddy thở dài. Tôi cũng sắp sửa về đây, anh có muốn tôi đưa ra taxi không?
Trong đời mình thi thoảng anh cũng gặp vài cơn ác mộng, nhưng anh chưa thấy có cơn ác mộng nào chân thực đến như vậy. Anh nhìn Freddy rồi đứng dậy khỏi ghế.
– Cảm ơn, mọi chuyện rồi sẽ ổn thôi. Buổi trưa hẳn tôi đã ăn thứ gì đó không ổn cho lắm.
– Giờ đang là tám giờ tối…
Andrew tự hỏi mình đã bị cắt đứt với hiện tại kể từ khi nào. Cố nhớ lại giờ chính xác lúc anh liếc mắt nhìn lên đồng hồ trên màn hình máy tính là bao nhiêu, anh tự hỏi liệu trong đời mình còn gì là thực nữa.
Anh về đến nhà, kiệt sức, trên đường về anh đã gọi cho Valérie để nhắn cô rằng anh sẽ đi ngủ sớm mà không đợi cô, nhưng Sam đã báo tin rằng cô vừa mới vào phòng phẫu thuật và có thể cô sẽ về rất khuya.